Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

thực trạng và phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần Thương Lý Nhân Hà Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.65 KB, 32 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày nay đời sống xã hội nâng cao khi điều kiện vật chất con người quá đầy đủ,
thì nhân loại lại rơi vào những vấn nạn khác đó là hụt hẫng, mất phương hướng
sống, trầm cảm từ những áp lực, xung đột trong cuộc sống. Từ đó con người lại
tìm đến tôn giáo, mong có sự thanh thản, mong có sự bình an ở hiện tại và
tương lai. Nhu cầu thưởng ngoạn và nương tựa tâm linh trở nên cần thiết đối với
con người. Đặc biệt sau những áp của cuộc sống, con người càng chịu nhiều sức
ép từ xã hội. Từ sự đòi hỏi đó, loại hình du lịch tâm linh phát triển là điều tất
yếu. Cùng với đó, Việt Nam là một đất nước đa sắc tộc, đi lên từ nền nông
nghiệp lúa nước, hình thành nên tín ngưỡng thờ thần để mong cuộc sống được
ấm no hạnh phúc. Nhờ vậy, tạo những điều kiện càng thuận lợi cho sự phát triển
nở rộ của loại hình du lịch này. Du lịch tâm linh ngày càng được xã hội tiếp
nhận và được nhìn nhận tích cực cả hai mặt kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày
càng quan tâm hơn đối với phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong
những ngành kinh tế tiềm năng dồi dào, tôn vinh, bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống của cả dân tộc. Hơn thế nó cũng là loại hình thúc đẩy kinh tế địa
phương.
Là một tỉnh với nhiều tiềm năng về du lịch tâm linh, Hà Nam có vị trí
thuận lợi, nằm giữa trung tâm của vùng du lịch Bắc Bộ, nằm trên tuyến du lịch
xuyên Việt đặc biệt là ở ngay cửa ngõ phía Nam của Hà Nội. Có nguồn tài
nguyên du lịch khá phong phú và đa dạng, một miền đất văn hóa lâu đời. Đất và
con người Hà Nam làm nên những kỳ tích còn in đậm mãi trong những trang sử
hào hùng của dân tộc. Với những điều kiện thuận lợi đó, du lịch Hà Nam đặc
biệt là du lịch tâm linh có một tiềm năng khá lớn để phát triển.
Tuy nhiên cho đến nay du lịch Hà Nam nói chung, du lịch tâm linh Hà
Nam nói riêng còn rất yếu so với các tỉnh lân cận. Từ thực tiễn đó đòi hỏi du
lịch Hà Nam phải có một chiến lược, sách lược phát triển phù hợp với tình hình
1|Page




phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và định hướng phát triển du lịch Việt Nam.
Nằm trong các điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của tỉnh Hà Nam, là một
điểm nằm trong hệ thống các đền Trần, thờ Đức Thánh Trần của cả nước. Đền
Trần Thương- Lý Nhân- Hà Nam, là một ví dụ minh chứng cụ thể tiêu biểu nhất
cho loại hình du lịch tâm linh đang nhen nhóm đang phát triển trên địa bàn Hà
Nam.
Từ những lẽ trên, tôi đã lựa chọn đề tài : “Thực trạng và biện pháp phát triển du
lịch tâm linh đền Trần Thương ở Lý Nhân – Hà Nam.
2.
Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn về du lịch tâm linh tại điểm đền Trần
Thương- Lý Nhân- Hà Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du
lịch về điểm du lịch tâm linh đền Trần Thương – Lý Nhân – Hà Nam.
3.
3.1.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận cho tình hình phát triển du lịch tâm linh
Khảo xát về thực trạng phát triển du lịch tâm linh tại Đền Trần

Thương – Lý Nhân – Hà Nam.
3.3.
Đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần
Thương – Lý Nhân – Hà Nam.
4.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu
1.1.

Khách thể nghiên cứu:
Đền Trần Thương – Lý Nhân – Hà Nam
1.2.
Đối tượng nghiên cứu
Du lịch tâm linh
5.
Phạm vi nghiên cứu
5.1.
Địa bàn nghiên cứu
Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
5.2.
5.2.1.

Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử và phát triển của di tích đền Trần Thương – Lý Nhân –

Nam.
5.2.2.
5.2.3.

Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần
Hệ thống lễ hội tại đền Trần Thương
2|Page


5.2.4.

Thực trạng khai thác du lịch tâm linh tại đền Trần Thương – Lý


Nhân – Hà Nam
6.
Phương pháp nghiên cứu
6.1.
Phương pháp xử lí tài liệu : sử dụng phương pháp này nhằm xây
dựng cơ sở lí luận về du lịch tâm linh
6.2.
Phương pháp điều tra : sử dụng phương pháp này nhằm khảo sát
thực trạng phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần Thương – Lý Nhân- Hà
Nam.
6.3.

Phương pháp quan sát: sử dụng phương pháp này nhằm quan sát

những biểu hiện của việc phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần Thương.
7.
Cấu trúc đề tài nghiên cứu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DU LỊCH TÂM LINH
1.1.
Lịch sử nghiên cứu về du lịch tâm linh
1.2.
Du lịch tâm linh
1.3.
Mối quan hệ giữa văn hóa tâm linh và du lịch tâm linh
1.4.
Một số đặc điểm của loại hình du lịch tâm linh
1.5.
Vai trò của du lịch tâm linh trong xã hội hiện đại
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DU
LỊCH TÂM LINH TẠI ĐỀN TRẦN THƯƠNG- LÝ NHÂN- HÀ

NAM
2.1. Khái quát về Hà Nam
2.2. Thực trạng và biện pháp phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần
Thương- Lý Nhân- Hà Nam.
2.3. Biện pháp
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH TÂM LINH
1.1.
Lịch sử nghiên cứu về du lịch tâm linh
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về đề tài du lịch tâm linh như
sau :
-

Nguyễn Thị Hải (2016), Phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại khu di
tích đền Trần tỉnh Nam Định, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Du lịch,

-

Trường Đại Học Công Nghiệp Hà Nội.
Đoàn Thị Thùy Trang (2010), Nghiên cứu hoạt động văn hóa tâm linh
của người Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Du lịch, Trường Đại Học Khoa
Học Xã Hội Và Nhân Văn Hà Nội.
3|Page


-

Kiều Khánh Vũ (2012), Du lịch tâm linh Nam Định, Khóa luận tốt

-


nghiệp Khoa Văn hóa Du lịch, Trường Đại Học Văn Hóa Hà Nội.
Đoàn Thị Thùy Trang (2010), Nghiên cứu hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh của người Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Du lịch, Trường Đại Học

-

Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Hà Nội.
Trần Thị Thêu (2010), Nghiên cứu tôn giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ Những đề xuất nhằm gắn văn hóa tôn giáo với văn hóa du lịch, Khóa
luận tốt nghiệp đại học ngành Văn hóa Du lịch, Trường Đại Học Dân

-

Lập Hải Phòng.
Phạm Đại Phúc (2013), Nghiên cứu giá trị du lịch của Thăng Long Tứ
Trấn phục vụ loại hình du lịch tâm linh trên địa bàn Hà Nội, Khóa luận

1.2.

tốt nghiệp Khoa Du lịch, Trường Đại Học Dân Lập Đông Đô.
Du lịch tâm linh
1.2.1. Khái niệm tâm linh
Theo Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên,
NXB Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, 1995, tâm linh là “1. Khả năng
biết trước một biến cố nào đó sẽ xẩy ra với mình, theo quan niệm duy tâm.
2. (ít dùng) Tâm hồn, tinh thần”. Nếu đề nghị dịch thuật ngữ ra tiếng nước
ngoài, có lẽ người biên soạn sẽ lúng túng.
Liên quan với tâm linh, tiếng Anh có hai thuật ngữ là spiritualism
(duy linh luận) và spiritism (thông linh luận). Duy linh luận là niềm tin tôn
giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết, còn thông linh luận giả định về
một số hiện tượng liên quan với sự can thiệp của người chết. Do nhiều

tương đồng, nên chúng thường được đánh đồng với nhau. Tâm linh luận
giả định có thể liên lạc với người chết qua đối tượng trung gian là giới
đồng cốt - những người được xem là có khả năng nói chuyện với người
chết.
Tâm linh là một thuật ngữ bao hàm về trí tuệ, ý thức, tinh thần, linh
hồn của một sinh vật và cao hơn là con người. Ngoài ra tâm linh còn là
4|Page


những hiện tượng kỳ bí, nằm ngoài phạm vi hiểu biết thông thường
của con người như ngoại cảm, thần giao cách cảm, lên đồng, ma
nhập, mộng du, bóng đè, thôi miên, chữa bệnh bằng tâm linh,... mà khoa
học chưa khám phá, giải thích và chứng minh được. Tâm linh còn là một
loại hiện tượng tinh thần đặc trưng ở con người, biểu hiện ở một số người
như là giác quan thứ sáu, có cơ sở là vết tích của "logic trực giác xuất
thần" của loài động vật cấp thấp để lại trong quá trình phát triển thai
người. (Dẫn theo nguồn từ wep: vi.wikipedia.org)
1.2.2.

Khái niệm du lịch tâm linh

Theo tác giả Nguyễn Lan (tờ báo mạng Vietwind Travel về Du lịch tâm
linh – một khái niệm mới ở Việt Nam ngày 23/2/2015) cho rằng : “Du lịch
tâm linh là gắn liền với yếu tố “thiêng liêng”, con người đến với loại hình
du lịch này để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp với môi trường tự nhiên, giao
tiếp với tâm linh, hưởng thụ sinh hoạt văn hóa làm cho họ cảm nhận được
sự gần gũi với thiên nhiên”.
Du lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn
hóa tâm linh làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người
trong đời sống tinh thần (Dẫn theo Bộ Văn Hóa Thể Thao và Du Lịch).

1.2.3.

Mục đích của du lịch tâm linh

Đồng tình với quan điểm của tác giả Đan Thu Vân (2010), Du lịch tâm linh
– Phật giáo ba tỉnh Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Khóa luận tốt nghiệp
Khoa Du lịch – Khách sạn , Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
Tác giả cho rằng : Du lịch tâm linh mang lại sự tăng trưởng về nhận thức
của mỗi cá nhân đối với các giá trị của tôn giáo. Con người cảm thấy sự
thanh thản, nhẹ nhàng, tâm an lạc, không vọng đọng, không chỡu theo dục
vọng thấp hèn của vật chất. Du lịch tâm linh mang lại giá trị của tình yêu
5|Page


thương con người thật sự cho chính bản thân cá nhân đó, đồng thời mỗi cá
nhân lại mang đến sự bình àn, an lạc cho những người xung quanh.
Với hình thức du lịch tâm linh, du khách không chỉ để vui chơi, thăm thú
mà như đang thực hiện một cuộc hành hương về vùng đất thiêng và tìm
kiếm nơi trú ngụ bình yên, thanh thản cho tâm hồn. Đa số là du khách đến
chùa, thắng cảnh, thánh tích để cho tâm hồn con người được thanh tịnh và
thoát tục.
Du lịch tâm linh gần đây đó hình thành và đang phát triển ở những quốc gia
châu Á, đặc biệt những quốc gia theo Phật giáo như Ấn Độ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Thái Lan. Hàng năm, các cơ quan tôn giáo Nhật Bản kết hợp
với các công ty lữ hành tổ chức tour cho trên vài ngàn khách hành hương từ
Nhật Bản đến các thánh tích Phật giáo ở Ấn Độ. Thái Lan, Myanmar. Châu
Âu hàng năm cũng đã tổ chức nhiều đoàn du khách tham gia các lễ hội tôn
giáo, các khúa tìm hiểu và nghiên cứu tôn giáo, các khúa tu thiền tại các
quốc gia châu Á từng in dấu chân của Phật Thích Ca Mâu Ni lúc sinh thời.
Điều lý thú của du lịch tâm linh còn ở chỗ tất cả du khách đi trong tour đều

như nhau trong vai trò của một tín đồ, không phân biệt thành phần xã hội,
giai cấp, không phân biệt sang hèn, giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội.
1.2.4. Phân biệt giữa tâm linh và
1.2.4.1. Khái niệm mê tín dị đoan.

mê tín dị đoan

Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Trung tâm Từ điền Ngôn ngữ –
Viện Ngôn ngữ học – Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn, trang 976
thì định nghĩa :
1. Mê tín là tin một cách mù quáng vào những cái thần bí, vào những
chuyện thần thánh ma quỷ, số mệnh…
2. Mê tín là sự ưa chuộng, tin một cách mù quáng không biết suy xét.

6|Page


Hay trong Từ điển Tôn giáo do Mai Thanh Hải (chủ biên) – Nhà
xuất bản Từ điển Bách khoa – Hà Nội 2003 có viết : Mê tín là tin nhảm,
tin xằng bậy, không thấy, không hiểu mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin
theo một cách mê muội…làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần của
mọi người.
Collins Discovery Encyclopedia, 1st edition © HarperCollins
Publishers 2005 đi vào chi tiết kỹ càng hơn và định nghĩa mê tín dị đoan
là :
1. Những niềm tin vô căn cứ dựa trên sự thiếu hiểu biết hay sự sợ hãi và
tiêu biểu như sự sùng bái cực đoan các điềm gỡ, bùa phép, v.v.
(“Irrational belief usually founded on ignorance or fear and characterized
by obsessive reverence for omens, charms, etc.”)
2. Những ý niệm, hành động hay nghi lễ phát xuất từ các niềm tin kể trên

(“A notion, act or ritual that derives from such belief”)
3. Bất cứ những niềm tin vô căn cứ nào, nhất là niềm tin về vấn đề huyền
bí (“Any irrational belief, esp with regard to the unknown”).

Phân biệt tâm linh và mê tín dị đoan
Trong thực tế, việc phân biệt (tâm linh) sinh hoạt tín ngưỡng với

1.2.4.2.

hoạt động mê tín dị đoan là không dễ nhưng chúng ta cần cố gắng phân
biệt để ứng xử phù hợp.
Theo Đoàn Thanh Hương(sucmanhvothuc.vn), để nhận biết người
mê tín dị đoan hay không thì:
TÂM LINH
Khiêm tốn

MÊ TÍN DỊ ĐOAN
Thích quyền lực
7|Page


Sáng suốt,
Biết quy luật tự nhiên,
Trung thực, tế nhị, nhạy

Kiêu ngạo, tham lam

bén,
Yêu thương, không xâm hại


(Dù cố che đậy tinh vi, sau

tiền bạc, tự do của người
khác,
Không khoe khoang thần
thông, nhưng có năng lương
từ bi chuyển hóa tâm hồn.
Tà thuật không xâm nhập,
vì không sai khiến được họ.

Dối trá.

này vẫn bộc lộ 4 tính chất đó.
Ngoài ra còn một số đặc
điểm: lươn lẹo, dọa nạt, xảo
quyệt, thù hận, vô cảm, luôn
bắt người khác phục tùng...)
Dễ bị tà thuật dùng làm tay
sai.

Mối quan hệ giữa văn hóa tâm linh và du lịch tâm linh
Giữa văn hóa tâm linh và du lịch tâm linh luôn có một mối quan hệ khăng

1.3.

khít, mật thiết. Đó là khai thác và phát huy các tôn giáo, tín ngưỡng , một
bộ phận thiết yếu của nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, việc phát triển du
lịch hướng vào mục tiêu tâm linh, nâng cao tố chất tâm linh, tôn giáo tín
ngưỡng trong kinh doanh du lịch...
Văn hóa tâm linh là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng phong phú,

đặc sắc có thể tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo để thu hút khách du
lịch, là một trong những nguồn tài nguyên tiềm năng cho du lịch hiện nay.
Du lịch tâm linh đang trở thành một loại hình du lịch phổ biến và có hiệu
quả cao. Hoạt động du lịch cũng có tác động trở lại đối với văn hóa tâm
linh. Du lịch là cầu nối để thúc đẩy, trao đổi, giao lưu và gìn giữ các bản
sắc tôn giao, tín ngưỡng của từng địa phương, từng quốc gia, góp phần vào
công cuộc phát triển và bảo lưu các giá trị truyền thống của dân tộc. Tuy
nhiên sự phát triển du lịch cũng đặt ra cho văn hóa tâm linh những thách
thức, những nguy cơ “bất ổn”.
Thứ nhất : đối với hệ thống các chùa chiền, tháp chuông ... có giá trị thì
khách tham quan và sự bùng nổ số lượng khách đã trở thành mối nguy cơ
8|Page


đe dọa việc bảo vệ các kiên trúc cũng như di tích này. Sự có mặt quá đông
của du khách cùng một thời điểm ở một di tích đã tạo nên những tác động
cơ học, hóa học cùng với yếu tố của khí hậu, thời tiết gây ra những hủy
hoai đối với các di tích và hệ thống các công trình khác như vật thờ, các
dụng cụ trang trí.
Thứ hai : Sự phát triển của các dịch vụ du lịch tự phát thiếu sự kiểm soát
đã tác động mạnh mẽ đến cảnh quan di tích và môi trường sinh thái nơi
đây. Hiện tượng viết, khắc lên một số di tích , sự ô nhiễm môi trường từ
khói bụi , rác thải, ... đang tác động trực tiếp đối với các di tích.
Thứ ba : các giá trị văn hóa tâm linh, tiêu biểu về tôn giáo và tín ngưỡng
do có tác động của quá trình thương mại hóa mà dần bị mai một hay pha
trộn mất đi bản sắc địa phương vốn có.
Thứ tư : có sự xung đột giữa văn hóa bản địa và văn hóa của du khách.
Dẫn đến nhiều tình huống đáng tiếc xảy ra tại các điểm di tích.
Thứ năm : do sự đông đảo, quá tải lượt khách trong cùng một thời điểm,
mà ở các di tích dễ diễn ra tình trạng trộm cắp .

Khắc phục được các thách thức và nguy cơ đó, văn hóa tâm linh,du lịch
tâm linh ở nước ta chắc chắn sẽ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội bền vững, toàn diện.
1.4.
Một số đặc điểm của loại hình du lịch tâm linh
Theo Viện Nghiên Cứu Và Phát Triển Du Lịch Việt Nam về: Du Lịch Tâm Linh
– Thực Trạng Và Định Hướng Phát Triển
- Du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin và ở Việt Nam, trong đó Phật
giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn giáo khác
như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hòa Hảo... Triết lý phương đông, đức tin, giáo
pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với những thiết chế, công trình tôn
giáo ở Việt Nam là những ngôi chùa, tòa thánh và những công trình văn hóa tôn
giáo gắn với các di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của du lịch tâm linh.
- Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri ân những vị
anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có công với nước, dân tộc (Thành Hoàng)
9|Page


trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Mới
đây, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam đã được UNESCO công
nhận là di sản phi vật thể đại diện nhân loại.
- Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân
báo hiếu đối với bậc sinh thành.
- Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với những hoạt động thể thao tinh thần như
thiền, yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát trong đời sống tinh
thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà không nơi nào có đó là Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử.
- Ngoài ra du lịch tâm linh ở Việt Nam còn có những hoạt động gắn với yếu tố
linh thiêng và những điều huyền bí.
1.5.

Vai trò của du lịch tâm linh đối với đời sống xã hội hiện đại
Du lịch tâm linh thể hiện :

Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Văn hóa tâm linh nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định,
đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề),
cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền
Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính nền
văn hóa đó là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo
nên sự cố kết cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như
gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên
và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực
lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong
các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… đó là môi trường

10 | P a g e


góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng
đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng
định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá
vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa
vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, văn hóa
tâm linh vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên
sự cố kêt cộng đồng ấy.
Giá trị hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi tôn giáo, tín ngưỡng cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội
tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ;

nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn
hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt
Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, nó
bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu
hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên,
môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai
một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con
người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà
mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn
gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân
loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có tín ngưỡng phong tục cổ
truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là
tính nhân bản bền vững và sâu sắc của tôn giáo có thể đáp ứng nhu cầu của con
người ở mọi thời đại.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:

11 | P a g e


Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống
tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân
thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm
tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm
linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính
tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời
sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng
hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường
như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và

đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy
tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh,
một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo
khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm
thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống
như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng
cháy” và “thăng hoa”.
Trở về với văn hoá dân tộc, con người hiện đại dường như được tắm mình trong
dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút
thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ,
được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người
có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc
thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp
đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện
thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, nó đã thuộc về phạm trù
cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của
đời sống hiện thực.
Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:
12 | P a g e


Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà
trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân
thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn
tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội mở hội. Nơi đó,
con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo
tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội
hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan ... ; các điệu múa xanh tiền, con
đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối

nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh
vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng
dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ
đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao ?
Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn
hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá.
Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ
hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có
làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát
huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng
xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TÂM LINH TẠI ĐỀN TRẦN THƯƠNG- LÝ NHÂN- HÀ NAM
2.1. Khái quát về Hà Nam
2.1.1. Vị trí địa lí
2.1.1.1. Vị trí và lãnh thổ Hà Nam

13 | P a g e


Hà Nam là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng. Phía bắc giáp Hà Tây;
phía đông giáp Hưng Yên, Thái Bình; phía đông nam giáp Nam Định; phía
nam giáp Ninh Bình ; phía tày giáp Hòa Bình. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là
823,1 km2; dân số (năm 1999) là 811,7 nghìn người. Hà Nam là một tỉnh có
quy mỏ về diện tích và dân số tương đôi nhỏ trong 61 tỉnh, thành phố cả nước,
đứng thứ 60 về diện tích (trên Băc Ninh) và thứ 44 về dân số.
Hà Nam có quốc lộ 1A, đường sắt Bắc – Nam, quốc lộ 21A, 2 IB… chạy qua.

vẻ đường thủy, trên lănh thổ của tỉnh có sông Hồng, sông Đáy, sông Châu, sỏng
Nhuệ.
Hà Nam nằm ở vị trí cửa ngõ phía nam của Đồng bằng sông Hổng, cách thủ
đô Hà Nội gần 60 km, trên tuyến đường giao thỏng xuyẽn Bắc-Nam quan trọng
vào bậc nhất của nirớc ta. Cả hai trục đuừng ôtô và đường sắt chạy xuyên suốt
Bắc – Nam đều qua đây (với nút giao thông chính là thị xã tỉnh lị) làm cho Hà
Nam có điều kiện thuận lợi về giao lưu kinh tế, vân hóa với các tỉnh khác, tiếp
nhận văn minh đô thị của cả hai miền đất nước, nhất là từ thủ đô Hà Nội và
vùng kinh tê trọng điểm Bắc Bộ.
2.1.1.2. Sự phân chia hành chính
Tỉnh Hà Nam được lập vào năm 1890. Nãm 1913, tỉnh Hà Nam nhập vào tỉnh
Nam Định. Năm 1923, Hà Nam trả lại thành một tỉnh riêng biệt. Đến tháng 41965, Hà Nam sáp nhập với Nam Định thành tỉnh Nam Hà; tháng 12-1975 sáp
nhập Nam Hà với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến tháng 11-1996, tỉnh
Hà Nam được tái lập.
2.1.1.3. Địa hình
Hà Nam nằm trong vùng trũng của Đồng Bằng sông Hồng, tiếp giáp với dải
đá trầm tích ở phía tây. Địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, có vùng bán sơn
địa, vừa cổ vùne trũng. Naav trong một khu vực cũng có sự chênh lệch vê độ
cao. Địa hình Hà Nam có hai vùng tỉ lệ khá rõ:

14 | P a g e


– Vùng đồi núi phía tây có nhiều tài ngụyên khoáng sản, đặc biệt là đá vối –
điều kiện để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng, đặc biệt là sản xuất xi
măng và có tiềm năng lớn để phát triển du lịch.
– Vùng đồng bằng đất đai màu mỡ với các bãi bồi ven sông Hổng, sồng Châu là
điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hóa, đi theo đó là phát triển công
nghiệp chế biến nông sản.
Hà Nam có điều kiện để phát triển nền kinh tế đa dạng, với phối hợp kinh tê’

của vùng đồng bằng với kinh tế của vùng đồi núi. Tuy nhiên, địa hình cũng gây
không ít khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng ngập úng.

2.1.2. Hạ tầng kinh tế xã hội
Sau khi tái lập tỉnh, Phủ Lý được xác định là đô thị trung tâm, trung tâm hành
chính, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh. Với sự nỗ lực cố gắng vươn
lên của Đảng bộ, nhân dân thành phố Phủ Lý, việc huy động, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của trung ương, của tỉnh đã tạo cho Phủ Lý bước phát triển
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế phát triển đúng hướng, đời sống nhân
dân từng bước được cải thiện và nâng cao, an ninh, chính trị được giữ vững, trật
tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII; Nghị quyết số 05NQ/TU ngày 25/8/2011 của Tỉnh ủy về phát triển đô thị tỉnh Hà Nam đến năm
2015, định hướng trong quy hoạch vùng tỉnh Hà Nam đến năm 2030 và tầm
nhìn đến năm 2050, thành phố Phủ Lý đã xây dựng chương trình hành động, kế
hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Địa giới hành chính của thành phố được
mở rộng từ 34,27 km2 với 12 đơn vị phường, xã lên 87,87 km 2 với 21 đơn vị
hành chính (11 phường, 10 xã), quy mô dân số trên 135.000 người. Công tác
quy hoạch đô thị, đầu tư xây dựng và phát triển các đô thị mới, khu tái định cư,
15 | P a g e


khu công nghiệp tập trung, khu cây xanh, khu thể thao và đặc biệt là các công
trình giao thông đầu mối, các công trình trọng điểm về lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, thương mại - dịch vụ đã tạo cho thành phố có một diện mạo mới cả về
không gian và chất lượng đô thị, mang dáng dấp của một đô thị văn minh, hiện
đại.
2.1.3. Các điểm du lịch nổi tiếng ở Hà Nam
Hà Nam là tính có nền văn minh lúa nước lâu đời và nền văn hóa dân gian
khá phong phú. Nền văn hóa được thể hiện qua các làn điệu chèo, hát chầu văn,
hầu bóng, ả đào, đặc biệt là hai dậm (vừa hát, vừa giậm chân theo lối người
chèo thuyền…). Đây cũng là vùng đất có nhiều hội làng truyền thống, đậc biệt

là vật võ Liêu Đôi đã nổi tiếng trong cả nước. Các lễ hội truyền thống cùng các
di tích, danh thắng là điều kiện để phái triển các loại hình du lịch.
– Các lẽ hội truyền thống tiêu biểu :
‘ Hội vật võ được tổ chức vào ngày 5-1 âm lịch hằng năm tại làng Liêu Đôi, xă
Liêm Túc, huyện Thanh Liêm
Lễ hội đền Trúc (còn gọi là hội Quyển Sơn) thuộc xâ Thi Sơn, huyện Kim Bảng
được tổ chức từ 6-1 đến 10-2 âm lịch.
Hội chùa Đọi Sơn ở xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, thờ Phật, thờ vua Lê Đại
Hành, Nguyên phi Ỷ Lan và vua Lê Thánh Tông. Lễ hội diễn ra vào ngày 21-3
âm lịch.
Hội đền Trần Thương ở xã Nhân Đạo (Lý Nhân) vào ngày 18 đến 20-8 âm lịch.
Đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đây là lễ hội lớn của vùng, ngoài
phần tế lễ còn có phần hội, trong đó có bơi trải và nhiều trò vui khác.
Hội làng Duy Hải thuộc huyện Duy Tiên, thờ Trần Khânh Dư. Lễ hội hằng năm
tổ chức vào ngày 2-1 âm lịch ;
Hội làng Võ Giàng thuộc xa Thanh Thủy huyện Thanh Liêm. Đình làng thờ ông
Vũ Cố, một tướng của Lê Lợi. Lễ hội hằng năm tổ chức vào ngày 15-2 dương
lịch.
– Các di tích, danh thắng
16 | P a g e


• Danh tháng Kẽm Trống thuộc xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, cách Hà Nội
khoảng 80km, nằm ngay ven quốc lộ 1A. Kẽm Trống chính là nơi dòng sông
Đáy chây xen giữa hai dãy núi đá vôi, tạo nên cảnh sơn thủy đầy thơ mộng.
ĐỀn Trúc-Ngũ Động Sơn : Khu danh thắng này rộng khoảng 10 ha thuộc thôn
Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách thành phố Phủ Lý hơn 7km theo
quốc lộ 21A. Theo truyền thuyết thì Lý Thường Kiệt khi dẫn quân đi chinh phạt
phương Nam qua đây, gặp một trận cuổng phong cuốn bay cờ đại lên đỉnh núi.
Lý Thường Kiệt thấy lạ bèn cho sửa lễ tạ trời đất, cầu chiến thắng. Khi chiến

thắng trở về, Lý Thường Kiệt cho quân dừng ở đây để tế lễ và ăn mừng. Sau
này để tưởng nhớ Ông, nhân dân đã lập đền thờ ở dưới chân núi Cấm. Đó là đền
Trúc. Trong dãy núi này có Ngũ Động Sơn – năm chiếc hang nối liền nhau tạo
thành một dây động liên hoàn, có chiều sâu trẽn 100m.
Ngoài ra, phâi kể đến động Cô Đôi (thiên cung đệ nhất động) ở Ba Sao, Ao
Tiên, đầm Tiểu Lục Nhạc, sông Đáy, sông Châu ; chùa Long Đọi tọa lạc trên núi
Đọi ở xã Đọi Sơn (Duy Tiên), núi Nguyệt Hằng ở xă An Lão (Bình Lục), Kẻ
Non và các ngọn núi ở xa Liêm Cầm (ThanhLiêm)…
Trong việc phát triển du lịch, vị trí liền kê của Hà Nam với các khu thăng cảnh
như Hương Sơn, Bích Động, các di tích nổi tiếng của Nam Định, đă tạo thêm
thuận lợi để đa dạng hóa sản phẩm và đẩy mạnh hoạt động du lịch của tỉnh.
2.1.4. Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển du lịch tâm linh tại Hà
Nam
2.1.4.1. Thuận lợi
Hà Nam có vị trí địa kinh tế - chính trị thuận lợi, nằm kề thủ đô Hà Nội trên
trục hành lang Bắc Nam, lại là cửa ngõ quan trọng của các tỉnh vùng đồng bằng
sông Hồng và các tỉnh phía Nam vào Hà Nội. Thành phố Phủ Lý vừa nằm trên
trục Bắc Nam, vừa nằm trên đường vành đai của vùng Hà Nội. Trình độ dân trí
tương đối cao… Đó là lợi thế so sánh rất quan trọng tạo cơ hội cho Hà Nam thu
hút mạnh mẽ thị trường khách du lịch xuyên Việt và thị trường khách du lịch

17 | P a g e


cuối tuần của Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận để tạo ra những bước phát triển
đột phá trong du lịch.
Về tài nguyên du lịch nhân văn: Các di tích lịch sử tuy không nhiều, nhưng có
giá trị khá nổi bật như: Đền Trần Thương, Đền Lảnh Giang, chùa Bà Đanh,
chùa Long Đọi Sơn, đền Trúc... và hệ thống lễ hội tiêu biểu như Lễ hội Tịch
Điền, Lễ phát lương Đền Trần Thương.... Đặc biệt, Hà Nam là đất khoa bảng

với những danh nhân nổi tiếng trong lịch sử dân tộc như: Tam Nguyên Yên Đổ
Nguyễn Khuyến, nhà văn liệt sỹ Nam Cao.
Nguồn tài nguyên du lịch Hà Nam phân bố khá tập trung và dễ tiếp cận, gần
thủ đô Hà Nội, nằm trên các trục hoạt động du lịch chính của quốc gia, liên kết
thuận lợi với các điểm du lịch nổi tiếng của cả nước như: Chùa Hương, Chùa
Bái Đính, Hoa Lư, Đền Trần...rất thuận tiện cho việc liên kết phát triển du lịch.
Hà Nam có hệ thống kết cấu hạ tầng gắn liền với hệ thống hạ tầng quốc gia,
đặc biệt hệ thống giao thông (đường bộ, đường thủy, đường sắt) được đầu tư
tương đối đồng bộ là nền tảng quan trọng để thúc đẩy đầu tư du lịch.
So với nhiều tỉnh khác, Hà Nam là tỉnh đi sau trong phát triển du lịch nhưng lại
có cơ hội để rút kinh nghiệm từ những tỉnh khác để có được một chiến lược
quy hoạch hoàn chỉnh và các phương án đầu tư hợp lý đảm bảo mục tiêu bền
vững.
2.1.4.2. Khó khăn
Các nguồn tài nguyên du lịch Hà Nam chưa được quan tâm đầu tư khai thác
đúng mức. Các giá trị của tài nguyên chưa được khảo sát và đánh giá một cách
toàn diện và hệ thống nên việc phát triển sản phẩm du lịch còn hạn chế. Mặc dù
những năm gần đây, một số di tích lịch sử được đầu tư tôn tạo, một số lễ hội,
làng nghề được khôi phục, song chưa tạo được sức hấp dẫn và doanh thu lớn
cho ngành du lịch. Nhiều nguồn tài nguyên còn ở dạng tiềm năng. Một số
nguồn tài nguyên bị xuống cấp, môi trường sinh thái bị ô nhiễm...

18 | P a g e


- Phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng sẽ tạo ra sức ép lớn cho môi trường
du lịch.
- Các cơ sở thương mại còn nhỏ lẻ, chưa hình thành trung tâm thương mại lớn
có đủ sức hút để làm động lực cho thương mại và dịch vụ phát triển.
- Các ngành kinh tế - xã hội khác trong tỉnh như: công nghiệp, nông nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp, thương mại, thể thao… chưa được liên kết nhịp nhàng để
tạo ra sức mạnh liên ngành trong phát triển du lịch.
- Trong xu thế toàn cầu của nền kinh tế trí thức, khoa học và công nghệ chưa
được coi trọng đúng mức để làm đòn bẩy, tạo ra bước đột phá trong phát triển
du lịch.
- Tỉnh có địa hình thấp trũng nên hay bị ngập lụt, vùng phía Tây sông Đáy nằm
trong vùng phân lũ của thủ đô Hà Nội ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của
nhân dân cũng như hoạt động du lịch. Chất lượng lao động còn thấp.
2.2. Thực trạng và biện pháp phát triển du lịch tâm linh tại đền Trần
Thương- Lý Nhân- Hà Nam
2.2.1. Vị trí, Lịch sử và phát triển của di tích đền Trần Thương – Lý Nhân
– Nam
Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh
Hà Nam. Đền là di tích tiêu biểu của tỉnh Hà Nam và cả nước, hội tụ nhiều giá
trị lịch sử văn hóa nghệ thuật, tâm linh, lâu nay được nhiều người biết tiếng.
Đền thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn cùng gia quyến và các Bộ tướng có công trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.
Trần Thương là mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền đời “Cá Nhân Đạo,
gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại đền: “Trần Thương dư
phúc địa, trà thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm phúc, hoa quả bốn mùa
xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê đầu” (sáu khe nước). Từ
đây có thể ngược sông Hồng đi Thăng Long rồi ra biển, qua sông Hồng về phía
19 | P a g e


Đông khoảng 3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ
của nhà Trần, về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần – chùa Tháp (Nam Định).
Đền Trần Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước, nơi thờ chính Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Tương truyền trên đường đi đánh quân

Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo thấy địa thế nơi đây hiểm yếu, bèn đặt 6 kho
lương để phục vụ cuộc kháng chiến. Địa điểm ngôi đền hiện nay là kho lương
chính. Sau khi chiến thắng trở về, ngài đã cắm sinh phần, lấy đây làm dân “tạo
lệ” và từ đó xuất hiện thôn Trần Thương và các thôn khác như: Đội Xuyên,
Hoàng Xá, Khu Mật… những tên cổ gắn với việc đồn trú của quân đội nhà
Trần. Trong số các di tích thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương trên đất Hà Nam và
cả nước, đền Trần Thương là di tích tiêu biểu, có quy mô kiến trúc lớn, Ngôi
đền thâm nghiêm, cổ kính tọa lạc trên đất thiêng “Hình nhân bái tướng” “Ngũ
mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh
quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3
cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng…Kiến trúc độc đáo và
cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người
với vũ trụ trong một không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị đền Trần Thương
còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm
khắc công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước,
mây trời…Tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang
nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.
Đồ thờ, cổ thư của ngôi đền cũng rất phong phú, quý hiếm. Đặc biệt là pho
tượng Đức Thánh Trần trong ban thờ hậu cung với vẻ mặt uy nghiêm của một vị
“Thánh” nhân, nhưng vẫn nở nụ cười bao dung, đôn hậu. Tổng thể kiến trúc,
cảnh quan đền Trần Thương đã gợi lên bóng dáng phủ đệ của Hưng Đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa đặc sắc, năm 1989 đền Trần Thương đã
được Bộ Văn hóa-Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.
20 | P a g e


2.2.2. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần
Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần là tín ngưỡng dân gian Việt Nam được hình
thành từ quá trình thần hóa, thánh hóa về một cuộc đời và những chiến công của

một nhân vật có thật trong lịch sử với những kí ức trong lịch sử cùng với những
chiến công được nhân dân lưu truyền lại cho các thế hệ con cháu nhuốm màu
sắc tâm linh dân gian. Trong tâm thức của người dân luôn luôn tôn sùng thần
thánh hóa các vị tướng có công với lịch sử như người anh hùng dân tộc Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, ông là vị thánh phù hộ cho việc chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ đất nước, hộ quốc dân an, diệt trừ tà ma và chữa bệnh.
Đức Thánh Trần tên thật là Trần Quốc Tuấn. Ông là con của An Sinh Vương
Trần Liễu, sinh ngày 10/12 âm lịch. Có truyền thuyết kể lại rằng, xưa kia đức
thánh Tản Viên thấy luồng khói trắng bay từ núi Tây hóa thành tinh, thuồng
luồng, xuống nhà người đàn bà kia tư thông, ngãi nghĩ ắt hẳn nó sẽ đầu thai
thành kẻ gây hại cho nhân dân (tên đó sau này là Phạm Nhan- Nguyễn Bá Linh,
cha là người tàu Phúc Kiến, mẹ là người Đông Triều, nằm mơ thấy tinh thuồng
luồng mà sinh ra hắn). Vậy nên Đức Thánh Tản Viên đem chuyện tâu với Ngọc
Hoàng, sau khi hỏi thăm triều thần thì có Thanh Tiên Đồng Tử tình nguyện xin
xuống hạ phàm để giúp dân. Ngọc đế ưng thuận sai ban thần kiếm , cờ ấn, tam
tài của Lão Tử , ngũ bảo của Thái Công rồi truyền Kim Đồng Ngọc Nữ hộ giá
xe mây xuống nước Nam để hạ phàm. Liền đó Vương Mẫu nằm mơ thấy có
người áo xanh tự xưng là người của Thiên Đình xuống đầu thai phù đời, từ đấy
bà hoài thai. Đủ ngày đủ tháng bà hạ sinh được ông. Trong nhà ngập tràn hương
thơm và ánh sáng.
Trong đạo Mẫu , Đức Thánh cha là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn- vị
tướng tài ba của nhân dân Việt Nam và thế giới, văn võ song toàn, tinh anh kiệt
suất. Là người có công lớn nhất triều Trần trong ba lần đánh bại quân Mông
Nguyên. Vì vậy giặc Bắc khét tiếng không dám gọi tên ông mà gọi là An Nam
Hưng Đạo Vương. Ông là người trung với nước, hiếu với dân, chúng ta có thể
hiểu được thông qua những câu nói để đời của ông:” Bệ hạ chém đầu tôi trước
rồi hãy hàng”,” khoan thư sức dân lấy kế sâu dễ bền gốc” ... ông luôn đặt quyền
21 | P a g e



lợi của đất nước lên trên hết, thấu hiểu non sông xã tắc chỉ vững bền khi “ vua
tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nước nhà góp sức”. Ngay lúc ốm thập tử nhất
sinh ông vẫn canh cánh nỗi niềm với đất nước để dâng sớ tâu vua kế sách chu
toàn. Nếu như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn do Thanh tiên đồng tử
đầu thai, thì khi mất đi, theo cảm nhận của dân gian, cái chết của ông cũng
không bình thường. Thuật lại, trước khi ông mất, xem thiên văn thấy một vị
tướng tinh cực to bay từ Đông Bắc sang Tây Nam rồi sà xuống đất, lóe sáng ra
10 trượng. Trong Trần thị gia huấn, việc mất của Hưng Đạo Đại Vương được
miêu tả : “Vào ngày 18/8 năm Hưng Long thứ 8(1300) , Vương đang tụng kinh
ở trên núi, nghe nói chị mình mắc bệnh liền xuống hỏi thăm. Bà chị nói ngày tới
sẽ về tiên tổ . vương đáp “ em còn chút việc bân, chị hãy đợi em đến sáng 20 thì
đi một thể”. Đến ngày đó Vương không có bệnh gì mà mất. Trước khi mất
Vương dặn dò các con là: “ Khi ta sống ba lần đánh giặc Mông Nguyên giết hại
chúng rất nhiều, nên sau khi ta mất, họ sẽ tìm mộ ta. Trong tháng này, bí mật
chôn ta ở vườn An Lạc, giả nói rằng an táng chị ta, táng xong nên để đá rất sâu
rồi trồng cây lên trên. Sang tháng, về Tức Mặc phao tin ta mất ở đó rồi làm nghi
thức an táng. Hài cốt phải dùng của viên quan sang trọng chớ dùng của người
thường dân, khó có thể che mắt chúng. Ta đã dâng biểu tâu vua cho khu Bảo
Lộc làm dân tạo lệ, lúc sống chưa từng đặt chân tới đó, không biết nay như thế
nào. Vậy phải cho quan coi nơi nào đẹp đẽ hãy làm mộ giả và đốc việc chôn cất
cho trang trọng mới che được con mắt ngờ vực của người ngoài” ( vì thế nay tại
Bảo Lộc có một lăng ghi lăng mộ Hưng Đạo Vương, có quan tài bằng đồng
nhưng tương truyền là của một viên bộ tướng)
Ông sinh được bốn người con trai( thường được gọi là tứ vị vương tử) và hai
người con gái ( thường gọi là nhị vương cô hay nhị vị vương bà)đều có công lao
giúp vua Trần chống giặc Nguyên . Ngoài ra trong công cuộc “ Sát Thát” còn có
rất nhiều đóng góp khác như : vương tế của ông là Phạm Ngũ Lão Điện Súy
( thường được gọi là Đức Thánh Phạm Điện Súy hay Phù Ủng Đại Vương) cùng
các tướng tài của ông như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thường gọi đôi bên là Đức Ông
22 | P a g e



Tả Hữu) ... có thể nói trong công cuộc bảo vệ đất nước dưới thời Trần có công
đóng góp không nhỏ của gia đình ông. Hơn nữa ông còn là một người một lòng
vì nước vì dân., vì nghĩa lớn mà quên đi mối thù nhà : ông không nghe lời cha
giành lại vương quyền từ tay nhà Trần. Vậy nên được vua Trần nể trọng , tin
tưởng, thường hỏi ý kiến ông về những việc đại sự quốc gia . ông mất vào ngày
20/8 âm lịch.
Sinh thời, do công lao lớn của mình, ông được vua Trần phong là Quốc Công
Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương hay là Đức Thượng Từ. Sau này khi
mất đi, tên tuổi của ông vẫn vang lừng không chỉ trong Việt Nam mà còn lan ra
toàn thế giới. Ông là một trong một trong số mười vị tướng tài ba nhất trên thế
giới, cùng với các vị như : Nã Phá Luân (Napoleon), Thành Cát Tư Hãn,... là
những người có ý nghĩa to lớn cho lịch sử thế giới. Với những chiến công lừng
lẫy của mình , Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành hình tượng tiêu
biểu cho nền hòa bình dân tộc, được dân chúng thờ cúng ở nhiều nơi. Trải qua
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, dân gian lại thêm cho ông nhiều chi tiết
huyền thoại. Nếu như trong sử sách ông được ghi danh là một vị tướng huyền
thoại thì trong tâm thức người dân ông được tôn vinh là Đức Thánh Trần . còn
trong tín ngưỡng dân gian, người dân lại tôn ông là Đức Thánh Ông Trần Triều
hay ngắn gọn hơn là Đức Ông Trần Triều.
Đền thờ Đức Thánh Ông Trần Triều cùng với gia đình và tướng lĩnh của ông
được nhân dân lập nên ở khắp nơi nhưng uy nghiêm và nổi tiếng nhất vẫn phải
kể đến : Đền Kiếp Bạc ở Chí Linh – Hải Dương. Được lập nên trên dấu tích của
doanh trại nơi mà ngài đã cho quân đóng ở Vạn Kiếp sau đó phải kể đến hai
ngôi đền ở đất Nam Định , nguyên quán của ngài , đó là đền Cố Trạch ( Đền
Trần) và Đền Bảo Lộc , đều thuộc Thiên Trường- Nam Định. Ngoài ra còn có
đền Phú Xá ở Hải Phòng hay đền Trần Thương ở Lí Nhân – Hà Nam ( Kho
lương xưa của binh lính).
Ngày tiệc Đức Thánh Trần thường được tôn là ngày “ giỗ cha” của toàn thể dân

tộc Việt Nam và ngày 20/8 âm lịch ( ngày Đức Ông hóa) và được tổ chức long
23 | P a g e


trọng nhất tại đền Kiếp Bạc. Ngoài ra giữa đêm 14/1 âm lịch còn tổ chức lễ phát
ấn cầu bình an tại đền Bảo Lộc, phát lương cầu no đủ tại đền Trần Thương.
2.2.3. Hệ thống lễ hội tại đền Trần Thương
Vào mồng 10 tháng Giêng, nhân dân thôn Trần Thương đã làm lễ cáo yết xin
phép Đức Thánh Trần cho tổ chức lễ phát lương. Nghi trình lễ phát lương có 3
phần: Lễ rước lương thảo từ kho lương vào trong đền làm lễ do 7 cô gái thanh
tân mặc áo dài màu đỏ, đội khăn đỏ, đội 7 mâm đựng những túi lương nhỏ, 9
chàng trai tân mặc quần áo màu đỏ, đầu đội nón lá cũng màu đỏ, thắt lưng khăn
vàng, ống chân quấn xà cạp viền xanh, chân đi giày vải màu vàng có trách
nhiệm khiêng kiệu, trên kiệu đặt 3 túi lương lớn (100.000 túi lương nhỏ). Đi đầu
đoàn rước là đội sư tử dàn trống, chiêng, cờ ngũ sắc, 7 mâm lương thảo, đội tế
nam, đội tế nữ của xã, đoàn đại biểu Đảng, Nhà nước, tỉnh, huyện, nhân dân và
du khách thập phương. Phần thứ hai là lễ châm đuốc và dâng hương của các đại
biểu. Phần thứ ba 7 cô gái, 9 chàng trai rước lương thảo vào hậu cung làm mật
lễ. Đến đêm 14 tháng Giêng sẽ tiến hành lễ phát lương. Hai chữ in trên túi
lương là chữ Hán “Trần Thương”. Túi được làm bằng vải điều, màu đỏ tượng
trưng cho Hỏa. Màu vàng của chữ tượng trưng cho Thổ. Bên trong túi gồm các
loại ngũ cốc là sản vật của vùng quê Nhân Đạo đó là nếp cái hoa vàng, đậu
tương, ngô đỏ. Ý nghĩa về giá trị tinh thần của lễ phát lương được thể hiện qua
từng túi lương, theo người dân là cầu cho một năm mưa thuận, gió hòa, đón linh
khí trời đất, cầu cho một năm sung túc, nhà nhà no đủ, hạnh phúc.
Trong tiết trời xuân ấm áp, trong hào khí Đông A truyền lại, nhân dân và khách
thập phương, đều vui mừng, phấn khởi khi được nhận những túi lương. Cầm túi
lương trên tay, mong rằng mỗi gia đình sẽ có một năm no đủ, khỏe mạnh, làm
ăn phát tài. Đây chính là động lực tinh thần trong cả năm, giúp người dân hăng
hái thi đua lao động sản xuất, đoàn kết xây dựng nông thôn mới, xây dựng cuộc

sống ấm no, hạnh phúc.
Bên cạnh ý nghĩa tâm linh sâu sắc, lễ phát lương đền Trần Thương còn động
viên nhân dân thi đua sản xuất nông nghiệp, làm ra lương thực nuôi sống con
24 | P a g e


người, nuôi quân đánh giặc trong công cuộc dựng nước và giữ nước của ông cha
ta bao đời nay, thể hiện sự trường tồn của những giá trị văn hóa tâm linh trong
mạch nguồn bất diệt của dân tộc
Thu hút sự quan tâm của nhiều người nhất là tục thi đấu cờ tướng. Tục này diễn
ra trước các trò hội. Khi tiếng trống nổi lên báo hiệu cuộc chơi thì các đấu thủ
cùng dân làng đến sân đền tham dự. Làng chọn các lão làng, các chức sắc có gia
phong tốt vào khai cuộc, trong đó, người cao tuổi nhất được làm chủ tế. Chủ tế
làm lề cáo yết Đức Thánh Trần rồi rước bàn cờ từ hậu cung quay ra, đến trước
hương án nâng bàn cờ lên vái ba vái. Sau đó, cuộc chơi bắt đầu. Hai đấu thủ
mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh đời Trần mang thanh long đao vào
cuộc. Sau một tuần hương, ai thắng, người đó đoạt giải. Vãn cuộc, quân cờ cùng
bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền và nước ngũ quả, lau chùi cẩn thận
rồi đặt lên hương án. Tục chơi cờ nhằm tưởng nhớ tài thao lược quân sự của
Hưng Đạo Đại Vương, rèn luyện trí tuệ, nêu cao truyền thống chống giặc ngoại
xâm của ông cha ta. Lễ hội đền Trần Thương là một trong ba lễ hội vùng của
tỉnh Hà Nam. Lễ hội này có ý nghĩa là một cuộc hành hương về cội nguồn
không chỉ đối với người dân địa phương mà đối với người dân cả nước
2.2.4. Thực trạng khai thác du lịch tâm linh tại đền Trần Thương –
Lý Nhân – Hà Nam.
Lễ hội diễn ra trong thời gian ngắn nên việc người đi lễ đổ về dẫn đến chen
chúc, xô đẩy. Các Ban Tổ chức lễ hội đã có phương án giải tỏa ách tắc giao
thông, phương án cấp cứu khá tốt nhưng vẫn không tránh khỏi hội chứng đám
đông. Lễ hội tổ chức 20 điểm phát lương nhưng cảnh chen lấn, xô đẩy để lấy túi
lương - được nhiều báo phản ảnh, phê phán, đặc biệt là việc đưa lên mạng

internet, báo chí, là hình ảnh không đẹp trong lễ hội. Dù ban tổ chức cho biết,
việc công đức là tùy tâm nhưng theo nhiều du khách cho biết, để được phát 1 túi
lương họ cũng phải bỏ ra từ 20.000 - 30.000 đồng bên cạnh đó hiện tượng đặt
tiền không đúng quy định đã được tổ chức thu gom nhưng chưa triệt để vì nhận
25 | P a g e


×