Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI DỰ THI EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH NĂM 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.65 KB, 21 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU
Em yêu lịch sử Xứ Thanh
Họ và tên: Lương Thị Hương Giang
Dân tộc : Thái
Học sinh : Lớp 8
Trường Tiểu học & THCS Tân Bình, huyện Như Xuân
Câu 1: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu (tức
Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Trả lời:
Thanh Hoá ở Bắc Trung Bộ, điểm cực Bắc của Thanh Hoá cách thủ đô Hà
Nội 150 km. Phía Tây Thanh Hóa giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
với chiều dài đường biên giới 192 km chạy qua những vùng núi cao hiểm trở.
Phía Bắc giáp tỉnh Ninh Bình, Hòa Bình và Sơn La với chiều dài địa giới 175
km. Phía Nam giáp tỉnh Nghệ An với đường địa giới dài hơn 160km và phía
Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 102km. Suốt chiều dài của lịch sử Tổ
quốc, Thanh Hóa là một địa phương tương đối ổn định về mặt địa giới hành
chính. Vùng đất này là địa bàn sinh tụ của 7 tộc người anh em: Kinh, Mường,
Thái, Dao, Mông, Thổ và Khơ Mú mà mỗi tộc người mang một sắc thái riêng,
tạo nên bức tranh lung linh đa sắc mầu của văn hóa xứ Thanh.

Thanh Hoá cũng là vùng đất truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cường, nơi
phát tích của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Vùng đất đã gắn liền với
1


quá trình tồn vong, hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Người xứ Thanh xưa và
nay đã viết nên nhiều trang sử hào hùng của dân tộc, được lưu danh bởi các
tên tuổi như: Triệu Thị Trinh, Lê Hoàn, Lê Lợi, Dương Đình Nghệ, Ngô
Quyền... và các vương triều trong lịch sử dân tộc như vương triều Lê (tiền Lê,


hậu Lê), Hồ, Nguyễn. Không những vậy vùng đất "địa linh" này còn sản sinh
ra những dòng Chúa nổi danh. Chúa Trịnh với 249 năm có mặt trên chính
trường Đại Việt đã song hành cùng vua Lê dựng đặt kỷ cương phép nước,
chúa Nguyễn bắt đầu từ Nguyễn Hoàng đã có công mở cõi về phía Nam, ổn
định đồ bản và giữ vững chủ quyền dân tộc suốt các thế kỷ XVII, XVIII, để rồi
các vua Nguyễn tiếp nối, thống nhất đất nước. nói đến công lao vĩ đại của ông
xuyên suốt quá trình đấu tranh và xây dựng đất nước là đại đoàn kết dân tộc.
Không chỉ là quê cha đất tổ của "Tam vương nhị chúa", Xứ Thanh còn
là vùng đất hiếu học. Trong dòng chảy của lịch sử khoa bảng nước nhà, vùng
đất này đã có 1627 các nhà khoa bảng, trong đó có 240 tiến sĩ, với nhiều tên
tuổi được lưu danh muôn thuở trên các lĩnh vực văn hóa, sử học, quân sự, ngoại
giao nổi tiếng như: Khương Công Phụ, Lê Văn Hưu, Đào Duy Từ...
Trong quá trình học tập, tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, đặc biệt là lịch sử
Thanh Hóa; trải qua các triều đại vua, chúa, ấn tượng sâu sắc nhất là người anh
hùng áo vải Lê Lợi.
Lê Lợi là một trong những anh hùng lớn của dân tộc, không chỉ ở công
đánh đuổi giặc Minh xâm lược nước ta mà con mở ra một kỉ nguyên mới cho
nhân dân, bởi triều Lê là một trong những triều đai hưng thịnh mà đỉnh cao là
vua Lê Thánh Tông một vị vua đựơc rất nhiều sách sử ca ngợi.
- Lê Lợi là một vị anh hùng yêu nước thương dân: theo tác phẩm "Bình ngô
đại cáo" của Nguyễn Trãi thì cuộc khởi nghĩa của lê lợi bước đầu gặp rất nhiều
khó khăn nhưng bằng ca tấm lòng yêu nước của minh Lê Lợi đã vượt lên tất cả
và đã giành thắng lợi. Hơn thế nữa, theo người xưa kể lại rằng trong quá trình
đánh giặc dù khó khăn nhưng ông có truyền lệnh rằng bất cứ binh lính nào
cũng không được cướp bóc của cải của nhân dân, vì vậy khi quân lính của ông
đi đến đâu đều nhận được tình cảm của nhân dân
Từ khi phất cờ khởi nghĩa, Lê Lợi đã kêu gọi và tập hợp được các tầng lớp
nhân dân, từ những người nông dân, tiểu thương cho đến vương hầu, quý tộc,
từ kinh thành đến đồng bằng, miền núi, miền xuôi, miền biển, các tôn giáo,
các dân tộc

Tất cả đều hướng về nghĩa quân Lam Sơn, dưới lá cờ đại nghĩa đồng lòng
đứng dậy kháng chiến chống giặc Minh xâm lược. Với dũng khí và uy tín cao
của Lê Lợi, thanh thế cuộc khởi nghĩa đã lan tỏa rộng lớn, khơi dậy lòng yêu
nước, thương nòi, thu hút nhân dân và anh hùng, hào kiệt có tài văn, võ cả
2


nước, đoàn kết một lòng dũng cảm chiến đấu đánh đuổi quân Minh tàn bạo
như: Nguyễn Trãi đến từ Thăng Long, Nguyễn Xí đến từ Nghệ An, Trần
Nguyên Hãn đến từ Vĩnh Phúc, Trịnh Lôi đến từ Hà Nam, Bùi Quốc Hưng đến
từ Hà Sơn Bình, Lưu Nhân Chú đến từ Thái Nguyên,...
Trong những lúc thuận lợi cũng như những lúc khó khăn "nghìn cân treo
sợi tóc" của cuộc chiến tranh giải phóng, nhân dân ta đã tình nguyện cống hiến
tiền của và tính mạng, tự nguyện hy sinh vì sự nghiệp độc lập dân tộc.
Ðại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Nhân dân trong cõi tranh nhau đến
cửa quân xin liều chết đánh giặc" với phương châm lấy ít địch nhiều, lấy yếu
thắng mạnh, Lê Lợi đã căng địch ra mà đánh, cụm địch lại khi cần thiết mà tiêu
diệt và cứ như thế sức mạnh của nghĩa quân dần dần lớn mạnh, mở rộng ra cả
nước với thế chẻ tre chưa từng có trong lịch sử dân tộc thời bấy giờ.

( Lê Lợi 1385 – 1433)
Trong mười năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo
nghĩa quân đánh thắng nhiều trận lớn, làm kẻ thù kinh hoàng bạt vía, quân
tướng hỗn loạn, từ đạo quân này đến đạo quân khác lần lượt đầu hàng, kết thúc
là chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang lẫy lừng, chém đầu tướng giặc Liễu
Thăng, buộc chủ tướng giặc là Vương Thông cùng đạo quân Minh bại trận phải
dự Hội thề Ðông quan ngày 29-12-1427 xin rút quân về nước và đến ngày 3-11428 trên toàn cõi giang sơn Ðại Việt sạch bóng quân xâm lược.
3



Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế ngày 15-4 năm Mậu Thân 1428 tại
Ðiện Kính Thiên, lấy hiệu là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Vân Anh Vũ Ðại
Vương", đặt tên nước là Ðại Việt, đóng đô tại Ðông Ðô (Hà Nội). Ðánh dấu
một thời kỳ mới kiến quốc, lập ra những chính sách cai trị về kinh tế - xã hội
cho nước Ðại Việt. Sự nghiệp của Lê Lợi đã được Ức Trai Nguyễn Trãi nêu bật
trong áng hùng thư Bình Ngô Ðại cáo được coi như một bản tuyên ngôn độc
lập của nước ta thời bấy giờ.
Ðại Việt sử ký toàn thư đã chép về ông: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến
khi mất, thi hành chính sự thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ
nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện thu
thập sách vở, mở mang trường học...". vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo nghĩa
quân đánh thắng nhiều trận lớn, làm kẻ thù kinh hoàng bạt vía, quân tướng hỗn
loạn, từ đạo quân này đến đạo quân khác lần lượt đầu hàng, kết thúc là chiến
dịch Chi Lăng - Xương Giang lẫy lừng, chém đầu tướng giặc Liễu Thăng, buộc
chủ tướng giặc là Vương Thông cùng đạo quân Minh bại trận phải dự Hội thề
Ðông quan ngày 29-12-1427 xin rút quân về nước và đến ngày 3-1-1428 trên
toàn cõi giang sơn Ðại Việt sạch bóng quân xâm lược.
Lê Lợi mất ngày 22-8 năm Quý Sửu 1433, hưởng thọ 49 tuổi.
630 năm đã qua, nhưng bài học của cuộc kháng chiến thần thánh giải
phóng dân tộc do người Anh hùng Lê Lợi phát động và lãnh đạo đã chứng minh
một thiên tài kiệt xuất về quân sự, chính trị, ngoại giao đã đạt tới đỉnh cao,
được kết tinh bởi sức mạnh tổng lực của toàn dân tộc cho thắng lợi cuối cùng.
Lê Lợi đã đề ra kế sách chiến lược trường kỳ kháng chiến, biết vận dụng đúng
thời cơ xuất phát từ thế và lực của ta và địch để định hướng tổ chức chiến đấu
lâu dài, cho thấy trí tuệ và khả năng tổ chức thiên tài của ông trong việc quy tụ
và dùng người, tạo nên được sự đồng lòng, xả thân vì nước. Không những là
một nhà chính trị, nhà chỉ huy quân sự thiên tài, ông còn là nhà ngoại giao lỗi
lạc. Ðể lấy ít thắng nhiều, ngoài việc sử dụng sách lược chiến thuật tiêu hao lực
lượng địch trong mọi tình huống, ông còn dùng kế sách thuyết phục địch đầu
hàng và khi giặc thua trận thì cấp thuyền, lương thực cho địch về nước, tránh

tổn hao xương máu quân, dân, đồng thời cũng giữ được hòa bình bền vững, thể
hiện được tinh thần nhân đạo truyền thống của dân tộc. Những di sản về tư
tưởng và khí phách của ông vẫn còn sống động mãi trong lịch sử và trong lòng
nhân dân. Ðồng hành tư tưởng cùng ông trong cuộc trường kỳ kháng chiến ấy
có những nhân tài kiệt xuất của Ðại Việt, trong đó nổi bật là Nguyễn Trãi với
tư tưởng: sức mạnh cả dân tộc, dân là gốc, lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng
mạnh, lấy nhân nghĩa thắng hung tàn,...
4


Cũng từ tư tưởng ấy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi làm chủ soái
đã viết nên bản anh hùng ca vĩ đại âm vang trong những cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, bảo vệ đất nước và cả trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc hôm
nay, mãi mãi là những bài học quý giá cho mọi thế hệ mai sau.
Câu 2:
Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “ Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” ( Phan Đại
Doãn: Những bàn tay tài hoa của cha ông- NXB giáo dục 1988).
Ngày
27/6/2011, Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là di sản
văn hóa thế giới. Đó là công trình nào?. Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên
du lịch để giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.

Trả lời:
Từ thành phố Thanh Hoá, theo quốc lộ 45 ngược lên phía
bắc, qua các huyện Đông Sơn, Thiệu Hoá, đến huyện lỵ Vĩnh Lộc, ngược con
đường Thiên Lý xưa kia độ 2 km là chúng ta đã đến Thành Tây Đô hay còn gọi
là Thành An Tôn, Thành Tây Giai. Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh
Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang,
Vĩnh Thành và thị trấn Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là

kinh thành của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà
Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần
Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2
năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước
là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành
Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây
Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á
và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp),
trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận
thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di
sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các
giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế
giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy
hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một
loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh
quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
5


Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình kỳ
vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống
xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông
Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc
đáo, sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ
được bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn. Đây
là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình
đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên

vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện
trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành
còn có Đàn tế Nam Giao.
Năm 1397, Hồ Quý Ly chọn đất An Tôn xây thành thủ hiểm. Thành được
xây dựng ở khoảng giữa sông Mã và sông Bưởi, phía Bắc có núi Thổ Tượng,
phía Tây có núi Ngưu Ngoạ, phía Đông có núi Hắc Khuyển, phía Nam là nơi
hội tụ của sông Mã chảy từ phía Tây về và sông Bưởi chảy tới. Sử cũ cho biết
thành xây 3 tháng thì xong. Thành Tây Đô được xây dựng trên bình đồ kiến
trúc gần vuông. Hiện nay, thành có độ cao trung bình 7m đến 8m, các cổng
thành còn khá nguyên vẹn, riêng cửa nam cao tới 10m. Thành Tây Đô là bằng
chứng về sức lao động và tài năng của nhân dân ta và là công trình mang nhiều
giá trị lịch sử văn hoá to lớn.
Nét đặc sắc của tường thành này là ở phần xây đá bên ngoài, còn bên
trong đắp đất. Mặt ngoài thành được gia cố bằng những tảng đá xanh đẽo
vuông vức, công phu ít nhất có từ 4 đến 5 mặt phẳng. Nhiều phiến rất to ở cửa
Tây (dài tới 5,1m, rộng 1,59m, cao1,30m), được xếp chồng lên nhau thành hình
chữ công. Những phiến đá nặng hàng tấn chỉ xếp lên mà không cần chất kết
dính vẫn đảm bảo độ bền vững.
Qua hơn 600 năm trường tồn cùng những biến cố, thăng trầm của đất
nước và tác động của thời tiết, hệ thống tường thành còn khá nguyên vẹn cho
đến ngày nay. Tường thành không những được xây bằng đá tảng mà năm Tân
Tỵ (1401), Hồ Hán Thương hạ lệnh cho nhân dân nung gạch để xây thêm phần
tường thành phía trên. Phần tường gạch ngày nay gần như không còn nữa
nhưng những viên gạch vẫn thấy nằm rải rác trong các gia đình gần thành.
Cho đến nay, nơi khai thác và cung cấp đá cho việc xây dựng thành Tây Đô và
cả việc chuyên chở vật liệu đang là đề tài bàn bạc. Nhân dân địa phương cho
biết, người xưa có thể lấy đá ở nhiều nơi quanh vùng Tây Đô, gần nhất là núi
đá xanh Yên Tôn, hiện còn những tảng đá xanh mang tên “An Tôn xã”.
6



Hang Tượng dùng để nhốt voi chuyên chở đá xây thành. Con đường phía
Tây được lát đá xanh bằng phẳng từ bờ sông Mã đến cửa Tây còn có tên gọi
“Bến Đá”. Gần đây, những hộ dân xung quanh đường còn giữ được những viên
bi đá. Đá lấy từ nhiều nơi khác, chuyên chở bằng đường sông, đường bộ, chở
bằng cộ (loại xe lớn có một bánh gỗ), chở bbằng voi kéo, hoặc người ta dùng
những viên bi đá cho khối đá khổng lồ trượt trượt lên trên.

Thành nhà Hồ

Thành Tây Đô có 4 cửa : Đông, Tây, Nam,
Bắc. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các mặt thành kỹ thuật ghép đá đạt
đến trình độ cao. Những cổng thành được xếp các phiến đá theo hình múi
cam,Thành nhà Hồ được đặt móng xây dựng vào năm 1397. Đây là công trình
kiến trúc đồ sộ được xây dựng bằng đá độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Trong lòng
đất của Khu di tích còn lưu giữ các dấu tích Cung điện, đền đài, đường xá và
nghệ thuật trang trí, các làng cổ cùng toàn bộ cảnh quan đồi núi, sông hồ mang
đậm chất phong thủy điển hình. Di sản thành nhà Hồ thể hiện sự giao thoa văn
hóa giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di
sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các
giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế
giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy
7


hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một
loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh
quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.

Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình kỳ
vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống
xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông
Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc
đáo, sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ
được bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn.
Đây là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động
của quá trình đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần
như nguyên vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông
Nam Á.
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện
trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành
còn có Đàn tế Nam Giao.

Câu 3: Triệu thị Trinh có một câu nói nổi tiếng : “ Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chị khom lưng làm tỳ thiếp người
ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất
khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.

Trả lời:
Tổ quốc chúng ta có biết bao vị nữ anh hùng đã hy sinh cho quê
hương và dân tộc, đã đánh đuổi giặc ngoại xâm mang lại độc lập, tự do cho dân
tộc Việt Nam, và Bà Triệu là một trong những vị anh hùng đó. Bà đã nêu cao
tấm gương hy sinh anh dũng cho toàn dân ta nói chung và cho phụ nữ Việt
Nam nói riêng. Bà là nữ anh hùng dân tộc đã hy sinh trọn đời mình để chống
giặc ngoại xâm, bà đã có công điều binh, khiển tướng, đánh đuổi quân xâm
lược. Lịch sử Việt Nam đã ghi công một gương sáng cho các nhi nữ anh hào là
“giặc đến nhà đàn bà phải đánh.”


8


Nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Bà Triệu đã đủ mạnh để tấn công thành
Tư Phố – trụ sở đầu não của chính quyền đô hộ ở Cửu Chân. Lúc này cũng là
thời kỳ mà phong trào đấu tranh của nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã diễn ra
hết sức sôi nổi. Tiêu biểu nhất là cuộc nổi dậy của anh em họ Lý ở Bồ Điền
(Triệu Lộc – Hậu Lộc). Đó là thời cơ thuận lợi để Bà Triệu có thể giải phóng
hoàn toàn Châu Giao. Đầu năm 248 từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà
Triệu tấn công thành Tư Phố và đã mau chóng giành thắng lợi trọn vẹn. Bà
Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng căn cứ
địa. Về mặt quân sự, địa hình tự nhiên vùng Bồ Điền có đủ yếu tố để xây dựng
một căn cứ thuận lợi cho cả “công” lẫn “thủ”. Từ đây có thể ngược sông Lèn,
sông Âu ra sông Mã rút lên mạn Quân An (quê hương Bà Triệu), hoặc tới căn
cứ núi Nưa lúc cần; lại có thể chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù
để khống chế địch ở mặt này. Dựa vào địa hình hiểm yếu ở Bồ Điền, Bà
Triệu đã cùng anh em họ Lý chỉ huy nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn lũy
vững chắc. Thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn, khắp hai quận Cửu Chân,
Giao Chỉ nhân dân một lòng hưởng ứng công cuộc cứu nước của Bà Triệu. Các
thành ấp của giặc Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị hạ. Bọn quan lại nhà Ngô từ
Thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng kế tiếp nhau kẻ bị giết, kẻ chạy trốn. Từ
Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng lan ra Giao Chỉ và vào tận Cửu
Đức, Nhật Nam. Thứ sử Châu Giao bị giết, bọn quan lại đô hộ ở Châu Giao hết
sức hoảng sợ trước thanh thế và sức mạnh của nghĩa quân Bà Triệu. Sử nhà
Ngô thú nhận: Năm 248 “toàn thể Châu Giao đều chấn động”. Nhà Ngô lo sợ,
9


phải phái viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên tướng Lục Tốn) làm thứ sử
Châu Giao, đem thêm tám nghìn quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi

nghĩa. Lục Dận một mặt ra sức trấn áp nhân dân, mặt khác dùng thủ đoạn xảo
quyệt đem của cải, tiền bạc lung lạc một số thủ lĩnh địa phương nhằm ổn định
Giao Chỉ, tập trung lực lượng tấn công Cửu Chân.
Ổn định được Giao Chỉ, Lục Dận đã đem toàn bộ lực lượng tấn công
Cửu Chân theo hai đường thủy: một mũi từ Tạc Khẩu qua hành lang Hoàng
Cương – Chính Đại – Bạch Ác ngược sông Lèn vây bức phía bắc, mũi theo
đường biển vòng qua sông Sung và Vích (cửa Lạch Trường) đánh vào
phía Nam. Nắm được mưu đồ của giặc, Bà Triệu cùng bộ chỉ huy nghĩa quân
đã chủ động tung một lực lượng quan trọng xuôi sông Lèn rồi theo sông Đào
tiến ra chặn đánh địch ở mạn Yên Mô - Ninh Bình. Suốt hai tháng ròng bị
giặc Ngô vây hãm, nhưng căn cứ địa Bồ Điền vẫn đứng vững. Tại đây, nghĩa
quân đã chiến đấu hơn ba mươi trận lớn nhỏ và đều thu được thắng lợi. Quân
giặc đã phải gọi Bà Triệu là Nhụy Kiều tướng quân (vị nữ tướng yêu kiều) và
Lệ Hải Bà Vương (Vua Bà ở vùng biển mỹ lệ), mỗi khi gặp Bà giặc Ngô đã
phải khiếp sợ thốt lên: “Hoành qua đường hổ dị Đối diện Bà Vương
nan!” Múa ngang ngọn dáo chống hùm dễ Đối mặt Vua Bà thực khó ghê!
Sau một thời gian vây hãm không thành, lại bị tiêu
hao một lực lượng quan trọng và có nguy cơ thất bại, Lục Dận đã phải điều
thêm binh, cử thêm tướng quyết tiêu diệt căn cứ nghĩa quân. Trong một trận
chiến đấu ác liệt tại căn cứ Bồ Điền, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh ở núi Tùng,
đó là ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn – 248. Tưởng nhớ ân đức lớn lao của Bà
Triệu, nhân dân đã lập đền thờ Bà ở núi Gai, xây lăng mộ Bà trên núi Tùng .

Đền Bà Triệu - Thanh Hóa

Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu tuy thất bại, nhưng đã để lại một dấu son sáng
ngời trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Dân tộc ta nói chung, Thanh
10



Hóa nói riêng rất tự hào đã sản sinh ra vị nữ Anh hùng đã làm nên những chiến
công rạng rỡ cho dân tộc. Tinh thần yêu nước, chí khí quật cường cùng sự hy
sinh lẫm liệt của Bà Triệu không chỉ làm cho kẻ thù khiếp sợ mà còn là nguồn
cổ vũ lớn lao đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự chủ của dân tộc
trong suốt chiều dài lịch sử.
Bà đã để lại câu nói được ghi đậm nét trong lịch sử Việt Nam, ‘Tôi muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đập luồng sóng dữ chém cá tràng kình ở Biển Ðông, quét
sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người
đời cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp cho người ta.’ Câu nói lịch sử ấy được dân
tộc Việt Nam truyền tụng cho tới ngày nay,” “Than ôi! Ngàn người địch với đại
quân, làm sao thắng nổi đành tuân mệnh trời. Hai mươi ba tuổi cuộc đời quá
ngắn, nhưng danh bà vang tận ngàn sau. Triệu Trinh công đức cao sâu, chúng
con hậu thế cúi đầu nhớ ơn.
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh hóa được thành lập như thế nào?Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất.
Trả lời: Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại
Làng Yên Trường, xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là
một bước ngoặt lịch sử quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong
trào đấu tranh cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính
quyền ở Thanh Hóa năm 1945, đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng như trong công cuộc đổi mới, phát
triển và hội nhập hiện nay.

Ngôi nhà diễn ra lễ thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm
lược Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng
11



lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do
các sỹ phu phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị
địch khủng bố đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn
của một chính Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu
Long (Hương Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba
tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan
trọng đối với phong trào cách mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ
đây phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng
khắp. Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ - Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên
Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước tình hình phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo
của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ,
ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được tổ chức
tại Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ sở hợp nhất 3 chi
bộ Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ Thọ Xuân. Đ/c
Lê Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên
của Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ
Yên Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức
hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt
là cũng tại ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ
cộng sản Yên Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra
đời của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ,
nhân dân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta.
Chấm dứt giai đoạn khủng hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự
lãnh đạo của một chính Đảng.
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan
trọng trước mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công

hội đỏ, cơ quan ấn loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man,
có những thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập
thậm chí là tan rã, nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian
khổ, tù đày và hy sinh, các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được
khôi phục trở lại và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh
đuổi thực Pháp, lật đổ chế độ phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào
12


cách mạng đã phát triển rộng khắp ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn
bị cùng với cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi
nghĩa giành chính quyền ngày 24/7/1945 ở huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh
phát lệnh tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành
chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành
thắng lợi nhanh chóng. Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ
Thiệu Hóa, lực lượng cứu quốc gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu
Hóa, Đông Sơn, Yên Định, Thọ Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt
quốc dân đồng bào.
Đ/c Lê Tất Đắc, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên
bố thành lập chính quyền cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng
bảo bệ chế độ mới.
Qua học tập, tìm hiểu về các tấm gương tiêu biểu của những người cộng
sản quê hương xứ Thanh, em rất ấn tượng về ông Lê Hữu Lập Người cộng sản
tiêu biểu của đất Thanh:
Lê Hữu Lập: Người cộng sản tiêu biểu của đất Thanh
Đến Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa, ta sẽ có dịp được chiêm
ngưỡng bức ảnh trang trọng của đ/c Lê Hữu Lập, lớp đảng viên đầu tiên của
tỉnh Thanh Hóa.


Bia tưởng niệm đ/c Lê Hữu Lập tại xã Xuân Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa.
13


Theo chứng tích còn giữ được, ông Lê Hữu Lập sinh năm 1897, trong
một gia đình ở thôn Hữu Nghĩa, tổng Nam Trường (nay là xã Xuân Lộc, huyện
Hậu Lộc, Thanh Hóa). Ngay từ nhỏ, ông đã sẵn có lòng yêu nước thương dân,
cảm nhận được nỗi khổ của những người dân mất nước và sự bất công do thực
dân Pháp và bọn phong kiến gây ra. Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trường Pháp
Việt, ông tham gia hoạt động cách mạng, sang Trung Quốc tham gia vào tổ
chức Tâm Tâm Xã – một tổ chức cách mạng của người Việt Nam yêu nước ở
Trung Quốc. Năm 28 tuổi, ông được gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc và được
Người giác ngộ cách mạng rồi được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên
CM đồng chí hội (TNCMĐCH) – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt
Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sau đó, ông được cử về nước
cùng với các đồng chí khác để tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho những
thanh niên yêu nước ở Thanh Hóa, Thái Bình, Nam Định, Nghệ An, Quảng
Trị… đưa sang Quảng Châu huấn luyện.
Năm 31 tuổi, ông được bầu vào BCH kỳ bộ thanh niên Trung Kỳ, được
cử sang Thái Lan hoạt động và bị tòa án Nam Triều Thanh Hóa kết án tử hình
vắng mặt.
Tháng 3/1930, khi tổ chức VN Thanh niên CM đồng chí hội chuyển
thành tổ chức cộng sản, do công lao đóng góp tích cực, ông Lê Hữu Lập trở
thành đảng viên cộng sản. Ông thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện
Hoằng Hóa tại thôn Cự Đà (nay là xã Hoằng Minh, huyện Hoằng Hóa).
Đầu năm 1934 ông đã tham gia được Ban Viện trợ cách mạng Đông
Dương cử về hoạt động ở tỉnh Nghệ An và được tổ chức bố trí hoạt động tại
một cơ sở ở huyện Nghi Lộc. Tại đây, ông lâm bệnh nặng và được đưa về điều
trị ở nhà thương Vinh, do bệnh quá nặng, lại bị sự kiểm soát gắt gao của thực

dân Pháp, vào một ngày cuối tháng 6/1934, ông đã trút hơi thở cuối cùng, thọ
37 tuổi.
Ông Lê Hữu Lập là người thanh niên cộng sản lứa đầu tiên của đất
Thanh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, người học trò nhiệt thành của Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu, ông đã chiến đấu không mệt mỏi và hiến dâng cả
cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân, của nước, góp phần viết nên những trang
sử hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thanh
Hóa.
Ông Lê Hữu Lập, người cộng sản mà cả cuộc đời cống hiến cho cách
mạng, cho nhân dân, nêu một tấm gương sáng về người Cộng sản chân chính
luôn đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, mãi mãi để thế hệ sau chúng ta học
tập, phấn đấu và noi theo.
Câu 5:
Ngày 20/02/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn: “
Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu… phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế, quân sự phải là tỉnh kiểu mẫu, làm hậu phương vững chắc cho cuộc
kháng chiến”. Thực hiện lời dạy của Bác sau 30 năm đổi mới (1986 – 2016)
14


Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt nhiều thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật nhất góp
phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách nhiệm
bản thân?
Trả lời:
Ngày 20-2-1947, Bác Hồ về thăm Thanh Hoá lần đầu tiên và khai
hội với đồng bào Thanh Hoá tại thị trấn Rừng Thông (huyện Đông Sơn); buổi
chiều Bác gặp và nói chuyện với các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào; buổi tối
nói chuyện với nhân dân thị xã Thanh Hoá ở trước Nhà thông tin thị xã. Qua
các buổi nói chuyện, Bác bày tỏ mong ước Đảng bộ và nhân dân các dân tộc

tỉnh Thanh Hoá làm sao để xây dựng tỉnh nhà thành một tỉnh kiểu mẫu. “Tỉnh
Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một làng kiểu
mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu
mẫu”(1). Bác cũng chỉ rõ xây dựng tỉnh “kiểu mẫu” trên mọi mặt phải bắt đầu
từ cá nhân mỗi người trước tiên: Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu,
một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu, một nước kiểu
mẫu… Trước lúc chia tay, Bác nhắn gửi tha thiết tới đồng bào với lời hẹn ngày
trở lại: “Đồng bào trong tỉnh hãy xắn tay áo làm đi, lần sau về đây tôi sẽ thấy
mỗi người là một người “kiểu mẫu”(2).

15


Đã 69 năm kể từ ngày lần đầu tiên Bác Hồ về thăm, Thanh Hoá đã đạt
được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Với tiềm năng, lợi thế vốn
có của vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Thanh Hóa đã đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế toàn diện từ 7,8% (năm 2005) tăng lên 13,5% (năm 2011), trong
đó thu nhập bình quân đầu người đến năm 2011 đạt 4,9 triệu đồng/người/năm.
Số hộ đói nghèo từ 46,77% (năm 2001) giảm xuống còn 30% (năm 2011). Các
ngành kinh tế lâm, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ là những ngành đang
được tỉnh đầu tư cả chiều rộng và chiều sâu. Nhiều khu công nghiệp mới được
quy hoạch với quy mô lớn để mở rộng các ngành nghề công nghiệp: Chế biến
sản phẩm từ rừng, sản xuất đá gra-nit, thủy điện… Nhiều năm nay, du lịch vẫn
là một trong những ngành đem lại lợi nhuận phát triển kinh tế chủ yếu, nâng
cao đời sống của người dân Thanh Hoá. Trong tương lai, ngoài tiềm năng khai
thác du lịch biển, Thanh Hóa đã và đang triển khai nhiều dự án khai thác và xây
dựng nhiều khu du lịch sinh thái, du lịch gắn liền với những địa danh, tên tuổi
của các vị anh hùng dân tộc sinh ra trên mảnh đất này.
Cùng với phát triển kinh tế, công tác giáo dục, y tế cũng được tỉnh quan

tâm và phát triển đồng bộ. Bác dạy: “Ban Văn hoá phải tìm những cách không
cần tốn tiền mà học được, như “gia đình học hiệu”, “tiểu giáo viên”, cả làng
chung gạo nuôi một thầy giáo… Không có giấy thì viết vào cát, không có bút
thì dùng lẽ tre…”. Làm theo lời Người, những năm qua, Đảng bộ và chính
quyền tỉnh, đội ngũ làm công tác giáo dục Thanh Hóa đã kiên trì, bền bỉ thực
thi xóa mù chữ, dạy bình dân học vụ, bổ túc văn hóa cho đông đảo các tầng lớp
nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Vì vậy, trình độ dân trí, trình độ văn hóa của
người dân và cán bộ địa phương được nâng lên rõ rệt. Từ năm 2004, 11/11 xã,
thị trấn có số trường được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở. Cả tỉnh đã xây dựng được 15 trường đạt
chuẩn Quốc gia. Hằng năm, khánh thành trên dưới 18 làng, bản, cơ quan văn
hoá, trong đó có trên 60% số hộ đạt gia đình văn hóa… Hiện có gần 30 bệnh
viện đa khoa và 37 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố, đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu của người dân tỉnh Thanh với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo.
Thanh Hóa đã và đang dần trở thành một trong những trung tâm kinh tế, văn
hóa – xã hội, giáo dục, quốc phòng mạnh của cả nước. Mỗi bước đi lên của
tỉnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thanh Hoá luôn khắc sâu những lời
khen ngợi, dặn dò, phê bình cũng như sự chỉ bảo ân cần của Bác qua mỗi lần
Người về thăm. Đó là niềm tin, động lực tinh thần vô giá để nhân dân Thanh
Hoá vượt qua mọi khó khăn, thử thách, từng bước xây dựng tỉnh Thanh ngày
càng vững mạnh, góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và
hội nhập quốc tế, đưa tỉnh trở thành tỉnh “kiểu mẫu” như sinh thời Bác Hồ hằng
mong.
Phát huy kết quả 30 năm đổi mới, trong ba thập kỷ liên tục phấn đấu,
Đảng bộ, quân và các dân tộc trong tỉnh đã đoàn kết một lòng từng bước đẩy
lùi khó khăn, thách thức, đói nghèo lạc hậu, tiến hành sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi sâu sắc, toàn diện bộ mặt quê hương theo
chiều hướng phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010 - 2015 ước
16



đạt 11,4%, cao nhất trong gần 30 năm đổi mới; GDP bình quân đầu người ước
đạt 1.530USD, gấp 1,9 lần năm 2010, tăng nhanh hơn so với mức trung bình
của cả nước. Các chỉ số: hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế (PEII) tăng cao và
nằm trong nhóm các tỉnh dẫn đầu cả nước.
Đặc biệt, tại Khu kinh tế Nghi Sơn, dự án Liên hợp Lọc hoá dầu Nghi
Sơn – Công trình trọng điểm Quốc gia – c ó tổng mức đầu tư lớn nhất cả nước
từ trước đến nay đã được khởi công xây dựng. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở sản
xuất công nghiệp lớn, các khu du lịch tầm cỡ quốc tế được đầu tư xây dựng
và đi vào hoạt động, đã tạo điểm nhấn quan trọng và làm thay đổi cơ cấu
kinh tế - xã hội của tỉnh, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân
dân. Khi đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở rộng và hiệu quả thì cũng là
lúc khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, lòng tin của nhân dân đối với
Đảng ngày càng được nâng lên.
Thích ứng với tăng trưởng, chủ động hội nhập và vượt qua những rào
cản của tâm lý sản xuất nhỏ, đó là những bài học căn cốt được đúc rút từ những
năm đầu đổi mới cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tỉnh Thanh đang hội tụ
đầy đủ các yếu tố để có thể hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu: phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu. Nhưng chúng ta vẫn không quên lời
cặn dặn của Người: Mỗi người phải xắn tay áo làm và mấu chốt kế hoạch phải
thiết thực và phải làm được.
Càng đi sâu khám phá vùng đất cũng như con người xứ Thanh, bản thân
em càng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp và sức sống diệu kỳ của một Việt Nam thu
nhỏ- nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, nơi mạch ngầm truyền thống vẫn đang bền
bỉ chảy không ngừng. Một Thanh Hóa quật cường trong lịch sử kháng chiến
chống ngoại xâm với hình ảnh hiên ngang cưỡi voi xung trận của nữ tướng anh
hùng Triệu Thị Trinh, với hào khí vang dội của nghĩa quân Lam Sơn, với những
Ba Đình, Mã Cao, Hùng Lĩnh, Hàm Rồng – Sông Mã. Một Thanh Hoá cổ kính

với những công trình kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu gắn liền với sự thịnh vượng
và suy vong của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Một Thanh Hóa duyên dáng, đằm thắm mà khoẻ khoắn và căng tràn sức
sống với điệu hò sông Mã, hát múa Đông Anh, múa Xuân Phả, chèo chải. Một
Thanh Hoá tự tin, năng động, hoà nhịp cùng sự chuyển mình của đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá với những nhà máy, khu công
nghiệp, khu chế xuất đang từng ngày “thay da đổi thịt”. Đó là một niềm vinh
dự, tự hào không chỉ của Thanh Hoá, mà còn của cả Việt Nam.

17


Bản thân em thật may mắn vì được sinh ra và lớn lên trong những tháng
ngày bình yên và tươi đẹp của đất nước. Được cắp sách tới trường bởi lẽ thế hệ
chúng em đang sống và học tập trong một môi trường giáo dục tốt, với nhiều
kiến thức rộng mở trong cuộc cách mạng mới – cuộc cách mạng của khoa học,
công nghệ và cách mạng chủ nghĩa xã hội. Cảm ơn thế hệ cha ông đã cho
chúng em cuộc sống như ngày hôm nay. Chính điều đó giúp em có động lực
để làm thật tốt những công việc hàng ngày từ việc nhỏ nhất cho đến việc lớn
hơn để có thể hoàn thiện mình và cũng để góp phần tham gia vào cuộc cách
mạng của thế hệ trẻ hôm nay. Chính là chúng em đang nhớ đến công lao và sự
hi sinh vô cùng to lớn của các bậc cha anh để có một quê hương Thanh hóa
ngày càng giàu mạnh và luôn phát triển như lời Bác Hồ đã từng mong muốn
“Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi
mặt chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một
làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ
thành kiểu mẫu”.
Chúng em luôn tự hào là những người con của quê hương Xứ Thanh, em
hi vọng tất cả các bạn trẻ ngày hôm nay hãy nâng niu, trân trọng và cố gắng
phát huy truyền thống quật cường của quê hương, mãi thắm đậm hồn thiêng

sông núi và hào khí ông cha. Để nhịp sống sôi động của mảnh đất Thanh Hoá
“địa linh nhân kiệt” – mảnh đất đang vươn lên hội lưu cùng thời đại bằng sự kết
tinh, lắng đọng của quá khứ, sức sống mãnh liệt của hiện tại và tương lai.

18


Hết

19


20


21



×