Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Ly luan hinh thai kinh te - xa hoi va con duong di len CNXH o Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.15 KB, 19 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học có lịch sử ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước
công nguyên tại các trung tâm văn hoá - văn minh cổ đại Trung Quốc, Ấn Độ và
Hy Lạp. Trải qua một quá trình phát triển của lịch sử, triết học có ảnh hưởng hết
sức lâu dài trong lịch sử văn hoá phương Đông và phương Tây. Triết học được coi
là khoa học của mọi khoa học, với ý nghĩa bao quát trong nó mọi tri thức, đều có
căn nguyên lịch sử từ sự phát triển chưa đầy đủ của tri thức nhân loại. Triết học với
tư cách là một khoa học, có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, từ đó xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cơ bản,
có tính định hướng cho cả quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Trong lịch sử
nhận thức và thực hiện của nhân loại, triết học thông qua hai chức năng thế giới
quan và phương pháp luận của mình để giải thích về thế giới, định hướng cho quá
trình nhận thức và cải tạo thế giới. Do vậy xây dựng một thế giới quan triết học
đúng đắn khoa học là tiền đề để xây dựng một phương pháp luận chuẩn xác trong
nhận thức và thực tiễn. Thế giới quan và phương pháp luận triết học khoa học trong
thời đại ngày nay thuộc về triết học Mác - Lênin. Thế giới quan và phương pháp
luận ấy xuất phát từ việc giải quyết một cách khoa học vấn đề cơ bản của triết học.
Do đó, muốn nắm vững những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận thì cần
phải hiểu rõ về triết học.
Trong triết học có đề cập đến chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ
bản nhất, vạch ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc
của các cá nhân, mà là một hệ thống vận động phát triển theo các quy luật khách
quan. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại một phương pháp thực sự khoa
học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội.
Tại Việt Nam, từ năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục
tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Văn kiện đã chỉ
rõ mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên thì đối mới về kinh tế, xã hội là một việc làm


cần thiết. Song hiện nay, việc phát triển kinh tế, xã hội theo định hướng XHCN ở
Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, hạn chế nhất định. Do đó, việc vận dụng đúng
đắn lý luận hình thái kinh tế, xã hội vào sự nghiệp xây dựng CNXH là vô cùng
1


quan trọng. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, quy mô sản
xuất nhỏ lẻ, lao động thủ công là chủ yếu, do đó muốn thực hiện thành công sự
nghiệp xây dựng CNXH ngoài nguồn nội lực còn cần phải vận dụng sáng tạo, khoa
học lý luận hình thái KT-XH vào điều kiện đất nước.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của nền kinh tế tri thức, của khoa học công nghệ, của xu
thế toàn cầu hóa…, điều đó đặt ra yêu cầu đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Trong khi đó, hệ thống CNXH ở 1 số nước Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng
hoảng trầm trọng, CNTB đạt được những thành tựu rực rỡ. Điều nay yêu cầu Đảng
ta phải kiên định, sáng suốt trong mục tiêu xây dựng CNXH cho phù hợp với xu
hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Nghiên cứu: "Lý luận hình thái KT-XH và vận dụng vào con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam" nhằm khẳng định sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là
hoàn toàn đúng đắn. Thực tế 30 năm đổi mới, những thành tựu về kinh tế, chính trị,
khoa học xã hội mà chúng ta đạt được đã chứng minh một cách hùng hồn nhất về
sự lựa chọn của Đảng ta là đúng đắn và khẳng định sự lựa chọn con đường xây
dựng đất nước theo CNXH là một tất yếu khách quan.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Lý luận hình thái kinh tế xã hội
1. Tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái KT-XH
Xã hội trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ thống hết sức phức tạp

bao gồm nhiều lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, tư tưởng… Tất cả các lĩnh vực đó
đều tác động đến con người và thông qua hoạt động của con người, mà hoạt động
của con người bao giờ cũng có ý thức, ý chí chỉ đạo. Chính vì vậy, việc giải thích
về đời sống xã hội là một vấn đề hết sức phức tạp. Trong suốt quá trình lịch sử lâu
dài trước khi Triết học Mác ra đời, các nhà triểt học đều duy tâm trong lịch sử. Họ
cho rằng lịch sử phát triển theo hướng nào là do đầu óc của các vĩ nhân.
Mác đã phê phán những tư tưởng duy tâm đó, ông đi từ một sự thật đơn giản đó
là: con người muốn tồn tại cần phải có thức ăn, nước uống, nhà ở. Những thứ này
không có sẵn trong tự nhiên, vì vậy, muốn có nó, con người phải tiến hành hoạt
động sản xuất vật chất. Trong quá trình sản xuất vật chất con người ngày càng chế
tạo ra nhiều công cụ sản xuất và phát triển cả về tư duy, thể chất. Để tồn tại và phát
triển, con người không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn sản xuất ra của cải
tinh thần, ra bản thân con người và các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, ở những thời điểm lịch sử khác nhau, hoạt động sản xuất vật chất lại
được tiến hành theo những cách thức khác nhau. Cách thức khác nhau đó, Mác gọi
là phương thức sản xuất. Chính phương thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người. Như vậy, xuất phát từ sản xuất, Mác đã phân
tích một cách khoa học mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội và
phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội. từ đó, mác đi đến khái
quát khoa học lý luận về hình thái KT-XH.
2. Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội
Giữa các mặt trong đời sống xã hội thống nhất biện chứng với nhau tạo thành
các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Các xã hội cụ thể đó
được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát thành phạm trù hình thái KT-XH như sau:
"Hình thái KT-XH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử: dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó, phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến
thức thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy".
3. Sự phát triển của các hình thái KT-XH là quá trình lịch sử tự nhiên
3



Xã hội đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Các hình thái
kinh tế – xã hội vận động và phát triển do tác động của các quy luật khách quan,
đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. C Mác viết : “ Tôi coi sự phát triển của
những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” , tức là muốn nói
đến quy luật khách quan của lịch sử, quy luật đó được coi là sự phát triển của quá
trình sản xuất vật chất , xét đến cùng là do mâu thuẫn bên trong giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, do tính tất yếu kinh tế quy định. Các quy luật xã hội
chính là hiện thân của các quy luật tự nhiên được con người sử dụng nó để kiến tạo
nên xã hội loài người.
Tiến trình lịch sử là quá trình phát triển biện chứng vừa bao hàm sự phát triển
đứt đoạn và liên tục. Trong quá trình sản xuất , con người có những quan hệ với
nhau, đó chính là quan hệ sản xuất. Những quan hệ sản xuất đó do trình độ của lực
lượng sản xuất quy định. đến lượt nó quan hệ sản xuất lại quy định các quan hệ xã
hội khác như : chính trị, luật pháp, đạo đức… Khi lực lượng sản xuất phát triển đến
một mức độ nào đó thì những thay đổi về chất mâu thuẫn gay gắt với những quan
hệ sản xuất có, dẫn đến đòi hỏi khách quan là thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới thông qua cuộc cách mạng xã hội. Quan hệ sản xuất thay đổi
thì toàn bộ các quan hệ sản xuất khác cũng thay đổi. Như vậy, phương thức sản
xuất thay đổi, các quan hệ xã hội, chính trị, tinh thần thay đổi dẫn đến sự thay đổi
của hình thái kinh tế – xã hội. Chính vì thế, V.I.Lênin viết:”Chỉ có đem quy những
quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có thể có được
những cơ sơ vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội
là một quá trình lịch sử – tự nhiên.”
Quá trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử được chia ra thành những bậc thang
lịch sử khác nhau, ứng với một trình độ kinh tế, kỹ thuật nhất định trong từng
phương thức sản xuất nhất định. Thực tiễn đã cho thấy, loài người đã, đang và sẽ

trải qua 5 hình thái kinh tế – xã hội theo thứ tự từ thấp đến cao. Đó chính là quá
trình tự nhiên của sự phát triển lịch sử, thể hiện tính liên tục của lịch sử. Tuy nhiên,
đối với mỗi nước cụ thể, do những điều kiện khách quan và chủ quan riêng thì một
nước nào đó, một dân tộc nào đó có thể “ bỏ qua” những chế độ xã hội nhất định. Sự
khác nhau về trật tự phát triển ở phạm vi toàn nhân loại vẫn là quá trình lịch sử – tự
nhiên, còn đối với từng quốc gia, dân tộc cụ thể bỏ qua những “nấc thang” nhất
4


định. V.I.Lênin viết: “…tính quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn
thế giới đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển
mang những đặc điểm hoặc về hình thức, hoặc về trình tự của sự phát triển đó”.
Thực tế lịch sử của một số nước đi theo con đường XHCNđã chứng minh tính
đúng đắn, khoa học của hình thái kinh tế – xã hội và lý luận về khả năng “bỏ qua”
một chế độ xã hội nhất định.
Từ việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế – xã hội chúng ta có thể rút ra
một số điểm có ý nghĩa phương pháp luận sau:

Việc vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát triển xã hội,
những nguyên nhân và cơ sở của sự xuất hiện, biến đổi của các hiện tượng xã hội
đã biến đổi xã hội học thành một khoa học thực sự, khắc phục mọi quan điểm duy
tâm về lịch sử. Từ đó có một cách nhìn đúng đắn, thấy được vai trò thực sự của
LLSX, QHSX, mối quan hệ biện chứng giữa chúng và các mối quan hệ khác trong
quá trình phát triển xã hội.

Là công cụ lý luận giúp chúng ta nhận thức những quy luật phổ biến
đang tác động và chi phối sự vận động của xã hội. Vũ trang cho chúng ta phương
pháp khoa học để nghiên cứu xã hội và chỉ đạo thực tiễn ở tầm vĩ mô và vi mô.

Là cơ sở lý luận của việc hoạch định các đường lối cách mạng của

Đảng Cộng Sản. là cơ sở lý luận cho việc triển khai đường lối, chính sách ở tầm
quốc gia và mỗi địa phương nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.

Giúp chúng ta một cái nhìn biện chứng về sự phát triển liên tục của
các hình thái kinh tế – xã hội, của các giá trị văn hoá, khoa học , kĩ thuật và của
chính bản thân thế hệ con người. Từ đó giúp chúng ta không nóng vội chủ quan,
không đốt cháy giai đoạn, biết kế thừa những thành tựu chung của văn minh nhân
loại.

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đòi hỏi chúng ta phải thấu triệt
nguyên lý đó, vận dụng một cách chủ động sáng tạo và kiến thức tổng quát của
nhiều môn khoa học khác vào công việc hàng ngày của mỗi người, mỗi địa phương
phải nhìn nhận các vấn đề trong dòng chảy liên tục của nó.
4. Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái KT-XH
Lý luận hình thái KT-XH ra đời là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận
thức về đời sống xã hội. Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thực sự khoa
học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
5


Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh họat xã hội, chính trị và tinh thần
nói chung .
Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra: Xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt tác động qua lại chặt chẽ
với nhau. Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải phân tích một cách sâu sắc
mối quan hệ giữa các mặt của đời sống xã hội. Vịêc cải tạo xã hội cũ xây dựng xã
hội mới, phải tiến hành một cách đồng bộ tất cả các mặt: LLSX, QHSX, cơ sở hạ
tầng, kiến trúc thượng tầng.

Lý luận hình thái KT-XH chỉ ra rằng: sự phát triển của các hình thái KT-XH là
một quá trình lịch sử tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan, chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. Do đó việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới đòi hỏi
phải nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Không những thế, lý luận hình thái KT-XH vừa chỉ ra quy luật phát triển chung
của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử cụ thể mà có còn đường
phát triển riêng, đặc thù. Để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân
tộc phải kết hợp việc nghiên cứu những quy luật chung với việc nghiên cứu một
cách cụ thể điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc.
Từ khi Mác xây dựng nên lý luận hình thái KT-XH cho đến nay loài người đã
có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Điều đó đã khẳng định tính
đúng đắn, khoa học của lý luận đó.

6


Chương II: Vận dụng lý luận hình thái KT- XH vào con đường
xây dựng CNXH ở Việt Nam
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH trước những biến đổi
của thời đại
Mác và Ăng ghen đã vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào phân tích xã hội tư
bản. Hai ông tìm ra được quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của nó đồng thời
dự báo về sự ra đời của hình thái KT-XH cao hơn. Hình thái cộng sản chủ nghĩa - giai
đoạn đầu là CNXH.
Sự ra đời của CNXH, chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, không phải do ý muốn chủ
quan, mà dựa trên những tiền đề vật chất nhất định và là kết quả của việc giải quyết
mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Do đó vừa phải kế thừa những thành tựu
của xã hội tư bản, vừa xóa bỏ những tồn tại hạn chế của nó, tiến tới giải phóng con
người, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Mặc dù không phủ nhận hoàn toàn CNTB, nhưng sự thay thế CNTB bằng một chế

độ xã hội khác cao hơn là tất yếu và con đường duy nhất là thông qua cách mạng vô
sản. Bởi trong lòng xã hội tư bản đã tự bộc lộ những hạn chế, sự phát triển không đồng
đều về kinh tế. Điều đó đã làm cho quan hệ kinh tế - tư nhân, quan hệ tư hữu ngày
càng trở nên không phù hợp nữa. Do đó chúng ta thấy rằng, CNXH có thể thắng thế
(được minh chứng bằng thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga năm 1917). Từ đó,
Lênin đã chỉ rõ hai con đường cơ bản quá độ lên CNXH.
Con đường thứ nhất: Quá độ trực tiếp lên CNXH. Đây là con đường tiến lên
CNXH đối với các nước tư bản phát triển.
Con đường thứ 2: Quá độ lên CNXH thông qua những khâu trung gian, nhiều
bước quá độ. Đây là con đường tiến lên CNXH đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém
phát triển.
Trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình và điều kiện nước Nga, Lênin đã chỉ rõ con
đường tiến lên CNXH của nước Nga còn lạc hậu. Thừa nhận nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, khuyến khích phát triển sản xuất, lợi dụng CNTB làm mắt xích
trung gian giữa nền tiểu sản xuất và CNXH, làm phương tiện, con đường, phương
pháp, phương thức để tăng LLSX lên. Từ đó xây dựng Liên Xô trở thành một nước
CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Song mô hình kinh tế này dần dần bộc lộ
những hạn chế (không khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát
huy được nhiệt tình, chủ động sáng tạo của con người, không đẩy nhanh được tiến bộ
khoa học công nghệ, giao lưu quốc tế...). Nó không còn thích hợp nữa, nhưng do chậm
7


nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng KT-XH. Dẫn đến sự sụp đổ của CNXH
ở Liên Xô và Đông Âu - sự sụp đổ mô hình CNXH tập trung quan, quan liêu, bao cấp.
Trong khi đó, CNTB đạt được những thành tựu hết sức to lớn về kinh tế, khoa học
công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra tiền đề vật chất để cho xã
hội tiếp tục phát triển. Cuộc cách mạng này làm cho LLSX thay đổi về căn bản:
chuyển từ công nghệ cơ khí lên xã hội tự động, sử dụng công nghệ hiện đại, các nguồn
năng lượng mới, "khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ

chiếm vị trí cao". Vấn đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có
tính thời sự. Sự phát triển kinh tế kéo theo sự phát triển của tất cả các mặt trong đời
sống xã hội. Những sự thay đổi đó là tiền đề vật chất cần thiết cho sự ra đời của
CNXH, Chủ nghĩa cộng sản. Quá độ lên CNXH là xu thế của thời đại. Vấn đề đó
được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác nhau và sẽ được giải quyết
phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước.
2. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng
CNXH ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ điều kiện cụ thể trong nước, tiếp thu tư tưởng tiến bộ của Chủ nghĩa
Mác Lê Nin cộng với sự tác động xu thế của thời đại, Đảng ta đã vận dụng một cách
sáng tạo lý luận hình thái KT - XH vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hiện nay. Sự vận dụng đó biểu hiện cụ thể như sau:
2.1 Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
Từ hình thái kinh tế – xã hội này chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác có
một giai đoạn lịch sử đặc biệt với độ dài ngắn khác nhau, kết cấu và hình thức biểu
hiện khác nhau, đó là “ thời kỳ quá độ”.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng
ta khẳng định: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau - đó là quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng
của Đảng. Việc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên CNXH là phù hợp với xu
hướng của thời đại và điều kiện cụ thể trong nước. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Mặc dù CNXH bị khủng hoảng và sụp đổ, nhưng đó là sụp đổ của mô hình
CNXH tập trung quan liêu, bao cấp, chứ không phải CNXH với tính cách là một xã
hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. CNTB mặc dầu chưa hết vai trò lịch sử và đang đạt
được nhiều thành tựu to lớn, nhất là khoa học và công nghệ, nhưng những thành tựu
của tư bản tạo ra, đến lượt nó lại trở thành cái phủ định chủ nghĩa tư bản và thay thế

8



nó bằng xã hội khác cao hơn - CNXH, CNCS. Vì vậy lựa chọn con đường tiến lên
CNXH là phù hợp với xu hướng của thời đại.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường mà Đảng và nhân dân ta lựa
chọn từ 1930. Với thử thách của thời gian, con đường đó đã từng bước hiện thực hóa
trên con đường phát triển của đất nước. Tuy có những sai lầm trên con đường phát
triển kinh tế văn hoá xã hội nhưng đại đa số nhân dân ta vẫn tin tưởng vào CNXH,
quyết tâm vì sự thắng lợi của mục tiêu độc lập dân tộc.
Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng chỉ rõ: "Con đường đi lên của nước
ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN,
đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại" [1; 421].
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên
tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, cho nên phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ.
2.2 Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với nhau. Do đó
phát triển kinh tế xã hội phải chú ý đến mối quan hệ này. Trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định: "Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền
với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân
phối" [1; 423].
Phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta, Đảng chủ trương sử dụng:
"Nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế". Đồng thời
"Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" [1; 423].
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự

phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân
công lao động xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị
trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

9


Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với
xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản
xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để phát triển kinh tế xã hội cần có những tiền đề cơ sở vật chất kỹ thuật. Do đó ở
nước ta xây dựng CNXH phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ mang lại. Song nước ta tiến CNXH từ một nền kinh tế phổ
biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái thiếu thốn nhất của chúng ta là
chưa có nền công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH. CNH, HĐH ở
nước ta là nhằm xây dựng cơ sở - vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã đề ra: "Con đường CNH,
HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng
dụng ngày càng nhiều hơn thành tự mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát
triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động
lực của sự phát triển CNH, HĐH". [1; 422]
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, phấn đấu đến năm
2020 về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết
định chống lại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và

trên thế giới. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH là một trong những nhân tố
có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
2.4 Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội Đảng chỉ rõ: Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với phát
triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, CNH, HĐH đất
nước phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân; nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.

10


Cùng với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân;
phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài, đó là "quốc sách hàng đầu"; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công
bằng và dân chủ trong đời sống xã hội.
Như vậy, lý luận hình thái kinh tế xã hội là một lý luận khoa học. Nó cho chúng ta
một quan điểm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội;
về sự vận động phát triển của xã hội. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện
nay, lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thật sự khoa học
để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội, từ đó vạch ra phương hướng và giải
pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Lý luận đó đã được Đảng ta vận dụng một
cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

11



Chương III: Quá trình đi lên CNXH ở nước ta. Thực trạng và giải pháp
1. Sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH ở nước ta
Đánh giá về định hướng đi theo con đường xây dựng CNXH ở nước ta:
Trước đây, sau mấy năm khôi phục kinh tế và thực hiện cải tạo XHCN, công
cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta có thể nói xuất phát từ khái niệm đơn giản,
duy ý chí về CNXH. Chúng ta tưởng rằng có thể thực hiện được ngay mọi đặc
trưng của CNXH sau khi tiến hành quốc hữu hoá, công hữu hoá những tư liệu sản
xuất cơ bản mà không cần biết nền sản xuất xã hội hoá ấy thực hiện như thế nào.
Dần dần từ thực tiễn khủng hoảng và trì trệ về kinh tế chúng ta mới hay rằng:
không thể thực hiện được ngay mọi đặc trưng của CNXH trên cơ sở một nền sản
xuất xã hội hoá theo kiểu hình thức, một nền sản xuất gọi là "xã hội hoá" nhưng
trình độ của LLSX còn rất thấp, còn xa mới đạt tới xã hội hoá được coi như một tất
yếu kinh tế. Mức độ thực hiện những đặc trưng của CNXH không thể áp đặt theo ý
muốn chủ quan mà phải căn cứ vào trình độ thực tế của LLSX và năng suất lao
động trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. Nghĩa là: chỉ có thể thực hiện từng bước
những đặc trưng của CNXH.
Với ý nghĩa trên, định hướng XHCN chính là sự quay trở về với luận điểm sau
của Lênin: "… danh từ nước cộng hoà xô viết XHCN có nghĩa là chính quyền xô
viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên CNXH, chứ hoàn toàn không có nghĩa là
đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ XHCN". Bởi vậy, quá trình định hướng
XHCN trên đất nước ta là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH –
cốt lõi của quá trình xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Để có được nền móng của
CNXH, chúng ta chỉ có thể rút ngắn cái phải trải qua theo quy luật lịch sử tự nhiên,
chứ không thể bỏ qua cái phải trải qua. Cái phải trải qua ấy là gì? Là phát triển
mạnh LLSX , là xã hội hoá sản xuất trong thực tế thông qua các quá trình chuyển
hoá từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, từ mô hình nông thôn
sang mô hình đô thị, từ tổ chức cộng đồng xóm sang cộng đồng dân tộc, quốc tế…
Cũng vì vậy, quá trình định hướng XHCN ở nước ta tất yếu phải là một quá trình
đan xen giữa nhiệm vụ trực tiếp và gián tiếp xây dựng CNXH, là quá trình còn

nhiều mâu thuẫn, nghịch lý, bất công mà tạm thời phải chấp nhận, và cuộc vận
động của lịch sử CNXH trên thực tế sẽ xoá bỏ dần những mâu thuẫn, nghịch lý, bất
công ấy. Sự định hướng XHCN còn chứa đựng một vấn đề cơ bản không thể né
tránh. Đó là thời kỳ “ai thắng ai”. Cho nên, không chỉ có khả năng đi đúng hướng
mà còn có khả năng đi chệch hướng. Chệch hướng là một nguy cơ có thật. Quá
12


trình đi theo con đường XHCN quyết không phải là sự chuyển động phẳng lặng
theo một chiều mong muốn, đặc biệt cơ chế thị trường được coi là phương tiện
khách quan để xây dựng CNXH. Nó là phương tiện để phát triển kinh tế, nhưng sự
phát triển ấy lại tiềm ẩn nguy cơ CNXH bị huỷ hoại.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng đã
xác định 6 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Nói định hướng
XHCN nghĩa là nói mục tiêu chúng ta đạt tới. Đó cũng là hành lang của sự phát
triển, sự sáng tạo. Cương lĩnh vạch ra những phương hướng cơ bản chỉ đạo quá
trình thực hiện những đặc trưng của CNXH trên đất nước ta. Những phương hướng
đó vừa mang tính bảo đảm không chệch hướng XHCN, vừa quán triệt tinh thần đổi
mới cho phép không lặp lại những sai lầm cũ, tinh thần từng bước thực hiện những
đặc trưng của CNXH. Chẳng hạn, trong cách mạng QHSX, sự định hướng XHCN
có nghĩa là thiết lập từng bước QHSX XHCN phù hợp với sự phát triển của LLSX.
Do đó, QHSX XHCN sẽ được hình thành từ thấp đến cao, rồi sự đa dạng về hình
thức sở hữu.
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay đã
cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau
hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đất nước ta, nhờ đó có thể
chuyển sang thời kỳ mới : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận định chung về quá trình định hướng XHCN sau gần 30 năm đổi mới
Đảng ta khẳng định: về cơ bản việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới

những năm qua là đúng đắn, đúng định hướng XHCN. Tuy nhiên trong quá trình
thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc kéo dài, dẫn đến chệch hướng ở mức độ
này hay mức độ khác. Nhận định đó là đúng đắn và sáng suốt , phản ánh tinh thần
đầy trách nhiệm của Đảng ta đối với vận mệnh của dân tộc, của hàng triệu quần
chúng nhân dân lao động – nền tảng của chế độ ta.
Từ đó, một mặt cổ vũ cho nhân dân ta phát huy tinh thần tự lực tự cừơng để đưa
đất nước ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu,mặt khác đòi hỏi mọi người phát huy tinh
thần trách nhiệm khắc phục mọi trở ngại trên con đường đi tới một chế độ do nhân
dân lao động làm chủ.
Như vậy con đường đi lên CNXH là con đường hoàn toàn đúng đắn mặc dù còn
nhiều khó khăn trước mắt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta không
chịu lùi bước trước bất cứ khó khăn, thử thách nào.
13


2. Thực trạng quá trình đi CNXH ở nước ta
Sau cương lĩnh, các hội nghị của Trung Ương Đảng từ Đại Hội VII đến nay đã
cụ thể hoá thêm một bước sự định hướng XHCN trên các mặt đời sống xã hội. Sau
gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đã thu
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên trong thực tiễn,
bên cạnh thừa nhận những thành tựu đáng mừng, cũng có những vấn đề cần xem
xét một cách nghiêm túc. Chẳng hạn:

Sự tăng trưởng GDP ở nước ta vừa qua là nhanh hay chậm? Theo
tính toán chỉ cần đưa vào nền kinh tế của ta 1 tỷ USD thôi thì mức tăng trưởng có
thể đạt 6 %. Vậy sự tăng trưởng GDP vừa qua ở ta chủ yếu do đâu? Do đường lối
chính trị hay do hoạt động kinh tế mà gốc rễ là quản lý tốt mang lại?

Sự tăng trưởng kinh tế không đồng đều giữa các vùng có chênh lệch
lớn. Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có mức tăng trưởng từ 15% trở lên, các vùng khác

có mức tăng trưởng 7% liên tục mấy chục năm, nhưng do sự phát triển không đều
giữa hai vùng trong nước mà đang đứng trước nguy cơ một nước chia thành hai
miền “phát triển và lạc hậu”

Tăng trưởng kinh tế đi đôi với sự chênh lệch về thu nhập ngày càng
lớn. Kinh tế tăng trưởng nhưng mức sống thực tế của một bộ phận hưởng lương
giảm 1/3. Gạo xuất khẩu đạt mức cao nhất, nhưng mức sống nông dân quá thấp so
với công nhân và người dân thành thị (năm 1995, thu nhập của người dân đồng
bằng sông Cửu Long là 200USD/năm trong khi ở TP Hồ Chí Minh là
920USD/năm). Điều đáng quan tâm là sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp
trong xã hội ngày càng lớn.

Đến nay mức thâm hụt buôn bán tăng gấp đôi năm 1995 và lên tới
2,3 tỷ USD. Nguyên nhân do khối lượng nhập khẩu thiết bị và hàng tiêu dùng tiếp
tục tăng.

Sở hữu toàn dân về đất đai trên thực tế đang bị tư nhân hoá. Diện
tích đất nông nghiệp tính theo đầu người giảm 300m^2 trong 10năm.

1/3 vốn đầu tư vào dịch vụ. Khuynh hướng đầu tư của nước ngoài là
nhằm thu hồi vốn nhanh, khai thác tài nguyên nhiều còn kỹ thuật tiên tiến không có
là bao.

Vốn huy động trong dân còn ở tỷ lệ quá thấp: 7% GDP (trong khi
Thái Lan 37%; Philippin 15%) Vốn đầu tư trong nước chủ yếu vẫn là vốn của nhà
nước.
14




“Chủ nghĩa tiêu thụ” phát triển mạnh mẽ trong giới trung, thượng
lưu. Sự lệ thuộc của hệ tư tưởng vào tính thực dụng kinh tế có xu hướng ngày càng
tăng.

Tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, tệ nạn xã hội không giảm.

Trong các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, công
nghiệp hóa có nhiều chỉ tiêu phản ánh không rõ những bước đi để kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể thực sự là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
3. Từng bước khắc phục khó khăn trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta
3.1 Mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
CNH, HĐH ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, tạo
nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của nền kinh tế.
Trong quá trình tiến hành CNH,HĐH đất nước ngoài việc lấy nội lực làm nhân tố
quyết định đẩy mạnh mở rộng hợp tác quốc tế tiếp thu tối đa nguồn ngoại lực, coi
đây là nhân tố quan trọng để củng cố vững chắc độc lập dân tộc, thúc đẩy sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước thành công… để đưa đất nước ngày càng hiện đại hơn, văn
minh hơn.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong sự nghiệp CNH, HĐH nhằm đáp ứng nhu cầu:

Thu hút được nhiều vốn nước ngoài.
Do nền kinh tế của chúng ta xuất phát thấp. LLSX đan xen của nhiều loại trình
độ, trong đó chiếm đại bộ phận là kỹ nghệ và công nghệ cũ kỹ, do đó thu hút vốn
để thúc đẩy LLSX phát triển, nhập khẩu máy móc hiện đại, mở rộng thị trường…

Chuyển giao máy móc, công nghệ, kỹ thuật hiện đại

Đẩy mạnh buôn bán thương mại giữa các nước


Học tập kinh nghiệm và cách thức quản lý tiên tiến của các nước
trên thế giới.

Tạo môi trường ổn định để phát triển

Tiếp thu văn hoá nhân loại để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc
Hiện nay xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoáLLSX của nhân loại do cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ mới hiện nay đem lại, đang chứa đựng những phương
tiện, đó là những điều kiện vật chất của những QHSX cao hơn mà những nước lạc
hậu chưa trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có thể tìm thấy và vận dụng vào nước
mình thông qua sự giao lưu hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức khác nhau, từ đó
15


tận dụng nguồn công nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lý. Từ đó các quốc gia chậm
phát triển vẫn có thể bước vào con đường phát triển “rút ngắn” ngay cả khi CNTB
còn chưa bị đánh bại tại quê hương của nó và thậm chí khi thiếu cả sự giúp đỡ trực
tiếp của một nước XHCN tiên tiến. Khi các quốc gia chậm phát triển đi sau nhận
thấy sản xuất TBCN còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đến mức độ nhất định thì
các nước đi theo con đường XHCN lại không có lý do gì không giám sử dụng nó
như một thành phần kinh tế nhiều thành phần. Tất nhiên là dưới sự dẫn dắt của
thành phần kinh tế nhà nước theo định hướng XHCN.
3.2 Thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu
Phải tuỳ theo trình độ phát triển của LLSX mà thiết lập hình thức QHSX sao
cho phù hợp. Phải chống tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư hữu và
xác lập ngay chế độ công hữu về TLSX với hình thức và quy mô quá lớn. Xuất
phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều
thành phần kinh tế, phải phát huy tích cực cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kể cả

thành phần kinh tế tư nhân TBCN nhưng phải xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể ngày càng lớn mạnh để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải
phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Phải thực hiện hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế làm chủ yếu.

16


PHẦN KẾT LUẬN
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở
Việt Nam là một việc làm cần thiết nhưng không hề đơn giản. Bởi trong điều kiện
cụ thể của nước ta hiện nay cùng với những biến động của thời đại, thì đó là một
vấn đề đòi hỏi rất nhiều nổ lực của toàn Đảng toàn dân. Vận dụng một cách đúng
đắn, khoa học, sáng tạo lý luận hình thái kinh tế xã hội sẽ góp phần đưa nước ta
vững bước trên con đường phát triển, thực hiện thành công mục tiêu của sự nghiệp
xây dựng CNXH.
Ở nước ta, quá trình đi lên con đường XHCN là quá trình đầy thách thức khó
khăn. Nhưng thực tế 30 năm đổi mới đã cho chúng ta thấy sự lựa chọn xây dựng
đất nước CNXH ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Ngoài con đường đó không còn
con đường nào khác.
Vận dụng quan điểm lý luận triết học Mác Lênin xây dựng đất nước phát triển
theo định hướng XHCN một cách khoa học và hiệu quả nhất. 30 năm đổi mới
(1986-2016) đã cho nhân dân ta nhiều bài học quý giá. Những bài học đổi mới do
Đại Hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII nêu lên có giá trị vô cùng to lớn. Trong quá
trình xây dựng đất nước theo CNXH phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đứng trước những khó khăn, thử thách những biến động phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu cách mạng, vận dụng sáng tạo

chủ nghĩa Mác Lênin trên cơ sở xây dựng các chủ trương chính sách đổi mới.
Chúng ta nhận thức rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 30 năm là sự
nỗ lực của toàn đảng toàn dân. Đồng thời những tồn tại và những khó khăn thách
thức mà chúng ta đang và sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải cố
gắng hơn nữa.
Đi lên CNXH ở nước ta đòi hỏi trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về
CNXH và con đường đi lên XHCN ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. có
ý nghĩa bảo đảm cho hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước.
Nhận thức bao giờ cũng là quá trình đi lên từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn nữa CNXH là một hiện tượng mới mẻ, đang vận
17


động, hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho
hoạt động của Đảng ta hiện nay.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Giáo trình Triết học, tập III, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh, toàn tập (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Mác, Ăng ghen, toàn tập (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. V.I. Lênin, toàn tập (1979), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001), Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

19



×