Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

tiểu luận cao học Giải pháp Nâng cao chất lượng công tác đào tạo bồi dưỡng ở trường chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.78 KB, 51 trang )

MỞ ĐẦU

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” ... “Đảng
phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối qúy báu.
Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc
chung của chúng ta” [2, tr.273]. Ngày nay, khi đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong xu thế hội nhập tất yếu của thời đại, chúng ta càng thấm
thía hơn những lời dạy của Người. Sự nghiệp đổi mới đất nước, với mục
đích “đi tắt, đón đầu”, vươn lên ngang tầm bè bạn trong khu vực và trên thế
giới đã và đang đặt ra yêu cầu, đòi hỏi “Đảng ta phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ ngang tầm góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [3, tr.66 ]. Đây cũng chính là lý do mà
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từng chỉ rõ: “Có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm
chất và năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của đảng
cầm quyền” [3, tr.27]. Và cũng bởi thế việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo nói chung và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói riêng luôn là
vấn đề được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
Với vị trí chức năng là một trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của một
tỉnh đang trên đà CNH mạnh mẽ, Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc luôn chú
trọng nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đẩy mạnh hoạt động
nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Trong “mạch chảy” chung đó, thực hiện kế
hoạch tổ chức nghiên cứu khoa học năm 2004 của Nhà trường, Phòng Đào tạo


tiến hành nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm các lớp
đào tạo -bồi dưỡng ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc”
Đây là lần đầu tiên sau 7 năm hoạt động, thực hiện kế hoạch được giao,


Phòng Đào tạo Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành nghiên cứu, đánh giá,
tổng kết thực trạng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công
tác chủ nhiệm nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới.


Chương 1: Một số vấn đề chung về công tác chủ nhiệm ở Trường
Chính trị tỉnh.

1.1. Một số vấn đề chung về công tác chủ nhiệm. Khi nghiên cứu vấn
đề công tác chủ nhiệm trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc, điều quan trọng là phải tìm hiểu
kỹ về thực chất của hoạt động này để từ đó đi đến thống nhất khái niệm và
những vấn đề liên quan đến khái niệm này. Đây là cơ sở, nền tảng để có thể
nghiên cứu về thực trạng và đề xuất các giải pháp đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác chủ nhiệm ở Nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Xét về mặt thực tế, “giáo viên chủ nhiệm” là một thuật ngữ được sử dụng
rộng rãi trong các trường học, rất gần gũi với người đi học, đặc biệt là ở các cấp
học tiểu học, THCS, THPT.v.v. Đồng thời, chủ nhiệm còn là một loại chức
danh được sử dụng trong hệ thống các cơ quan của Đảng, chính quyền, đoàn
thể, một số tổ chức kinh tế. Chẳng hạn, chức danh “Chủ nhiệm Uỷ ban pháp
luật của Quốc hội”, “Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra trung ương” của Đảng hay
trước đây người ta hay gọi “Chủ nhiệm Hợp tác xã”.v.v.
Tuy nhiên, các sách vở, từ điển không giải thích gì nhiều về thuật ngữ
chủ nhiệm. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên chỉ định nghĩa ngắn gọn
về Chủ nhiệm như sau:
“d- 1. Người đứng đầu và chịu trách nhiệm chính trong một số cơ quan
Nhà nước, một số tổ chức .
2.(kng).giáo viên chủ nhiệm”. [6, tr.173]
Như vậy có thể thấy rằng, mặc dù đây là một thuật ngữ được sử dụng khá
phổ biến trong đời sống xã hội nhưng sự giải thích trong Từ điển Tiếng Việt chỉ

chú ý tập trung vào khái niệm “chủ nhiệm” theo nghĩa một chức danh, với nội
hàm là “người đứng đầu và chịu trách nhiệm chính trong một số cơ quan Nhà


nước, một số tổ chức”. Còn thế nào là “giáo viên chủ nhiệm” thì không giải
thích mà mặc nhiên thừa nhận cách gọi này theo khẩu ngữ (kng).
Về mặt pháp luật, những vấn đề liên quan tới giáo viên chủ nhiệm và
công tác chủ nhiệm đã được thể chế hoá một cách khá cụ thể, chi tiết trong
nhiều văn bản của ngành giáo dục –Đào tạo. Theo các Điều 40, 41, Điều lệ
Trường Trung học chuyên nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số
24/2000/QĐ-BGD&ĐT của Bộ tr trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo ngày
11/7/2000 [7], thì giáo viên chủ nhiệm có những quyền và nghĩa vụ sau đây:
Về nhiệm vụ, giáo viên chủ nhiệm phải thực hiện: Nhận xét, đánh giá kết
quả học tập, rèn luyện của học sinh; Thực hiện các quy định của pháp luật, điều
lệ trường, quy chế đào tạo, tôn trọng, giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi chính đáng
của học sinh; Rèn luyện đạo đức, học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, năng lực sư phạm, giữ gìn phẩm chất, uy tín và danh dự của giáo viên;
Tham gia các hoạt động văn hoá-xã hội, thực hiện nghĩa vụ công dân và các
nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Về quyền, giáo viên chủ nhiệm có các quyền: Được đào tạo, bồi dưỡng, tự
học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và năng lực
sư phạm; Được hưởng mọi quyền lợi về vật chất, tinh thần, được chăm sóc, bảo
vệ sức khoẻ theo các chế độ, chính sách quy định cho nhà giáo; Được đề đạt
nguyện vọng, kiến nghị, góp ý với nhà trường hoặc cơ quan quản lý cấp trên về
những vấn đề có liên quan đến tổ chức, quản lý, công tác đào tạo của trường,
của ngành; Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Điều 42 còn quy định những quyền và nhiệm vụ riêng của giáo
viên chủ nhiệm. Bao gồm: Giúp hiệu trưởng trong việc quản lý, giáo dục và rèn
luyện học sinh; Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn các hoạt động của lớp do mình phụ
trách; Phối hợp với các giáo viên bộ môn của lớp trong việc giáo dục và đào tạo

học sinh.
Trong Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà trường ban
hành kèm theo Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT ngày 01/03/2000 của Bộ


trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo thì “Giáo viên chủ nhiệm lớp là người đại diện
cho Nhà trường tổ chức các hoạt động thực hiện dân chủ của lớp mình, thường
xuyên tiếp thu và tổng hợp ý kiến của người học...để phản ánh cho hiệu
trưởng”. (Điều 10.K4)
Đối với hệ thống các Trường Chính trị tỉnh thì vấn đề công tác chủ
nhiệm cũng được quy định trong một số văn bản quan trọng của các Học viện
Trung ương như Quy chế chủ nhiệm lớp của Trường Chính trị tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương ban hành kèm theo Quyết định số 254-QĐ/HVCTQG
ngày 12/04/2002 của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Quy chế học
tập các khoá bồi dưỡng cán bộ, công chức và các khoá bồi dưỡng khác của Học
viện Hành chính Quốc gia.
Theo Quy chế chủ nhiệm lớp của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh thì “CNL là người giúp cho Ban Giám hiệu nhà trường quản lý, điều
hành lớp học, nắm tình hình học tập, rèn luyện của học viên ” (Điều 1).
Chủ nhiệm lớp có quyền:
“ - Được tham gia các cuộc họp bàn về kế hoạch, nội dung chương trình
học tập, kế hoạch chiêu sinh, tuyển sinh, tiếp nhận học viên nhập học.
- Tham gia Ban chỉ đạo lớp, trực tiếp điều hành lớp từ đầu đến kết thúc
khóa học; dự các cuộc họp phản ánh tình hình, bàn giao học viên tốt nghiệp,
tham gia các cuộc họp của hội đồng khen thưởng, kỷ luật, đề nghị khen thưởng,
kỷ luật đối với học viên và các công việc có liên quan đến lớp học” (Điều 6).
Chủ nhiệm lớp có nhiệm vụ:
“-Điều hành quản lý quá trình học tập như§: phổ biến chương trình kế
hoạch toàn khoá, từng học kỳ, năm học. Lên kế hoạch, chương trình đã được
duyệt, quản lý theo dõi quá trình học tập của học viên, về tinh thần thái độ học

tập, quản lý các khâu học tập, đi thực tế, viết tiểu luận tốt nghiệp.
Phối hợp với các khoa, hội đồng thi theo dõi nắm kết quả thi hết môn, thi
tốt nghiệp, viết tiểu luận tốt nghiệp.


Sau các môn học, phần học và kết thúc khoá học, báo cáo với Ban Giám
hiệu nhà trường về tình hình mọi mặt của lớp và chuẩn bị tư liệu, nắm chắc hồ
sơ học viên để nhận xét và cung cấp cho hiệu trưởng xét duyệt tốt nghiệp ra
trường
- Dự các giờ lên lớp nắm tình hình học tập của học viên, góp ý kiến với
giảng viên, lãnh đạo khoa về nội dung và phương pháp giảng dạy.
- Cho phép học viên nghỉ học theo quy chế của trường, được dự các buổi
sinh hoạt lớp, họp cán bộ lãnh đạo lớp ” (Điều 7) [9].
Như vậy, có thể thấy rằng đối với ngành giáo dục - đào tạo thì vấn đề
công tác chủ nhiệm lớp đã được quan tâm đặc biệt, được thể chế hoá trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật của ngành quy định hoạt động giảng dạy, học
tập ở tất cả các cấp học, bậc học, loại hình đào tạo. Song đối với Học viện Hành
chính Quốc gia và Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và hệ thống các
Trường Chính trị tỉnh thì những vấn đề về công tác chủ nhiệm chủ yếu là
những văn bản mang tính nội bộ, chưa có một văn bản nào mang tính quy chế
chung cho công tác quản lý, chủ nhiệm lớp ở tất cả các loại hình đào tạo, bồi
dưỡng. Đây là một khó khăn rất lớn cho việc xác định cụ thể những vấn đề
thuộc trách nhiệm của CNL và triển khai công tác CNL trên thực tế cũng như
nghiên cứu đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm
các lớp đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị tỉnh.
Tuy nhiên, căn cứ vào những quy định hiện hành về công tác chủ nhiệm
thì có thể đi đến kết luận rằng chủ nhiệm lớp là người được cấp có thẩm quyền
giao trách nhiệm chính trong việc giúp lãnh đạo nhà trường quản lý toàn diện
một lớp dào tạo, bồi dưỡng theo các nội quy, quy chế của nhà trường, góp phần
đảm bảo chất lượng giảng dạy, học tập, đảm bảo thực thi trên thực tế các

quyền và nghĩa vụ của giảng viên, học viên và nhà trường theo quy định của
pháp luật và là một "kênh" quan trọng để thực hiện dân chủ trong nhà trường.
1.2.Vai trò của công tác chủ nhiệm đối với việc nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Trường Chính trị tỉnh.


Hiện nay, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là
vấn đề quan trọng hàng đầu đối với tất cả các Trường Chính trị tỉnh, thành phố
trong cả nước nhưng để giải quyết vấn đề này thì không hề đơn giản. Bởi lẽ,
đây là vấn đề liên quan chặt chẽ và chịu sự chi phối của hàng loạt các yếu tố
như quan điểm chỉ đạo, cơ chế quản lý, tuyển sinh, đãi ngộ, bố trí sử dụng sau
đào tạo, trình độ năng lực giảng viên, giáo trình, tài liệu, cơ sở vật chất phục vụ
giảng dạy và học tập.v.v.Trong đó, công tác quản lý lớp, chủ yếu do các giáo
viên chủ nhiệm thực hiện, đóng một vai trò quan trọng thể hiện trên những
phương diện cơ bản sau đây:
Thứ nhất, công tác chủ nhiệm đảm bảo cho một lớp học ổn định và có tổ
chức, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức. Để đảm bảo cho quá trình giảng dạy và học tập có chất
lượng, một lớp học luôn phải là một tổ chức, hơn nữa phải là một tổ chức chặt
chẽ.
CácMác đã từng nói rằng:
“Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự
vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan
độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn
nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [1, tr.480].
Vì thế, trong cơ chế tổ chức lớp học điều quan trọng là phải đảm bảo phát
huy vai trò tự quản của học viên, với các cấp độ tự quản phù hợp như hoạt động
của Ban Cán sự lớp, các tổ.v.v.Tuy nhiên, không thể vì thế mà tuyệt đối hoá vai

trò của hoạt động tự quản bởi đây là nguyên nhân chủ quan của những biểu hiện
lỏng lẻo, thiếu kỷ luật, kỷ cương thường thấy trong các lớp học. Thực tế cho
thấy rằng bên cạnh những nỗ lực tự quản của lớp học luôn cần có sự định
hướng, chỉ đạo, giúp đỡ của Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm có vai trò quan
trọng như một “mắt khâu” truyền tải những định hướng, chỉ đạo ấy tới lớp học,


giúp giải quyết những khó khăn mà lớp học không tự giải quyết được hoặc giải
quyết không hiệu quả. Do đó, vấn đề là phải biết kết hợp ở một mức độ hợp lý
vai trò tự quản của học viên với sự quản lý, tổ chức, theo dõi, giám sát của nhà
trường với đại diện chính thức là giáo viên chủ nhiệm lớp.
Thứ hai, công tác chủ nhiệm là một kênh quan trọng đảm bảo thực hiện
dân chủ trong Nhà trường. Trong mối quan hệ Nhà trường -học viên, giảng viên
-học viên, đều nổi bật lên yêu cầu bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Nhà trường
là chủ thể quản lý do vậy có quyền năng quản lý người học. Luật giáo dục, điều
53 đã quy định Nhà trường có nhiệm vụ và quyền hạn “tuyển sinh và quản lý
người học”, “tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo
mục tiêu, chương trình giáo dục ”
Song Luật Giáo dục cũng quy định những quyền rất quan trọng, cơ bản
của người học như quyền được nhà trường “tôn trọng và đối xử bình đẳng,
được cung cấp đầy đủ thông tin về việc học tập của mình”, quyền “sử dụng
trang thiết bị, phương tiện phục vụ các hoạt động học tập, văn hoá, thể dục, thể
thao của nhà trường”, quyền “trực tiếp hoặc thông qua đại diện hợp pháp của
mình kiến nghị với nhà trường...các giải pháp góp phần xây dựng nhà trường,
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người học” (Điều 75). Đồng thời, người
học phải “thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch
giáo dục của nhà trường”, “kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, công nhân,
nhân viên của nhà trường, tuân thủ pháp luật của Nhà nước, thực hiện nội quy,
điều lệ nhà trường”, “giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, cơ sở giáo dục
khác”, “góp phần xây dựng bảo vệ và phát huy truyền thống của nhà

trường”. v.v. (Điều 74) [7].
- Thứ ba, công tác chủ nhiệm góp phần tăng cường hiệu quả bài giảng
của giảng viên, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Nếu công tác quản lý lớp tốt, học viên ý thức được ý nghĩa của việc đến lớp
nghe giảng thì người học sẽ có sự chuẩn bị bài vở chu đáo, chăm chú ghi chép,
nghe giảng, tích cực nghiên cứu, thảo luận, tạo một không khí học tập nghiêm


túc và chất lượng. Đây là “liều thuốc kích thích” đối với người giảng viên đứng
trên bục giảng dồn hết tâm huyết, nhiệt tình và những kiến thức tích luỹ được để
truyền đạt cho học viên. Sự nỗ lực, cố gắng với cảm hứng cao trong công việc
giảng dạy và học tập cả từ phía giảng viên và học viên là điều kiện, tiền đề
không thể thiếu để có những bài giảng đạt chất lượng tốt. Đồng thời CNL còn là
người có điều kiện trực tiếp nắm bắt những ý kiến phản hồi từ phía học viên đối
với chất lượng bài giảng và tác phong lên lớp của các giảng viên, giúp cho
người giảng viên có được những thông tin quan trọng để bài giảng của mình
ngày càng có kết quả cao hơn.
- Thứ tư, CNL là người trực tiếp tổ chức, triển khai thực hiện các Nội
quy, quy chế học tập, giảng dạy của Nhà trường đối với lớp học và với từng học
viên. Thông thường thì Nhà trường phải xây dựng các quy chế cụ thể quy định
các quyền và nghĩa vụ của học viên, quyền hạn và trách nhiệm của nhà trường,
của giảng viên và giáo viên chủ nhiệm trên cơ sở các quy định của ngành và
pháp luật về giáo dục đào tạo. Nhà trường càng có bề dày truyền thống thì
những quy định này càng cụ thể, chi tiết, điều chỉnh ngày càng toàn diện hơn
hoạt động quản lý lớp của giáo viên chủ nhiệm. Tuy nhiên bản thân các quy
định ấy không tự mình tạo nên một trật tự quản lý trong lớp học mà vấn đề lại là
ở chỗ tổ chức thực hiện trên thực tế những quy định ấy như thế nào. Vì thế, trên
thực tế có những trường hợp cùng một khung quy chế quản lý như nhau nhưng
ở nơi này làm tốt, nơi kia chưa tốt, ở lớp này ổn định nhưng lớp kia lại gặp rất
nhiều khó khăn, trục trặc. Hiện tượng đó có thể lý giải từ một nguyên nhân chủ

quan rất quan trọng đó là năng lực công tác tổ chức quản lý lớp của từng cá
nhân người CNL tốt hoặc kém.
- Thứ năm, CNL là người sâu sát, quan tâm đến đời sống sinh hoạt và
học tập của học viên, là cầu nối giữa học viên với giảng viên, với Nhà trường.
Mọi hoạt động quản lý luôn phải hướng tới mục tiêu đảm bảo cho khách thể
quản lý phát triển thuận lợi theo định hướng của chủ thể quản lý. Học viên là
đối tượng quản lý của công tác chủ nhiệm, nhưng trong thời gian đi học, để học


tập, rèn luyện tốt, học viên rất cần sự quan tâm của Nhà trường, của CNL về
nhiều phương diện cả trong học tập và những vấn đề của cuộc sống một con
người. Và chỉ khi có sự quan tâm ấy, khi có sự thấu hiểu, chia xẻ và cảm thông
của CNL đối với học viên thì công tác quản lý lớp mới đạt hiệu quả tối ưu, mới
được đảm bảo bởi ý thức tự giác của học viên trong việc thực hiện những nghĩa
vụ của người đi học mà không phải chỉ là sự gò ép, cưỡng bức bằng phương
pháp mệnh lệnh, cưỡng chế và trừng phạt. Nếu làm được điều này thì học viên
mới thực sự coi việc học tập không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền của mình,
mới thực sự thấy rằng trong quá trình học tập “trường là nhà, học viên là chủ”.
Hơn nữa, để gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch, đánh giá và sử dụng cán bộ
thì chủ nhiệm lớp còn thể hiện vai trò “là cầu nối giữa cấp uỷ địa phương với
Nhà trường” [16].
Tóm lại, Chủ nhiệm lớp có một vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình
học tập của lớp học và thực thi những nhiệm vụ liên quan đến cả hoạt động
giảng dạy của giảng viên và việc học tập, tu dưỡng của học viên. Nhiệm vụ
chính của CNL là thực hiện quản lý lớp học, đảm bảo duy trì, củng cố trật tự
quản lý của lớp học theo đúng các nội quy, quy chế của nhà trường để đảm bảo
hiệu quả, chất lượng của hoạt động giảng dạy và học tập, tức là nhằm đạt được
mục tiêu của giáo dục -đào tạo. Về thực chất, CNL chính là người trực tiếp quản
lý lớp và hoạt động của CNL cơ bản là hoạt động quản lý lớp. Do đó, khi bàn
đến công tác chủ nhiệm và vấn đề nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm

chính là bàn đến vấn đề hoạt động quản lý lớp do CNL thực hiện. Hoạt động
quản lý lớp do CNL thực hiện liên quan tới rất nhiều khâu, nhiều bộ phận trong
Nhà trường. Và bởi lý do đó, cần phải thấy rằng nâng cao chất lượng công tác
chủ nhiệm là một vấn đề phức tạp, có mối quan hệ đan xen, gắn bó chặt chẽ và
chịu sự tác động ảnh hưởng, chi phối của nhiều yếu tố khác của quy trình quản
lý sự ra đời, tồn tại và vận hành một lớp học trong Nhà trường.


Chương 2: Thực trạng công tác chủ nhiệm các lớp đào tạo, bồi
dưỡng ở trường chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.

2.1. Những thuận lợi và khó khăn của công tác chủ nhiệm các lớp đào
tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Theo Quyết
định số 35-QĐ/TU ngày 01/03/1997 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh
Phúc, Trường Chính trị Vĩnh Phúc được thành lập. Từ đó đến nay đưới sự
chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, mặc dù nằm trong điều kiện khó khăn
chung của một tỉnh mới được tái lập (ngày 1/1/1997), Trường Chính trị
tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều cố gắng vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh giao cho.
Trong 07 năm qua, công tác chủ nhiệm lớp đã phát huy được những mặt
thuận lợi, vượt qua rất nhiều khó khăn để góp phần quan trọng trong những
bước trưởng thành vượt bậc của Nhà trường. Chính vì thế, để có cơ sở thực
tiễn cho việc đánh giá một cách khách quan thực trạng những việc đã làm được
và những vấn đề còn bất cập trong công tác chủ nhiệm, trước hết, chúng ta cần
đánh giá một cách cụ thể những yếu tố thuận lợi và khó khăn và sự ảnh hưởng
tác động của những yếu tố này đến chất lượng công tác chủ nhiệm của Nhà
trường.
2.1.1.Về thuận lợi:
Công tác chủ nhiệm lớp ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua
có những yếu tố thuận lợi rất cơ bản sau:

- Sự quan tâm của lãnh đạo Nhà trường đối với công tác quản lý lớp.
Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường thường xuyên tạo điều kiện, quan tâm đến


các giáo viên chủ nhiệm cả về tinh thần, vật chất. Lãnh đạo Nhà trường và
Phòng Đào tạo đã tin tưởng, mạnh dạn giao việc cho lớp trẻ, tạo cơ hội cho cán
bộ trẻ được lao vào công việc thực tế để có môi trường phấn đấu, rèn luyện, có
điều kiện cống hiến và bộc lộ khả năng công tác của mình. Môi trường lớp học
và các hoạt động của công tác CNL đặc biệt hữu ích đối với các giảng viên trẻ
mới vào nghề tập quen dần với hoạt động chuyên môn giảng dạy và học tập để
có thể rèn luyện bản lĩnh đứng lớp sau này. Đây là động lực tinh thần to lớn
kích thích mạnh mẽ các giảng viên trẻ nỗ lực phấn đấu, cống hiến hết nhiệt tình,
trí tuệ của tuổi trẻ trong công việc.
- Trong điều kiện của một tỉnh mới tái lập, trong những năm đầu hoạt
động, số lượng lớp còn ít, loại hình đào tạo chủ yếu là TCCT, TCHC, một số
lớp bồi dưỡng chuyên viên, cán bộ Đảng, Đoàn thể. Mặt khác, do cơ sở vật chất
của Nhà trường còn chưa đủ đáp ứng nên đa số các lớp dài hạn học tại chức mở
tại các huyện là chính, các lớp đặt tại Trường chưa nhiều. Do đó, việc quản lý
học viên chủ yếu là về thời gian và ý thức học tập trên lớp, còn một số khía
cạnh khác liên quan đến ý thức tu rèn của học viên ngoài giờ học tập trên lớp
chưa phải là trọng tâm. Có thể nói, tính chất công việc của giáo viên chủ nhiệm
cũng đơn giản hơn, mất ít thời gian hơn so với việc quản lý các lớp mở tập trung
tại Nhà trường.
- Trong việc quản lý các lớp mở tại các huyện như các lớp TCCT, TCHC,
các lớp bồi dưỡng đại biểu HĐND... có một thuận lợi rất lớn là có sự giúp đỡ,
phối hợp của các Trung tâm BDCT các huyện, thị. Căn cứ vào các quy định của
cấp trên và theo hợp đồng trách nhiệm mở lớp, tuỳ từng loại hình đào tạo, bồi
dưỡng mà Trung tâm BDCT các huyện đều có sự quan tâm đối với các cán bộ,
giảng viên của Nhà trường về công tác tại huyện cả về chỗ ăn, nghỉ, đi lại.v.v.,
Đặc biệt là cử các cán bộ Trung tâm tham gia đồng chủ nhiệm, cùng phối hợp

với các CNL của Nhà trường trong quản lý, điều hành lớp học. Vì cấp hoạt động


của các các cán bộ Trung tâm BDCT cấp huyện được cử tham gia đồng chủ
nhiệm.
- Vấn đề con người luôn có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc tổ
chức công tác thực tiễn. Đối với công tác chủ nhiệm lớp ở Trường Chính trị tỉnh
Vĩnh Phúc, một đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ, được đào tạo bài bản, giàu nhiệt
huyết hăng say công tác là một nhân tố hết sức thuận lợi. Đa số các giảng viên
trẻ được tuyển dụng về đều phải trải qua vòng sơ tuyển về các yêu cầu về kỹ
năng nói, viết, được thẩm định về kiến thức chuyên môn đào tạo và phẩm chất
đạo đức. Hầu hết đội ngũ cán bộ trẻ được tuyển dụng đều tích cực phấn đấu, tu
dưỡng, cố gắng trong công tác nên đội ngũ CNL của Nhà trường hầu hết là đảng
viên, đều trưởng thành nhanh dưới sự dìu dắt, quan tâm của các thế hệ cán bộ,
giảng viên giàu kinh nghiệm đi trước.
- Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng ta về chiến lược cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước được đề ra tại Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VIII, Vĩnh Phúc là tỉnh đã có nhiều quan
tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và đối với
Trường Chính trị tỉnh nói riêng. Mặt khác, chủ trương chuẩn hoá đội ngũ cán
bộ, công chức các cấp, đặc biệt là kiện toàn đội ngũ cán bộ cấp cơ sở theo quy
định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức 2003 đã tạo một động lực thúc đẩy học
viên của Nhà trường nâng cao ý thức trong học tập, tu dưỡng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ công tác thực tiễn trong tình hình mới.
- Công tác chủ nhiệm luôn nhận được sự phối hợp hoạt động, hỗ trợ của
các khoa, phòng, toàn thể các cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Nhà trường.
Trong điều kiện cơ sở vật chất của Nhà trường còn nhiều khó khăn như hiện
nay, việc quản lý lớp chỉ có thể đạt kết quả tốt nếu có được sự cộng tác, giúp đỡ
của tập thể.



2.1.2. Về khó khăn:
- Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm đa phần còn trẻ, còn thiếu nhiều kinh
nghiệm trong cuộc sống và công tác. Một số giáo viên chủ nhiệm chưa được
qua các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ làm công tác chủ nhiệm
lớp. Trong khi đó thực chất của công tác chủ nhiệm các lớp ở Trường Chính trị
tỉnh lại đòi hỏi phải có một bề dày kinh nghiệm công tác, kỹ năng quản lý, kinh
nghiệm sống, kinh nghiệm xử lý các mối quan hệ trong và ngoài lớp học trong
quá trình thực thi chức năng của người CNL. Mặt khác, do điều kiện biên chế
tỉnh giao cho Nhà trường còn ít so với yêu cầu công việc nên đa phần cán bộ trẻ
được tiếp nhận về trường phải trải qua một thời gian dài hợp đồng mới được
vào biên chế chính thức. Điều này đã gây tác động ảnh hưởng không nhỏ tới
tâm lý cán bộ nói chung và đặc biệt là có những khó khăn nhất định trong công
tác quản lý lớp của các cán bộ trẻ được giao trách nhiệm CNL trong thời gian
còn làm hợp đồng.
- Đối tượng học viên đa số là các cán bộ đương chức, nhiều người
giữ các chức vụ lãnh đạo quản lý, lại thường lớn tuổi hơn nhiều giáo viên chủ
nhiệm trẻ. Sự chênh lệch về độ tuổi, về chức vụ, về kinh nghiệm sống giữa CNL
và học viên có thể gây ra nhiều sự tác động ảnh hưởng tới công tác quản lý lớp.
Nếu CNL không có một phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh vững vàng trong công
tác thì rất khó có thể quản lý lớp đạt hiệu quả tối ưu. Đối tượng học viên các lớp
rất phong phú, phức tạp, đa dạng, không đồng đều về trình độ, độ tuổi, cơ cấu
nam nữ.v.v.
Điển hình là qua khảo sát lớp TCCT KI -Huyện Bình Xuyên (Khoá 20002003) cho thấy: Về độ tuổi: Dưới 30 có 11 học viên chiếm 13%, từ 31 đến 40 có
35 học viên chiếm 41 %, 41 đến 50 có 33 học viên chiếm 38%, trên 50 tuổi có 7
học viên chiếm 8%. Có 6 học viên người dân tộc thiểu số bàng 7%. Về cơ cấu
nam, nữ: 73 học viên nam chiếm 85%, 13 học viên nữ chiếm 15%. Về trình độ


chuyên môn: Trên Đại học có 1 học viên (1%), ĐH -CĐ có 15 học viên chiếm

16%, trung cấp có 38 học viên chiếm 44%, sơ cấp có 32 học viên chiếm 38%.
Những sự chênh lệch rất lớn này làm cho việc giảng dạy và triển khai các
công tác của lớp gặp rất nhiều khó khăn.
- Nhiều cơ quan đơn vị có học viên đi học chưa thực sự phối hợp tốt với
Nhà trường trong quản lý học viên và tạo điều kiện thời gian, sắp xếp bố trí
công việc hợp lý để học viên yên tâm học tập. Điều này đã làm cho tỷ lệ học
viên vắng mặt trong các buổi học còn cao ở nhiều lớp, đặc biệt là nhiều học viên
không thể theo hét khoá, phải thôi học ngang chừng. Qua nghiên cứu tổng kết
một số lớp cho thấy như sau:
Biểu số 01: Tỷ lệ học viên thôi học ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc
qua khảo sát thực tế một số lớp.

Tổng
Lớp

số học viên học
của lớp

TCCT K I- Bình
Xuyên
Lớp

TCCT

Tam

Dương K II
Lớp TCCT +TCHC
K II-Yên Lạc


Số
viên

thôi học

100

14

104

10

105

10

Tỷ
lệ %

1
4%
9,6
1%
9,5
2%


* Nguồn: Báo cáo tổng kết các lớp được khảo sát lưu tại Phòng Đào tạo.
Thực tế này đã gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý lớp của giáo

viên chủ nhiệm.
- Do trong cơ chế đào tạo, đánh giá, sử dụng cán bộ của Nhà nước nói
chung còn nhiều bất cập nên đã ảnh hưởng nhiều tới tâm lý của học viên, đặc
biệt là học viên là cán bộ cơ sở. Cơ chế “Đảng cử, dân bầu”, theo nhiệm kỳ đối
với cán bộ cơ sở đã làm cho nhiều học viên chưa thực sự yên tâm học tập, đặc
biệt là việc theo học các lớp đào tạo dài hạn. Mặt khác, việc đào tạo chưa thực
sự gắn với sử dụng nên ảnh hưởng không tốt tới tâm lý của các cán bộ đi học và
thái độ học tập. Quá trình theo dõi, đánh giá kết quả học tập và ý thức của học
viên chưa thực sự gắn với việc đánh giá, sử dụng cán bộ trong quá trình đào tạo
và sau khi kết thúc khoá đào tạo, bồi dưỡng, nên xuất hiện tâm lý đi học kiểu
“đánh trống ghi tên” và không coi trọng những biện pháp giáo dục, nhắc nhở
của Nhà trường và giáo viên CNL trong quá trình học tập. Đúng như Nghị quyết
Trung ương 3 - Khoá VIII đã thẳng thắn chỉ rõ: “Nhiều cán bộ lười học, lười
nghiên cứu, một số học lướt chỉ cốt để lấy bằng cấp” [3, tr.68].
- Khung pháp lý cho hoạt động của chủ nhiệm lớp chưa hoàn thiện, là
một khó khăn rất lớn cho các giáo viên CNL trong quá trình thực thi chức năng
nhiệm vụ của mình. Các văn bản hướng dẫn của ngành dọc chỉ tập trung điều
chỉnh một số ít vấn đề mang tính phổ biến trên phạm vi cả nước, chỉ mang tính
chất “định khung, định hướng”, chưa cụ thể, chi tiết và có nhiều quy định không
thống nhất với nhau. Học viện Hành chính Quốc gia đã ban hành Quy chế học
tập để làm cơ sở đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học viên nhưng chỉ áp
dụng trong phạm vi “các khoá bồi dưỡng cán bộ, công chức và các khoá bồi
dưỡng khác của Học viện Hành chính Quốc gia” nên về nguyên tắc không áp
dụng được cho các chương trình đào tạo, ví dụ đào tạo TCHC. Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh thì đã xây dựng và ban hành Quy chế chủ nhiệm lớp


của các Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhưng chỉ giới
hạn phạm vi áp dụng cho “các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo thuộc các Trường
Chính trị tỉnh, thành phố”. Như vậy, xét về mặt pháp lý thì những văn bản trên

đây không thể áp dụng làm cơ sở cho công tác chủ nhiệm của tất cả các lớp đào
tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh.
Trong điều kiện mới tái lập, Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều
cố gắng trong việc xây dựng, ban hành các quy định làm cơ sở cho công tác
chủ nhiệm. Quan trong nhất phải kể đến các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của giáo viên chủ nhiệm lớp trong Quy định tạm thời “về hoạt động chuyên
môn, nghiên cứu khoa học trong Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc” ban hành
bởi Quyết định số 29/QĐ-HT ngày 01/7/2003 của Hiệu trưởng Trường Chính trị
tỉnh Vĩnh Phúc. Phòng Đào tạo đã xây dựng bản Nội quy học viên quy định
trách nhiệm của học viên đến tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng tại Nhà
trường. Tuy nhiên, những văn bản này cũng mới chỉ dừng lại ở những quy định
chung về trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên chủ nhiệm trên cơ sở kế thừa
các quy định của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hoặc quy định
chung về trách nhiệm của học viên chứ chưa có những quy định thể chế hoá, chi
tiết hoá các vấn đề cụ thể trong công tác chủ nhiệm.
- Trong những khó khăn chung của Nhà trường, cơ sở vật chất phục vụ
cho công tác chủ nhiệm còn nhiều khó khăn. Vì vậy, việc quản lý lớp vẫn chủ
yếu mang tính thủ công, chưa được tin học hoá, các thông tin quản lý vì vậy,
thường chậm, không được cập nhật kịp thời để làm cơ sở đề xuất những giải
pháp khắc phục một cách nhanh chóng, hiệu quả. Giáo viên chủ nhiệm thường
phải đi công tác xa do điều kiện các lớp mở tại chức tại các huyện nhiều. Trong
khi đó, chế độ phụ cấp đối với giáo viên chủ nhiệm chưa rõ ràng, đặc biệt là
việc hõ trợ tiền xăng xe đi lại, chỗ ăn, nghỉ cho giáo viên chủ nhiệm còn nhiều
khó khăn. Về thực chất, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động quản lý


lớp, bởi đa phần các giáo viên chủ nhiệm lớp là các cán bộ, giảng viên trẻ, mới
ra trường, lương thấp, lại phải công tác xa nhà.
2.2. Thực trạng công tác chủ nhiệm các lớp đào tạo, bồi dưỡng ở Trường
chính trị tỉnh Vĩnh Phúc thời gian qua.

Theo Quyết định số 88/QĐ-TW ngày 05/9/1994 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng, “Về việc thành lập Trường Chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương”, Hướng dẫn số 07/TC-TW ngày 28/7/1995 của Ban Tổ chức
Trung ương về Trường Chính trị tỉnh, thành phố và Quyết định số 35/QĐ-TW
ngày 01/3/1997 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc “Về việc thành lập Trường Chính trị
tỉnh Vĩnh Phúc”, Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc có nhiệm vụ thực hiện các
loại hình đào tạo, bồi dưỡng sau đây:
* Về đào tạo: Đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp TCCT, TCHC cán bộ chủ
chốt xã, phường, thị trấn, cán sự, chuyên viên, các phòng ban cấp huyện, cấp
tỉnh, trưởng, phó phòng và tương đương cấp huyện, cấp tỉnh.
* Về bồi dưỡng: Bồi dưỡng chương trình kiến thức QLNN cho chuyên
viên, cán sự cấp tỉnh, huyện, cán bộ chủ chốt chính quyền cơ sở, đại biểu
HĐND cấp xã, huyện; Bồi dưỡng kiến thức và nghiệp vụ cho cán bộ chủ chốt
làm công tác Đảng, MTTQ, các tổ chức đoàn thể ở xã, phường, thị trấn, các cơ
quan doanh nghiệp. Ngoài ra, Trường còn thực hiện việc quản lý các lớp Đại
học Chính trị, Cao cấp lý luận chính trị, Đại học Hành chính .v.v.được mở trên
địa bàn tỉnh.
Trong 07 năm qua, công tác chủ nhiệm lớp đã góp phần quan trọng trong
kết quả đã đào tạo, bồi dưỡng của Nhà trường với125 lớp với 10 848 lượt học
viên.


Biểu số 02: Kết quả đào tạo -bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Vĩnh
Phúc trong 07 năm (1997-2004). [15]

Loại hình đào tạo -bồi
dưỡng

S


ố lớp học viên
1. ĐHCT, ĐHHC, ĐH xây

dựng Đảng, CCLL

2. TCCT, TCHC

0
6
2
5

3. Bồi dưỡng kiến thức
QLNN

4. Bồi dưỡng công tác Đảng

9

đoàn thể

3
4

6. Bồi dưỡng cập nhật kiến

386

411


325

5
0

5

239

7
0

7

647

8
3

5. Bồi dưỡng MTTQ và các

thức

Số

270

* Kết quả về đào tạo: 100% học viên sau khoá đào tạo đều được cấp bằng tốt
nghiệp, trong đó 15% học viên đạt loại giỏi, 70% đạt loại khá, loại trung bình



chỉ có 15%.Qua các khoá đào tạo, bồi dưỡng, học viên đã nâng cao trình độ lý
luận, trình độ quản lý, có lập trường quan điểm vững vàng, tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng. Phẩm chất đạo đức được nâng lên rõ rệt. Hầu hết học
viên tốt nghiệp ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc đều được bố trí, sử dụng phù
hợp với năng lực và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Các mặt công tác quản lý của CNL rất phong phú và đa dạng, thường rất
khó định hình, lượng hoá được một cách đầy đủ và toàn diện. Tuy nhiên, xét
một cách tổng thể thì để nghiên cứu thực trạng công tác CNL phải đề cập đánh
giá những vấn đề cơ bản sau đây:
2.2.1. Các quy định hiện hành liên quan đến công tác CNL
Nhìn một cách khái quát, các quy định hiện hành về công tác chủ nhiệm
có thể được phân thành hai loại: Một là, các quy định về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn của CNL. Hai là, các quy định làm cơ sở cho các
hoạt động quản lý lớp của giáo viên chủ nhệm.
Như trên đã phân tích, CNL có vai trò rất quan trọng đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nên những quy định hiện hành liên quan đến
công tác chủ nhiệm rất phong phú, bao gồm các văn bản của các Học viện ở
Trung ương và văn bản mang tính nội bộ của Nhà trường. Cụ thể là các văn bản
sau đây:
- Quy chế học viên, Quy chế chiêu sinh, (Dùng cho các lớp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo của các Trường Chính trị tỉnh, thành phố), Quy chế thi,
kiểm tra, Quy chế viết tiểu luận tốt nghiệp, Quy chế xét công nhận tốt nghiệp và
cấp bằng tốt nghiệp (Dùng cho lớp đào tạo theo chương trình THCT) ban hành
kèm theo Quyết định số 22/HVCTQG ngày 03/11/1998 của Giám đốc Học viện


Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “V /v ban hành các quy chế học tập, công tác ở
các Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.”

- Quy chế chủ nhiệm lớp (dùng cho các lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo thuộc
các Trường Chính trị tỉnh, thành phố) ban hành bởi Quyết định số 254
QĐ/HVCTQG ngày 12/4/2004 của Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Hướng dẫn số 05/HD-VTCT ngày 29/9/1997 của Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh “Về thi đua trong công tác giáo dục đào tạo ở các
Trường Chính trị tỉnh, thành phố”.
- Quy chế tuyển sinh đào tạo TCHC và Quy chế thi tốt nghiệp, xét tốt
nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp TCHC ban hành kèm theo Quyết định số
224/HCQG-GV ngày 05/5/2000 của Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia.
- Quy chế học tập các khoá bồi dưỡng cán bộ, công chức và các khoá bồi
dưỡng khác của Học viện Hành chính Quốc gia, (tháng 4/2003).
- Quy định tạm thời về hoạt động chuyên môn, nghiên cứu khoa học
trong Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc ban hành kèm theo Quyết định số
29/QĐ-HT ngày 01/7/2003 của Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.
- Nội quy học viên của Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2.2. Thực trạng triển khai các hoạt động quản lý lớp của CNL.
* Việc thiết lập và kiện toàn hồ sơ chủ nhiệm: Theo hướng dẫn của Phòng
Đào tạo và thực tế triển khai công tác chủ nhiệm lớp tại Trường Chính trị tỉnh
Vĩnh Phúc thười gian qua thì mỗi giáo viên chủ nhiệm khi được phân công phụ
trách quản lý một lớp phải chuẩn bị 9 loại hồ sơ, tài liệu cơ bản sau đây:
Biểu số 03: Hồ sơ ban đầu của CNL ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.


Loại hồ sơ, tài liệu

TT

Quyết


định

S
TT

mở

Danh

sách

học

7

viên ban đầu
Phiếu đăng ký học

8

viên.
Danh

sách

học

viên hiện có

sơ, tài liệu


6

lớp

Loại hồ

Sổ

ghi

Sổ

ghi

điểm

đầu bài
Sổ điểm
danh
Sổ

9

chủ

nhiệm lớp

Danh sách trích
ngang học viên


Đối với CNL, do đặc thù các thường rất đông, nhiều lớp hơn 100 học
viên, do vậy, việc thiết lập đầy đủ và lưu giữ tốt các loại giấy tờ, tài liệu ban đầu
giúp giáo viên chủ nhiệm nắm bắt tình hình của lớp đầy đủ, chi tiết. Hiểu được
đặc thù của lớp mình được giao phụ trách là cơ sở thực tiễn cho việc nhanh
chóng ổn định tổ chức lớp đảm bảo quá trình học tập thuận lợi ngay từ đầu và
tìm ra các biện pháp quản lý phù hợp với đặc thù của từng lớp.


Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề này, lãnh đạo Nhà trường và
Phòng Đào tạo thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các CNL về vấn đề khẩn
trương xây dựng và củng cố hồ sơ CNL ngay từ ban đầu. Vấn đề hồ sơ chủ
nhiệm lớp cũng được đặc biệt quan tâm trong các cuộc họp Phòng Đào tạo, họp
giáo viên chủ nhiệm lớp. Các giáo viên CNL đều có ý thức trong việc đảm bảo
đúng các quy định của Nhà trường về mặt hồ sơ. Tuy nhiên, công việc của CNL
trong thời gian đầu rất bận rộn, phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp với nhiều
loại hồ sơ, giấy tờ khác nhau, liên qua đến nhiều đối tượng, đặc biệt phức tạp là
giải quyết những vướng mắc, thiếu sót trong hồ sơ học viên nên trên thực tế, đã
bộc lộ một số thiếu sót sau:
- Chưa khẩn trương phân tích đối tượng học viên trong lớp, đặc biệt là
chưa kịp thời phân tích cơ cấu nam, nữ, trình độ chuyên môn, chính trị, độ tuổi,
thành phần dân tộc, trong đảng, ngoài đảng.v.v.Nghĩa là chưa khai thác triệt để
ý nghĩa của các loại tài liệu mà CNL đã có trong tay để nắm chắc hiểu sâu về
đối tượng quản lý. Công việc này thường chỉ được chú ý triển khai khi cần các
số liệu để chuẩn bị báo cáo tổng kết lớp học.
- Một số loại tài liệu còn thiếu, chậm được cập nhật như danh sách trích
ngang, phiếu đăng ký học viên thường không được lưu trong hồ sơ mà nộp
thẳng về Phòng Đào tạo. Một số loại thì tuy có nhưng không được sử dụng triệt
để như sổ chủ nhiệm lớp.
- Một số loại tài liệu còn có nhiều những sai sót. Thường gặp là những

nhầm lẫn về ngày tháng năm sinh, tên đệm.v.v.trong danh sách học viên, danh
sách ký nộp bài kiểm tra, thi. Nhiều trường hợp trong danh sách học viên hiện
có vẫn để tên hàng chục học viên trên thực tế đã thôi học từ lâu, tức là chủ
nhiệm lớp không chú ý sửa đổi kịp thời, quản lý không khoa học làm cho việc
điểm danh, vào điểm, theo dõi của Phòng đào tạo gặp rất nhiều khó khăn.


- Cá biệt còn có trường hợp mặc dù lớp đã đi vào thực hiện kế hoạch học
tập và đã tiến hành làm bài kiểm tra nhưng CNL vẫn chưa làm xong danh sách
ký nộp bài, dẫn đến việc học viên nộp bài mà không được ký nộp, gây nhầm lẫn
vênh lệch giữa số học viên với số bài thu được, không có danh sách theo đúng
quy định để Phòng đào tạo vào điểm.
- Chưa chú ý đến việc thiết lập và lưu giữ danh sách kiểm tra, đối chiếu
bằng văn hoá của học viên ngay từ khi nhập học. Việc này thường bị kéo dài
trong suốt quá trình học do nhiều học viên bị mất hoặc xin nợ bằng.v.v.
Trong suốt quá trình thực hiện kế hoạch giảng dạy và học tập, việc củng
cố hồ sơ chủ nhiệm là một yêu cầu thường xuyên và thường xuất hiện nhiều loại
giấy tờ sau:
Biểu số 04: Các loại giấy tờ, tài liệu phát sinh trong quá trình quản lý lớp
của giáo viên chủ nhiệm ở Trường Chính trị tỉnh Vĩnh Phúc.

1. Danh sách điểm kiểm

12. Sơ đồ lớp

tra, thi các môn
2. Bản sao các loại văn
bằng chứng chỉ

13. Báo cáo lớp (theo

đợt)

3. Giấy xin phép nghỉ
học

lớp.
4. Đơn xin miễn học các

môn.

14. Tập lịch giảng của

15. DS thu tiền giáo
trình, tài liệu.


5. Quyết định cử CNL

16. DS thu học phí
(nếu có)

6. Quyết định cử Ban
Cán sự lớp

17. Các Nội quy, quy
chế của Trường

7. Biên bản duyệt kiểm
tra, thi


18. Bản kiểm điểm cá
nhân học viên

8. DS học viên thiếu

19. Biên bản coi thi

điểm theo môn

9. Đơn xin thôi học.

10. DS Trích ngang bổ
sung

20. Danh sách Ban cán
sự lớp
21. Danh sách các đối
tượng ưu tiên

11. DS học viên theo tổ

22. Báo cáo tổng kết

Như vậy, mỗi giáo viên chủ nhiệm thường phải lưu trong hồ sơ của một
lớp khoảng hơn 30 loại giấy tờ, tài liệu các loại. Điều này dẫn đến nhiếu khó
khăn cho CNL trong công tác bảo quản, lưu giữ và cung cấp thông tin nhanh
theo yêu cầu của lãnh đạo. Bên cạnh đó, căn cứ vào thực tế hiện nay, để đảm
bảo cho việc quản lý lớp của giáo viên chủ nhiệm được thuận lợi, có căn cứ



×