Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

tiểu luận cao học tư tưởng về chính trị của nho giáo và sự tiếp biến tư tưởng chính trị của nho giáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.8 KB, 38 trang )

A- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nho giáo khổng tử (551-479) sáng lập. Cũng như mọi học thuyết khác
Nho giáo cũng có lịch sử phát triển riêng của mình. Song sự tồn tại lâu dài và
sự ảnh hưởng sâu rộng của học thuyết này tới đời sống văn hoá – chính trị xã hội – tinh thần của một số nước phương Đông cũng còn rất mạnh. Trong
những năm gần đây một số nước Đông Nam Á có sự ảnh hưởng của Nho
Giáo đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều mặt, đặc biệt là kinh tế. Vì vậy
việc học tập và nghiên cứu tìm hiểu nho Giáo đã trở nên vấn đề hấp dẫn lớn
với toàn thể nhân loại.
Việt Nam là một nước chịu ảnh hưởng rất lâu đời và sâu sắc của nền
văn hoá nho giáo. Nho giáo đã được giới thống trị sử dụng như tư tưởng chủ
đạo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội, trong suốt thời kỳ phong kiến và
cho đến ngày nay, nó vẫn tồn tại hiện hữu vẫn tác động lên nhiều mặt của đời
sống xã hội.
Tư Tưởng chính trị của Nho giáo đã ảnh hưởng tới nước ta từ rất sớm:
chỉ ngay khi chế độ Bắc thuộc sụp đổ, những người Việt trong chế độ trong
triều đình phong kiến Việt Nam đã từng ý thức được vai trò của Nho giáo đối
với đời sống chính trị và thấy được sự tiếp thu Nho giáo là cần thiết, để
chuyển hoá nó từ chỗ vốn là vũ khí tinh thần của kẻ đi xâm lược đã bại trận
trở thành một công cụ có ích cho việc xây dựng một nhà nước phong kiến và
một trật tự xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh.
Ngày nay chúng ta tìm hiểu, làm rõ và nghiên cứu tư tưởng chính trị
của Nho giáo, không chỉ thấy sự vĩ đại của các vĩ nhân xưa như Khổng Tử,
Tuân Tử… hay một mục đích gì khác ngoài mục đích thiết thân là tiếp tục
phát huy những kinh nghiệm tiếp thu Nho giáo của cha ông ta vào giải quyết
những truyền thống và hiện đại, vận dụng những tư tưởng chính trị tích cực
của Nho giáo và công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Ở nước ta trong nhiều năm qua đã có các công trình nghiên cứu về Nho
giáo đối với xã hội Việt Nam như cuốn “Nho giáo tại Việt Nam" của viện triết
học và trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia do nhà xuất bản khoa


1


học – xã hội xuất bản năm 1994 cuốn “Nho giáo xưa và nay “ của tác giả
Quang Đạm do nhà xuất bản thông tin xuất bản năm 1999; cuốn “Nho giáo
ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày xưa, ngày nay nước ta “của giáo sư Trần
Đình Hượu; cuốn “vài ý kiên ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt
Nam” của Đào Duy Anh, cuốn “Người dân Vịêt Nam dưới tác động của
Khổng Tử” của Vũ Khiêu; cuốn “Nho giáo” của Trần Trọng Kim,…Trong số
các tác giả trên một số đánh giá cao của vai trò của Nho Giáo đối với xã hội
và con người Việt Nam hiện nay thậm chí có người coi Nho Giáo tạo cơ sở
quan trọng cho việc xâm nhập dễ dàng chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào Việt
Nam, hoặc coi các truyền thống Việt Nam bắt nguồn từ Nho giáo. Ngược lại
với những quan điểm trên là phê phán, phủ nhận vai trò của Nho giáo, phê
phán các tư tưởng của Nho giáo, phủ nhận Nho giáo đã diễn ra ở Trung Quốc
những năm 1950-1960, ở Việt Nam cũng không ít người nhìn nhận Nho giáo
dưới lăng kính tiêu cực cho rằng Nho giáo là trở lực của sự phát triển của xã
hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
3.1 Mục đích:
Đề tài có mục đích là làm rõ tư tưởng về chính trị của Nho giáo và sự
tiếp biến tư tưởng chính trị của Nho giáo ở Việt Nam, từ đó chứng minh cho
sự ảnh hưởng của nó đối với nước ta trong quá khứ và hiện tại, trên cơ sở đó
các cách nhìn nhận đúng đắn về nó và đồng thời đưa ra một hệ thống các quan
điểm, chính sách đúng khoa học có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc
xây dựng nền văn hoá, chính trị, con người mới nói riêng và sự nghiệp đổi
mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội nói chung.
3.2 Nhiệm vụ:
Để thực hiện được những mục đích đã đưa ra ở trên thì đề tài có nhiệm
vụ sau:

- Làm rõ quá trình hình thành, phát sinh, phát triển tư tưởng chính trị
của Nho giáo.
- Nghiên cứu sự tiếp biến, sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho
giáo ở Việt Nam.

2


- Ý nghĩa, phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu trên với việc kế
thừa và phát huy tư tưởng về chính trị trong truyền thống và trong giai đoạn
hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu và phạm vi của đề tài:
4.1 Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp logic lịch sử kết hợp sử dụng các
phương pháp tổng hợp, so sánh, khái quát và hệ thống hoá.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Với mục tiêu đã xác định trên, phạm vi của đề tài này chỉ nghiên cứu
những quan điểm chủ yếu nhất của Khổng Tử , Mạnh Tử, Tuân Tử về chính
trị, các quan điển đó ở trong các sách, báo, trong các bài viết về Nho giáo, các
tài liệu có sự phân tích về Nho giáo và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở bài, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của đề tài có ba phần lớn:
I. Lịch sử phát triển và một số tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo.
II. Sự tiếp biến và ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo ở Việt Nam.
III. Nho giáo với công cuôc đổi mới nước ta hiện nay.

3



B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
I. Lịch sử phát triển và một số tư tưởng chinh trị cơ bản của Nho
giáo.
1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo.
1.1. Sự ra đời của Nho giáo(1).
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của mình, Trung Quốc luôn luôn
là quốc gia lớn ở Đông Á, trên lãnh thổ Trung Quốc có hai con sông lớn chảy
qua, đó là Hoàng Hà ở phía Bắc và sông Trường Giang ở phía Nam. Lưu vực
hai con sông này sớm trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, về mặt
chủng tộc, cư dân ỏ lơu vực sông Hoàng Hà thuộc giống người Mông Cổ, đến
thời Xuân Thu gọi là Hoa Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này.
Trung Quốc cổ đại kéo dài từ thế kỉ XXI trước công nguyên đến cuối
thế kỉ III trước công nguyên, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung
Quốc bằng uy quyền bạo lực, mở ra thời kỳ phong kiến. Lịch sử xã hội chiếm
hữu nô lệ Trung Quốc là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ; giữa
tầng lớp thượng lưu của xã hội chiếm nô với những nông dân phá sản bị nô
dịch và trở thành phụ thuộc; giữa tầng lớp quý tộc truyền thống bị bần cùng
hoá với những thương nhân giáu có tiếm quyền.
Lịch sử Trung Quốc cổ đại được chia làm ba thời tương ứng với ba
vương chiều: Hạ, Thương, Chu.
Hạ: (khoảng thế kỷ XXI -XVI - trước công nguyên): mặc dù Vũ chưa
sưng vương, nhưng là người đặt cơ sở cho chiều Hạ. thời kỳ này Trung Quốc
mới chỉ biết đồng đỏ, chưa có chữ viết. Sau bốn thế kỷ với đời vua kiệt bạo
chúa nổi tiếng đầu tiên trong lich sử Trung Quốc, Triều Hạ bị diệt vong và
không để lại những chứng tích cụ thể.
Thương: (thế kỉ XVI - XII) trước công nguyên hay còn gọi là nhà Ân
Thăng là người đem quân tiêu diệt vua kiệt, thành lập nhà Thương. Thời kì
này người Trung Quốc biết sử dụng đồng thau, chữ viết ra đời và họ đã biết
làm lịch nông nghiệp, biết quan sát sự vận hành của mặt trăng, tính chu kì của
nước sông dâng lên. Thời thương giới quý tộc giữ vai trò thống trị, mà các tư

(1)

– Lịch sử tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 4-2001, tr.28-31

4


tưởng gia đã khẳng định sự thống trị của quý tộc là do trời định, nhà vua là
"thiên tử", quản lí quốc gia theo mệnh trời.
- Chu: (thế kỉ XI - III trước công nguyên).
Người thành lập nhà Chu là Văn Vương, người có công tiêu diệt vua
Trụ bạo chúa nổi tiếng thời Thương. Trong hơn tám thế kỉ tồn tại, Triều Chu
được chia thành hai thời kì Tây Chu và Đông Chu, thời Chu nhìn chung xã
hội Trung Quốc tương đối ổn định từ 771 trước công nguyên nhà Chu rời đô
về Lạc Ấp, ở phía Đông nên gọi là Đông Chu. Thời Đông Chu tương ưng với
hai thời kì: Xuân Thu (772-481 trước công nguyên) và chiến Quốc (403 - 221
Trước công nguyên).
Thời Đông Chu là thời kì chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang
chế độ phong kiến. Đồ sắt được sử dụng rộng dãi, tạo nên cuộc cách mạng về
công cụ sản xuất. Hệ thống thuỷ lợi rất phát triển, tạo điều kiện cho nông dân
trồng lúa hai vụ, công cuộc khai hoang, khẩn hoá, mở rộng đất canh tác được
nhà nước khuyến khích. Các nghề khai khoáng, chế tác kim loại, làm muối,
làm thuỷ tinh... phát triển, theo đó xuất hiện các trung tâm buôn bán, đô thị
mở rộng hệ thống giao thông.
Trong xã hội, bên cạnh các giai cấp, tầng lớp xã hội cũ (quý tộc, nông
dân, thợ thủ công, nô lệ), đã xuất hiện những giai cấp tầng lớp mới là địa chủ,
thương nhân. Trước đây khi nhà Chu thịnh vượng thì đất đai thuộc nhà vua.
vào thời kì Chiến Quốc đất đai phần lớn thuộc địa chủ, sự phân hoá sang hèn
dựa trên cơ sở số lượng tài sản. đạo đức, trật tự xã hội suy thoái, đảo lộn, tình
trạng tôi giết vua, con giết cha, vợ giết chồng trở nên phổ biến, thời đại "lễ

hư, nhạc hỏng ", nhân dân bị đói khổ vì chiến tranh, bị áp bức,bóc lột nặng nề,
lúc này trong xã hội xuất hiện tầng lớp trí thức mới " kẻ sĩ văn học", họ không
trị nước mà bàn việc nước từ đó hình thành nhiều trường phái, học thuyết
chính trị khác nhau, hoạt động sôi nổi, rần rộ, gọi là phong trào " Bách gia
chư tử" ( Bách gia tranh minh, chư tử hưng khởi). Nhìn chung các trường phái
chính trị - xã hội hay các học thuyết xã hội cũng hướng vào giải quyết những
vấn đề thực tiẽn đạo đức - chính trị của xã hội trong các học thuyết đó có nho
giáo do Khổng Tử sáng lập.
1.2. Sự phát triển của Nho giáo
5


Nho giáo chính là hệ thống học thuyết và đạo lý bảo vệ đến cùng và cố
sức phục hồi hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ nhà Chu, cho nên nó
không phù hợp với thế lực nổi lên thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Vì vậy, khi
Doanh Chính tức Tần Thuỷ Hoàng lên ngôi, bằng bạo lực và pháp trị với
chính sách hà khắc như:" đốt sách chôn nho" đã gia sức diệt Nho giáo - một
học thuyết triết học chính trị. Có thể nói vào thời Tần, đạo của Khổng Mạnh
bị chôn vùi theo các nhà Nho và tiêu huỷ theo các sách Nho qua ngọn lửa
Tần. Không thể như nhà Tần trị nước, bằng binh hùng , tướng mạnh, gươm
sắc, giáo nhọn, Lưu Bang rất cần có một học thuyết chính trị để điều hành xã
hội đương thời cùng với Nho giáo cũng có nhiều học thuyết như "vô vị" của
Lão Đau, "Vị Ngã " của Chu Phương, "Kiêm Ái" của Mạc Định tồn tại nhưng
Lưu Bang đã chấp nhận Nho giáo. Nho giáo đã dần dần được phục hồi và trở
thành vũ khí tinh thần của nhà Hán và chiếm dịa vị cao nhất trong Tam Giáo.
Đến các triều đại nhà Đường thì Nho giáo lại không chiếm vị trí đáng
kể (phật giáo được đề cao) nhưng đến nhà Tống thì Nho giáo lại được đề cao.
Nổi bật là hai anh em Trình Hạo - Trình Di mở trường học Nho giáo đầu tiên.
Thành ngữ "Cửa Khổng Sân Trình " xuất hiện từ đời Tống thể hiện rõ điều đó.
Ngót một thế kỉ, triều đại Mông Nguyên thống trị toàn bộ nước Trung

Hoa, Nho giáo vẫn được duy trì bằng công việc giảng dạy đạo, thi cử.Từ đầu
thế kỉ XVI, Vương Dương Minh (đời nhà Minh ) đã phát triển Nho giáo theo
hướng duy tâm chủ quan cực đoan.
Đến đời nhà Thanh, thời thế có nhiều thay đổi, Trung Hoa tiếp xúc với
văn hoá Tây Âu. Đại biểu của các nhà cải cách dân chủ là Khang Hữu Vi và
Lương Khải Siêu, cũng muốn nước Trung Hoa phát triển công nghiệp, khoa
học - kĩ thuật ... song cuối cùng họ chỉ đi đến chỗ tìm đường cải lương và duy
tân dưới ngọn cờ của hoàng đế Thanh Triều.
Như vậy, trong suốt hơn hai nghìn năm trường tồn tại, qua mỗi triều
đại, chính thể, tuy Nho giáo cũng có những thay đổi có những vị trí và vai trò
nhất định trong thượng tầng kiến trúc, song không đến mức làm thay đổi bản
chất của nó. Trong mỗi giai đoạn, về tổ chức, thể chế và pháp luật thì dĩ nhiên
triều đại sau có những cái mới so với triều đại trước, song những tư tuởng cơ
bản của Nho giáo thì triều đại nào cũng phải giữ lấy.Vì vậy, Nho giáo, hệ tư
6


tưởng chính trị chính thống của giai cấp phong kiến thống trị đã ăn sâu, bám
chặt váo đời sống xã hội, tinh thần Trung Quốc hơn hai năm qua, cho đến khi
cách mạng Tân Hợi nổ ra 10.10.1911.
2. Những tư tưởng chính trị cơ bản của Nho giáo
Tư tưởng chính trị của Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt trong lịch sử tư
tưởng của Trung Quốc. Hệ tư tưởng chính trị Nho giáo được thể hiện một
cách cơ bản có hệ thống trong tư tưởng của người khởi xướng (Khổng Tử),
những nhà Nho tiếp theo, xuất phát từ đó mà cụ thể hoá và phát triển thêm
theo một số hướng khác nhau, tiêu biểu là Mạnh Tử và Tuân Tử.
2.1. Khổng Tử ( 551 -478 trước công nguyên)
Tiểu Tử: Khổng Tử là người làng Xương Bình, huyện Khác Phụ, nay
thuộc phủ Duyện Châu, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc). Ngoài dòng dõi người
nước Tống (Hà Nam). Ông tổ ba đời dời sang nước Lỗ (Sơn Đông). Thân phụ

ngài là Chúc Lương Ngật làm quan võ, lấy người vợ trước sinh được chín
người con gái, người vợ lẽ sinh được một người con trai tên là Mạch Bì,
nhưng lại tật què chân. Đến lúc gần già ông thân phụ mới lấy bà Nhan Thị
sinh ra ngài, ngày sinh vào mùa đông, tháng mười, năm Canh Tuất là năm thứ
21 đời vua Linh Vương nhà Chu, tức 551 trước Tây lịch kỉ nguyên, bà Nhan
Thị có lên núi Ni Khâu cầu tự cho nên khi sinh ra ngài mới nhân điềm ấy mà
đặt tên là Khâu tên tự là Trọng Ni, có sách chép rằng trán ngài cao và gồ lên
cho nên mới đặt tên là Khâu (nghĩa là gò)(1).
Sự hành chính của Khổng Tử
Năm thứ 19, đời vua Kinh Vương nhà Chu, bấy giờ Không Tử đã 51
tuổi, vua nước Lỗ mới dùng ngài làm quan Trung Đô Tể sau một năm thì ngài
làm Đại Tư Khấu, sau bốn năm vua nước Lỗ cất ngài lên làm Nhiếp Tướng
Sự. Chỉ 3 tháng sau thì việc chính trị được hoàn thành: đất nước ổn định và
cường thịnh lên(2).
Khổng Tử Đi Chu Du Thiên Hạ.

(1) , (2)

Theo sách Nho giáo - Trần Trọng Kim, NXB Văn học, H. 2003, tr.106

7


Do nước Lỗ cường thịnh, nên nước Tề dùng kế mê hoặc vua làm cho
vua xuốt ngày ăn chơi, bỏ trễ việc triều chính nên ngài chàn và bỏ đi. Ngài
sang nước Vệ, ở được mấy tháng, vua nước Vệ không dùng, ngài sang nước
Trần, chưa sang đến nơi gặp cướp lại quay về nước Vệ, sau đó người sang
nước Tống do quân Tư Mã muốn giết ngài nên ngài lại sang nước Trần, ở đây
được 3 năm ngài lại về nước Vệ được gần 3 năm lại sang nước Trần rồi lại
sang nước Thái, qua nước Sở lại về nước Vệ, lúc này ngài đã có tuổi nên sau

14 năm du thuyết không thành quay về nước Lỗ khi ông đã 68 tuổi, ông viết
sách và giạy học, học trò theo học rất đông, ông thọ 73 tuổi(1).
Tác phẩm của ông:
Ông sau dịch các bộ kinh: thi, thư, lễ, nhạc, dịch, xuân thu sau khi ông
mất học trò của ông tập hợp những lời nói, sự tích của ông thành bộ "Luận
Ngữ"
Học thuyết của Khổng tử được gọi là học thuyết chính trị đạo đức.
Những vấn đề cơ bản của chính trị như: quyền lực bang giao, phẩm chất của
người cai trị ... đều được ông luận giải từ đức.
Những nội dung cơ bản của chíhn trị (2).
Về chính trị và quyền lực chính trị:
Ông dùng khái niệm về cai trị là "chính" như" vi chính", "vấn chính"
ông quan niện lĩnh vực cai trị, người cai trị lấy việc ngay thẳng, giữ lòng tin
làm chuẩn mực: "chính giả, chính dã, tử xuất dĩ chính, thục cảm bất chính"
nghĩa là việc cai trị phải ngay thẳng, nay ngài ngay thẳng chính trực, ai còn
giám lừa dối (Nhan Uyên - Luật Ngữ). Vậy chính trị là chính đạo, thẳng thắn,
cai trị phải ngay thẳng.
Phương pháp cai tri
Theo ông phương pháp cai trị lý tưởng phải là cai trị bằng đạo đức: "cai
trị bằng đức, giống như sao Bắc Đẩu cứ ở yên một chỗ mà các sao khác phải
hướng theo về", (Vi Chính - Luận Ngữ).
Quyền lực nhà nước phải tập chung vào một người là vua, bên dưới có
chư hầu, đại phu cùng cai quản dân.
(1)
(2)

Theo sách Nho giáo - Trần Trọng Kim, NXB Văn học, H. 2003, tr.106
Theo sách Nho giáo - Trần Trọng Kim, NXB Văn học, H. 2001, tr.38

8



Lý tưởng chính trị của ông là xây dựng quốc gia Trung Quốc thông
nhất theo mẫu hình nhà Tây Chu, nhà nước đó, trên có thiên tử song vua phải
sáng tôi phải hiền,vua quan tâm chăm sóc dân như cha đối với con.
Quan niệm chung về chinh trị cũng như lý tưởng về chính trị được ông
triển khai theo phương pháp luận "Nhất Dĩ Nhi Quán Chi", (Lấy cái bao trùm
những cái khác), và lấy cái nội dung như dùng "Lễ", "Chính Danh", và
đạo"nhân" là các phương pháp cai trị
Quan niệm về "lễ trị"
"Lễ" là chuẩn mực ứng xử mang tính hình thức trong xã hội nói chung,
chính trị nói riêng. Khi thực hiện quan hệ, mọi người phải tuân theo "Lễ", và
chỉ có như vậy xã hội mới có trật tự thực hiện cai trị bằng vương đạo. Khổng
tử đề cao "Lễ" đến mức "nếu hiểu rõ giá trị của lễ giao (tế trời), lễ xã (tế đất)
và ý nghĩa của lễ đế (lễ các vua thời trước) thì việc cai trị như ngửa bàn tay ra
xem vậy " (Trung Dung), hoặc "biết dùng lễ thì cai trị khó gì" (lý nhân - luận
ngữ) : "bề trên thích lễ thì dễ sai khiến dân", (hiến vấn - luận ngữ). Lễ nhà
Tây Chu là hệ thống "Lễ"phong phú, phức tạp và nhiều khi giáo điều gò ép.
Đó là các loại lễ tế của dân thường cho tới thiên tử ; các quy định xe ngựa, vẻ
mặt khi giao tiếp, chỗ ngồi chỗ đứng, cách đi...theo ông "Lễ" quan trọng trong
việc cai trị vì các lý do sau: thứ nhất, nó quy định danh phận thứ bậc người
trong xã hội; thứ hai, lễ có tác dụng điều chỉnh hành vi con người trong quan
hệ ứng xử, "không học lễ, không có gì làm chỗ dựa " , (Quý thị - Luận ngữ):
thứ ba, "Lễ" có tác dụng hình thành thói quen đạo đức, thí dụ như con cho cha
mẹ ăn phải cung kính, nếu không cung kính thì khác nào cho chó ngựa ăn"
(cung kính dần thành thói quen ứng xử).
Quan niệm về "chính danh"
Theo ngài muốn cai trị trước hết phải chính danh, nghĩa là mọi vất phải
hợp với cai danh mà nó mang. Mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm
và bổn phận, phù hợp với danh ấy. Chính danh là xác định rõ trật tự cai trị,

thứ bậc, trách nhiệm xã hội : ông cho rằng chính danh là hợp với tự nhiên,
"Mệnh trời", "vật các đắc kỳ sở" (Vật đều có chỗ xác định của nó), ông cho
răng một trong những nguyên nhân của rối loạn trật tự xã hội là do mỗi người
không xác định đúng vị trí của mình, ngược lại còn tiếm quyền, tiếm lễ, nội
9


dung chinh danh của ông đưa ra gồm : tương xứng với địa vị cai trị phải có
phẩm chất tương sứng như nhân, nghĩa, liêm ..., đồng thời chỉ sử dụng “lễ”
tương ứng với địa vị đang được thừa nhận, bề tôi là thứ hầu, đại phu không
dùng lễ của thiên tử .
Là thách thức của người cai trị và của mọi thanh viên xã hội :"vua phải
cư xử cho ra vua, tôi cho ra tôi , cha cho ra cha , con cho ra con ,"(Nhân Uyên
-Luận Ngữ). Ông nhận xét :nếu không chính danh tất loạn, nếu chính danh thì
không cần ép buộc dân cũng theo và tất "Trị "
Cai Trị Bằng Đạo "Nhân ".
• Là chuận mực ứng sử giữa người với người, là một giá trị đạo đức xã
hội với những nội dung khác nhau :
• Tự thắng mình,thưc hiện theo lễ đạo nhân (Nhân Uyên -Luận Ngữ ).
Điều mình không muốn thì đừng thực hịên ở người khác .
• Cung, khoan, tín, miến, huệ (Dương Hoá - Luận Ngữ), nghĩa là khoan
dung, cung kính giữ lòng tin, chăm chỉ, lòng tốt) Đạo "Nhân" là phương pháp
cai trị, được khổng Tử tiếp cận từ quan niệm về phẩm chất của người cai trị,
nếu theo điều "Nhân" sẽ tập hợp đươc dân và sẽ khiến dân "bề trên thích lễ,
thì dân cũng kính, bề trên thích tín thì dân không dám nói sai" (Tự Lộ - Luận
Ngữ )... Ông cho rằng chỉ khi vào thu phục đươc lòng dân thì mới có quốc gia
cường thịnh.
Ngoài ra khổng tử còn nêu những vấn đề khác có liên quan đến việc cai
trị như xây dụng hình mẫu con người lý tưởng, người quân tử, phương pháp
rèn luyện đạo đức con người, giáo hoá dân ...

Kết luận: • Tư tưởng chính trị của ông có giá trị đạo đức cao là người
đầu tiên đề cập tới con người trên bình diện nhân dạo.
• Ông đề cao súc mạnh của đạo đức trong cai trị, song ông lại
tuyệt đối hoá nó. Với nguyên tắc chính trị của các triều đại phong kiến Trung
Quốc sau này lấy Nho giáo làm tư tưởng chính thống là hoàn toàn có cơ
sở.Học thuyết của ông còn ảnh hương tới nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới: Nhật, Triều Tiên, Việt Nam ... ở những nội dung cụ thể khác nhau.
2.2 Mạnh tử (372 - 289 trước công nguyên)
Tiểu sử:
10


Phái Tăng Tử nước Lỗ, truyền đến cuối thế kỷ IV trước công nguyên,
thì có một nhà đại hiền triết đem nho giáo làm cho sáng hơn trước. Nhà hiền
triết ấy tên là Mạnh Kha, tự là Dư, người đất Châu, nay là huyện Châu, thuộc
tỉnh Sơn Đông tương truyền ông là học trò của Khổng Cấp (cháu nội Khổng
Tử), Khổng Cấp là học trò của Tăng Sâm,Tăng Sâm là học trò của Khổng Tử.
Theo sách "Mạnh tử phả" thì ông sinh vào ngày 2 tháng 4 năm thứ tư
đời vua Chu Liệt Vương (372 trước công nguyên) và mất vào 15 tháng 11
năm thứ 26 đời vua Chu Noãn Vương (289 trước Tây Lịch), lên 3 tuổi thì cha
mất, nhờ có mẹ hiền dạy dỗ sau theo học về phái Tử Tư, hiểu được rõ cái đạo
của Không Tử. Ông có tài hùng biện, thường đi du lịch nước Tề, nước Lương,
nước Tống, Đằng, muốn đem cái đạo của thánh nhân ra cứu đời nhưng cái
thủa ấy vua các nước chỉ lo việc chiến tranh, không ai để ý đến việc nhân
nghĩa. Sau đã gần già, ông thấy cái đạo không thi hành được, ông về nhà ở
với bọn môn đệ là Mạc Chính Khắc, Công Tôn Sửu và Vạn Chương ghi chép
nhưng lời ông đã đối đáp với vua các nước chư hầu, hoặc với bọn môn đệ của
ông, cùng những lời phê bình, những sự chênh lệch của các học thuyết khác
mà làm thành bảy thiên sách "Tác phẩm của ông là Mạnh Tử, là một cuốn
trong bộ kinh điển "tứ thư".

Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị
Về quyền lực chính trị:
Cũng giống như Khổng Tử, Mạnh Tử ít bàn đến cách thức tổ chức thể
chế chính trị mà thường bàn nhiều về phương pháp cai trị, ông lên án cách cai
trị bằng bá đạo (bạo lực), chủ chương cai trị bằng vương đạo (cai trị bằng đạo
đức), theo vua Nghiêu, Thuấn, vũ và nhân chính - chính trị nhân nghĩa là
đường lối tại nước của ông.
Ông giải thích nguồn gốc của quyền lực nhà nước là theo ý trời - lòng
dân- nhân đức có quan hệ với nhau, vua phải quan tâm đến dân, giáo hoá dân,
phải được lòng dân mới giữ được ngôi. Vua phải chăm lo cho nhân dân "hằng
sản " để "hằng tâm", dân có no đủ mới không loạn lạc, không chống đối vua.
Quan hệ vua - tôi là quan hệ hai chiều, vua đói với bề tôi như thế nào,
bề tôi đối với vua như thế ấy. "Dân quý nhất xã tắc thứ hai, vua là nhẹ nhất"
đây là một yếu tố dân chủ sư khai đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân.
11


Ông ủng hộ phân biệt đẳng cấp: quân tử lao tâm còn tiểu nhân thi lao
lực.
Ông cho rằng con người ta sinh ra vốn thiện, nên phải đề cao giáo dục,
để con người dời xa điều ác, quay trở về điều thiện.
Ngoài ra, Mạnh Tử còn nêu ra những vấn đề chính trị khác như tổ chức
thể chế chính trị thời Tây Chu, quan hệ bang giáo hợp mệnh trời giữa nước
lớn và nước nhỏ...
Kết luận:
Nhìn chung học thuyết của Mạnh Tử đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản của lĩnh vực chính trị như:quyền lực phong kiến, quan hệ cai trị và bị cai
trị, phẩm chất thủ lĩnh chính trị ...Tuy nhiên trên lập trường giai cấp phong
kiến và lập trường triết học duy tâm là căn bản, học thuyết chính trị của Mạnh
Tử không thể không xa vào những mâu thuẫn cả trong lý thuyết và vận dụng

trong thực tiễn chính trị, chính vì vậy học thuyết của ông không được phát tác
dụng với xã hội đương thời(1).
2.3 Tuân Tử (315 - 230 trước công nguyên)
Tiểu sử:
Tuân Tử tên là Huống tự là Khanh, người nước Triệu, ông sinh và mất
năm nào, sách không nói rõ, nhưng cứ theo sách "Sử ký" của Tư Mã Thiên,
thì ông đã 50 tuổi mời sang du học ở nước Tề. Các nhà khảo cứu đã tính ra
ông sinh vào quãng 315 và 310 trước Tây lịch, kém Mạnh Tử khoảng 60 tuổi,
đến quãng 265 và 260 thì ông sang nước Tề, cách mấy năm ông sang nước
Sở. Ông sống vào cuối thời Chiến Quốc, là thời kỳ cục diện chiến tranh "Thất
hùng" đi vào giai đoạn cuối xã hội loạn lạc, dân lành khổ sở vì chiến tranh.
Khi ở nước Sở ông là môn khách của Xuân Thân Quân từng giữ một số chức
quan như quan Tế Tửu nước Tề, huyện Lệnh Lang Lăng nước Sử khi Xuân
Thân Quân mất ông bỏ quan về nhà dạy học, viết sách. Ông có hai học trò nổi
tiếng là Lý Tư (Tể tướng nước Tần) và Hàn Phi (học giả nổi tiếng của phái
Pháp gia). Tuân Tử theo Nho học phát triển Nho học theo hướng đối lập với
Mạnh Tử về một số nội dung chính trị, triết học. Ông mất 230 trước Tây lịch,
thọ chừng 80 tuổi.
(1)

Mạnh Tử - theo sách lược tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 2001 – tr.92

12


Tác phẩm của ông
Trong số di sản ông để lại có cuốn " Tuân Tử" gồm 32 chương bàn về
những vấn đề chính trị, triết học, nhận thức.
Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị.
Ông phát triển Nho giáo theo hướng đi sâu vào đời sống hiện thực, giải

đáp những vấn đề thực tiễn chính trị .
Ông nhấn mạnh vai trò của người làm vua, vua là nguồn gốc nảy sinh
mọi việc,là khuôn mẫu để dân chúng noi theo, "vua là nguồn, nguồn trong thì
nước trong, nguồn đục thì nước đục" (quân đạo - Tuân Tử) ; vua là người biết
tập hợp tạo lên sức mạnh quốc gia, muốn tập hợp được thì vua phải có trí, có
nhân. "Đạo là gì ? Đạo là vua, vua là gì ? Vua là người có thể tập hợp được
người ta. Tập hợp được thì giữ khéo cho người ta sống, khéo nuôi người ta;
khéo đặt ra trật tự cai trị người ta; khéo làm rõ và định việc cho người ta;
khéo che đậy sửa sai cho người ta... Bốn điều ấy mà đủ là thiên hạ theo về,
thế là quần tụ người ta" (quân, đạo -Tuân Tử); quan hệ giữa vua và dân thì
vua phải thấy được sức mạnh của nhân dân
Về quyền lực:
Khác các nhà tư tưởng nho giáo đời trước Tuân Tử chủ chương nền cai
trị vương đạo theo "pháp, hậu, vương" (Theo các thời vua Hạ, Thương, Vũ)
Phương pháp cai trị:
Tuân Tử coi trọng việc cai trị bằng lễ và bằng pháp luật. Trước hết ông
coi "Lễ" là tất yếu, vì sự nảy sinh của nó là tất yếu, và sự tác động của nó tới
trật tự xã hội là tất yếu, còn về pháp luật theo tinh thần "Vương đạo" thưởng
phạt công bằng, ông có xu hướng đề cao pháp luật.
Kết luận:
Nếu lấy tính thực tiễn làm tiêu chuẩn, tư tưởng chính trị cảu TuânTử có
bước tiến quan trọng so với Khổng Tử và Mạnh Tử, đề cao quân quyền song
đòi hỏi quân quyền phải thiết thực với cuộc sống hơn, ông đề cao "Lễ", nhưng
với tinh thần lý giải thực tế hợp lý, ông chủ chương cai trị bằng pháp luật điều
mà Khổng Tử và Mạnh Tử ít bàn đến(1).

(1)

Tuân Tử - theo sách lược Lịch sử tư tưởng chính trị - NXB Chính trị Quốc gia, 2001 – tr.94


13


II. Sự tiếp biến và ảnh hưởng của tư tưởng chính trị Nho giáo ở
Việt Nam

.

1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.
Vượt biên giới Trung Hoa, Nho giáo truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản và Việt
Nam, để hình thành một vành đai văn hoá Nho giáo, khi nghiên cứu sự xân
nhập của Nho giáo vào Việt Nam, tác giả Ngô Xuân Thảo, Nông Thị Mồng có
chung một nhận định: Hán Nho được du nhập vào Việt Nam từ những năm
cuối trước công nguyên, bằng những con đường khác nhau: một là: thông qua
con đường của những đội quân xâm lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo;
hai là: thông qua con đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ quan chức
người Trung Quốc được cá triều đình phong kiến Trung Quốc phá thực hiện
ách thống trị Bắc thuộc ở Việt Nam, trong đó có Quang Tích, Nhâm Diên, Sĩ
Nhiếp... là những quan lại đã có nhiều nỗ lực trong việc truyền bá Nho giáo
tới Việt Nam; ba là: con đường của những thương nhân theo đường biển đưa
Nho giáo tới Việt Nam; bốn là: thông qua con đường của những dân cư tự do
người Trung Quốc có hành động chống lại triều đình và bị săn đuổi, đã di cư
tới Việt Nam để sinh sống. Sự di cư của những người dân Trung Quốc này
cũng góp phần đưa tư tưởng Nho giáo vào Việt Nam.
Trong các cách thức xâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam thì co
đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan lại người Trung Quốc
trong suốt thời kỳ Bắc thuộc là chủ yếu.Vì nó nằm trong chính sách chủ động
âm mưu đồng hoá của các triều đình phong kiến đối với Việt Nam.
2. Sự tiếp biến tư tưởng chính trị Nho giáo của người Việt Nam.
Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu như thế nào? Tác giả Tô Xuân

Thảo đã có những phân tích và luận giải sâu sắc, tác giả cho rằng, tuy là một
học thuyết co nhiều nhân tố tích cực nhưng suốt hơn một nghìn năm Bắc
thuộc Nho giáo vẫn không có vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần của cộng
đồng xã hội người Việt, không được đa số người Việt hào hứng đón nhận, bởi
nhiều lý do khác nhau: Nho giáo là công cụ của kẻ thống trị ngoại bang ức
hiếp nhân dân ta nên, không được chấp nhận, hơn nữa nó cũng không phù hợp
với xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng.

14


Sau một thời gian người Giao Châu dần dần làm quen với Nho giáo, từ
đó có sự thay đổi trong nhận thức, trong thái độ đối với Nho giáo; từ phản
ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi, biến cộng cụ của kẻ địch thành công cụ
của chính bản thân mình(1).
Nét đặc chưng của người Việt trong quá trình tiếp thu hệ thống tư
tương Nho giáo là đã tiếp thu hệ thống này như một hệ thống "những công
thức toán" đã có sẵn để áp đặt một cách giáo điều, máy móc vào thực tiễn của
đời sống xã hội, mà tiếp thu có chọn lọc có phát triển, người Việt đã kế thừa
và phát huy những tư duy vốn có của tổ tiên, đồng thời tiếp thu hệ thống tư
duy đã phát triển qua mấy nghìn năm của người Hán, làm phong phú vốn tri
thức của mình và trở thành những yếu tố Nho giáo mang bản sắc Việt Nam
như:
 Yếu tố áp dụng cho việc xây dựng một nhà nước phong kiến và một
trật tự xã hội phong kiến Việt Nam vững mạnh và phát triển.
 Yếu tố tư tưởng về xây dựng các mối quan hệ xã hội theo cấu trúc
"Ngũ luân".
 Yếu tố tư tưởng coi trọng dân.
Theo hướng nghiên cứu chi tiết hơn về phương pháp người Việt đã tiếp
thu Nho giáo các tác giả: Lê Bỉnh, Lê Thị Thuỷ... đã có những nhận định sắc

nét, đồng quan điển với những nhà nghiên cứu về Nho giáo, trong cuốn "một
số vấn đề về Nho giáo Việt Nam" NXB chính trị QG 1999 của tác giả Nguyễn
Nam Thắng cho rằng: "Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ thời kỳ Bắc
thuộc, đến nước ta Nho giáo được dung hợp và hoà đồng theo cách nghĩ của
người Việt Nam". Từ khi được Việt Nam hoá, Nho giáo đã góp phần đáng kể
vào việc tạo dựng nền văn hiến Việt Nam, thành công cụ tề gia, trị quốc và
quan trọng hơn Nho giáo đã trở thành một thủ thuật chính trị để biểu đạt tư
tưởng yêu nước.
"Nhìn vào tư tưởng chính trị Việt Nam thì ta có thể thấy sự tiếp biến tư
tưởng chính trị Nho giáo của nhân dân ta diễn ra như thế nào qua từng giai
đoạn cụ thể"
2.1 Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc:
(1)

Nghiên cứu khoa học: 1993 – 2003, NXB Chính trị Quốc gia, tr.92

15


Thời kỳ này hoàn toàn chưa chịu sự tác động của Nho giáo vì Nho giáo
chưa được du nhập vào nước ta.
2.2 Thơi kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc:
Đây là thơi kỳ nô lệ kéo dài hơn một nghìn năm (từ 179 trước công
nguyên đến 938) kể từ khi Triệu Đà xâm chiếm và chia nước Âu Lạc thành
hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, Xâm chiếm nước ta xong ổn định tình hình
và cho mở các lớp dạy tiếng Hánnhằm đào tạo đội ngũ quan lại phục vụ cho
chính quyền đô hộ, rồi truyền bá Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo ... vào nước
ta. Lúc đầu, Nho giáo là công cụ của bọn đi xâm lược, áp bức nhân dân ta nên
không được nhân dân ta tiếp nhận hơn nữa nó không phù hợp với một chế độ
xã hội vừa thoát thai từ chế độ Lạc Hầu - Lạc Tướng, sau một thời gian làm

quen và nhận thấy những ưu điểm của Nho giáo người Việt đã dần tiếp thu nó,
song tiếp thu một cách chọn lọc "được luỹ tre làng khúc xạ" Nho giáo thành
những tư tưởng Nho giáo mang bản sắc Việt Nam và trở thành công cụ tề gia
trị quốc sau này.
2.3 Thời kỳ phục hưng dân tộc : (từ thế kỷ X - XV)
Thời kỳ này có một đặc điểm hết sức quan trọng chi phối tư tưởng
chính trị ở nước ta, đó là phật giáo, phật giáo là quốc giáo từ thế kỷ thứ X đến
thế kỷ XVI, nó chi phối mọi quan hệ chính trị trong nhà nước. Thời Lý các
tăng sư tham gia vào điều hành nhà nước, là cố vấn của nhà vua, nhưng từ thế
kỷ thứ XIV trở đi, phật giáo giảm dần vai trò chính trị . Từ thế kỷ trở đi Nho
giáo lúc này đã ảnh hưởng mạnh đến mọi lĩnh vực của đời sống nước ta và lên
ngôi và trở thành hệ tư tưởng chính trị thống trị ở nước ta, chi phối và ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống chính trị nước ta.
Khi Nho giáo đã trở thành quốc giáo nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống chính trị nước ta để hình thành những tư tưởng chính trị nổi bật như:
 Tư tưởng dựa vào dân, khoan dân, lấy dân làm gốc, coi nhân dân là
lực lượng quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các đời
Lý - Trần quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của dân tranh thủ được lòng
dân, được nhân dân ủng hộ.

16


 Tư tưởng đề cao đức trị, rồi các bộ luật đầu tiên củ người Việt Nam ra
đời từ thời Lý - Trần với đỉnh cao là luật Hồng Đức cũng mang những yếu tố
trong nó.
 Tư tưởng chính trị trong thời kỳ này được phản ánh thông qua các đại
biểu tiêu biểu, đó là những thủ lĩnh chính trị, những trí thức lớn, những nhà
văn hoá, những người hội tụ được tinh hoa của dân tộc, như: Lý Công Uẩn,
Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông,.... sau đây ta

xét hai đại biểu có tư tưởng chính trị ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo:
Trần Quốc Tuấn: (1228 - 1300)
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tổng chỉ huy quân đội nhà Trần
trong kháng chiến chống quân Nguyên, là anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta.
Ngoài tài thao lược quân sự, ông còn là nhà tư tưởng lớn, các tác phẩm: Binh
thư yếu lược. Vạn kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ, là những anh hùng
văn chắt lọc, đúc kết từ chính cuộc đời chiến đấu của ông; là cống hiến vị đại
vào binh pháp, đường lối quân sự nước nhà. Hịch tướng sĩ còn thể hiện tư
tưởng yêu nước, quyết tâm đánh giặc của ông. Đứng trước quân Nguyên thiện
chiến, tàn bạo và hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, Trần Quốc Tuấn đã
đánh tan tư tưởng sợ địch phát huy tư tưởng quyết chiến, quyết thắng trong
binh sĩ và nhân dân.
Tư tưởng chính trị của ông thể hiện qua đường lối chiến lược, chiến
thuật, nổi bật nhất là tư tưởng "khoan dân":
Trần Quốc Tuấn chủ trương thân dân, dựa vào dân để đánh giặc giữ
nước, theo ông triều đình phải thi hành chính sách "khoan thư sức dân, quan
tâm đến đời sống của dân, ông hiểu rằng không thể thắng địch nếu chỉ dựa
vào quân đội, vũ khí mà còn phải dựa vào dân" con chim hồng hạc kia bay
được cao là nhờ có sáu xương trụ cứng, nếu không cũng chỉ như chim thường
mà thôi".
Khoan dân là dưỡng dân, sử dụng hợp lý sức dân vì đó là "kế sâu gốc
bền rễ là thượng sách để giữ nước"
Ông có khả năng thu phục dân, huy động sức dân bằng nhân dân, công
tâm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, ông tiễn cử với vua những
vị tướng tài: Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão.
17


Khoan dân là biết lăng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, ông còn biết
kết hợp hài hoà quền lợi của dân với quyền lợi của giai cấp phong kiến, đó là

sự quan tâm đến binh sĩ: "không có cơm thì ta cho ăn, không có áo thì ta cho
mặc..." nếu giặc đến thì "không những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc
của các người cũng mất, gia quyến ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn",
vì vậy tất cả các tướng sĩ phải chung sức đánh giặc, đó chính là công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị trong quân sự đương thời.
Trần Quốc Tuấn đã nhận thấy vai trò quyết định của dân trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Dó là nhận định sâu sắc vượt thời đại. Nó bắt
nguồn từ học thuyết "nhân - chính", tức "Nhân trị" và "Đức trị" theo tinh thần
Khổng - Mạnh, song ở Trần Quốc Tuấn Nho giáo đã được cải biến phù hợp
với điều kiện xã hội, tâm lý con người Việt Nam. Tư tưởng "phụ tử thư binh",
"khoan thư sức dân" trở thành di huấn chính trị cho đời sau.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại của
quan tư đồ Trần Nguyên Đán, ông đậu thứ học sinh, có công giúp Lê Lợi
đánh đuổi giặc Minh, giành độc cho đất nước, ông từng giữ chức quan nghị
đại phu khiêm tri tam quân sự, chức Hàn lâm viện thừa chỉ kiêm Quốc Tử
Giám, vì Lê Thái Tông chét đột ngột, ông bị vu oan và gia đình bị tru di tam
tộc.
Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi được trình bày trong các tác phẩm:
Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí... và được thể hiện qua thực tiễn
của ông. Đó là tư tưởng về chủ quyền quốc gia, đường lối trị nước,.... Nhưng
bao chùm lên tất cả là tư tưởng "nhân tự nghĩa" một tư tưởng chịu sự ảnh
hưởng của Nho giáo.
Tư tưởng chính trị "nhân nghĩa" của ông được vận dụng trong cuộc
kháng chiến chống giặc là một thứ vũ khí tư tưởng có tác dụng như những
đạo quân thiện chiến đánh thắng và tư tương tâm lý tinh thần của kẻ địch
"Nhân nghĩa" là đường lối chính trị, là chính sách cướu nước và dựng
nước, "nhân nghĩa" là cơ sở đường lối trị nước và chuẩn mực trong ứng xử, là
nguyên tắc trong giải quyết công việc quốc gia, "việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân", cứu nước trước hết phải cứu dân, đó là nét nổi bật trong tư tưởng của

18


Nguyễn Trãi "yêu dân là điều kiện đẻ ổn định xã hội, "nhân nghĩa" là lòng
thương người, sự khoan dung với kẻ lầm đường lạc lối. Nếu họ cải tà quy
chính thì "cả nhà lớn bé đều được bình yên vô sự".
"Nhân nghĩa" là trừ bạo, đánh đuổi ngoại xâm. Dân là người bị đau khổ
nhất trong cảnh áp bức bóc lột của giặc Minh "thui dân đen trên lò bạo ngược,
hãm con đỏ dưới hố tai ương" - Song "đồ binh là thứ không bạo, đánh nhau là
việc nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ mới dùng đến".
Nhân đạo, yêu hoà bình là nét đặc sắc tronh tư tưởng "nhân nghĩa" của
Nguyễn Trãi: khi kẻ thù đã thua, muốn sống thì "thần vũ không giết, ta thể
lòng trời để tỏ hiếu sinh" mà cấp thuyền, cấp ngựa cho lũ bại binh rút chạy về
nước, nhân dân ta không những đấu tranh vì hạnh phúc của chính mình, mà
còn vì cuộc sống của người Hán. Nếu quân Minh lui quân thì "không những
may riêng cho một địa phương Giao Chỉ mà cũng là may chung cho cả thiên
hạ, nhân dân" (thư gửi Vương Thông). Vậy nhân nghĩa là chủ nghĩa nhân đạo
cao cả, toàn diện. "Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường
bạo".
Nhân nghĩa là phải xem dân là gốc nước, dân có quan hệ tới sự an nguy
của triều đại. Nguyễn Trãi đã tổng kế thực tiễn: Sự thất bại của nhà Hồ là do
phải đánh giặc một mình vì "lòng dân không theo", giặc Minh tàn ác bị dân
căm hờn mà bị tiêu diệt. Ông khuyên nhủ các vua: "'Mến người có nhân là
dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng la dân". Đất nước thái bình nhân dân
no đủ, vua thánh tôi hiền" là lý tưởng chân lý của ông.
Nhận xét về tư tưởng nhân nghĩa cuả Nguyễn Trãi tác giả Lê Bỉnh nhấn
mạnh rằng: " tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nét độc đáo trong Việt
Nam hoá nho giáo". Sinh thời Nguyễn trãi, tựu nho giáo .Tuy nhiên ông đã
không họ nho giáo với kiểu sao chép, giáo điều mà trên tỉnh trần dân tộc và
dân chủ, với năng lực tư duy dộc lập, sáng tạo sắc sảo. Ông đã Việt Nam hoá

Nho giáo. Vi vậy" Nhân Nghĩa " là tư tưởng đạt tới trình độ cao dựa trên
thưc tế dựng nước và dữ nước.Tư Tưởng ấy hoàn chinh, sâu sắc, tiêu biểu cho
một xu hướng phát triển xã hội tiến bộ." Nhân nghĩa " là phương thức giữ
nước, là vũ khí chiến đấu, là đường lối đối ngoại, là chăm lo đến đời sống

19


nhân dân nó chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo cao cả, toàn diện và là đỉnh cao
của trí tuệ Việt Nam.
2.4 Giai đạon chia cắt đất nước và sử suy thoái của chế đọ phng kiến
(từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX) .
Đây là thời kỳ có nhiều diễn biến, sự kiện lịch sử phức tạp có nhiều
khuynh hướng tượng chíng trị: nổi bật là: tư tưởng thống trị phong kiến, điển
hình nhất là tư tưởng của vua Minh Mệnh (thứ nhất): thứ hai: tư tưởng yêu
nước các các văn thân, sĩ phu và các phong trào của nông dân chống thực dân
phong kiến; thứ ba, tư tưởng đổi mới canh tân đất nước; thứ tư: tư tưởng dân
chủ tư sản, tiểu tư sản .
Nhìn chung ở những thế kỷ đầu trong giai đoạn này Nho giáo vẫn còn
ảnh hưởng nhiều tới mọi mặt văn hoá, xã hội đạo đức của nhân dân ta. Trong
đó tư tưởng chính trị của Nho giáo về đường lối xây dựng đất nước cách cai
trị đất nước...vẫn được vua, quan, những người có chức có quyền sử dụng và
áp dụng để trị quốc xây dựng một vương triều mang màu sắc Việt Nam, đây
là tư tưởng chính trị phong kiến tiêu biểu nhất là vua Minh Mệnh, Lê Quý
Đôn, ..
Những thế kỷ còn lại của giai đoạn trên do hoàn cảnh đất nước có
những diễn biến phức tạp, nên có nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau
không theo con đường của Nho giáo nữa, song bản thân các nhà tư tưởng
thường xuất thân trong các gia đình Nho học nên ít nhiều củng thấm đượm
văn hoá Nho giáo trong tư tưởng của mình song tư tưởng trị quốc của Nho

giáo không trở thành tư tưởng chính và có xu hướng mờ nhạt dần. Tuy có Nho
giáo trong cung cách ứng xử gia đình vẫn tồn tại bền vững và phổ biến cho
đến tận ngày nay.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh - (Người tiếp biến sáng tạo Nho giáo)
Hồ Chí Minh là một tấm gương thật suất sắc trong việc tiếp biến tư
tưởng chính trị của Nho giáo.
"Đối với Nho giáo Hồ Chí Minh nhận thấy sự bất lực của nó đối với
cách mạng Việt Nam nên Người đã phủ định Nho giáo, song đây là một sự
phủ định biện chứng. Hồ Chí Minh đã không thể không gạt bỏ Nho giáo trên
con đường cứu nước của mình, những người đã không "Đổ chậu nước bẩn
20


cùng đứa trẻ" mà Người đã cương quyết gạt bỏ những cái cốt lõi lạc hậu của
Nho giáo, để rồi sau đó giữ gìn và phát huy những yếu tố hợp lý của Nho giáo
nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng”(1).
Người đã kế thừa những tư tưởng chính trị tốt đẹp của Nho giáo như:
 Thấy được sức mạnh của nhân dân, một nhà nước do dân, "Gốc có
vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người khẳng định
nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, "nước ta là nước dân chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều vì dân.
Người đã sử dụng những khái niện, phạm trù của Nho giáo với nội
dung mới, trình độ mới để biểu đạp tư tưởng yêu nước và việc tuyên truyền
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta.
Người đã nêu ra những hệ giá trị đạo đức cao cả nhân đạo như: nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín...và chính bản thân người cũng là tấm gương sáng ngời về
đạo đức cách mạng. Người có những nhận định có giá trị là kim chỉ nam cho
chúng ta nghiên cứu nho giáo để áp dụng vào xây dựng bộ máy nhà nước, các
phương thức quản lý nhà nước, cán bộ,công chức nhà nước...mà đang đặt ra
nhưng vấn đề cần quan tâm nghiên cứu để áp dụng vào việc đổi mới.

III. Nho giáo với công cuộc đổi mới nước ta hiện nay
1. Định hướng kế thừa Nho giáo:
Có thể nói rằng, Nho giáo là một học thuyết lâu dài và cho đến nay vẫn
được khá nhiều người chấp nhận một cách tự nguyện. Ở Việt Nam, Nho giáo
được Việt hoá qua các thời đại kể từ khi nó được truyền vào nước ta. Vì vậy,
cùng với việc tiếp thu các nền văn hoá, văn minh khác, trong bối cảnh đất
nước thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập và toàn cầu hoá bước vào nền
kinh tế tri thức hôm nay, chúng ta phải tiếp tục biến những tinh hoa Nho giáo
trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Để kế thừa và phát huy có hiệu quả những giá trị nho giáo cần phải:
Một là, xuất phát từ phương pháp biện chứng, nho giáo là một hệ thống
tư tưởng chính trị thống trị của giai cấp thống trị. Nho giáo vừa có những ưu
điểm, đóng góp tích cực, vừa có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đối với
đời sống văn hoá xã hội cho nên một mặt, chúng ta tránh tôn sùng nho giáo,
(1)

Vấn đề quản lý Nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, tr.115

21


cho nho giáo là chính đạo độc tôn, mặt khác cần tránh quan điểm siêu hình,
phiến diện một chiều là quan điểm phủ định sạch trơn nho giáo.
Hai là: Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu khách quan trong thời đại hiện
nay. Mở cửa, hội nhập là cơ hội tốt nhất cho chúng ta tiếp thu các nền văn
hoá, văn minh thế giới cả nền văn minh phương tây và cả nền văn minh
phương đông từ thời kỳ xa xưa đến nay .
Ba là: Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội: không
chỉ trong văn hoá, tư tưởng, mà cả trong chinh trị -xã hội, trong học thuyết và
vì vậy cũng ảnh hưởng đến xây dựng kinh, tế xây dựng, văn hoá xây dựng

con người và nhiều mặt khách. Đó là những mặt thời nào chúng ta cũng phải
chú ý .
2. Kế thừa và phát huy những giá trị của nho giáo trong công cuộc
đổi mới đất nước.
2.1 Kế thừa và phát triển tư tưởng chính trị của nho giáo trong vấn đề
quản lý nhà nước.
Hiện nay, trong nội dung tư tưởng triết học Trung quốc cổ đại có những
quan điểm về vấn đề quản lý nhà nước được nhiều nhà nghiên cức khai thác
để kế thừa và vận dụng vào việc quản lý nhà nước hiện đại. Nhiều quốc gia
Châu Á đã nghiên cứu và vận dụng thành công một số hạt nhân trong các triết
học Trung Quốc cổ đại đặc biệt là triết học của nho giáo trong những thật kỷ
gần đây, tại nhiều nước Châu Á: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo
là những nước có truyền thống nho giáo phát triển với tốc độ chưa từng có sự
phát triển nhanh chóng về các mặt kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật. Nhiều
nhà khoa học đã phân tích rằng chính nho giáo là nhân tố thúc đẩy của những
nước này. Người ta phân tích rằng nhờ nho giáo mà nhân dân tôn trọng kỷ
luật và trận tự, được sợ giàng buộc nghiêm khắc của lễ giáo trong quan hệ gia
đìnhvà xã hội và có thái độ trung thành và tín nhiệm với chế độ và xí
nghiệp(1). Các tư tưởng của nho giáo về "nhân trị" về "quân tử" với tư cách là
người cầm quyền đang được khai thác và vận dụng trong việc quản lý nhà
nước ở nước này.

(1)

Vũ Khiêu – Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa học - xã hội 1997, tr.22-23

22


Ở Việt Nam trong truyền thống, các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ

đại trong đó đặc biệt là nho giáo, đã có nhưng tác động sâu sắc đến những
tầng lớp lãnh đạo của nhà nước khong kiến. Ở Việt Nam, từ thế kỷ X đến thế
kỷ XIV, giai cấp cầm quyền đã nhận thấy ưu điểm của nho giáo trong việc
củng cố vương triều, tổ chức của nhà nước, thiết lập quan hệ chặt chẽ với nhà
nước và nhân dân. Tứ thư, ngũ kinh đã từng là cơ sở cho việc chọn quan lại
trong các triều đình phong kiến Việt Nam trước đây. Sau cách mạng tháng
tấm thành công năm 1945 trong nhiệm vụ xây dựng nhà nước cách mạng, vấn
đề đặt ra đối với các tư tưởng triết học Trung Quốc đã từng ảnh hưởng đến
Việt Nam là đánh giá cao vai trò của chúng, đặc biệt là nho giáo.
Hồ Chí Minh là một người đã từng hấp thu những tư tưởng chính trị
của nho giáo.
Ngày nay, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, Việt Nam chúng ta đang
trên con đường thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và các chính sách đổi mới của Đảng
đã làm khởi sắc bộ mặy của xã hội Việt Nam. Nhà nước trong thời kỳ chuyển
đổi đã có những đóng góp to lớn vào thành tựu của đất nước, các phương thức
quản lý nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước... đang đặt ra những vấn đề
cần quan tâm nghiên cứu để đổi mới.
Trong việc hoàn thiện quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay chúng ta
đương nhiên phải tiếp thu những lý thuyết hiện đại về quản lý nhà nước.
Nhưng để trong việc quản lý nhà nước, chúng ta cần tính đến sự tiếp thu một
cách sáng tạo những hạt nhân hợp lý của những tư tưởng về quản lý nhà nước
triết học nho gia của Khổng Mạnh. "Việt Nam là một xã hội phương Đông,
Nhà nước Việt Nam phải có những đặc thù của nhà nước phương Đông, tiếp
thu được những lý thuyết hiện đại về quản lý nhà nước đồng thời kết hợp các
hạt nhân hợp lý trong các tư tưởng về quản lý nhà nứơc của truyền thống
phương Đông, đặc biệt là Nho giáo"(1).
Vậy chúng ta có thể vận dụng những tư tưởng quản lý nhà nước của
nho giáo với những tư tưởng sau :


(1)

Vấn đề quản lý Nhà nước trong triết học Trung Quốc cổ đại, NXB TPHCM 2002 - Nguyễn Anh Tuấn, tr.138

23


Thứ nhất: Một nhà nước do dân, vì dân, các chính sách quản lý nhà
nước phải phat huy được sức mạnh của nhân dân: tư tưởng trên được rút ra từ
tư tưởng "nhân trị ","đức trị " trong Nho giáo, thực chất đây chính là những tư
tưởng về Nhà nước vì dân, đây là tư tưởng mà vẫn còn giá trị đối với chúng ta
ngày nay...
Điều 2: Hiến pháp Việt Nam đã khẳng định nhà nước Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, vậy nó phù hợp
với nội dung tư tưởng Nho gia.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, người đã thấm nhuần các giá trị tiến bộ của tư
tưởng Nho giáo, đã sớm chỉ ra cho chúng ta thấy sức mạnh của nhân dân một
nhà nước do dân: "gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền
nhân dân". Người cũng đã dạy phải lấy dân làm gốc. Đó là sự kế thừa các giá
trị tiến bộ của các nhà tư tưởng đi trước. Nhưng người xưa mới chỉ thấy sức
mạnh của nhân dân, mà chưa thấy nhân dân là người chủ quyền cai trị, tức là
quyền lực nhà nước, Chủ Tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở thấy được sức mạnh to
lớn của nhân dân đã đi đến khẳng định rằng, nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực nhà nước : "nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đèu của dân ".
Như vậy trong nhà nước ta, nhân dân không những là một sức mạnh to
lớn, mà con là nguồn gốc của quyền lực nhà nước.Do vậy, mọi công việc của
nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, xuất phát từ ý nguyện của nhân dân.
Còn trách nhiệm của người cầm quyền là phải làm "người đầy trung thành của
nhân dân".

Những điều nói trên về nhà nước của dân, vì dân hiện nay người ta bàn
rất nhiều, đã trở thành mấy chữ "a, b, c", nhưng thực sự như Bác Hồ nói:
"không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được".
Để thực sự là nhà nước do dân thì nhà nước ta hiện nay phải phát huy
sức mạnh của nhân dân trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước.
Nhà nước phải tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện mọt cách tích cực vai trò
công dân của mình. Việc thực hiện các chính sách của nhà nước không chỉ là
sự thừa hành một cách thụ động, mà phải diễn ra một cách chủ động, lắng
nghe, nắm bắt nhu cầu của các tác nhân xã hội. Phải thực hiện đúng phương
24


châm nhà nước và nhân dân cùng làm, cụ thể như trong các vấn đề đấu tranh
phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường ...cần phải phát
huy được sự tham gia của nhân dân .
Trong một nhà nước do dân không nhứng nhà nước phải phối hợp với
nhân dân để thực hiện các công việc của nhà nước, mà nhà nước cũng phải
mạnh dạn giao cho nhân dân, thực hiện những công việc nhất định mà nhà
nước không thực hiện.
Trong một nhà nước vì dân, mọi chính sách của nhà nước cần phải vì
lợi ích của nhân dân, phải có sự thống nhất của nhà nước với ý trí, nguyện
vọng của nhân dân, Để thực hiện được điều này, trước khi đưa ra những chính
sách quản lý nhà nước có liên quan đến lợi ích của nhân dân, phải đưa ra cho
nhân dân tham gia đóng góp ý kiến, nhà nước phải tôn trọng và ghi nhận ý
kiến của nhân dân, đặc biệt là công việc làm luật, Quốc hội phải thể hiện được
ý nguyện của nhân dân, phải mở rộng các hình thức để nhân dân tham gia vào
quá trình lập pháp của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ
với cử tri, thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của nhân dân với
Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan.
Điều cần đáng nói là trong một nhà nước vì dân để đảm bảo sự thống

nhất giữa ý trí của nhà nước và ý trí của nhân dân không thể thiếu cơ chế thực
hiện trưng cầu dân ý. Ở nước ta, thể chế trưng cầu dân ý được khẳng định
ngay trong bản hiến pháp đầu tiên qua quy phạm về phúc quyết : "nhân dân
có quyền phúc quyết về hiến pháp và những vấn đề liên quan đến vận mệnh
của quốc gia, theo điều thứ 32 và 70". Hiến pháp hiện hành cũng thừa nhận
thể chế này qua quy định về thẩm quền của quốc hội quyết định việc trưng
cầu dân ý tại điều 84, tuy nhiên trên thực tế ở Việt Nam chưa có cuộc trưng
cầu dân ý nào, mặc dù pháp luật thừa nhận song thiếu cơ sở pháp lý cụ thể
cho việc thực hiện quyền bỏ phiếu trưng cầu của nhân dân. Trong một cơ chế
dân chủ hiện đại, nhà nước pahỉ phát huy trí tuệ của nhân dân. Một nhà nước
biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao dân thì sẽ thấy dân
không chỉ nói lên điều mình mong muốn mà còn làm sáng tỏ trí tuệ của mình,
gợi ý và chỉ ra rằng cần luật lệ gì? và luật lệ ấy phải có nội dung như thế nào,
cơ quan nhà nước phải giải quyết các vấn đề quốc tế dân sinh ra. Để quyền bỏ
25


×