TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NGUYỄN THU HIỀN
HIỆN THựC CHIẾN TRANH VÀ HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI CHIẾN Sĩ TRONG TIỂU THUYẾT
TU ÔI THƠDỮDỘI CỦA PHÙNG QUÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhỉ
HÀ NỘI-2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
NGUYỄN THU HIỀN
HỆN THựC CHIẾN TRANH VÀ HÌNH TƯỢNG
NGƯỜI CHIẾN Sĩ TRONG TIỂU THUYẾT
TU ÔI THƠDỮDỘI CỦA PHÙNG QUÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhỉ
Ngưòi hướng dẫn khoa học
ThS. TRẦN THỊ MINH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, lòi
cảm ơn chân thành tới Thạc sĩ Tràn Thị Minh - người đã trực tiếp tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trinh tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này.
Đồng thời, em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Giáo dục
Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em hoàn
thành khóa luận này.
Bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về lĩnh vực sáng tạo trong nghiên cứu
khoa học, kiến thức của em còn nhiều hạn chế và bỡ ngỡ. Do vậy, khóa luận
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quí báu của quý thầy cô để kiến thức của em được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
LỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thu Hiền
Em xin cam đoan, dưới sự hướng dẫn của ThS. Trần Thị Minh, khóa
luận tốt nghiệp Hiện thực chiến tranh và hình tượng người chiến sĩ trong tiểu
thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán là của riêng em, không trùng với kết
quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Nguyễn Thu Hiền
MUC LUC
••
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 5
4. ...........................................................................................................
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 6
6. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................. 6
NỘI DƯNG ........................................................................................................ 7
Chương 1 ............................................................................................................ 7
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH TRONG TUỒI THƠ DỮ DỘI ....................... 7
1.1. Phùng Quán và tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội............................................ 7
1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp ............................................................................... 7
1.1.2. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội - một hiện tượng văn học thiếu nhỉ thời
kì đỗi mới.......................................................................................................... 11
1.2.
Hiện thực những năm tháng chiến tranh ác liệt trên mảnh đất cổ đô
13
1.2.1. Huế - những ngày đầu kháng chiến ................................................... 13
1.2.1.1. ...................................................................................................
Xứ Huế mộng mơ, yên bình trong thời chiến ................................................... 13
1.2.1.2. ...................................................................................................
Xứ Huế bị tàn phá đau thương ......................................................................... 18
1.2.1.3.
Chiến tranh và sự thử thách ............................................................. 22
1.2.2. Những phát hiện mới về đòi sống kháng chiến ................................ 29
1.2.2.1. ...................................................................................................
Đời sổng kháng chiến gian khổ “nếm mật nằm gai”....................................... 29
1.2.2.2.
Vẻ đẹp của đời sống kháng chiến ..................................................... 37
Chương 2 .......................................................................................................... 44
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI CHIẾN sĩ TRONG TUỒI THƠ DỮ DỘI................. 44
r
ĩ
2.1. Hoàn cảnh gia nhập Vệ Quôc Đoàn của những thiêu niên trinh sát Trung
đoàn Trần Cao Vân........................................................................................... 44
2.2. Những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ...............................................52
2.3. Chân dung người lính trẻ...................................................................... 57
2.3.1. Trong đài sống tập thể với đồng đội ...................................................57
2.3.2. Trong chiến đẩu với kẻ thù .................................................................62
2.3.3. Mãi mãi tuổi mười ba .......................................................................... 70
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 76
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học viết về đề tài chiến tranh từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng
vô tận trong văn chương. Hiện tượng ấy bắt nguồn từ chính lịch sử dựng nước
và giữ nước oai hùng của dân tộc ta. Hiện thực Việt Nam giai đoạn 1945 -1975,
do hoàn cảnh đặc biệt của nó, đã xuất hiện một đội ngũ nhà văn trẻ với nhiều
tiếng nói, nhiều giọng điệu khác nhau đã đưa đề tài chiến tranh lên làm trung
tâm, đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của lịch sử, sáng tạo nên cảm hứng lớn
của thời đại và có vị trí xứng đáng ừong tiến trình văn học dân tộc. Nhà văn
Phùng Quán là một trong những nhà văn trẻ tiêu biểu ấy. Trong những sáng tác
của mình, Phùng Quán đã gây được sự chú ý ở độc giả, đặc biệt là ở thể loại
tiểu thuyết.
1.2. Là một bộ phận không thể thiếu của văn học Việt Nam hiện đại, văn
học thiếu nhi trải qua mấy chục năm phát triển và trưởng thành, đã đạt được
nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Trong số những cây bút quen thuộc của bạn đọc
nhỏ tuổi, Phùng Quán cũng là gương mặt tiêu biểu. Sinh ra và trưởng thành
trong chiến tranh, với tư cách là nhà văn người lính, Phùng Quán đã thực sự
khẳng định được vai trò, vị trí đặc biệt không thể thiếu của ông ở mảng văn học
viết về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu
nhi nói riêng. Nhắc đến Phùng Quán, chúng ta không thể không kể đến tiểu
thuyết lớn nhất của ông: Tuổi thơ dữ dội. Tác phẩm được viết trong thời kỳ gian
nan, cực nhọc nhất của Phùng Quán, viết trong kí ức, trong nỗi day dứt buồn
đau, bởi thế, tác phẩm này như lòi bộc bạch chân thành của nhà văn.
Tuổi thơ dữ dội là cái nhìn đầy cảm phục của tác giả trước sự chiến đấu,
dũng cảm quên mình của đội Vệ Quốc Đoàn con nít, là một thứ tình cảm đầy
xót xa ẩn sau cái nhìn ấy. Xót xa về mất mát, xót xa về sự hi sinh của tuổi thơ.
1
Sự hi sinh nào cíõng là đau đớn, nhưng sự hi sinh của tuổi thơ càng đau đớn đến
bội phần. Tuổi thơ dữ dội là một tác phẩm xuất sắc, có ý nghĩa lớn đối với nền
văn học Việt Nam, đặc biệt khi tập trung khắc họa hình ảnh đội thiếu niên trinh
sát Trần Cao Vân trong bức tranh toàn cảnh Huế - Thừa Thiên những ngày
kháng chiến ác liệt. Thế giới nhân vật trẻ thơ hết sức phong phú, mỗi nhân vật
lại mang một cá tính, đặc điểm riêng không thể lẫn, mang theo những ham
muốn phi thường, mang theo tư tưởng mà nhà văn gửi gắm, đã gặp những tình
huống đầy éo le làm chúng thêm gắn kết. Những tháng năm hùng tráng ẩn sau
đó là bao sự thật đau thương đầy nghiệt ngã. Cả một thế hệ trẻ thơ hi sinh tuổi
thơ của mình cho Huế trở về mộng mơ, cho “đất nước đứng lên”. Chính điều
này làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhưng không kém phần mói
mẻ cho tác phẩm trong nền văn học đương đại Việt Nam.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Hiện
thực chiến tranh và hình tượng người chiến sĩ trong tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ
dội” của Phùng Quán. Thực hiện đề tài này, người viết hi vọng sẽ đóng góp
một góc nhìn mới về tác phẩm xuất sắc này. Qua đó, có cái nhìn toàn diện hơn
về hiện thực chiến tranh được tái hiện trong văn học, đồng thời, khẳng định vị
trí của Phùng Quán và tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội trong nền văn học thiếu nhi
nước nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có một cây bút rất lạ kì trong nền văn học Việt Nam, cây bút ấy chẳng ai
khác chính là Phùng Quán - một nhà văn đã từng đi qua chiến hanh với tư cách
là một người lính, một con người với cuộc đời “ba chìm bảy nổi” từ những ngày
tham gia Vệ Quốc Đoàn. Những tưởng ông sẽ đem gọn những hờn tủi của cuộc
đời vào trang văn, nhưng không, sự thật hoàn toàn ngược lại, không oán trách,
không vì đau khổ riêng mà “đốt cháy những cái mình tôn thờ và tôn thờ những
gì mình từng đốt cháy”, ông đã âm thầm thai nghén tác phẩm lớn nhất của cuộc
2
đời mình - Tuổi thơ dữ dội.
Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán là một tác phẩm đặc biệt ừong văn xuôi
thời kì đổi mới. Bức tranh hiện thực về những tháng năm chiến tranh được ông
kể bằng giọng điệu lãng mạn, trữ tình về tình bạn, tình mẹ con, tình đồng đội...
đầy thi vị nhưng không kém phần hào hùng của những em bé trưởng thành
ừong bom đạn. Tuồi thơ dữ dội ra đòi đã mang lại một diện mạo mới, một cái
nhìn mới làm phong phú thêm đề tài chiến tranh trong văn học sau 1975. Tiểu
thuyết đã thu hút được sự chú ý của nhiều thế hệ độc giả, tuy nhiên cho đến nay
chưa có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm này.
Nhân sự kiện tác phẩm Tuổi thơ dữ dội được ba nhà xuất bản ấn hành, tác
giả Trần Cương đã viết: “Đó là kết quả quan trọng của gần 20 năm hoạt động
của tác giả từ khi khởi thảo cho đến khi hoàn thành tác phẩm. Trong thời điểm
hiện nay, khi đòi sống khó khăn, khi hàng loạt sách hay của thế giới được dịch
mà cuốn tiểu thuyết trong nước, dày tới hơn 800 trang in trên giấy xấu, vẫn thu
hút bạn đọc mà gợi lên những ý tưởng tốt đẹp thì đó là những điều đáng mừng”
[Xem 4].
Trong chuyên luận Truyện viết cho thiếu nhi sau 1975, nhà nghiên cứu Lã
Thị Bắc Lý dành nhiều trang đánh giá về Tuổi thơ dữ dội trên cả phương diện
nội dung và nghệ thuật, coi đây như minh chứng về những đổi mới của truyện
viết cho thiếu nhi sau 1975. Nhà nghiên cứu cho rằng: “Tác giả có cái nhìn cảm
phục trước sự chiến đấu dũng cảm quên mình của đội Vệ Quốc Đoàn con nít,
nhưng ừong chiều sâu của cái nhìn ấy có sự xót xa về mất mát, hi sinh, đau đớn
gấp bội phần. Hình ảnh đội thiếu niên trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân được
lồng trong bức tranh toàn cảnh những ngày Huế - Thừa Thiên kháng chiến.
Những nhân vật nhỏ tuổi ở đây với những ham muốn phi thường đã gặp nhiều
tình huống éo le, bị thúc đẩy, dồn nén, gắn bó với nhau... Đời sống lịch sử được
cảm nhận qua cuộc kháng chiến hết sức hùng tráng nhưng cũng đầy nghiệt ngã.
3
Cả một thế hệ trẻ thơ đã hi sinh tuổi thơ của mình cho đất nước đứng lên” [Xem
16].
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê trong bài Sự thật ngòi bút Phùng Quán nhấn
mạnh: “Ngay cả trong những tác phẩm nổi tiếng như Vượt Côn Đảo và Tuổi thơ
dữ dội, mặc dù tiểu thuyết là một thể loại văn học cho phép nhà văn thỏa sức
tưởng tượng và hư cấu, Phùng Quán vẫn tận dụng tối đa nhân vật, những chi
tiết có thật ngoài đời” [Xem 19].
Nhà văn Việt Linh viết: “Tôi đọc Tuổi thơ dữ dội và những năm đầu thập
kỷ 60, từ khi tác phẩm còn là những trang tư liệu của Phùng Quán. Suốt nghìn
trang sách, khắc sâu vào trong lòng tôi hai chữ trung hiếu. Một nỗi đau xé lòng
khi ta nhắc đến lời trăng ừối cuối cùng của Mừng, nhân vật trong truyện, trước
lúc em đi vào cõi vĩnh hằng” [Xem 13].
Nhà thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo nhận định: Tuổi thơ dữ dội không
phải là một câu chuyện cổ tích, mà là một câu chuyện có thật ở chốn trần gian,
ở đó những con người tuổi nhỏ đã tham gia vào cuộc kháng chiến chống xâm
lược bảo vệ Tổ quốc với một chuỗi những chiến công đầy ắp ly kỳ và hấp dẫn.
Đọc Tuổi thơ dữ dội chính là đọc lại một phần lịch sử tuổi thơ Việt, thấm đẫm
xúc động, cảm phục và tự hào...” [Xem 25].
Tác giả của thiên bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông - Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã dùng những mĩ từ để nhận xét: “Có một viên ngọc quý thời gian dành
riêng để ban tặng con người, đó là tuổi thơ. Viên ngọc màu nhiệm, trong sáng
nhưng quá mong manh, không thể tìm thấy lần thứ hai trong đời. Và có một thế
hệ người Việt chưa bao giờ được cầm viên ngọc trên tay, Tuổi thơ dữ dội của
Phùng Quán được viết cho thế hệ đó. Hãy đọc để nhớ lại, để tự hào, và để càu
nguyện cho những tuổi thơ sắp ra đời...” [Xem 13].
Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện - người dành sự quan tâm lớn đến vấn đề
giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ thơ Việt Nam cũng đánh giá cao Tuổi thơ dữ
4
dội: “Với một Ga - vơ - rốt, Victo Huygô đã viết lên những trang bất hủ. Trẻ
em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kì gian
khổ cùng với cha anh không kém gì những Ga - vơ - rốt trên chiến lũy cách
mạng Pháp. Thế mà những sách vở viết về những mặt này còn quá ít. Nhà văn
Việt nam còn mắc nợ các em quá nhiều. Với Tuổi thơ dữ dội, Phùng Quán đã
bắt đầu ừả nợ một cách chính đáng. Sách dày 800 trang mà người đọc không
bao giờ muốn ngừng lại, bị lôi cuốn bởi những nhân vật ngây thơ có, khôn ranh
có, anh hùng có, vì những sự việc khi thì hài hước, khi thì gây xúc động đến ứa
nước mắt... Tôi chỉ mong làm sao cho tất cả các em thiếu nhi Việt Nam được
đọc sách này” [Xem 12].
Tác giả Lê Thị Huế “đã khóc khi lần đầu tiên nghe kể chuyện này”, bà
viết: ‘TMổỉ thơ dữ dội, đúng như cái tên của truyện, những chi tiết trong ấy thực
sự dữ dội khi mà đọc xong, gấp sách lại vẫn thấy những đợt sóng cảm xúc dào
dạt trào dâng đến dữ dội nhưng trong sự dữ dội ấy là những tia sáng pha lê
chiếu sáng lòng độc giả cũng đến dữ dội” [Xem 10].
Qua những nhận xét khái quát trên, có thể thấy rằng tác phẩm Tuổi thơ dữ
dội đã được đón nhận, đánh giá như một hiện tượng văn học, được đánh giá cao
cả về nội dung và giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên, cho đến nay gần như chưa có
công trình nào đi sâu tìm hiểu một cách đầy đủ toàn diện và độc lập hiện thực
chiến tranh những ngày đầu kháng chiến trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của
Phùng Quán. Nhung những ý kiến đó là một điểm tựa, những gợi ý bổ ích mang
tính chất định hướng cho chúng tôi ừong quá trình hình thành khóa luận.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu bức tranh hiện thực thành phố Huế và hình tượng người
chiến sĩ những năm kháng chiến chống Pháp trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội
của Phùng Quán.
- Có được cái nhìn phong phú, toàn cảnh về hiện thực thành phố Huế nói
5
riêng cũng như hiện thực xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đương thời
nói chung và vẻ đẹp anh dũng của một thế hệ trẻ thơ trong chiến tranh.
4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Hiện thực chiến tranh và hình tượng người chiến
sĩ trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán.
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán do
Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học
- Phương pháp so sánh văn học
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính
khóa luận được triển khai trong hai chương sau:
Chương 1: Hiện thực chiến tranh trong Tuổi thơ dữ dội
Chương 2: Hình tượng người chiến sĩ trong Tuổi thơ dữ dội
6
NỘI DUNG
Chương 1
HIỆN THựC CHIẾN TRANH TRONG TUỒI THƠ DỮ DỘI
1.1. Phùng Quán và tiểu thuyết Tuồi thơ dữ dội
1.1.1. Tiểu sử và sự nghiệp
Phùng Quán (1932-1995) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Ông sinh ra
tại làng Thanh Thủy Thượng, Tổng Dạ Lễ (Nay thuộc xã Thủy Dương, huyện
Hương Thủy, Tỉnh Thừa Thiên Huế). Nhà nghèo, cha lại mất sớm khi còn nhỏ.
Là con một - hũ mắm treo đầu giàn nhưng từ khi còn rất nhỏ, ông đã phải lang
thang ở hết vói chủ này đến chủ khác ừong làng để kiếm miếng cơm, manh áo.
Suốt ngày quần quật với việc giữ em, nấu cơm, chăn trâu, cắt cỏ nên lúc nào
cũng trong bộ dạng đen nhẻm, mặt mũi lấm lem bùn đất. Và cũng chính vì gia
đình quá nghèo nên Phùng Quán phải bỏ học từ rất sớm. Sinh thời, Phùng Quán
là một chú bé thông minh, nghịch ngợm nên thường xuyên bị đòn quằn đít. Biệt
danh mọi người thường đặt cho cậu được gọi bằng cái tên gân gũi: Bê.
Cách mạng tháng Tám nổ ra rồi cuộc kháng chiến trường kỳ lại tiếp tục
khi Bê mới 13 tuổi, sống trong những năm tháng sục sôi ấy đã thôi thúc cậu bé
Phùng Quán, hòa cùng khí thế dân tộc, giấu gia đình nhảy lên tàu đi kháng
chiến chính thức trở thành một chiến sĩ tí hon của Trung đoàn Trần Cao Vân.
Những tháng ngày anh hùng với bao chuyện vui, buồn, bi tráng về thời kỳ sục
sôi ấy, sau này đã được Phùng Quán kể lại trong cuốn tiểu thuyết tâm huyết của
mình Tuổi thơ dữ dội.
Nếu như câu chuyện Phùng Quán trở thành chiến sĩ tự nhiên như qui luật
thì chuyện ông trở thành một nhà văn thật ly kì. Ông đến với nghề cầm bút
không phải từ sách vở, từ lý luận, từ vốn kiến thức thu thập được từ qua trường
lớp mà từ chính thực tế cuộc sống của nhân dân lao động và từ chính bản thân
mình, từ con đường tự học mà nên. Cuộc đời của Phùng Quán không phải là
7
những trang sách màu hồng và cũng chẳng hề nên thơ như những áng văn thơ,
cuộc đòi chẳng vẽ cho ông một con đường bằng phẳng, tuổi thơ dữ dội qua đi,
Phùng Quán bước vào tuổi trưởng thành đầy cực nhọc, gian nan và cay đắng.
Nhắc đến Phùng Quán, khó ai có thể quên được sự nghiệt ngã sau vụ Nhân văn
- Giai phẩm khiến ông phải “treo bút” suốt ba mươi năm ròng, ba mươi năm
trời chịu bao cay đắng, gian khổ, ba mươi năm sống trong cảnh “cá ưộm, cơm
chịu, văn chui” vói hàng loạt các tác phẩm lấy bằng nhiều bút danh khác nhau,
nhưng trước sau, ông vẫn là một nhà văn tâm huyết với đòi, là một kiện tướng
không biết mệt mỏi trong việc giữ gìn nhân cách của người cầm bút.
Cuộc sống nặng nhọc, trầm uất cứ như thế cho đến thời kỳ đổi mới, Phùng
Quán mới được viết văn, làm thơ dưới cái tên đích thực của mình. Ông là nhà
văn để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lịch sử văn học Cách mạng Việt Nam từ
nửa sau thế kỷ XX. Dù phải vượt qua vô vàn tai ương đau khổ suốt ba mươi
năm, thế nhưng, ông không hề thù oán hay trách móc bất cứ một ai, vẫn cặm cụi
viết, “viết ngay, viết thẳng từ dòng đấu đến dòng cuối”, luôn xưng tụng đất
nước, xưng tụng nhân dân, cách mạng, xưng tụng tình yêu bằng những tác
phẩm văn chương cuốn hút, thiết tha và nhân bản. Phùng Quán đã để lại trong
lòng bạn bè, đồng nghiệp một nhân cách cao cả, một lòng tin yêu đồng đội và
nhân văn sâu sắc, một tấm gương lao động hết mình,... với gàn trăm tác phẩm
thơ, trường ca, tiểu thuyết, truyện tranh,... được nhiều thế hệ bạn đọc mến mộ.
Từ sau cuộc sống trầm uất, nặng nhọc, khi được phục hồi hội tịch, ông đã viết
để xả bớt nỗi đau, viết để tuôn ra những điều bấy lâu nay bị kiềm chế, viết để để
lại bản di chúc của đời mình và Tuổi thơ dữ dội là cuốn sách đầu tiên mà ông
được trả lại tên. Trong hàng trăm tác phẩm được sáng tác trong cuộc đời của
Phùng Quán, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội được coi là bản di chúc chiến sĩ
của người cộng sản, là một phần của cuộc đời ông.
Sinh ra trong hoàn cảnh éo le, giữa lúc đất nước bị đô hộ, lớn lên với tuổi
8
thơ dữ dội và trưởng thành trong quân đội, Phùng Quán là người lính kiên
cường, dũng cảm trên cả hai lĩnh vực quân sự và văn học. Ông là hiện thân của
lòng nhân hậu, độ lượng, suốt đòi nguyện làm một người lính thường, không
lụy hư danh, đau cái đau của người bất hạnh, vui cái vui của những người chiến
thắng. Nhưng tiếc thay, niềm vui chưa hưởng trọn, ông đã đi xa!
Vào một buổi chiều tháng Chạp lạnh buốt, ngày 22/01/1995, căn bệnh
hiểm nghèo đã mang ông đi khỏi cõi đòi trần thế, đem ông rời xa căn gác lộng
gió bên Hồ Tây. Thế là “Tết không vào nhà tôi - Tết đi qua trước ngõ”, Phùng
Quán đã đi một chuyến “chơi xa”, về với đất mẹ, theo chuyến tàu cuối cùng đến
cõi vĩnh hằng của mình.
Trong giai đoạn đầu, các sáng tác của Phùng Quán rất hồn hiên, tự nhiên
với mục đích là muốn bày tỏ nỗi lòng, ca ngợi con người, quê hương, đất nước
và cuộc sống thường nhật. Năm 22 tuổi, Phùng Quán nổi danh với cuốn tiểu
thuyết Vượt Côn Đảo (1954). Đây được coi là cuốn sách gối đàu giường của
hầu hết các thế hệ thanh niên ngày ấy. Vượt Côn Đảo đã được tái bản năm lần,
đoạt giải thưởng của Hội Văn học Việt Nam năm 1955 và được nhà xuất bản
Văn học thiếu nhi Liên Xô dịch năm 1956.
Không chỉ thuần là một nhà văn, Phùng Quán còn là một nhà thơ tài ba
với nhiều sáng tác sục sôi, tràn đày nhiệt huyết với đất nước, với nhân dân. Thơ
của ông được coi như là trái “bom nguyên tử”. Có thể kể đến một số bài thơ
như: Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (1954), Tôi tự hào chế độ nước tôi
(1955), Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi (1955), Chổng tham ô lãng phí (1956) bài thơ bộc lộ rõ nét tính cách và nhân cách tác giả, Lời mẹ dặn (1957),... Phùng
Quán không chỉ viết bằng mực mà ông còn viết bằng chính bằng máu thịt của
mình. Nhưng bi kịch thay, hai tác phẩm thơ Lời mẹ dặn và Chổng tham ố lãng
phí đã đẩy ông tới bước ngoặt đau thương của cuộc đòi, bị kết là
Nhân văn - Giai phẩm, là làm phản, bị tước quyền xuất bản tác phẩm.
9
Ba mươi năm bị ừeo bút nhưng không ngày nào ông không sáng tác.
Trong thòi gian này, Phùng Quán còn viết cả truyện tranh. Những câu chuyện
từ thực tế cuộc sống được ông mang vào trong văn, trong thơ. Là một người
viết truyện đa năng, Phùng Quán viết khoảng 60 truyện tranh cho thiếu nhi ở tất
cả các đề tài. Với đề tài chiến đấu nơi biên giói xa xôi, nổi lên các tác phẩm:
Vàng A Sìn kể chuyện đánh giặc, Tên thám báo và hai em bé,... Với đề tài
chống Pháp có: Thiên tình sử Điện Biên, Tiếng đàn trong đêm khuya, Dòng
sông mất tích,... Đồ tài lịch sử có: Tiếng chuông Thiên Mụ, Người cầm cờ lệnh
vua Quang Trung,... Truyện cổ tích bằng thơ có: Chàng Ná, Bắn anh em tài
giỏi,... Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Nga, Trung Quốc,...
Ngoài ra, Phùng Quán còn có nhiều tác phẩm khác viết về nghệ thuật sáng
tác và diễn tấu, nhiều bài báo cảm động in trên các báo Văn nghệ, Người Hà
Nội, Tiền Phong,... Ông còn vô cùng thành công ở thể loại truyện ngắn với
nhiều tác phẩm được giải thưởng trong và ngoài nước dưới nhiều bút danh khác
nhau như: Con cò vàng trong cổ tích, Cuộc đời một đôi dép cao su, Thạch Sanh
cháu Bác Hồ, Dũng sỹ chép còm, Người du kích hỏi đầu, Tiếng đàn trong rừng
thẳm,...
Với thể loại vãn xuôi, Phùng Quán đã để lại những áng văn bất hủ cho
đời. Văn xuôi Phùng Quán là những trang văn được chắt ra từ mồ hôi, nước
mắt, từ sự trải nghiệm của bản thân và viết bằng cả tấm lòng, sự say mê, tâm
huyết vói con người, với cuộc đời. Sẽ là vô cùng thiếu sót khi ta nhắc đến
Phùng Quán mà không nói đến Tuổi thơ dữ dội, bởi đó là tác phẩm thanh minh
cho sự trong sạch của ông, tác phẩm được thực hiện trong những khổ khăn, vất
vả cả về vật chất lần tinh thần, và ra đòi trong sự quyết tâm cao, trong niềm tin
và nước mắt, là tác phẩm để đời của Phùng Quán.
Ngoài tiểu thuyết, thơ, văn xuôi, Phùng Quán còn là một cây viết ký xuất
sắc. Người bạn lính cùng tiểu đội, Ba phút sự thật,... là những thiên ký sự tài
10
hoa, những áng văn với giọng tự sự pha hài rất chuyên nghiệp, lão luyện, kết
cấu đày kịch tính, dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Có thể nói, Phùng Quán là một nhà văn đa tài, các sáng tác mà ông để lại
là những đóng góp vô cùng to lớn cho kho tàng văn học Việt Nam, và sẽ là
không thể hoàn hảo nếu văn học Việt Nam thiếu đi cái tên Phùng Quán.
1.1.2. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dôi - môt hiên tương văn hoc thiếu nhỉ thời kì
đổi mới
Xuất hiện 32 năm sau vụ Nhân văn - Giai phẩm, Tuổi thơ dữ dội đã khẳng
định tài năng và nhân cách của Phùng Quán. Tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội được
Phùng Quán gọi là bản di chúc chiến sĩ của cuộc đời tôi. Đây là một tác phẩm
tiêu biểu viết về đề tài kháng chiến, được chắt ra từ mồ hôi, công sức, nước mắt,
từ xương thịt, từ tâm hồn cao đẹp và từ tất cả sự say mê, tâm huyết của nhà văn.
Tác phẩm được hoàn thành năm 1986 và ấn hành năm 1988, được tái bản chín
lần với số lượng khá lớn, minh chứng cho một điều: tác phẩm được độc giả
nhiều thế hệ đón nhận nồng nhiệt, đó không chỉ là tác phẩm dành cho trẻ thơ mà
nó là cuốn sách cho mọi thế hệ bạn đọc.
Tuổi thơ dữ dội được viết bằng toàn bộ ký ức tuổi thơ dữ dội của Phùng
Quán với vãn phong độc đáo, khác lạ tạo nên dấu ấn riêng cho tác giả. Đây
cũng chính là tác phẩm văn xuôi thảnh công nhất của Phùng Quán, thể hiện rõ
nhất năng lực văn chương và con người ông. Tác phẩm là kết quả gần 20 năm
lao động miệt mài từ khi được khỏi thảo bên bờ Hồ Tây năm 1968 đến lúc hoàn
thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986. Tuổi thơ dữ dội được xuất bản
năm 1988 đã nhanh chóng đạt được nhiều thành công vang dội: được nhận giải
thưởng Văn học thiếu nhi của Hội nhà văn Việt Nam và hai năm sau đó, cuốn
sách được chuyển thể thành phim.
Tác phẩm xây dựng thành công bức ữanh hoành tráng về cuộc kháng
chiến trường kỳ của dân tộc, là một hồi ký tự truyện kể lại quá trình tham gia
11
kháng chiến chống Pháp giành độc lập của những người lính trinh sát tuổi mười
ba. Đó cũng chính là một phần đòi của tác giả. Phùng Quán đã dồn tất cả tinh
thần vào sáng tác ở khắp mọi nơi, viết trong hồi tưởng, trong hoài niệm, ữong
nỗi day dứt, niềm thương yêu, kiêu hãnh với tất cả tâm sức và bút lực của một
nhà văn.
Tuổi thơ dữ dội ra đời là một trong ba dự định lớn nhất suốt cuộc đòi vất
vả, khó nhọc của Phùng Quán. Tác phẩm là một trong những thành công lớn
nhất của Phùng Quán và là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết cho thiếu
nhi về đề tài kháng chiến trong thời kỳ đổi mới, là cuốn sách đầu tiên công khai
bằng tên của mình sau ba mươi năm viết chui. Tác giả đã khẳng định một cách
chính xác, vững vàng tên tuổi của mình ữên văn đàn văn học Việt Nam đương
thòi.
Từ đề tài đã trở nên quen thuộc trong văn xuôi Việt Nam, đến lượt Phùng
Quán, cũng từ chính đề tài chiến tranh ấy, ông đã xác lập một cái nhìn hoàn
toàn mới về hiện thực lịch sử, thể hiện sự tôn trọng, niềm tự hào dân tộc, tinh
thần đấu tranh về lịch sử oai hùng của dân tộc một cách hoàn toàn độc đáo.
Chiến tranh không chỉ được khai thác ở phương diện hào hùng với tinh thần đề
cao chủ nghĩa anh hùng Cách mạng mà còn được nhìn nhận ở cả những bi kịch,
mất mát, đau thương, chấp nhận sự thật và vượt lên trên nó chứ không hề né
tránh, sợ sệt. Ở đây, trẻ em không được nhìn nhận như một người lớn thu nhỏ
nữa mà được đặt vào trung tâm của tác phẩm, thể hiện cái nhìn cảm phục đội
Vệ Quốc Đoàn con nít trước sự dũng cảm, kiên cường, chiến đấu quên mình,
nhưng sâu thẳm của cái nhìn ấy còn có cả sự xót xa về những mất mát, hi sinh
của tuổi thơ trong kháng chiến.
Chiến ừanh là nơi con người bộc lộ hết bản chất tàn bạo của mình nhưng
cũng chiến ừanh đã tạo điều kiện cho con người tỏa sáng. Chính từ hiện thực
chiến tranh, bằng sự tâm huyết của mình, Phùng Quán đã mang vào mỗi nhân
12
vật của mình một số phận, một tính cách, tâm hồn khác nhau, nhưng trên hết, đó
là những ý nghĩa nhân văn cao cả. Chính những yếu tố đó đã tạo nên sự đặc biệt
của những nhân vật trẻ thơ trong thòi chiến, trong Tuổi thơ dữ dội.
Đọc Tuổi Thơ dữ dội, người đọc không bao giờ muốn ngừng lại, bị lôi
cuốn vì những nhân vật ngây thơ có, khôn ranh có, anh hùng có, vì những sự
việc khi thì ly kỳ, khi thì hài hước, khi thì gây xúc động đến ứa nước mắt. Cuốn
truyện xoay quanh cuộc sống chiến đấu và hy sinh của những thiếu niên mười
ba, mười bốn tuổi trong hàng ngũ Đội thiếu niên trinh sát của Trung đoàn Tràn
Cao Vân. Những Lượm, Mừng, Quỳnh sơn ca, Hòa đen, Bồng da rắn, Vịnh sưa,
Tư dát,... mỗi người một hoàn cảnh song đều chung quyết tâm, nhiệt huyết và
lòng yêu nước, đã tham gia chiến đấu hết mình và hy sinh khi tuổi đời còn rất
trẻ.
Tuổi thơ dữ dội là tác phẩm minh chứng của bao sự trải nghiệm trên
đường đời đầy chông gai, cơ cực của một tay nghề đã chm, ngôn ngữ, bút pháp
cũng như nghệ thuật kết cấu, của sự tiến bộ vượt bậc và đầy triết lý nhân sinh
của tác giả. Có lẽ, không phải bây giờ mà còn lâu về sau, chiến tranh vẫn là một
đề tài lớn, nhưng Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán sẽ bất chấp biến động của
thời cuộc, vẫn mang lại giá trị lịch sử, có ý nghĩa to lớn đối với các thế hệ độc
giả.
1.2. Hiện thực những năm tháng chiến tranh ác liệt trên mảnh đất cố đô
1.2.1. Huế - những ngày đầu kháng chiến
1.2.1.1. Xứ Huế mộng mơ, yên bình trong thời chiến Xứ Huế mộng mơ là
nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng tâm hồn nhà văn Phùng Quán. Chính vì lẽ đó,
trong hoài niệm của ông luôn in đậm hình ảnh quê hương trong những ngày đàu
kháng chiến. Một miền quê đã đi vào thơ ca vói vẻ đẹp của sông Hương, núi
Ngự. Một miền quê đã khắc ghi dấu ấn của bao thời đại huy hoàng với những
thành quách, lăng tẩm,... Và Huế cứ mộng mơ, yên bình như thế.
Bước vào chiến tranh, Yẻ đẹp của Huế những ngày đàu kháng chiến vẫn
13
làm xao xuyến lòng người, khiến bao tâm hồn thêm say, thêm mê, thêm yêu
Huế. Nhắc đến Huế, ta chẳng thể nào quên được vẻ đẹp dịu dàng, nên thơ, ngọt
ngào của dòng sông Hương - người con gái thướt tha uốn quanh bao bọc Huế,
người mẹ hiền tường tận từng ngóc ngách của trái tim con mình. Mặc dù chiến
ưanh bao trùm nhưng dòng sông vẫn luôn dịu hiền, vẫn ôm ữọn vào lòng mình
những thiên thần bé nhỏ mỗi lần ghé thăm. Đó là khi những cậu bé ngây thơ
của đội Vệ Quốc Đoàn con nít đùn đẩy nhau, có phần nhút nhát vốn có của trẻ
thơ, thi nhau thử lòng gan dạ của mình bằng cách nhảy từ trên cầu xuống dòng
sông Hương đang nũng nịu. Để đến khi một chú bé dũng cảm nhảy xuống, mặt
sông xanh biếc, lăn tăn sóng, đón lấy nó, nhẹ nhàng, thân thuộc chứ không ầm ĩ
như đón những anh mới tập nhảy [23, 17]. Trong những ngày đầu kháng chiến,
bom rơi, đạn nổ vẫn là thưa hơn, bớt những tiếng nghe xé lòng người ta hơn,
Huế vẫn còn được mộng mơ, yên bình nhiều hơn.
Cuộc tập dượt của đội Vệ Quốc Đoàn con nít cùng sự hồn nhiên, ngây thơ
của các em là những phút giây yên bình hiếm hoi trong chiến đấu. Chú bé
Mừng gan dạ là một trong những nhân vật đàu tiên được nhắc tới trong tác
phẩm, nhân vật hiện thân của tấm lòng yêu nước, hiếu thảo với cha mẹ. Mừng
dũng cảm, bất chấp cái giá lạnh, cái ghê sợ độ cao, Mừng đã lên cầu, phóng tấm
thân nhỏ bé của mình xuống dòng sông giá lạnh với một mong muốn mãnh liệt
là được vào đội thiếu niên trinh sát. Hành động của em đã tiếp thêm sức mạnh,
thêm dũng khí cho các cậu bé khác, hàng loạt thể hiện bản thân mình có thể làm
được tất cả, vượt qua mọi khó khăn, tất cả vĩ độc lập dân tộc.
Sự xuất hiện nhân vật Tư dát đã góp phần làm nên những tiếng cười vang
giòn, sự giải trí hiếm có trong lòng kháng chiến sục sôi.
- Hai... ba ! Này!
Nó hô dõng dạc đến nỗi làm cho cả đội tưởng là nó đang lao xuống dòng
sông. Nhưng bất ngờ nó ngồi thụp xuống cột cầu, ngoẹo đầu, méo mồm, trợn
14
mẳt làm trò hề. Cả đội bị mắc lỡm ôm bụng cười bò [23, 16].
Huế yên bình trong lòng mỗi đữa trẻ con nít là như vậy. Mỗi câu nói của
Tư dát dường như ta thấy được vẻ yên bình của Huế ở đó.
- Vừa lặn xuống đáy sồng tớ gặp ngay một anh cá gáy to bằng hai bàn tay
xòe ra. Anh ta dạn gớm. Anh ta lượn qua trước mặt tớ, quệt cả đuôi vô trán...
[23, 18]
Thên nữa, Phùng Quán đã vô cùng tinh tế và khéo léo khi miêu tả khung
cảnh thiên nhiên xứ Huế và những ngày đầu kháng chiến, vẻ đẹp của Huế ẩn
hiện trên từng ngọn cây, lối rẽ. Con sông Hưomg thân thiết xanh ngắt hiện ra
trước mắt, mờ ảo trong làn mưa bụi như bột rây [23, 77]. Sông Hương đã trở
thành biểu tượng, linh hồn của Huế, nó đẹp như chính con người xứ Huế thân
thương vậy. Nhưng cái vẻ đẹp ấy lại bị bọn giặc Pháp vấy bẩn lên miền đất yên
bình, mộng mơ này. Dường như Huế chẳng để sự xấu xa, bẩn thỉu của bọn xâm
lăng nhuốm màu, chẳng để bầu trời mùa đông ẩm ướt, ngổn ngang những đám
mây chì đen bẩn mãi ngự trị, tròi Huế chợt hửng nắng. Cái màu nắng hiện ra
sau những cơn mưa rào rả rích, thổi đất thối cát, mới trông rực rỡ làm sao!
[23, 115]. Huế vẫn cứ lan tỏa vẻ đẹp của mình bất chấp mọi sự ngăn cản: trời
Huế mỗi lúc một thêm quang quẻ như có một cái chổi khổng lồ vổ hình đang ra
sức quét dọn. Da trời xanh thao thiết, cao vời vợi hiện ra cùng với màu nắng
mới trong ve... Điều kì lạ hơn hết là cái màu nắng mới rực rỡ ẩy lại làm cho
đầu óc con người bỗng trở nên sáng suốt, tươi vui, táo bạo, tự tin gấp bội phần.
Và làm cho lòng người bừng tỉnh náo nức, muốn lập nên những kì tích thật
vang dội. Những chiến công thật lẫy lừng... [23, 116]. Huế như đang mang vẻ
đẹp vốn có của mình vượt lên sự tàn bạo của thế lực xấu xa để tiếp thêm sức
mạnh, thêm động lực chiến đấu cho những chiến sĩ thiếu niên, quyết tâm gạt
sạch quân thù ra khỏi miền đất cố đô, ra khỏi bờ cõi của Tổ quốc Việt Nam.
Sự mộng mơ, yên bình hiếm hoi và vô cùng quí giá của Huế trong những
15
ngày tháng chiến đấu đó chính là tiếng đàn, tiếng nhạc. Mỗi tiếng đàn của nhạc
sĩ tí hon Quỳnh sơn ca ngân lên như là sự quyến rũ của Huế đối với con người
ta. Những giai điệu dịu dàng, mơ màng, uyển chuyển như dòng sông Hương êm
đềm trôi dưới ánh trăng làm xao xuyến bao tâm hồn, làm dịu đi tiếng bom đạn
réo rắt, xua tan mọi khó khăn, vất vả trong đời sống chiến đấu.
Huế không chỉ mộng mơ với vẻ đẹp của dòng sông Hương mà Huế còn vô
cùng cuốn hút ở bao vẻ đẹp khác. Phùng Quán đã khéo léo mang những cảnh
vật, những nét thiên nhiên thơ mộng đa dạng của xứ Huế vào trong những trang
văn, làm cho người đọc như có cảm giác đang được đặt chân lên chính miền đất
yên bình ấy. Xa cố đô, theo chân những chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn lên chiến khu
Hòa Mỹ, ở đây ta bắt gặp vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế trong năm tháng chiến đấu
với sắc thái hoàn toàn khác. Không còn nhẹ nhàng, hiền thục như trong cố đô,
Hòa Mỹ là một cái làng ven chân núi, lơ thơ chừng vài nóc nhà nằm rải rác
trên một rẻo đất cao dài và hẹp. Một bên là núi cao trùng điệp, một bên là con
sông Ô Lâu quanh co, uốn khúc [23, 204]. Hình ảnh những ngôi nhà tranh,
vách đất nép mình dưới những rặng tre lồ ô dày rậm như rừng. Một lối đi nhỏ
ngoằn ngoèo chạy xuyên qua làng. Dọc hai bên lối đi là những dãy sắn, khoai
chen lẫn những đám cỏ tranh cao quá đầu người. Trên các vồng khoai, sắn rất
nhiều dấu chân lợn lòi hay những rừng thông vi vu trong gió ngàn, dòng suối
bạc lấp lánh chảy róc rách giữa hai bờ đá trắng phau được Phùng Quán tái
hiện làm ta như được đắm chìm vào khung cảnh của một làng quê nhỏ yên bình,
sự tĩnh lặng hiếm hoi trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Rồi khi màn
đêm buông xuống, khói núi dâng lên mỗi lúc một thêm dày đặc. Tiếng sông Ô
Lâu rì rào, tiếng coọng nước quay kẽo kẹt bất tận, nghe vang, sâu thẳm... Tiếng
lau xào xạc, tiếng những thân tre, lồ ô cọ vào nhau, hòa với tiếng dòng sông
nghe như một bè trầm dìu dặt, vẻ đẹp của Huế như ngấm vào trong tâm hồn
mỗi con người noi đây. Một làn nữa, sự mộng mơ, yên bình xứ Huế những ngày
16
đầu kháng chiến được Phùng Quán lột tả vô cùng thành công.
Huế không chỉ yên bình, mộng mơ bởi vẻ đẹp thiên nhiên huyền ảo, Huế
còn làm xốn xang lòng người bởi sự yên bình, bởi tình cảm yêu thương của
cuộc sống trong doanh trại đội Vệ Quốc Đoàn con nít. Mặc dù mới chỉ mười ba,
mười bốn tuổi nhưng các chiến sĩ tí hon hoàn toàn ý thức được những việc làm,
hành động của mình. Mặc dù mỗi người có một xuất thân khác nhau nhưng các
chiến sĩ con nít của chúng ta luôn có một tinh thần đồng đội, đoàn kết, biết quan
tâm, chăm sóc nhau từ những điều nhỏ nhặt nhất. Chừ tổ mình phải kiểm thêm
cho Mừng vài bộ quần áo để thay đổi. Đợi cho đến khi được ban Quân nhu Mặt
trận cấp phát còn lâu. Với lại phải sửa soạn cho Mừng cái ba lô...” [23, 34].
Những chiến sĩ tí hon chẳng hề đắn đo, hành động như bản ngã của một người
con xứ Huế, một người lính Cụ Hồ thực thụ ùn ùn mang đến cho Mừng nào áo,
nào quần, nào thắt lưng, bao đạn và bao đò vật linh tinh khác. Cuộc sống đậm
tình người, chan chứa tình yêu thương ấy khiến người ta cảm động đến rơi nước
mắt. Giữa lúc khó khăn, lửa đạn quân thù có thể ập tói bất cứ lúc nào, khi người
ta phải gom góp, chắt bóp, nhặt lượm mọi thứ có thể tích trữ được thì những
chiến sĩ tí hon này lại chẳng hề đắn đo, sẵn sàng cho bạn tất cả nhưng gì tốt nhất
mà mình có để bạn đầy đủ từ hành trang đến tinh thần sẵn sàng chiến đấu.
Cuộc sống quân nghiêm với tinh thần kỉ luật cao trong doanh trại đã rèn
rũa, tôi luyện những cậu bé nhỏ tuổi ấy trở thành những người con Huế đích
thực, trở nên cứng cáp hơn, trưởng thành hơn. Dù vậy, cái bản chất vốn có, cái
hồn nhiên, ngây thơ của lứa tuổi vốn dĩ các em được hưởng thì vẫn chẳng nào
lớn được, vẫn là đam mê thú vui trẻ con nhưng xem xiếc, chơi chọi dế, những
ừò chơi, thú vui của ữẻ nhỏ. Những ngày đầu kháng chiến, xứ Huế yên bình
như thế, ngập tràn trong sự hồn nhiên, ngây thơ, ừong những ừò chơi và suy
nghĩ thơ dại của những chiến sĩ tí hon. Những giây phút hiếm hoi càng khiến
người ta nuối tiếc Huế thời không bom đạn.
17
Không cần những gì nguy nga, tráng lệ, Phùng Quán đã vô cùng tinh thế
và khéo léo khi vẽ nên bức tranh những ngày đầu kháng chiến nơi xứ Huế thân
thương bằng những hình ảnh rất bình dị trong cuộc sống hàng ngày ở doanh trại
của đội thiếu niên trinh sát Tràn Cao Vân. Nó hồn nhiên, yên bình, mộng mơ
khiến độc giả thêm yêu và trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình
hơn.
1.2.1.2. Xứ Huế bị tàn phá đau thương
Có người nói rằng, chiến tranh là một cái lò bát quái khổng lồ. Trong đấy,
những con người bằng xương, bằng thịt ở cả hai bên chiến tuyến đều phải chấp
nhận và đi qua. Kẻ nào chịu đựng được một cách tốt nhất sức nóng của cái lò ấy
sẽ là người chiến thắng. Cái lò ấy không mấy xa lạ với những người trong cuộc
như nghệ sĩ Phùng Quán, người đem hết cả tuổi thơ, tuổi thanh xuân, đem hết
cả sức trai trẻ và cũng là toàn bộ sức lực của cả cuộc đời cho cuộc chiến chống
lại kẻ thù xâm lược cách đây hơn bốn mươi năm về trước. Chính cái lò chiến
tranh ấy đã thiêu rụi đi tất cả những gì đẹp đẽ, đáng quí, nên thơ nhất, cướp đi
sinh mạng của hàng vạn, hàng triệu con người và cướp đi cái yên bình cuả hai
miền đất nước.
Chiến tranh ập đến, Huế chẳng còn được mộng mơ, thanh tĩnh như ngày
nào. Quân giặc tàn phá, Huế trở nên hoang tàn, xơ xác, người chạy loạn hỗn
độn. Mẹ mất con, vợ mất chồng, cảnh bình yên nơi đây bỗng chốc trở nên
thương tâm, đau xót. Cảnh tượng đau lòng ấy ám ảnh trong từng trang sách của
nhà văn: Người chạy loạn dáo dác. Ra đến cầu An Lỗ, người chạy giặc ùn ùn
càng đông. Ngoài bộ đội, cán bộ, còn cơ man nào là đồng bào. Kẻ gánh, người
khiêng, người dắt xe đạp, người đẩy xe bò, người dắt con, người bế cháu... ồn
ào, nhổn nháo như chợ vỡ [23, 191].
Giặc chiếm đóng thành Huế, ngay trong những ngày đàu chứng đã phong
tỏa mảnh đất này: vừa đặt chân lên đất liền, bọn giặc đã nhanh chóng chia làm
18