Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Tiểu luận Khủng hoảng kinh tế Mỹ 2008 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.17 KB, 50 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN MÔN HỌC KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007 - 2009

GVHD

:

TS. NGUYỄN MINH SÁNG

HV THỰC HIỆN

:

NHÓM 6

LỚP

:

D10

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 11 NĂM 2016


1


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................
...................................................................................................................................................................

I


MỤC LỤC
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN ............................................................................................. I
MỤC LỤC ............................................................................................................................ II
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................ III

DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ............................................................................... IV
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG .................................................
1.1 Các khái niệm về khủng hoảng .............................................................................. 3
1.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu ....................................................................... 3
1.2 Khủng hoảng tài chính tiền tệ .......................................................................... 3
1.3 Khủng hoảng ngân hàng .................................................................................. 4
1.4 Khủng hoảng nợ nước ngoài ............................................................................ 5
1.5 Sự suy giảm của thị trường chứng khoán (TTCK) .......................................... 6
1.2 Sơ lược các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới .................................................... 6
1.2 Đại khủng hoảng 1929 ..................................................................................... 6
1.2 Khủng hoảng dầu mỏ 1973 - 1975 ................................................................... 7
1.3 Khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997 .................................................................. 8
1.4 Khủng hoảng “Dot-com” năm 2000 ................................................................ 8
CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2008-2010 ................................
2.1 Nguyên nhân cuộc khủng hoảng .......................................................................... 10
2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp ................................................................................. 10
2.2.2 Nguyên nhân sâu xa .................................................................................... 16
2.2 Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ 2008 ............................................ 19
2.3 Tác động của cuộc khủng hoảng .......................................................................... 21
2.3.1 Tác động tại Mỹ .......................................................................................... 21
2.3.2 Tác động đến Thế giới................................................................................. 23
2.4 . Một số giải pháp và bài học kinh nghiệm của Mỹ và thế giới trong khủng
hoảng tài chính 2008 ............................................................................................ 26
II


2.4.1 Bài học kinh nghiệm .................................................................................. 26
2.4.2 Một số giải pháp mà Mỹ đã áp dụng để khắc phục khủng hoảng............... 28
CHƯƠNG 3: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ ĐỐI VỚI VIỆT NAM ............

3.1 Kinh tế Việt Nam trước tác động của khủng hoảng ............................................ 30
3.1.1 Sự phụ thuộc từ các lĩnh vực....................................................................... 30
3.1.2 Ảnh hưởng theo 3 hướng khi Mỹ suy thoái ................................................ 33
3.2 Một số giải pháp kiến nghị nhằm phát triển thị trường Việt Nam tránh những
nguy cơ đổ vỡ ....................................................................................................... 35
KẾT LUẬN ............................................................................................................................V
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................... VI
PHỤ LỤC ........................................................................................................................... VII
DANH SÁCH THÀNH VIÊN .......................................................................................... VIII

II


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Giải thích

1

TTCK

Thị trường chứng khoán

2

FDI


Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

3

ODA

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

4

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

5

NĐT

Nhà đầu tư

6

TAF

7

SEC

Chương trình đấu giá cho vay kì hạn
(Term Auction Facility Program)

Ủy ban chứng khoán Mỹ

8

NHTW

Ngân hàng trung ương

9

NHĐT

Ngân hàng đầu tư

10

NHTM

Ngân hàng thương mại

11

MBS

Chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế
chấp (Mortgage-backed securities)

12

CDS


Hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng

13

FED

Cục Dự trữ liên bang Mỹ

14

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

15

CDO

Giấy nợ đảm bảo bằng tài sản

16

SPV

Thể chế mục đích đặc biệt

17

SIV


Công cụ đầu tư kết cấu

III


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH

BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong năm 2008 ....................... 32
HÌNH ẢNH
Hình 2.1: Mô hình quy trình chứng khoán hóa ............................................................ 14
Hình 2.2: Chỉ số bình quân công nghiệp Dow-Jones giảm liên tục từ Quý II năm 2007
....................................................................................................................................... 22

IV


LỜI MỞ ĐẦU
Một cách khái quát có thể nói các cuộc khủng hoảng, trong mối quan hệ kinh tế
của nó, là một sự vận động của thị trường mà ở đó các giá trị kinh tế xa rời với nền
tảng sản xuất bền vững do xã hội tạo ra. Sự tham lam và cuồng loạn của đám đông đã
dẫn dắt những hành động bất chấp các quy luật kinh tế thị trường trong quá trình phát
triển: như quy luật về lưu thông tiền tệ, quy luật cung – cầu, quy luật về quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó dẫn đến sự mất cân
đối nội tại của nền kinh tế. Khủng hoảng, bản thân nó là sự biến đổi về mặt bản chất,
khi sự tích tụ lâu ngày của các mầm mống tích lũy tư bản đã dần đạt đến hồi đổ vỡ và
nó phải xảy ra trong tính tất yếu nhằm giải quyết các mâu thuẫn nội tại đó.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, thế giới đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng tài chính ở
cả quy mô khu vực và quy mô tầm thế giới. Trước đó, cuộc khủng hoảng được người ta

nhắc đến nhiều nhất đó là “Đại khủng hoảng 1930” (The Great Depression) tại Mỹ và
lan rộng ra toàn thế giới, cuộc khủng hoảng đã làm đảo lộn mọi giá trị kinh tế xã hội đã
được xây dựng hàng trăm năm trước đó. Trong suốt một thời gian dài từ đó cho đến
nay, thế giới không những không ít đi các cuộc khủng hoảng mà người ta còn cho nhận
thấy, tần suất và chu kỳ của các cuộc khủng hoảng dường như nhiều hơn và ngắn đi,
kèm theo đó là quy mô và sự ảnh hưởng mạnh mẽ hơn và khủng khiếp hơn trước rất
nhiều. Tuy vậy bài học đau thương từ lịch sử không phải lúc nào cũng được ghi nhớ.
Đến đầu thế kỷ XXI, nền kinh tế hàng đầu thế giới là Mỹ, tuy đã trải qua một thập niên
các cuộc khủng hoảng khác nhau về quy mô, nhưng nhìn chung nó luôn là nền kinh tế
hàng đầu, phát triển mạnh mẽ và bền vững, đóng vai trò là mẫu mực cho thị trường tài
chính – ngân hàng trên toàn thế giới. Tuy nhiên chính trong những lúc tự mãn như thế
người ta dễ dàng quên đi bài học từ các cuộc khủng hoảng trước đem lại. Từ năm 2008,
cả thế giới rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau Đại khủng hoảng
1929 – 1930. Quy mô và sức tàn phá của nó chẳng khác nào một trận động đất kinh
1


hoàng. Khởi đầu từ sự sụp đổ của thị trường tài chính của nền kinh tế lớn nhất thế giới
là Mỹ với khoản nợ xấu “dưới chuẩn” lên đến con số hàng nghìn tỷ đô la, cuộc khủng
hoảng đã nhánh chóng lan ra các nước khác, trở thành cuộc đại suy thoái kinh tế toàn
cầu. Thị trường chứng khoán các nước xuống dốc không phanh; rất nhiều tên tuổi lừng
lẫy hàng trăm năm trong ngành tài chính thế giới bỗng chốc bị xóa tên hay phải “bán
mình”; nhiều tập đoàn sản xuất kinh doanh hàng đầu bị phá sản; sản xuất đình đốn;
ngoại thương co cụm; số người bị sa thải thất nghiệp ở các nước ước tính đến đến hàng
trăm triệu người…Bầu không khí ảm đạm và thê lương bao trùm lên khắp nơi trên thế
giới.

2



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG
1.1 Các khái niệm về khủng hoảng
Khủng hoảng là một giai đoạn hay một trạng thái không ổn định đặc biệt là khi
có những sự thay đổi nghiêm trọng ngoài mong đợi hay những tình huống đã đến giai
đoạn nguy kịch.
1.1.1 Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khủng hoảng tài chính toàn cầu là tình trạng bất ổn định tài chính lan tỏa, có
hiệu ứng dây chuyền và có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng
tài chính toàn cầu là hậu quả của sự suy giảm – suy thoái kéo dài, ảnh hưởng lớn đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế, gây trì trệ ở hầu hết các nước.
Khủng hoảng tài chính thường bao gồm khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng ngân
hàng, khủng hoảng nợ xấu trong nền kinh tế và sự suy thoái nặng nề của thị trường
chứng khoán.
1.1.2 Khủng hoảng tài chính tiền tệ
Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “Khủng hoảng tiền tệ là trạng thái
mà ở đó một cuộc tấn công vào đồng nội tệ dẫn tới sự thâm hụt phần lớn dự trữ ngoại
tệ và làm đồng tiền nội tệ mất giá nhanh chóng hoặc buộc các cơ quan chức năng phải
có biện pháp phòng vệ bằng cách sử dụng một lượng dự trữ ngoại tệ lớn hoặc nâng cao
mức lãi suất”. Khủng hoảng tiền tệ chiếm vị trí trung tâm trong các nghiên cứu về
khủng hoảng tài chính vì khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ thường đi kèm hoặc kéo theo
các dạng khủng hoảng khác, chẳng hạn như khủng hoảng ngân hàng (còn được gọi là
“khủng hoảng kép”).
Lý thuyết về khủng hoảng tiền tệ có thêm một bước tiến mới sau khủng hoảng
tài chính ở Đông Á năm 1997. Những nghiên cứu từ cuộc khủng hoảng này đã phát

3


triển thành mô hình khủng hoảng thuộc thế hệ thứ ba của khủng hoảng tiền tệ. Khủng
hoảng xảy ra khi đất nước bị sụt giảm nhanh chóng về nguồn vốn do những hoảng sợ

về tài chính đến từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Trong một số trường hợp, các nước
duy trì một tỷ giá cố định với chức năng như một “hợp đồng bảo hiểm rủi ro tỷ giá”
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Một khi có dự báo về việc tỷ giá cố định không thể tiếp
tục được duy trì sẽ khiến các nhà đầu tư cảm thấy khoản đầu tư của mình không an
toàn nữa và đồng loạt rút vốn để đầu tư vào những tài sản ít biến động hơn. Sự ra đi ồ
ạt của các khoản vay ngân hàng làm cho đất nước thiếu hụt trầm trọng dự trữ ngoại tệ
và yếu kém về khả năng thanh toán.
1.1.3 Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis)
Khủng hoảng ngân hàng là trạng thái theo đó các ngân hàng lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh khoản do tiền gửi bị rút ồ ạt trong khi các khoản cho vay chưa thu
hồi hoặc không thu hồi được, dẫn đến tổn thất do ngân hàng và đưa đến phá sản. Các
ngân hàng nếu lâm vào tình trạng này cần phải có sự giải cứu từ Ngân hàng Trung
Ương. Khủng hoảng ngân hàng có thể bùng phát từ một ngân hàng và dễ dàng lan
truyền ra toàn hệ thống.
Đặc trưng của khủng hoảng ngân hàng là hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi các ngân hàng
gây nên tình trạng mất khả năng thanh toán cục bộ và có thể lan rộng sang các ngân
hàng khác. Đã có nhiều cách lý giải cho hiện tượng này, (Kindleberger-1978, Diamond
và Dybvid- 1983) cho rằng nguyên nhân có thể do thông tin bất cân xứng giữa ngân
hàng và người gửi tiền hoặc có thể do kết quả của “ sự kích động tâm lý của đám đông
hỗn loạn”. Các lý thuyết giải thích hiện tượng rút tiền ồ ạt xuất phát từ yếu tố tâm lý
cho rằng, mỗi người gửi tiền sẽ rút vốn khỏi ngân hàng khi nghĩ những người gửi tiền
khác đang rút vốn, thậm chí khi ngân hàng của họ không có bất cứ vấn đề nào trong
bảng cân đối tài sản.

4


Một hình thức lan truyền khác được đề cập đến trong nghiên cứu của Diamond
và Rajan (2002) giả định rằng các ngân hàng có một cơ chế chung về thanh khoản. Sự
sụp đổ của ngân hàng sẽ tạo ra những hạn chế về thanh khoản, từ đó gây nên những

hạn chế về khả năng thanh toán và có thể dẫn đến sự suy sụp của một loạt các ngân
hàng, thậm chí khi không có bất cứ một thông tin hoặc liên kết nào giữa các ngân hàng.
Các yếu tố vĩ mô có thể trở thành những yếu tố quan trọng gây nên sự sụp đổ của hệ
thống ngân hàng, trong nhiều trường hợp sự can thiệp sớm một cách thiếu tổng thể của
Chính phủ làm cho sự suy sụp ở mức độ nhỏ trở thành khủng hoảng ngân hàng. Chẳng
hạn, các biện pháp chính sách nhất thời có thể gây sự hiểu lầm cho người gửi tiền gây
nên việc rút tiền ồ ạt và dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngân hàng toàn bộ.
Nguyên nhân phát sinh khủng hoảng ngân hàng không chỉ xuất phát từ các yếu
tố nội sinh mà đôi khi các yếu tố kinh tế bên ngoài cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Điển hình là các cuộc khủng hoảng ngân hàng đầu thập niên 80 tại các nước đang phát
triển chủ yếu là do giá dầu biến động và một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác ở các
nước này giảm sút, ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Trả nợ
nhiều và trả lãi tiền vay cao cho các nước phát triển cũng góp phần tăng nguy cơ xảy ra
khủng hoảng ngân hàng.
1.1.4 Khủng hoảng nợ nước ngoài (Debt Crisis)
IMF định nghĩa “Khủng hoảng nợ nước ngoài xảy ra khi một quốc gia không có
khả năng trả nợ nước ngoài, bao gồm khoản nợ của Chính phủ hay của khu vực tư
nhân”. Khủng hoảng nợ xảy ra nhiều ở các nước đang phát triển mà nguyên nhân chủ
yếu là do chủ các ngân hàng quốc tế. Dưới sức ép của các khoản tiền gửi ngày một
tăng lên từ phía các nước xuất khẩu khi giá mặt hàng xuất khẩu đó tăng nhanh, các
ngân hàng buộc phải tìm ra các con nợ để cho vay. Các ngân hàng quốc tế đã cho
Chính phủ các nước phát triển vay những khoản rất lớn sau khi xem qua quýt về triển
vọng trả nợ của họ. Khác với những khoản nợ tư nhân có thể thu hồi dựa trên cơ sở

5


pháp luật, mức độ rủi ro vỡ nợ của các Chính phủ rất lớn. Tuy nhiên, với quan điểm
gần như phổ biến là nợ Nhà nước bao giờ cũng được chính phủ hoàn trả nên dù rủi ro
cao, các ngân hàng nước ngoài vẫn sẵn sàng cho chính phủ các nước đang phát triển

vay mà không tiên liệu được khả năng là gánh nặng trả món nợ nhà nước có thể trở nên
gay go đến mức vượt quá dự trữ ngoại hối của quốc gia đó. Một nguyên nhân rất quan
trọng dẫn đến khủng hoảng nữa chính là những cơn sốc kinh tế toàn cầu do giá cả của
một số hàng hóa thay đổi đột ngột và những chính sách kinh tế ở nhiều nước cho vay.
1.1.5 Sự suy giảm của thị trường chứng khoán (TTCK)
Sự suy giảm của thị trường chứng khoán là hiện tượng mất giá đồng loại của các
cổ phiếu đang giao dịch trên TTCK. Nó xảy ra khi các thông tin về sản xuất kinh doanh
của các công ty không tốt, do sự biến động về tình hình kinh tế chính trị xã hội của đất
nước hoặc thế giới, do thiên tai…hoặc cũng có thể do tâm lý nhà đầu tư hoảng loạn dẫn
đến việc bán tháo ồ ạt ra khỏi thị trường. Dẫn đến tình trạng quá thừa cung-thiếu cầu,
giá của các cổ phiếu bị giảm mạnh và làm cho TTCK trong tình trạng sụt giảm nghiêm
trọng.
1.2 Sơ lược các cuộc khủng hoảng trên thế giới
1.2.1 Đại khủng hoảng 1929
Đại khủng hoảng (tiếng Anh: The Great Depression), hay còn gọi là "Đại suy
thoái", là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết các năm 1930
và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố
Wall vào 24 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Nó bắt đầu ở
Hoa Kỳ và nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả
các nước phát triển. Cuộc đại khủng hoảng đại ghi dấu ấn và giai đoạn suy xuất kinh tế
tồi tệ nhất trong lịch sử hiện đại đây là những ngày đen tối của một quốc gia hùng
mạnh nhất thế giới và nỗi sợ hãi của người dân còn dài mãi theo năm tháng.

6


Cuộc khủng hoảng 1929 – 1933 là một cuộc đại khủng hoảng có quy mô lớn
nhất, mức độ trầm trọng nhất của thế giới tư bản chủ nghĩa. Nó là một cuộc khủng
hoảng cơ cấu, người Mỹ nhắc đến nó như là một nỗi kinh hoàng, sự đau đớn. Mỹ khi
đó là nước tư bản phát triển nhất, nhưng hệ thống phân phối xã hội của Mỹ lúc đó rất

bất công, phần lớn thu nhập quốc dân chỉ tập trung trong tay một số ít người, lợi nhuận
tăng từ 1922 – 1929 là 76% thì lương công nhân chỉ tăng 33%, viên chức tăng 42%.
Trong lúc đó, lợi tức của các cổ đông tăng trên 100%. Người lao động không được
hưởng phần xứng đáng của họ trong chỉ số tăng của nền kinh tế. Tất cả đưa đến một
cuộc khủng hoảng thừa, đưa đến hiện tượng các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản hàng
loạt, họ tự tay phá nhà máy, đánh đắm tàu, đổ của cải xuống biển… để giữ giá.
Từ thị trường chứng khoán, cuộc khủng hoảng lan rộng ra tất cả các lĩnh vực
khác trở thành cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế, chính trị, xã hội… Hàng triệu
người thất nghiệp, hàng triệu người bị mất nhà cửa. Đỉnh cao của cuộc khủng hoảng
này là năm 1932, sản xuất than bị đẩy lùi xuống mức năm 1904; sản xuất gang bị đẩy
lùi xuống mức năm 1876. Có những chỉ số bị đẩy lùi xuống những năm cuối thế kỷ 19,
thu nhập quốc dân giảm xuống một nửa.
1.2.2 Khủng hoảng dầu mỏ nước ngoài 1973 - 1975
Khủng hoảng dầu mỏ 1973: bắt đầu diễn ra từ ngày 17 tháng 10 năm 1973 khi
các nước thuộc Tổ chức các quốc gia Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (gồm các nước Ả Rập
trong OPEC cùng với Ai Cập và Syria) quyết định ngừng xuất khẩu dầu mỏ sang các
nước ủng hộ Israel trong cuộc chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria (gồm
Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu). Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng
cao đột ngột và gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 có quy mô toàn cầu. Một
trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng này, đó chính là
Nhật Bản.

7


Tiền đề cho cuộc khủng hoảng là việc Mỹ rút khỏi chế độ tiền tệ Bretton Wood
vào năm 1971 và tiến hành thả nổi đồng tiền. Việc điều chỉnh này đã khiến thu nhập
của các nước xuất khẩu dầu mỏ giảm sút và buộc các nước này phải có điều chỉnh để
tăng giá dầu. Xa hơn thế cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 đã tạo ra những thay đổi lớn
trong chính sách của phương Tây, hướng đến chú trọng tìm kiếm và bảo tồn năng

lượng tự nhiên và đặt ra các quy định tiền tệ chặt chẽ hơn để chống lạm phát
1.2.3 Khủng hoảng tiền tệ Đông Á 1997
Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7
năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ
lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được
coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là
Khủng hoảng tiền tệ châu Á.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á,
nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính
trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa
Kỳ.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á 1997 chủ yếu do:
-

Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém

-

Dòng vốn nước ngoài kéo vào

-

Những thay đổi bất lợi của kinh tế thế giới

-

Tấn công đầu cơ và rút vốn hàng loạt.
1.2.4 Khủng hoảng “dot-com” năm 2000

8



Bong bóng Dot-com ("Bong bóng chấm com" - .com -, dot là dấu chấm, ý nói
những trang web các công ty trên mạng lưới toàn cầu với tên miền là.com) là một bong
bóng thị trường cổ phiếu khi các cổ phiếu của các công ty công nghệ cao, nhất là các
công ty mạng, được đầu cơ. Bong bóng này, theo Alan Greenspan - cựu Chủ tịch Fed,
sinh ra vào ngày 9 tháng 8 năm 1995 khi mà Netscape Communications bắt đầu niêm
yết cổ phiếu của mình và vỡ vào ngày 10 tháng 3 năm 2000 khi chỉ số tổng hợp
NASDAQ đạt đỉnh cao nhất. Bong bóng Dot-com đã góp phần cùng các nhân tố khác
tạo nên sự thịnh vượng kinh tế của Hoa Kỳ cuối thập niên 1990, thời kỳ mà nhiều
người gọi là Nền Kinh tế Mới.
Giá cổ phiếu công nghệ cao tăng nhanh đã khuyến khích sự phát triển của các
công ty trong ngành công nghệ thông tin. Điều này làm cho công nghệ thông tin tiến bộ
nhanh chóng và việc ứng dụng nó vào quản lý, sản xuất đã làm năng suất lao động tăng
lên. Greenspan (2008) cho rằng sự bùng bổ của công nghệ cao diễn ra nhanh chóng đã
mở ra một giai đoạn hủy diệt mang tính sáng tạo, làm năng suất lao động và làm thị
trường lao động trở nên linh hoạt hơn. Đây chính là những nhân tố quan trọng nhất tạo
nên tăng trưởng kinh tế cao và duy trì một thời gian khá lâu.
Giá cổ phiếu tăng nhanh khiến các nhà đầu tư cổ phiếu cảm thấy tài sản của
mình tăng lên. Lúc đó, họ sẽ tiêu dùng nhiều hơn (hiệu ứng tài sản). Nhu cầu cá nhân
nhờ vậy tăng lên cùng hiệu ứng lan tỏa của nó tới sản xuất của các ngành khác nhau
trong nền kinh tế khiến đầu tư tư nhân tăng. Nói cách khác, nhìn từ mặt nhu cầu của
nền kinh tế, giá cổ phiếu tăng làm tổng cầu tăng lên.

9


CHƯƠNG 2: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2008-2010
2.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
Xuất phát điểm từ trung tâm của cuộc khủng hoảng là Mỹ, thông qua quan hệ

mật thiết với tài chính nói riêng và kinh tế nói chung của Mỹ với nhiều quốc gia trên
thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính đã lan rộng dẫn tới sự đổ vỡ tài chính, làm suy
thoái kinh tế ở nhiều quốc gia.
Để tìm ra ngọn nguồn của vấn đề đồng thời lý giải được vì sao khủng hoảng lại
xảy ra và hành động của các ngân hàng trung ương đã thực hiện để đưa ra những biện
pháp giải cứu, ta cần phải đi tìm nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. Có thể có nhiều
quan điểm và nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nhưng tựu chung lại đều xoay
quanh vấn đề về lãi suất cơ bản, khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn, cơ chế giám sát,
đòn bẩy tài chính,…
2.2.1 Nguyên nhân trực tiếp
Chính sách tiền tệ nới lỏng và chính sách nhà cho người thu nhập thấp
Nhằm vực dậy nền kinh tế đang suy thoái sau sự sụp đổ của ngành công nghiệp
cuối năm 2011 đã cắt giảm liên tục lại xuất xuống chỉ còn 1,75%. Đến năm 2002, dù
nền kinh tế đã hồi phục nhưng mối lo ngại về suy thoái quay trở lại đã khiến cho Fed
giữ nguyên mức lãi suất chủ đạo ở mức 1% trong suốt năm 2013 và 2014.
Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với chính sách nhà ở cho người có thu nhập
thấp đã thúc đẩy mở rộng cho vay bất động sản. Kể cả với những khách hàng không có
điều kiện vay vốn có thu nhập thấp. Vì lãi suất cho vay thấp, điều kiện cho vay dễ dàng
hơn nên nhu cầu mua nhà tăng rất cao. Do đó giá bất động sản có được đẩy lên liên tục,
tính từ năm 2011 khi bắt đầu giảm mạnh lãi suất đến năm 2005, tính bình quân giá nhà
tại Mỹ đã tăng 54%. Điều này để dẫn đến tình trạng đầu cơ gây dự đoán giá nhà sẽ tiếp

10


tục tăng cao. Với niềm tin giá nhà sẽ còn tăng cao, chỉ cần mua vào và bán ra để trả nợ
ngân hàng mà vẫn có lãi, kết quả là người ta sẵn sàng mua nhà với giá rất cao vượt xa
giá trị thật của bất động sản cùng với khả năng chi trả của khách hàng. Điều đó dẫn đến
việc khi giá nhà đất giảm mạnh, khách hàng không trả được nợ, đã dẫn đến tình trạng
nợ xấu tăng nhanh và các ngân hàng bị mất khả năng thanh toán.

Bong bóng bất động sản
Bong bóng nhà ở vỡ làm như nhiều người vay tiền ngân hang đầu tư nhà không
trả được nợ dẫn tới bị tịch biên nhà thế chấp. Nhưng giá nhà xuống khiến cho tài sản
tịch biên không bù đắp nổi khoản ngân hàng cho vay, khiến các ngân hàng rơi vào khó
khăn. Chính vì vậy, bắt đầu từ năm 2001, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục Dự
trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ
lãi suất cho vay tiền mua bất động sản (mặc dù những loại lãi suất cho vay tiền mua
nhà do các ngân hàng thương mại ấn định bao giờ cũng cao hơn nhiều so với lãi suất
cơ bản của Fed, nhưng mức độ cao hay thấp của chúng bao giờ cũng phụ thuộc vào lãi
suất cơ bản). Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó
lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. Điều này
kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho
tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có
xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả
là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm
2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để
không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV
năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó,
tổng giá trị lũy tích các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ dollar. Sau khi
bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín
dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh

11


khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt
obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của
mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm
trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng
của họ bị các tổ chức đánh giá và bị tụt hạng.

Chứng khoán hóa các khoản vay trên thị trường cho vay thế chấp bất động
sản
Chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát
triển mạnh từ thập kỷ 90. Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ vào
năm 1970. Fannie Mae và Freddie Mac - hai công ty được chính phủ Mỹ bảo trợ - là
những công ty đầu tiên và cho đến nay vẫn luôn là những công ty tích cực nhất trong
hoạt động chứng khoán hóa. Hai công ty này đã phát hành ra những loại chứng khoáng
cơ bản là chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS) và giấy nợ đảm bảo bằng
tài sản (CDO).
Như vậy chứng khoán hóa là gì? Có thể hiểu đơn giản rằng chứng khoán hóa là
việc những người đi vay sử dụng tài sản để thế chấp, người cho vay sẽ tập hợp lại rồi
phát hành những trái phiếu. Một số người sẽ dung tiền để đầu tư và họ sẽ mua những
chứng khoán này, số tiền này sẽ được gửi về các công ty tài chính cho vay từ đây sẽ có
người dung tài sản để thế chấp tiền, từ đây tạo thành 1 vòng tròn trong việc xoay đồng
tiền. Nói một cách khác, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên
cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính
sẵn có. Do đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ chấp nhận rủi ro liên quan tới danh
mục tài sản đảm bảo được đem ra chứng khoán hóa.
Ngày nay, các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao
gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản

12


phải thu thương mại, danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới
chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ (high-yield bond) hay các khoản cho vay bất động
sản thương mại. Như vậy với nghiệp vụ chứng khoán hóa, người cho vay không nhất
thiết phải nắm giữ rủi ro tín dụng mà có thể chuyển hóa sang cho người khác một cách
dễ dàng thông qua việc phát hành chứng khoán nợ lấy danh mục tín dụng làm tài sản
đảm bảo. Chính điều này là cơ sở để các ngân hàng đầu tư đã tự tin bơm vốn vào hoạt

động cho vay nợ dưới chuẩn một cách dễ dàng.
Chứng khoán hóa đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả được
các ngân hàng đầu tư quốc tế nắm bắt kịp thời để thực hiện cho vay nợ dưới chuẩn.
Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại với nguồn vốn hữu hạn của mình từ tiền
gửi của khách hành dùng để cho vay thế chấp mua nhà thì giờ đây, nguồn vốn này trở
nên dường như bất tận. Các ngân hàng đầu tư quốc tế thi nhau bơm vốn cho các công
ty tài chính chuyên làm nhiệm vụ cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn hoặc thành lập
các công ty cho vay của riêng mình. Hàng loạt chủ thể tham giao vào quy trình cho vay
và chứng khoán hóa như ngân hàng đầu tư, công ty tài chính, môi giới cho vay, công ty
định mức tín nhiêm, công ty quản lý, đều thu được những khoản thu nhập kếch
sù. Ngân hàng đầu tư có lẽ là người hưởng lợi nhiều nhất. Cho vay thế chấp mua nhà
dưới chuẩn có lãi suất rất cao, do đó ngân hàng đầu tư vừa thu lãi từ cung cấp vốn cho
công ty tài chính, vừa thu lãi từ nghiệp vụ chứng khoán hóa. Lãi cao sẽ giúp việc đóng
gói thêm thực hiện dễ dàng, và đây là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư lao vào thị trường
mua các gói trái phiếu chứng khoán hóa đầy rủi ro.
Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển
mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001. Chứng khoán
hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài
sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một
phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh

13


tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vì 2 loại chủ thể kinh tế là người thế chấp - đi
vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống),
vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán
đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc
biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã
tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý.

Hình 2.1: Mô hình Quy trình chứng khoán hóa

Nguồn: CFA Curriculum Level 1, 2010.
Trước đây ở Mỹ, nguồn vốn cho vay mua bất động sản chủ yếu do ngân hàng
cung cấp, vì vậy lượng tiền cho vay có giới hạn tùy thuộc vào lượng tiền gửi của người
dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ

14


đối với ngân hàng. Năm 1980 Chính phủ Mỹ ban hành Luật Giao dịch Thế chấp Tương
đương (Alternative Mortgage Transaction Parity Act), nới rộng những quy tắc cho vay
và khuyến khích những kênh tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo luật này đã góp phần cho
ra đời của nhiều công ty cho vay thế chấp và không bị ràng buộc bởi các luật lệ của
ngân hàng. Ngay cả những ngân hàng cũng thành lập hoặc liên kết với các công ty cho
vay thế chấp làm bùng nổ các kênh cung cấp vốn cho thị trường bất động sản.
Đồng thời, để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Hiệp hội
quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Association – gọi tắt là
Fannie Mae) và Tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan Mortgage
Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie Mae và Freddie
Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản
vay thế chấp "dưới chuẩn" (subprime mortgages) của các ngân hàng rồi dùng bất động
sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage-backed Securities) bán
cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy những
món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thông dụng có thể
mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ. Với niềm tin vào tương lai bất động sản Mỹ
tăng giá liên tục nên các tập đoàn tài chính, ngân hàng và ngay cả các nhà đầu tư cá
nhân ở các nước khác cũng mua đi bán lại “trái phiếu tái thế chấp” được cho là an toàn
và có lãi suất cao. Nhưng khi thị trường bất động sản suy thoái, giá bất động sản giảm
thậm chí dưới mức cho vay, các tổ chức tài chính, ngân hàng nắm giữ nhiều “trái phiếu

tái thế chấp” ngoài việc “tự lỗ” còn bị người gửi tiền hoảng loạn đòi rút tiền hàng loạt,
trong khi các ngân hàng khác cũng dè dặt cho vay (trong thị trường liên ngân hàng),
Hơn nữa mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực
giám sát các rủi ro này. Dẫn đến mất khả năng thanh khoản, điển hình như Northen
Rock của Anh và Lehman Brothers của Mỹ.

15


2.2.2 Nguyên nhân sâu xa
Khủng hoảng cho vay nhà đất và Khủng hoảng tín dụng
Thông thường muốn vay ngân hàng để mua nhà trả góp ở Mỹ, người vay phải
đảm bảo “chuẩn” gồm 3 điều kiện cơ bản là: có tiền đặt cọc ít nhất bằng 10% số tiền
mua nhà; chứng minh có thu nhập ổn định sao cho số tiền trả góp hàng tháng không
quá 28% thu nhập và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng. Mặt khác, ngân hàng cũng
chỉ được phép cho vay tùy thuộc vào lượng tiền gửi của người dân và những hạn chế
về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối với ngân hàng. Tuy
nhiên, để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn (low- and
monderate - income) có điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình “cho
vay dưới chuẩn”.
Do đó, về phương diện sở hữu nhà cửa, chính sách chung của chính phủ lúc bấy
giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu được vay
tiền dễ dàng hơn để mua nhà. Việc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty
được bảo trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đổ
vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân
hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được bảo đảm bằng các khoản
vay thế chấp (Mortgage-backed securities - MBS), rồi bán lại cho các nhà đầu tư ở Phố
Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns, Merrill Lynch và
Lehman Brother.
Việc cho vay dưới chuẩn là không xét khả năng chi trả và điểm tín dụng theo

quy định, nhưng đổi lại người vay phải trả lãi suất cao hơn từ 1 đến 2%. Ngoài ra việc
cho vay dưới chuẩn còn thể hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất động sản thế
chấp, người mua chỉ cần đóng góp 15%. Nghĩa là người dân chỉ cần có 150.000 USD
là có thể được vay 850.000 USD để mua căn nhà 1 triệu USD. Nhiều công ty cho vay

16


thế chấp hoặc ngân hàng còn cạnh tranh thu hút khách hàng bằng các gói tín dụng hấp
dẫn khác. Đây là cơ hội cho các nhà đầu cơ bất động sản vì khi thị trường bất động sản
đang lên, chỉ cần có một ít tiền là có thể đặt cọc mua nhà, vài tháng sau giá nhà lên bán
lấy lãi.
Ngoài ra, việc cho vay dễ dãi “dưới chuẩn” còn do tiền cho vay được thu về
thông qua “chứng khoán hóa”, thông qua phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bất động
sản thế chấp. Dưới hình thức này người cho vay và người vay không biết nhau, ngân
hàng chỉ còn là đơn vị trung gian cho vay sau đó chuyển nhượng khoản vay cho công
ty cho vay thế chấp để công ty phát hành “trái phiếu tái thế chấp” chuyển nhượng trên
thị trường là xong. Ví dụ Ngân hàng Northen Rock có cơ cấu vốn 25% vốn từ khoản
gửi tiết kiệm, 25% từ thị trường tiền tệ liên ngân hàng, 50% từ việc chứng khoán hóa.
Đây là khuyết tật nghiêm trọng của việc chứng khoán hóa bất động sản thế chấp nhưng
thiếu kiểm soát.
Buông lỏng quản lý, giám sát đối với hoạt động tài chính
Chính sự buông lỏng quản lý và giám sát của các cơ quan chức năng đối với
hoạt động tài chính, đặc biệt là đối với các hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân
hàng, cùng với việc không tuân thủ kỷ luật thị trường là “thủ phạm” gây ra khủng
hoảng.
Nhằm khắc phục ảnh hưởng của cuộc Đại Khủng Hoảng 1929 – 1930, Quốc hội
Mỹ đã ban hành Đạo luật Glass-Steagall năm 1933. Đạo luật này đã chấm dứt sự kết
hợp giữa hai mô hình ngân hàng thương mại và kinh doanh chứng khoán; phân biệt
khắc khe giữa hoạt động NHTM và hoạt động của ngân hàng đầu tư; tách bạch rõ ràng

giữa hoạt động cho vay truyền thống của NHTM và hoạt động cho vay, có đầu tư rủi ro
cao của ngân hàng đầu tư. Đạo luật này đã giúp cho nền kinh tế Mỹ phát triển mạnh mẽ

17


trong suốt 50 năm và đã trở thành một mẫu mực cho tài chính – ngân hàng trên toàn
thế giới.
Tuy nhiên, dưới sức ép của các NHTM, vào cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Bill
Clinton, năm 1993 đạo luật này đã bị sửa đổi, xóa mờ ranh giới giữa các NHTM, ngân
hàng đầu tư và công ty bảo hiểm. Việc thay thế đạo luật Glass-Steagall bởi đạo luật
Glamm-Leach-Bliley đã cho phép các NHTM được tham gia vào lĩnh vực kinh doanh
mạo hiểm như nghiệp vụ chứng khoán và các khoản vay bất động sản. Đạo luật này
cho phép tái hợp giữa mô hình NHTM và NHĐT, do đó đã hình thành nên mô hình tập
đoàn ngân hàng tổng hợp.
Với sự sốt sắng vực dậy nền kinh tế và cố gắng duy trì mức tăng trưởng cao,
Fed đã duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng. Điều này đã góp phần tạo nên một môi
trường kinh doanh dễ dãi, được thúc đẩy bởi lãi suất thấp, sự dồi dào của thanh khoản
và thiếu vắng các tiêu chuẩn cho vay. Các tổ chức điều tiết, trước hết là Ủy ban chứng
khoán Mỹ (SEC) đã bị nhiều ý kiến chỉ trích gay gắt do SEC bỏ qua nhiều dấu hiệu
cảnh báo về tình trạng nguy hiểm của các tổ chức tài chính.
Hệ thống giám sát tài chính đã tỏ ra rất lỏng lẻo và bất lực. một mạng lưới có độ
ràng buộc cao và ảnh hưởng lớn của hệ thống tài chính phi ngân hàng bao gồm các
ngân hàng đầu tư, các quỹ đầu cơ, các công ty cho vay bất động sản,… lại không nằm
dưới sự giám sát của các quy định chặt chẽ. Một trong những nguyên nhân của sự thiếu
giám sát chặt chẽ này là do sự đánh giá chưa đúng mức về tầm quan trọng của hệ thống
tài chính phi ngân hàng.
Môi trường thiếu minh bạch và giám sát đã thổi bùng bong bóng đầu cơ bất
động sản. Ngoài ra các hoạt động đầu cơ thông qua các sản phẩm tài chính phái sinh đã
không được kiểm soát hiệu quả và chặt chẽ, phát triển quá mức và dẫn đến sự đổ vỡ

dây chuyền.

18


Đòn bẩy tài chính tăng cao
Đòn bẩy tài chính tăng cao được coi là một trong những nguyên nhân chính
khiến những đại gia lớn trong ngành ngân hàng như Bear Stearns, Lehman Brother,
Merill Lynch, Fannie Mae và Freddie Mac “ra đi”. Việc sử dụng đòn bẩy tài chính
giống như con dao hai lưỡi, có thể giúp cho doanh nghiệp thu được lợi nhuận lớn,
nhưng cũng có thể trở thành nguồn gốc dẫn đến thua lỗ, phá sản… Nhằm theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận, các tổ chức tài chính Mỹ đã “nâng đòn bẩy”, làm tỷ lệ đòn bẩy tài
chính tăng quá cao. Việc gia tăng đòn bẩy cũng đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro.
Trong thời kỳ các ngân hàng đầu tư hoạt động sinh lợi cao, đòn bẩy tài chính đã
được coi là một nhân tố đem lại vinh quang cho các ngân hàng đầu tư, và cũng là nhân
tố kích hoạt nền kinh tế trong những năm đầu nhiệm kỳ Tổng thống Bush. Tuy nhiên,
khi đòn bẩy tài chính bị lạm dụng, vượt tầm kiểm soát thì nó lại chính là “liều thuốc
độc” giết chết hàng loạt các đại gia trong ngành ngân hàng với tuổi đời hàng trăm năm.
Đòn bẩy tài chính quá cao là nguyên nhân chính cho sự ra đi của Bear Stearns,
Lehman Brother, Merill Lynch, trong khi sự sụp đổ của các định chế tài chính này là
ngòi nổ của cuộc khủng hoảng, dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin của thị trường, dẫn
đến sự hạ thấp tín nhiệm và lao đao của AIG; đến làn sóng rút tiền trên mọi con phố và
đặc biệt gây ra rủi ro thanh khoản cực lớn cho các ngân hàng liên quan đến cho vay bất
động sản…
2.2 Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ
Thị trường chứng khoán.
Theo đó phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên của tuần sau ngày khủng hoảng
là 15-9-2008, chỉ số Dow Jone của ngành công nghiệp mỹ giảm 503,48 điểm, mức
giảm nặng nhất trong một phiên kể từ sau 11-9-2001. Cổ phiếu của Bear Stearn giảm
27%, Goldman Sachs mất 19%, Citigroup mất 15%, trung bình toàn ngành ngân hàng

19


×