Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH huyện quảng XƯơng 20102014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.95 KB, 30 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH.....................An sinh xã hội
BHXH.....................Bảo hiểm xã hội
BHYT……………..Bảo hiểm y tế
NLĐ........................Người lao động
NSDLĐ...................Người sử dụng lao động
HTX………………Hợp tác xã
LLVT……………..Lực lượng vũ trang
UBND ……….Ủy ban nhân dân
BHTN ………..Bảo hiểm thất nhiệp
CN-VC……….Công nhân viên chức


LỜI MỞ ĐẦU
Suốt một chiều dài lịch sử , từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước đến
nay, nền kinh tế nước đã đạt được những thành tựu quan trọng.Thực hiện
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,dân chủ văn minh, mọi
người mọi nhà đều ấm nó hạnh phúc. Để thực hiện được mục tiêu trên và
nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của người lao động trong sự nghiệp
phát triển ngày từ khi thống nhất Đảng và nhà nước đã đang ra nhiều chính
sách thể hiện sự quan tâm đến người lao động trong đó có chính sách Bảo
hiểm xã hội.
Trong đời sống sinh hoạt và sản xuất hàng ngày, dù muốn hay không, lúc
này hay lúc khác và dù khoa học kỹ thuật có tiến bộ đến đâu đi nữa, người ta
vẫn phải gánh chịu những tổn thất - hậu quả do rủi ro, trong sự tác động của
các nguy cơ đưa tới .Dù luôn chú ý ngăn ngừa và để ý phòng ngừa nhưng con
người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra, bằng cách
này hay cách khác có người có thể vượt qua , có người không thể vượt qua
chính vì vậy bảo hiểm ra đời.Cùng với sự phát triển kinh tế là sự lớn mạnh
không ngừng của hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là chính sách Bảo hiểm xã
hội đã phát huy vai trò trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần tích


cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. BHXH hiện nay là một trong những chính sách
xã hội quan trọng của Đảng và nhà nước ta từ lâu đã được cụ thể hóa thực
hiện theo luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ giúp người lao
động đảm bảo cuộc sống của mình và gia đình khi có rủi ro xảy ra.
Kể từ khi ra đời đến nay, BHXH như một phần máu dự trữ quan trọng của
người lao động (NLĐ) ,người ta ví “cuộc sống không có BHXH như cầu thang
không có tay vịn”. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống
an sinh xã hội (ASXH) ,BHXH cũng được điều chỉnh , thay đổi để phối hợp với
nền kinh tế có quan hệ lao động đa dạng và phong phú như ở Việt Nam.Với
mục tiêu chính là ổn định đời sống cho người lao động gặp phải rủi ro và ổn
định chính trị-xã hội của đất nước,hoạt động và chính sách của BHXH góp


mặt quan trọng trong việc thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới
NLĐ.
Trong hoạt động BHXH thì công tác quản lý đối tượng tham gia có vai trò
hết sức quan trọng để duy trì họa động BHXH nói chung.Sự phát triển mở
rộng không ngừng của đối tượng tham gia đã đặt ra yêu cầu cao hơn cho các
cơ quan thực hiện BHXH trong công tác quản lý .Thực hiện tốt hoạt động ở
cấp huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cấp tỉnh nói riêng và của
cả hệ thống nói chung, bởi đây là cơ quan quản lý hầu hết các đối tượng
tham gia từ cấp huyện.Chính vì lý do này nên trong quá trình nghiên cứu về
quản trị BHXH tôi đã lựa chọn tìm hiểu đề tài : “ Thực trạng công tác quản
lý đối tượng tham gia BHXH ở huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa
giai đoạn 2010-2014 ” nhằm hiểu rõ hơn về công tác quản lý của huyện
Quảng Xương nói riêng và của các BHXH cấp huyện nói chung trong hệ thống
BHXH Việt Nam .Qua đó đóng góp một vài ý kiến và giải pháp để nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH .
Nội dung gồm 3 phần chính

Chương I : Lý luận chung về BHXH và quản lý đối tượng tham gia BHXH
Chương II : Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
tại BHXH huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2010-2014
Chương III : Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng
tham gia tại BHXH bắt buộc tại huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa.
Trong quá trình học tập, cũng như là trong quá trình làm bài tiểu luận,em
khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cô bỏ qua. Em xin chân thành cảm
ơn cô Mai Thị Dung đã giúp đỡ em trong quá trình học tập để em có thể hoàn
thành đề tài của mình. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm
thực tiễn còn hạn chế nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót,


em rất mong nhận được ý kiến đóng góp thầy, cô để em học thêm được nhiều
kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn các đề tài tiếp theo của mình
Em xin chân thành cảm ơn !

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH
1.1.Khái quát chung về BHXH
1.1.1.Khái niệm về BHXH
Trải qua một quá trình phát triển lâu dài, BHXH hiện nay đã trở thành một
chính sách lớn của mỗi quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam, chính sách
BHXH cũng đã được thể chế hóa và thực hiện theo quy định của Luật BHXH.
Cũng như các khía cạnh xã hội khác, BHXH được nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau như pháp luật,tài chính,...Do đó mà BHXH cũng có nhiều
điịnh nghĩa khác nhau.Một định nghĩa đơn giản nhất là “BHXH là sự chia sẻ
rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo về người lao động khi họ không còn khả
năng làm việc”.
Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO, BHXH có thể khái quát là “sự bảo vệ
của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công
cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm

thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương
tật, tuổi già và chết; đông thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia
đình đông con”.
Còn theo nghĩa hẹp, nghĩa thông dụng ở nước ta, có thể hiểu “BHXH là sự
đảm bảo bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho NLĐ khi bị ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết
...trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH” ( Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH 2001).


Từ các góc độ khác nhau thì có những khái niệm khác nhau về BHXH,
nhưng đều được xem xét trước hết là một hình thức bảo hiểm mang tính xã
hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự bảo hộ của Nhà nước, chủ yếu nhằm mục
đích đảm bảo thu nhập cho NLĐ và an toàn xã hội.
1.1.2.Vai trò của BHXH đối với đời sống, kinh tế - xã hội
a.Đối với người lao động
Mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo thu nhập cho NLĐ và gia đình họ
khi gặp những khó khăn trong cuộc sống lamg giảm hoặc mất thu nhập. Vì
vậy, BHXH có vai trò to lớn đối với NLĐ. Trước hết,đó là điều kiện cho NLĐ
được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn...Đông thời, BHXH cũng là cơ
hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của
các thành viên khác.
Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi dùng các nhân,
giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn đẻ có nguồn dự phòng cần thiết
chi dùng khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức lao động, ...gips phần
ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình. Nhờ có BHXH, cuộc sống của
những thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người tàn tật,
góa bụa,...cũng được đảm bảo an toàn. Đây không chỉ là nguồn hỗ trợ về mặt
vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn, giúp NLĐ ổn định về tâm
lý, yên tâm lao động sản xuất.
b.Đối với người sử dụng lao động

BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, nói chung, hay các doanh
nghiệp, nói riêng, ổn định hoạt động, ổn định sản xuất kinh doanh thông qua
việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Qua việc phân phối chi
phí cho NLĐ hợp lý, BHXH góp phần làm cho lực lượng lao đọng trong mỗi
đơn vị ổn định, sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả, các bên của quan
hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn.


Ngoài ra, BHXH tạo điều kiện để người sử dụng lao động (NSDLĐ) có
trách nhiệm với NLĐ, không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt
cuộc đời NLĐ, từ khi tham gia lao động đến khi hết tuổi lao động, qua đời.
Như vậy, BHXH làm co quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc.
c.Đối với Nhà nước
BHXH là một trong những bộ phận quan trọng giúp cho Ngân sách Nhà
nước giảm chi đến mức tối thiểu nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời
sống cho NLĐ và gia đình họ được phát triển an toàn hơn. Khi NLĐ hoặc
NSDLĐ gặp tai nạn rủi ro sẽ làm qua trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn,
năng suất lao động giảm xuống (cung hàng hóa nhỏ hơn cầu) làm tăng giá cả
thị trường và rất có thể dẫn đến tình trạng lạm phát, khi đó buộc Chính phủ
phải can thiệp điều tiết giá cả để ổn định đời sống của người dân.
Bên cạnh đó, BHXH còn có vai trò quan trọng trong việc tăng thu, giảm
chi cho Ngân sách Nhà nước, BHXH làm tăng thu cho Ngân sách nhà nước ,
BHXH góp phần kích thích NLĐ hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng
xuất lao động cá nhân nói riêng, đồng thời góp phần làm tăng năng xuất lao
động xã hội nói chung từ đó sản phẩm xã hội tạo ra ngày một tăng lên có thể
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra ngoài nước. Do
vậy, ngân sách Nhà nước tăng lên do có một khoản thu được thông qua việc
thu thuế từ các doanh nghiệp sản xuất nói trên.
d.Đối với xã hội
Trước tiên,vai trò BHXH đối với xã hội là tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng

cao tính cộng đồng xã hội, củng cố truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các
thành viên trong xã hội. Thông qua BHXH, rủi ro trong đời sống của NLĐ
được dàn trải thành nhiều chiều, tạo khả năng giải quyết hiệu quả nhất với
chi phí thấp nhất.


Ngày nay, BHXH đã trở thành phần cơ bản nhất trong hệ thống ASXH, là
cơ sở để phát triển các bộ phận ASXH khác. Mức độ phát triển của hệ thống
BHXH là căn cứ để đánh giá trình độ quản lý rủi ro và mức độ ASXH đạt được
trong mỗi quốc gia.BHXH còn là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã
hội của một quốc gia. Thông qua hệ thóng BHXH, trình độ tổ chức, quản lý rủi
ro xã hội của các Nhà nước cũng ngày càng được nâng cao.
1.2. Một số vấn đề về quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt
động nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí
vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và
hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng.
Quản lý còn là sự tác động có kế hoạch, sắp xếp có tổ chức, chỉ huy, điều
khiển, hướng dẫn, kiểm tra của các chủ thể quản lý (cá nhân hay tổ chức) đối
với các quá trình xã hội và hoạt động của con người, để chúng phát triển phù
hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra của tổ chức và đúng với ý chí của nhà
nước quản lý với chi phí thấp nhất.
Qua đó cho ta thấy rõ khái niệm quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã
hội Quản lý đối tượng tham gia BHXH là sự tác động có kế hoạch, có tổ chức
của cơ quan BHXH đối với quá trình tham gia.
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức
BHXH khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định
rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH
cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông

bù số ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc
rất quan trọng. Quản lí đối tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau:


+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp,
ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông
tin khác.
1.2.2. Đối tượng quản lý
a. Người lao động tham gia BHXH
Người lao động tham gia BHXH tuỳ theo loại hình BHXH do Chính phủ
quy định áp dụng trong từng thời kỳ.
- Người lao động tham gia hình thức BHXH bắt buộc: Theo quy định tại Điều
2 - Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và Thông tư số
03/2007/ TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007, đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc được quy định như sau: Người LĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân
Việt Nam, bao gồm:
+ Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức;
+ Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và HĐLĐ
không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật về LĐ;
+ Người LĐ, xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo
HĐLĐ từ đủ 3 tháng trở lên trong HTX, Liên hiệp HTX thành lập, hoạt động
theo Luật HTX;
+ Công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp
thuộc LLVT;


+ NLĐ theo quy định nói trên được cử đi học, thực tập, công tác trong và

ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công ở trong nước;
+ Người LĐ đã tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước
khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về NLĐ
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Bao gồm: Hợp đồng với tổ
chức sự nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài, doanh nghiệp đưa LĐ đi làm việc ở nước ngoài dưới hình
thức thực tập, nâng cao tay nghề và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam
trúng thầu, nhận thầu công trình ở nước ngoài; Hợp đồng cá nhân.
* Đối với quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng
lương như đối với quân nhân, công an nhân dân, được quy định tại Nghị định
số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 như sau:
+ Người lao động thuộc diện hưởng lương, bao gồm: Sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật Công an nhân dân; Người làm công tác cơ
yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân;
+ Người lao động thuộc diện hưởng trợ cấp, bao gồm:Hạ sĩ quan, binh sĩ
quân đội nhân dân;Hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân.
- Người lao động tham gia hình thức BHXH tự nguyện: là những công dân
Việt Nam, trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng áp dụng BHXH bắt
buộc.
b. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm:
+ Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp;


+ Các Công ty Nhà nước thành lập theo Luật doanh nghiệp Nhà nước đang
trong thời gian chuyển đổi thành Công ty TNHH hoặc Công ty Cổ phần theo
Luật doanh nghiệp;
+ Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước;
+ Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - XH, tổ chức chính trị XH - nghề nghiệp,

tổ chức XH - nghề nghiệp, tổ chức XH khác;
+ Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật;
+ Cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo; y tế;
văn hoá; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ
chăm sóc trẻ em và các ngành sự nghiệp khác;
+ Hợp tác xã, Liên hiệp HTX thành lập, hoạt động theo Luật HTX;
+ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử
dụng và trả công cho người LĐ theo quy định của pháp luật LĐ;
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam có sử dụng LĐ là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước
quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
* Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc đối với quân nhân, công
an nhân dân, người làm công tác cơ yếu, bao gồm:Các cơ quan, đơn vị thuộc
Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ;Cơ quan, tổ chức khác sử
dụng người làm công tác cơ yếu;Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ.
1.2.3. Phạm vi quản lý
- Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
trên địa bàn quản lý theo sự phân cấp quản lý;


- Quản lý người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc trong từng đơn
vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và người lao động
tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn quản lý theo sự phân cấp quản lý;
- Quản lý mức tiền lương hoặc tiền công đóng BHXH của những người lao
động tham gia BHXH bắt buộc và tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH
bắt buộc của các đơn vị sử dụng lao động;
- Quản lý mức thu nhập đăng ký đóng BHXH tự nguyện của người lao động
tham gia BHXH tự nguyện.
1.2.4. Nội dung quản lý đối tượng tham gia BHXH

- Quản lý danh sách lao động tham gia BHXH bắt buộc, BHYT bắt buộc, bảo
hiểm thất nghiệp trong từng đơn vị sử dụng lao động; danh sách điều chỉnh
lao động, mức lương đóng BHXH bắt buộc, BHYT bắt buộc, bảo hiểm thất
nghiệp (trường hợp tăng, giảm lao động và mức đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm
thất nghiệp).
- Quản lý danh sách lao động tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự nguyện.
- Quản lý mức tiền lương, tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng BHXH,
BHYT, bảo hiểm thất nghiệp. Bảng kê khai mức tiền lương, tiền công hoặc
mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp do đơn vị
sử dụng lao động, đơn vị quản lý đối tượng tham gia BHYT và người tham
gia lập theo mẫu quy định của BHXH Việt Nam.
- Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng
BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của từng đơn vị tham gia BHXH, BHYT,
bảo hiểm thất nghiệp. Bảng kê khai tổng quỹ tiền lương, tiền công… do đơn vị
quản lý đối tượng tham gia lập theo mẫu của BHXH Việt Nam.


- Quản lý mức đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của từng đơn vị và
từng người tham gia trên cơ sở danh sách tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm
thất nghiệp và bảng kê khai mức tiền lương, tiền công hoặc mức thu nhập
làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp do đơn vị sử dụng lao
động, đơn vị quản lý đối tượng tham gia BHYT lập.
- Cấp và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT cho người tham gia BHXH và hàng năm
ghi bổ sung vào sổ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp theo các tiêu thức ghi
trong sổ và quy định của pháp luật về BHXH.
- Tổ chức thu BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp.
1.2.5. Vai trò quản lý đối tượng tham gia BHXH
- Làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động thu BHXH đúng đối tượng, đủ số
lượng theo đúng quy định của pháp luật về BHXH và đúng thời gian quy định;
- Là điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tham gia BHXH của người lao động;

- Góp phần khai thác triệt để đối tượng tham gia BHXH, nhằm thực hiện mục
tiêu mở rộng phạm vi "che phủ" của BHXH theo chủ trương của nhà nước;
- Làm cơ sở giải quyết quyền lợi hưởng BHXH cho người lao động theo đúng
quy định của Luật BHXH;
- Góp phần tích cực vào việc phòng ngừa, hạn chế những hành vi vi pháp
pháp luật về BHXH.
1.2.6. Công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH
- Cơ sở pháp lý:
Hệ thống pháp luật là công cụ cơ bản và quan trọng để thực hiện việc quản lý
đối tượng tham gia BHXH. Bởi lẽ, đối tượng tham gia BHXH thường được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật.


- Thông qua hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH và các nhà quản trị BHXH
làm việc trong từng cấp quản trị của hệ thống tổ chức BHXH từ trung ương
đến địa phương.
Một cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH được thiết kế khoa học, có sự phân công,
phân cấp hợp lý, cụ thể, rõ ràng, cùng với sự phối hợp hoạt động một cách
nhịp nhàng, thống nhất sẽ là một trong những công cụ chính để thực hiện
việc quản lý đối tượng tham gia BHXH.
- Hồ sơ tham gia và thủ tục thực hiện:
Hồ sơ tham gia BHXH là những quy định về các loại văn bản giấy tờ cần thiết
và các thủ tục hành chính mà đối tượng tham gia BHXH phải thực hiện.
Trong đó, quy định rõ hồ sơ tham gia đối với người lao động và hồ sơ tham
gia đối với các đơn vị sử dụng lao động. Đây là một trong những công cụ
không thể thiếu đối với bất kỳ một hệ thống BHXH nào, cho dù BHXH ở các
nước phát triển cũng vậy.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ

ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH BẮT BUỘC TẠI
HUYỆN QUẢNG XƯƠNG - TỈNH THANH HÓA GIAI
ĐOẠN 2010-2014
2.1.Lịch sử ra đời và phát triển huyện Quảng Xương và cơ quan BHXH
Huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa
2.1.1. Huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa
Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển nằm cách trung tâm
Thành phố Thanh Hóa 8 km về phía Nam có vị trí tiếp giáp như sau: Phía Bắc
tiếp giáp Thành phố Thanh Hóa Phía Nam giáp huyện Tĩnh Gia và huyện
Nông Cống Phía Tây giáp huyện Đông Sơn Phía Đông giáp Thị xã Sầm Sơn,
biển Đông Phía Bắc huyện được bao bọc bởi dãy sông Mã, phía Tây sông nhà
Lê, phía Nam là sông Yên. Hệ thống đường giao thông tương đối thuận lợi,
Quốc lộ 1A chạy xuyên qua giữa huyện với chiều dài gần 20 km, phía Tây có
Quốc lộ 45 nối huyện với Thành phố Thanh Hóa và huyện Nông Cống, phía
Đông Bắc huyện có Quốc lộ 47 từ Thành phố Thanh hóa đi Thị xã Sầm Sơn.
Tình hình dân số Tổng dân số huyện Quảng Xương tính đến năm 2009 có
285560 người, trong đó: dân số nông thôn là 281650 người; dân số đô thị là
3910 người Quảng Xương có 41 đơn vị hành chính trong đó có 1 thị trấn 6.
Cơ cấu kinh tế Tổng giá trị thu nhập quốc dân: 2118.27 tỷ đồng, tốc độ tăng
trưởng kinh tế 13.8% Ngành nông, lâm ngư nghiệp: 44% Ngành tiểu thủ


công nghiệp và xây dựng cơ bản: 24% Dịch vụ thương mại: 32% Bình quân
thu nhập đầu người trên 10.22 triệu đồng/người/năm (2009).
Quảng Xương được xem là một huyện nghèo, đồng đất không mấy thuận lợi,
lại chịu nhiều thiên tai. Song, hiện nay, kinh tế của huyện vào diện khá của
tỉnh, GDP liên tục tăng qua các năm, thu nhập bình quân đầu người có mức
tăng khá (298,7 USD năm 2002), đời sống nhân dân ngày càng cải thiện.
Thêm nữa, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng
nông - lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ

thương mại. Sự đổi thay kỳ diệu đó có được là do Quảng Xương đã đổi mới tư
duy, đổi mới cách nghĩ, cánh làm. Quảng Xương đã từ lâu được coi là trọng
điểm lúa của tỉnh. Quảng Xương là một trong những huyện có tiềm năng về
thủy, hải sản. Hơn nữa, đồng thời là huyện có vị trí trọng yếu về an ninh quốc phòng của tỉnh. Đây là lợi thế đặc biệt quan trọng để thu hút đầu tư
phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng.
2.1.2. BHXH huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa
Bảo hiểm xã hội huyện Quảng Xương, đã hoạt động hơn 10 năm, BHXH
huyện Quảng Xương được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH
thuộc Phòng Tổ chức Lao động – Thương binh xã hội và Liên đoàn Lao động
huyện. Ngay từ khi thành lập về tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất ngành rất
khó khăn thiếu thốn. Trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nhiệm vụ về
chính sách BHXH không đồng đều, nơi làm việc chật chội, trang bị thiếu thốn,
công việc mới nên áp lực trong công tác rất lớn có lúc rất căng thẳng song
ngành BHXH huyện Quảng Xương đã vượt lên khó khăn vất vả, đoàn kết cùng
thống nhất, nhận thức là muốn thực hiện chính sách BHXH phải làm thật tốt
công tác giải quyết Chính sách BHXH cho người làm việc trong các cơ quan
đơn vị đã đủ điều kiện hưởng BHXH. Chính từ làm tốt công tác này một mặt
đảm bảo quyền lợi cho người lao động mặt khác tạo lập niềm tin cho người


là đối tượng BHXH và làm chuyển biến về nhận thức cho người lao động đã,
sắp và sẽ tham gia BHXH.
Dưới sự hỗ trợ nhiệt tình từ các ban ngành, địa phương,cũng như
được BHXH cấp tỉnh quan tâm về cơ sở vật chất. Đến nay, trụ sở của BHXH
huyện Quảng Xương được xây dựng tương đối khang trang, các bộ phận
chức năng được sắp xếp theo một hệ thống hợp lý. Các bộ phận đều được
trang bị máy tính phục vụ cho công việc được nhanh chóng và đạt hiệu quả
cao, mỗi cán bộ được trang bị một máy tính riêng và máy in, phần mềm phục
vụ cho công việc tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lưu trữ hồ sơ, cho việc
chi trả cho các chế độ…

So với những ngày đầu mới thành lập thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
chính trị của đội ngũ cán bộ của của đơn vị được nâng lên rõ rệt để bắt kịp
với xu hướng phát triển chung của xã hội. Công tác tổ chức cán bộ, đào tạo
bồi dưỡng là một trong những yếu tố quyết định đối với việc tổ chức và thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà cấp trên giao.
2.2. Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại
huyện Quảng Xương – Tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2010-2014
2. 2.1.Tình hình thực hiện quản lý đối tượng tham gia tại BHXH huyện
Quảng Xương –Tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2012-2014
Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển của Thanh Hóa,kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp , lại chịu ảnh hưởng hậu quả của thiên tai bão lụt. Đây
cũng là huyện có số lượng đối tượng chính sách lớn với hơn 9000 đối tượng,
việc phát triển kinh tế trên địa bàn huyện còn gập nhiều khó khăn.Bên cạnh
đó tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm 27,3% trên địa bàn tỉnh Thanh hóa, cũng bởi vậy
nhận thức của một bộ phận người dân, tổ chức về các chính sách bảo hiểm
chưa sâu; chưa có thói quen tham gia các loại bảo hiểm, kể cả bảo hiểm được
miễn phí như y tế đối với khu vực vùng khó khăn… dẫn đến khó khăn trong


việc thực hiện mục tiêu an sinh xã hội, BHXH trên địa bàn. Quản lý danh sách
đối tượng tham gia là một trong những vấn đề mấu chốt trong quản lý đối
tượng tham gia BHXH. Xác định được điều này, trong những năm qua, BHXH
huyện Quảng Xương đã tập trung thực hiện có hiệu quả nhiều biện pháp như:
chủ động phối hợp với các ban, ngành chức năng kịp thời xử lý các vướng
mắc ở cơ sở, tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng lao động tham gia thực hiện
tốt chế độ, chính sách BHXH cho người lao động. Đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền chế độ, chính sách BHXH theo cơ chế mới. Nhờ đó đã thu
được những kết quả khả quan. Một trong các mục tiêu của BHXH huyện
Quảng Xương là quản lý cho được các đối tượng tham gia BHXH phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ mà BHXH tỉnh Thanh Hóa giao phó. Tình hình tham gia

BHXH của BHXH huyện Quảng Xương giai đoạn 2010-2014 được thể hiện qua
bảng thống kê sau đây:
Bảng 1. Số người tham gia BHXH tại huyện Quảng Xương ( giai đoạn
2010-2014)
Đơn vị : người

Chỉ tiêu

Năm

BHXH bắt buộc
BHXH tự nguyện
BHXH khác
Tổng

2010

2011

2012

2013

2014

647
132
25
804


952
362
124
1438

1242
407
155
1804

1341
499
178
2018

1661
702
199
2512

(Nguồn : Báo cáo tổng kết các năm 2010-2014 của Bảo hiểm xã hội huyện Quảng Xương )

Biểu đồ 1: Số lượng người tham gia BHXH tại huyện Quảng Xương
( giai đoạn 2010-2014)


*Tình hình cấp, quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT
Việc cấp và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT được BHXH huyện Quảng Xương
tiến hành theo đúng quy định của Luật. Trong giai đoạn 2010-2014,
100% lao động tham gia BHXH bắt buộc và tự nguyện được cấp sổ

BHXH. Cụ thể: Đối với BHXH bắt buộc:
- Năm 2010, có 647 lao động tham gia BHXH bắt buộc , số sổ BHXH được cấp
là 647 sổ, đạt 100%
- Năm 2011, có 952 lao động tham gia BHXH bắt buộc , số sổ BHXH được cấp
là 2506 sổ, đạt 100%
- Năm 2012, có 1242 lao động tham gia BHXH bắt buộc , số sổ BHXH được
cấp là 1242 sổ, đạt 100%
- Năm 2013, có 1341 lao động tham gia BHXH bắt buộc, số sổ BHXH được cấp
là 1341 sổ, đạt 100%
- Năm 2014, có 1661 lao động tham gia BHXH, số sổ BHXH được cấp là 1661
sổ, đạt 100%
Số thẻ BHYT tương ướng với số sổ BHXH bắt buộc qua các năm 2012-2014
Đối với BHXH tự nguyện: Tính đến cuối năm 2014 đã có 702 người tham
gia, tổng số sổ tính đến thời điểm này cũng là 702, đạt 100%.


Theo con số thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có khoảng 6.015 doanh
nghiệp đăng ký hoạt động, thu hút khoảng 145.271 lao động nhưng
mới chỉ có 2.073 doanh nghiệp tham gia BHXH (chiếm 34% tổng số
doanh nghiệp hoạt động), với 100.079 lao động (chiếm 68,9% tổng số
lao động thuộc diện tham gia BHXH). Như vậy, còn 3.942 doanh nghiệp
(chiếm 65,5%), với 45.192 lao động (chiếm 31,1%) chưa được tham
gia BHXH




Tính đến ngày 23/6/2011, BHXH huyện Quàng Xương đã thu đạt 12,2
tỷ đồng, đạt 32,3 % kế hoạch giao năm 2011. Hiện nay lãnh đạo BHXH
Quảng Xương tiếp tục phân công, chỉ đạo anh em cán bộ CC-VC trong

cơ quan tích cực đi đôn đốc, nhắc nhở các đơn vị nộp tiền đóng BHXH,
BHYT, BHTN của 6 tháng đầu năm; kiên quyết không để xảy ra nợ đọng
tiền BHXH ở các đơn vị sử dụng lao động.

57 đơn vị tham gia BHXH, BHYT bắt buộc, với 6.253 lao
động; số thu BHXH, BHYT, BHTN là 289 tỷ đồng, đạt 93.3% so
với kế hoạch được giao; cấp mới 2452 sổ BHXH và 102.445 thẻ
BHYT; chi trả hàng tháng cho 36.597 người với tổng số tiền
trên 1,7 tỷ đồng; chi trợ cấp ngắn hạn cho gần 10 ngàn lượt
người với tổng số tiền là 49 tỷ đồng; chi trợ cấp BHXH một lần
cho 8.971 người với tổng số tiền là 126 tỷ đồng; chi trợ cấp
BHTN cho 3.514 người với tổng số tiền là 116 tỷ đồng; phối hợp
với các cơ sở y tế thực hiện KCB BHYT cho 437.880 lượt người
với tổng số tiền là 137 tỷ đồng; tiếp nhận và xét duyệt 1.778 hồ
sơ hưởng chế độ BHXH dài hạn và 6.442 hồ sơ hưởng chế độ
BHXH một lần.
( Theo báo cáo tổng kết tình hình thực hiện BHXH huyện Quảng Xương )

2.2.2. Quản lí số đơn vị tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn.
Do điều kiện kinh tế cũng như điều kiện địa hình nên quản lí đơn vị
tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn còn gặp khá nhiều khó khăn.
Số đơn vị có lao động tham gia BHXH trên địa bàn được tổng hợp
qua bảng sau:
Bảng 2:Tình hình tham gia BHXH của các đơn vị
có lao động BHXH bắt buộc trên địa bàn (2010-2014).
Đơn vị:đơn vị
Năm
2010

Nội dung


Năm
2011

Năm
2012

Năm
2013

Năm
2014

- Khu vực Doanh nghiệp nhà nước

10

10

10

10

12

- Khu vực Hành chính sự nghiệp

52

64


73

87

101


- Khu vực xã Phường

29

29

29

29

24

- Cơ sở ngoài công lập

10

10

11

11


13

(Nguồn : BHXH Tỉnh Thanh Hóa)

Dựa theo số liệu thống kê bảng 2.2.2.1 thấy rằng
-Số đơn vị có người lao động tham gia BHXH bắt buộc
trong khu vực doanh nghiệp nhà nước,khu vực xã thị trấn không
thay đổi qua các năm từ năm 2010-2014. Cụ thể,khu vực doanh
nghiệp nhà nước:10 đơn vị,khu vực xã,thị trấn là 29 đơn vị.

-Đơn vị tham gia BHXH bắt buộc thuộc khu vực hành
chính sự nghiệp tăng. Cụ thể,năm 2010 là 52 đơn vị đến tăng
2014 là 101 đơn vị tăng 49 đơn vị tương ứng với tăng 1,94%.

-Đơn vị tham gia BHXH bắt buộc thuộc các cơ sở ngoài
công lập giảm.Cụ thể,năm 2010 là 10 đơn vị đến năm 2014 là 13
đơn vị ,tăng 3 đơn vị tương ứng với tăng 1,3%.


2.2.2. Đánh giá tình hình thực hiện
Theo báo cáo của BHXH huyện Quảng Xương, số lao động tham gia BHXH có
xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 2010 cả huyện chỉ có 132 người tham
gia BHXH tự nguyện, bởi vì BHXH tự nguyện là chính sách mới và công tác
tuyên truyền chưa được chú trọng, ít người biết. Giai đoạn 2011-2014, số
lượng người tham gia ngày càng được mở rộng, tốc độ phát triển đối tượng
tham gia BHXH 2010-2014 tính theo năm tăng 90,41%. Tuy nhiên, tỷ lệ
người tham gia BHXH tự nguyện vẫn còn rất thấp so với tổng số đối tượng
thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện nói riêng và BHXH nói chung.
Qua bảng số liệu ở trên, ta có thể thấy: tổng số đối tượng trong
danh sách quản lý đối tượng tham gia BHXH các loại ở huyện Quảng

Xương trong giai đoạn 2010-2014 liên tục tăng qua các năm (nếu
năm 2010 số lượng người tham gia chỉ 804 thì đến 2014 số lượng đối
tượng tham gia la 2512 tăng 1708 người ,tăng 3,12 lần ) nhờ các biện
pháp tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia mà BHXH
huyện Quảng Xương đã thực hiện thì số lượng người tham gia bảo
hiểm xã hội tăng dần.


2.2.3. Một số hạn chế trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH
huyện Quảng Xương
Bên cạnh những kết quả đã đạt được ở trên, công tác quản lý đối tượng
tham gia BHXh còn nhiều hạn chế cần được giải quyết.




Sự khác nhau về nhu cầu tham gia BHXH tự nguyện của người lao

động
Lý do không tham gia BHXH tự nguyện của người lao động (H.2)

Không cần BH

11%

Không tin tưởng

27%

Không hiểu


59%

Thủ tục rườm rà

65%

Mức đóng cao
Việc làm không ổn định

67%
82%

82%

Nguồn :Tổng hợp số liệu điều tra và tính toán

Về lý do không tham gia BHXH tự nguyện, theo đánh giá của người lao động
trong vùng nghiên cứu, có 7 nguyên nhân chủ yếu (Hình 2). Đó là, việc làm
không ổn định và thu nhập thấp (82%), mức phí đóng bảo hiểm cao (67%),
thời gian để đươc hưởng thụ chế độ khá dài (58%), thủ tục để tham gia còn
rườm rà, phức tạp và chưa linh hoạt (65%), thiếu thông tin (56%), không tin
tưởng (27%), không cần bảo hiểm (11%). Có nhiều nguyên nhân khiến tỷ lệ
người tham gia BHXH tự nguyện đạt thấp.
Có thể giải thích những nguyên nhân chủ yếu là: Trước tiên, thu nhập thấp và
không ổn định là nguyên nhân chính khiến cho người lao động khó tiếp cận
được với BHXH tự nguyện là thu nhập của đối tượng này còn thấp so với mức
đóng bảo hiểm, nhất là đối với khu vực miền núi và trung du. Cụ thể, với hình
thức BHXH tự nguyện, mức phí phải đóng ít nhất là 22% mức lương tối thiểu



và theo mức lương mới nhất 1.150.000 đồng/tháng (từ ngày 01/01/2014)
thì số phí bảo hiểm phải đóng là khoảng 253.000 đồng/ tháng. Đây là số tiền
không nhỏ đối với người lao động. Trong khi đó theo khoản 2, Điều 70 Luật
BHXH tự nguyện quy định người lao động phải có đủ sau 20 năm đóng bảo
hiểm xã hội mới được thụ hưởng lương hưu nên nhiều người chưa tin tưởng
và chưa có động lực mạnh mẽ để thúc đẩy họ tham gia BHXH tự nguyện.
Tiếp đến, do đây là chủ trương mới nên người dân chưa quan tâm nhiều và
nhận thức đầy đủ về loại hình này; công tác tuyên truyền, vận động, triển
khai ở nhiều xã chưa sâu rộng, thiếu đồng bộ, chưa có hình thức phù hợp để
tác động đến đối tượng. Hơn nữa, lượng cán bộ phụ trách BHXH tự nguyện
còn quá mỏng, chưa có cán bộ chuyên trách cấp xã hay các đại lý thu BHXH
tự nguyện, chủ yếu là cán bộ Hội Nông dân kiêm nhiệm trong khi đó chưa có
kinh phí để trả thù lao cho họ nên việc đi khai thác đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện còn nhiều hạn chế.
cơ quan BHXH tỉnh chưa điều tra được toàn diện đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện nên chưa nắm được tình hình cụ thể về tiềm
năng tham gia BHXH tự nguyện của người dân; chưa có giải pháp
tích cực trong triển khai thực hiện BHXH tự nguyện cũng như biện
pháp mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn
huyện, xã. Vì vậy, số người lao động tham gia BHXH tự nguyện đã
tăng lên nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đối tượng
thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn tỉnh
Tồn tại về đội ngũ cán bộ BHXH. Mặc dù phần lớn cán bộ, nhân viên đã




được đào tạo, nhưng để thích ứng với công nghệ mới thì tương đối
khó khăn, nhất là đối với những cán bộ ở tuổi trung niên. Cho nên, đôi



khi trong công tác quản lý vẫn gặp phải những sai sót nhỏ.
Thủ tục tham gia BHXH tự nguyện còn phức tạp; thái độ phục vụ của
một số cán bộ công nhân, viên chức chưa được tốt, gây khó khăn trong
quá trình xin giấy chứng nhận, làm giấy tờ thủ tục, làm việc còn hách
dịch, quan liêu, thậm chí lợi dụng vai trò, nhiệm vụ của mình để nhũng



nhiễu gây cản trở cho người dân đến làm thủ tục
Quy mô và số lượng người tham gia BHYT trên địa bàn chưa tương
xứng với tiềm năng; việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT còn thấp,


nhất là nhóm đối tượng cận nghèo, HSSV.Cùng với đó, trong những
tháng đầu năm nay, việc triển khai BHYT theo hộ gia đình còn có
những vướng mắc do nhận thức của người dân về quyền lợi và nghĩa
vụ, tính cộng đồng và sự chia sẻ khi tham gia BHYT còn hạn chế; thu
nhập của một bộ phận người dân thấp… nên việc bắt buộc tham gia
BHYT cho tất cả thành viên trong hộ gặp khó khăn. Song, tổng cộng
qua 6 tháng triển khai, toàn tỉnh Thanh Hoá đã tăng 4.935 người




tham gia BHYT theo hộ gia đình
Theo BHXH Thanh Hoá, việc mở rộng đối tượng tham gia BHYT theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT trên địa bàn còn gặp
những vướng mắc. Theo quy định, UBND xã phường có trách nhiệm

lập danh sách các nhóm đối tượng tham gia BHYT trên địa bàn chuyển
cơ quan BHXH cấp thẻ BHYT. Dù đây là công việc mới, khó khăn và
phức tạp với các xã, nhưng đến nay chưa có hướng dẫn về quy trình,
thủ tục hồ sơ, phần mềm tin học để triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, việc người nghèo, người cận nghèo tham gia BHYT được
ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng đã được quy định tại Điều 5
Thông tư 41/2014/TTLT-BYT-BTC; thời gian và kinh phí thanh toán
cho cơ quan BHXH cũng được quy định tại Khoản 3, Khoản 7 Điều 3
Thông tư số 41/2014, nhưng Sở LĐ-TB&XH tỉnh lại cho rằng thời gian
và kinh phí thanh toán cho cơ quan BHXH không có quy định tại
Thông tư số 41. UBND các huyện phải xin ý kiến của Sở Tài chính để
thực hiện. Chính vì vậy, hiện nay tại nhiều huyện trong tỉnh, BHXH
huyện và cơ quan quản lý đối tượng người nghèo, cận nghèo chưa ký
được hợp đồng để cấp thẻ BHYT cho nhóm đối tượng này.

Cùng với đó, cơ quan BHXH đã nhiều lần đề nghị nhưng vẫn chưa nhận được
sự chỉ đạo triển khai, phối hợp từ các ngành nên người dân sống ở vùng có
điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn tại Thanh Hoá vẫn chưa được cấp
thẻ BHYT (Thanh Hoá có 114 xã với 737 thôn thuộc vùng đặc biệt khó khăn
được Nhà nước hỗ trợ 100% mức đóng BHYT).
Theo Thông tư số 22/2014 của Bộ LĐ-TB&XH, người thuộc hộ gia đình làm
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình (quy định tại Quyết định
số 32/2014/QĐ-TTg) được ngân sách hỗ trợ 30% mức phí khi tham gia
BHYT. Tuy nhiên, đến nay cơ quan BHXH chưa nhận được danh sách phê


duyệt cũng như mức hỗ trợ và nguồn ngân sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện
cho nhóm này được tham gia BHYT.
+ Cơ quan BHXH tỉnh chưa điều tra được toàn diện đối tượng tham gia BHXH
tự nguyện nên chưa nắm được tình hình cụ thể về tiềm năng tham gia BHXH

tự nguyện của người dân
Ngoài ra, tình trạng trục lợi bảo hiểm với sự tham gia của nhân viên BHXH
tỉnh cũng là một thách thức lớn. Các nhân viên BHXH có thể tiếp tay cho các
đơn vị SDLĐ trong việc khai giảm số lao động đang làm việc tại doanh
nghiệp, khai giảm quỹ tiền lương của doanh nghiệp,... gây ảnh hưởng không
nhỏ đến việc quản lý đối tượng tham gia và quản lý quỹ lương.
Hơn thế nữa, việc cấp và quản lý sổ BHXH vẫn còn nhiều bất cập. Tình
trạng các cán bộ, nhân viên cơ quan BHXH không kịp thời ghi các thông tin
mới phát sinh vào sổ BHXH cho NLĐ diễn ra khá phổ biến. Việc quản lý sổ
BHXH cũng chưa thực sự hiệu quả, tình trạng thất lạc sổ của người tham gia
BHXH vẫn còn tồn tại, gây khó khăn cho công tác giải quyết chế độ sau này.
Thông qua bảng số liệu cũng cho thấy, công tác thông tin tuyên truyền về
chính sách BHXH chưa được quan tâm đúng mức. Do nhận thức về BHXH
còn mơ hồ nên nhiều cơ quan, đơn vị không tham gia BHXH cho người lao
động dẫn đến quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Một số cơ quan, đơn vị còn xảy
ra tình trạng nợ tiền BHXH vì thế người lao động khi ốm đau, thai sản, nghỉ
chế độ đã không được cơ quan BHXH trợ cấp, thanh toán, quyền lợi của
người lao động bị vi phạm.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn 1 số doanh nghiệp nợ đọng BHXH.Nguyên
nhân dẫn đến việc nợ đọng BHXH đối với người lao động ở các đơn vị, phần
do những doanh nghiệp gặp khó khăn chưa có khả năng thanh toán. Ngoài
ra, nhiều chủ doanh nghiệp không tuân thủ pháp luật về BHXH, có khả năng
về tài chính nhưng vẫn cố tình nợ đọng, chây ì. Một số đơn vị dùng Ngân sách
Nhà nước phần đóng BHXH nhưng không đóng mà để lại sử dụng vào mục
đích khác.


Theo đánh giá thì tình hình nợ đọng BHXH trên là nghiêm trọng, xâm hại
trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, gây khó khăn trong quản lý quỹ
và là nguyên nhân khiếu kiện đòi quyền lợi của người lao động, tiềm ẩn bất

ổn xã hội.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM
GIA BHXH HUYỆN QUẢNG XƯƠNG –TỈNH THANH
HÓA
.
3.1. Chỉ đạo từ các cấp


UBND tỉnh Thanh Hóa chỉ đạo các địa phương, các ngành tạo điều kiện
thuận lợi để người dân tham gia và được hưởng đầy đủ quyền lợi
BHYT; huy động mọi nguồn lực để hỗ trợ cho người dân tham gia
BHYT.

Trước mắt, hỗ trợ 30% mức đóng BHYT còn lại cho người thuộc hộ gia đình
cận nghèo, vận động và hỗ trợ để học sinh, sinh viên, hộ gia đình có mức sống
trung bình mua BHYT. Tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật về
BHYT.
Định kỳ 6 tháng, BHXH tỉnh chủ trì, phối hợp với UBND các huyện, thị xã,
thành phố tổng hợp báo cáo kết quả về Sở Y tế để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh
và Bộ Y tế. Thông qua công tác khám bệnh, các phòng ban chức năng và qua
các hội nghị, hội thảo để triển khai công tác BHYT. Đối với các đơn vị khi đã
giao chỉ tiêu đưa vào tiêu chí phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đưa vào


×