Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Ảnh hưởng của tư tưởng phật giáo đối với lối sống của người huế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (315.29 KB, 57 trang )

Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

“ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI
LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI HUẾ HIỆN NAY”
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tôn giáo là một lĩnh vực phức tạp và tế nhị. Đã từ rất lâu, con người tìm đến
tôn giáo để nương nhờ, gửi gắm tình cảm và đức tin của mình vào các loại hình tôn
giáo khác nhau. Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng không nằm ngoài
vấn đề có tính quy luật đó.
Trong những năm qua, trên phạm vi cả nước, đặc biệt là Thừa Thiên Huế,
các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đang trở nên “nhộn nhịp” và phức tạp hơn.
Trong các loại hình tôn giáo đã và đang tồn tại ở Thừa Thiên Huế thì Phật giáo là
tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc hơn đối với lối sống của người Huế.
Thừa Thiên Huế là một trong ba trung tâm Phật lớn của cả nước trước kia
cũng như hiện nay. Số lượng tín đồ đông đảo và sự tồn tại của nhiều ngôi chùa trên
mảnh đất này đã chứng minh điều đó. Ở Thừa Thiên Huế có khoảng 200.000 tín đồ
(có quy y) Phật giáo, chiếm khoảng 20% dân số toàn tỉnh (nếu tính số người có cảm
tình với Phật giáo - đi chùa, niệm Phật,.. thì tỉ lệ đó có thể lên đến 60%); có 454
ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất; 296 Niệm Phật Đường với 53150 đoàn sinh sinh hoạt
trong 225 Gia Đình Phật Tử.
Một câu hỏi được đặt ra: tại sao Phật giáo ở Huế lại có thể thu hút một số
lượng đông đảo tín đồ như vậy và vì sao những tư tưởng Phật giáo lại ngự trị một
cách sâu đậm trong lòng nhiều người dân Huế? Việc trả lời những câu hỏi đó sẽ
phần nào giúp chúng ta tìm ra được những nét đặc trưng riêng của Phật giáo xứ Huế
- một loại hình tôn giáo đã tồn tại và có những ảnh hưởng lâu dài trên mảnh đất
miền Trung nhỏ bé này.
Nhận ra được tầm quan trọng về sự hiện diện của Phật giáo không chỉ trong
lối sống mà cả trên lĩnh vực chính trị, xã hội, và thực tiễn đa dạng, phức tạp của
hoạt động tôn giáo hiện nay trên địa bàn Thừa Thiên Huế, nên em chọn đề tài “Ảnh
hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đối với lối sống của người Huế hện nay”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.


2. Tình hình ngiên cứu đề tài:
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
Phật giáo đến từng vùng, miền, từng lĩnh vực đời sống xã hội ở Việt Nam. Chẳng
hạn, “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Tài Thư; “Việt Nam Phật giáo sử
luận” của Nguyễn Lang; hay Nguyễn Thị Bảy với “Văn hoá Phật giáo và lối sống
1


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ”... Những tác phẩm đó của các nhà
nghiên cứu đã trình bày, phân tích Phật giáo ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Nguyễn Lang trong “Việt Nam Phật giáo sử luận” đã phân tích các vấn đề
Phật học then chốt và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt
Nam một cách tự nhiên như “nước thấm lòng đất”.
Minh Chi trong “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” cho rằng, nhiều người Việt đã
tự nguyện đến với đạo Phật, lấy cái nguyên lý từ bi, luân hồi, quả báo,.. của Phật
làm nguyên tắc trong cuộc sống, trong sinh hoạt văn hoá cộng đồng.
Nguyễn Thị Bảy trong “Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà
Nội và châu thổ Bắc Bộ” đã chỉ rõ: Phật giáo tuy có lúc suy vi nhưng không bao giờ
phai tàn trong đời sống văn hoá Đai Việt.
Riêng ở Huế, việc nghiên cứu tôn giáo mà đặc biệt là Phật giáo cũng được
rất nhiều tác giả quan tâm. Vấn đề Phật giáo ở Huế đã có công trình của các tác giả
như: “Lịch sử Phật giáo xứ Huế” của Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm; “Danh lam
xứ Huế” của Nguyễn Hữu Thông, Trần Đại Vinh, Lê Văn Sách; v.v.
Vấn đề lối sống của người Huế, các tác giả: Phan Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Lê Văn Hảo, Trịnh Cao Tưởng, Tôn Thất Bình,.. đã bàn đến ở các khía cạnh
cụ thể như: “Tính cách Huế”; “Phong cách của người Huế”...
Từ cách tiếp cận văn hoá học, xã hội học, triết học có Hoàng Ngọc Vĩnh với
“Nhân sinh quan Phật giáo Huế qua góc nhìn của lịch sử triết học”; Trần Cao Phong

với “Phật giáo Huế và ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến sự hình thành nhân
cách con người Huế hiện nay”...
Nhìn một cách tổng thể, những nghiên cứu trên đều thống nhất ở một điểm:
Phật giáo đã có những ảnh hưởng nhất định trong đới sống văn hoá tinh thần của
người Việt Nam và Huế; Những triết lý nhà Phật đã dung hoà với văn hoá truyền
thống tạo nên sự phong phú của đời sống văn hoá tinh thần. Tuy nhiên, do tính phức
tạp của vấn đề nên những nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở bứơc ban đầu. Dù sao
những công trình nghiên cứu đó vẫn là những đóng góp to lớn trên con đường tiếp
cận Phật giáo dưới góc độ khoa học và đó là những tài liệu vô cùng quý báu để tác
giả luận văn này học tập và kế thừa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là: làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo
đối với lối sống của người Huế hiện nay, nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy

2


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

những ảnh hưởng tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong tiến
trình xây dựng lối sống mới ở Huế hiện nay.
Luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
+ Khái quát quá trình du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và Huế, từ đó rút
ra những đặc điểm của Phật giáo ở Huế.
+ Nghiên cứu những tư tưởng triết học chủ yếu của Phật giáo.
+ Phân tích những tư tưởng triết học chủ yếu của Phật giáo đối với lối sống
của người Huế hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị văn hoá, hạn chế
những ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo trong tiến trình xây dựng lối sống mới ở
Huế hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
Cơ sở lý luận của luận văn là: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử; quan điểm của chủ nghĩa Mac–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tôn giáo nói
chung và Phật giáo nói riêng; Cơ sở thực tiễn hình thành, phát triển của ảnh hưởng
Phật giáo trong lối sống của người Huế.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là: Phương pháp xuyên suốt là phép
biện chứng duy vật. Một số phương pháp phổ biến được tác giả sử dụng trong đề tài
là: Phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, phương pháp và so sánh, phối hợp với
các phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá...
5. Ý nghĩa của luận văn:
Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng là một vấn đề xã hội tế nhị và
phức tạp, sẽ còn tồn tại lâu dài trong công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Thừa
Thiên Huế là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.
Chính vì thế, tác giả luận văn cố gắng tìm ra được một số tư tưởng triết học
Phật giáo ảnh hưởng đến lối sống của con người Huế nói riêng. Từ đó, đề xuất một
số giải pháp có tính khả thi nhằm gắn đạo với đời, phát huy những giá trị tích cực,
hạn chế những tiêu cực của Phật giáo ở Thừa Thiên Huế.
Hy vọng khi luận văn này được hoàn thành, nó có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho bất cứ ai quan tâm đến vấn đề Phật giáo ở Huế. Đồng thời nó
cũng có thể làm tài liệu tham khảo học tập các môn triết học, chủ nghĩa xã hội khoa
học, xã hội học, lý luận tôn giáo của các bạn sinh viên.
6. Kết cấu của luận văn:
3


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
có hai chương và sáu tiết.

Chương 1: Phật giáo ở Huế và những tư tưởng chủ yếu của triết học
Phật giáo ảnh hưởng đối với lối sống con người.
1.1.Vị trí điạ lý và tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế.
1.2. Phật giáo ở Huế - quá trình du nhập và những đặc điểm.
1.3. Những tư tưởng chủ yếu của triết học Phật giáo ảnh hưởng đến lối sống
của con người.
Chương 2: Những ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo đối với lối
sống của người Huế.
2.1. Quan niệm về lối sống
2.2. Lối sống của người Huế dưới sự tác động của những tư tưởng triết học
Phật giáo.
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế
những điểm tiêu cực của đạo đức Phật giáo trong xây dựng lối sống mới ở Huế hiện
nay.

NỘI DUNG
Chương 1:
PHẬT GIÁO Ở HUẾ VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CHỦ YẾU
CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CON NGƯỜI NÓI CHUNG.
1.1. Vị trí địa lý và tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thừa Thiên Huế nằm ở Bắc trung Bộ, với tỉnh lỵ là thành phố Huế và 8
huyện trực thuộc gồm: Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú
Vang, Phú Lộc, Nam Đông, A Lưới. Toàn tỉnh nằm trãi dài từ 16 đến 16.45 độ vĩ
Bắc, rộng từ 10.3 đến 108.8 độ kinh đông; Phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị, phía nam
giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam qua ranh giới đèo Hải Vân; Phía tây
giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với ranh giới là dãy Trường Sơn; Phía
đông giáp biển Đông [8; 53].
Toàn tỉnh có diện tích tự nhiên là 5.053,9 km 2, trãi dài trên một dãi đất hẹp,
chiều rộng trung bình 60 km, chiều dài 127 km theo hướng Tây Bắc- Đông Nam,


4


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

song song với bờ biển, gồm đầy đủ các dạng địa hình vùng núi, gò đồi, đồng bằng
duyên hải, đầm phá ven biển...
Theo số liệu thống kê năm 1999, cả tỉnh có 1.045.134 người, với tốc độ tăng
tự nhiên là 1,8% năm. Vào năm 2000, số người trong độ tuổi lao động là 591 nghìn
người, chiếm 54,9% dân số. Số lao động tham gia vào các ngành nghề kinh tế quốc
dân là 470 nghìn người, chiếm 79,5% nguồn lao động toàn tỉnh [8; 53].
Toàn tỉnh có gần 4 vạn đồng bào các dân tộc thiếu số, chiếm gần 3,7% dân
số của tỉnh với 5 dân tộc anh em: Pa Cô, Cơ Tu, Tà Ôi, Pa Hy và Vân Kiều.
Thừa Thiên Huế là một tỉnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh
hưởng của khí hậu chuyển tiếp, giao thoa giữa khí hậu Á nhiệt đới ở miền Bắc và
khí hậu nhiệt đới ở miền Nam. Khí hậu ở đây chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa khô từ
tháng 3 đến tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2. Nhiệt độ trung bình hàng
năm vào khoảng 25,6 0 C.
Thành phố Huế cách Hà Nội 600 km và cách thành phố Hồ Chí Minh 1080
km; Là tỉnh nằm trên trục hành lang chiến lược Đông–Tây (có đường quốc lộ 1A,
quốc lộ 49 và đường Hồ Chí Minh đi qua); có cửa khẩu Ka-Tai nối với nước bạn
Lào, có cảng biển nước sâu Chân Mây, có sân bay Phú Bài [8; 53].
Từ ngày thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, cùng với cả nước, nền kinh tế
của tỉnh Thừa Thiên Huế tăng trưởng ngày càng nhanh. Cơ cấu kinh tế từng bước
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tốc độ tăng trưởng năm
sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm (2001 – 2005) đạt 9,6%. Tốc độ đầu
tư nhanh, cơ cấu đầu tư chuyển biến tích cực, tập trung ở các chương trình, dự án
trọng điểm. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội có bước phát triển vượt bậc, quá trình đô
thị hoá diễn ra nhanh, đều khắp; diện mạo đô thị, nông thôn ngày càng khởi sắc, tạo

thế và lực mới góp phần tác động sản xuất, phát triển và hội nhập; các vùng, địa bàn
trọng điểm, đặc biệt là khu vực nông thôn đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng phục vụ sản xuất và đời sống, từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; công
tác xoá đói giảm nghèo được ưu tiên hàng đầu, không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo
còn 7%; GDP bình quân đầu người đạt 580 USD, tăng 54% so với năm 2000 [11;
23-32].
Thừa Thiên Huế, con người Huế, văn hoá Huế là nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn
trai trẻ, một người con vĩ đại của dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trường Quốc
Học - Huế, ngôi nhà ở Dương nổ và 112 Mai Thúc Loan là những di tích mang dấu

5


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

ấn về Người. Nhờ vậy, lòng yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc càng trở thành nét
đẹp trong truyền thống xứ Huế.
Huế đã đứng lên trong các phong trào chống thuế, phong trào Duy Tân,
phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh, hoạt động
của các tổ chức tiền thân của Đảng và các tổ chức cộng sản ở Huế, đặc biệt trong sự
ra đời của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tại Huế.
Hình ảnh Thái Phiên, Trần Cao Vân hiên ngang ra pháp trường; hình ảnh
đồng chí Trần Phú trong cuộc bãi khoá trường Quốc Học; hay trong phong trào đấu
tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ chống phát xít tại Huế gắn liền với những tên tuổi
nổi tiếng như Lê Duẩn, Nguyễn Chí Diễu, Phan Đăng Lưu; cuộc bút chiến giữa phái
duy vật và phái duy tâm với những đại biểu xuất sắc như: Lâm Mộng Quang, Hải
Thành, Hải Triều có tác động đến nhận thức tư tưởng trong cuộc đời giải phóng của
mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là sinh viên, học sinh và giới văn nghệ sỹ.
Hình ảnh các tầng lớp nhân dân Huế với băng cờ, gươm giáo, gậy gộc xuống
đường trong cuộc vận động giải phóng dân tộc và cách mạng tháng 8/1945 càng

chứng minh cho tinh thần yêu nước và tự chủ của nhân dân Thừa Thiên Huế. Huế là
nơi đã chứng kiến lễ tuyên bố “nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Việt Minh” và
“lễ thoái vị của ông vua cuối cùng nhà Nguyễn”. Không lâu sau, Huế lại bước vào
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, viết nên những
trang sử hào hùng về lòng dũng cảm, chí khí kiên cường, tính đoàn kết vượt qua
muôn vàn khó khăn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng [9; 81]. Huế xứng đáng
được Trung ương phong tặng 8 chữ vàng: “tiến công, nổi dậy, anh dũng, kiên
cường”.
Thừa Thiên Huế không những là một trung tâm văn hoá, mà còn là trung tâm
khoa học, giáo dục và đạo tạo của miền Trung và cả nước. Đại học Huế có 8 trường
đại học thành viên với hơn 1000 cán bộ giảng dạy. Hàng năm có hơn 39.000 sinh
viên trong cả nước theo học các ngành nghề đào tạo chính quy, tại chức, từ xa.
Bệnh viện trung ương Huế lớn nhất miền Trung với quy mô hơn 11.000 giường
bệnh và một đội ngũ y, bác sỹ đông đảo, có tay nghề cao gồm 1300 người.
Hiếm có vùng đất nào mà ở đó được chứng kiến những biến thiên, bi hùng,
thăng trầm của lịch sử dồn nén như ở Huế. Cũng hiếm có một vùng đất nào mà ở đó
những giá trị văn hoá vô cùng phong phú, đa dạng, đặc sắc, vừa mang một nét
chung của văn hoá Việt Nam, vừa có một nét riêng như ở Huế. Nơi đây từng là thủ
phủ của xứ Đàng Trong, là kinh đô của nước Đại Việt thời vua Quang Trung, là
6


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

kinh đô Việt Nam của triều Nguyễn. Ngay khi chỉ là một bộ phận Việt thường của
nhà nước Văn Lang (thời vua Hùng), một quận Nhật Nam (thời Hán), hay Châu Ô,
Châu Lý của nước Chăm Pa, hay Thuận Hoá của Đại Việt, thì nơi đây vẫn giữ được
một vị thế chiến lược, một miền đất mở ra Bắc và vào Nam, là điểm nối hai đầu đất
nước. Thực tế nó đã đóng vai trò là chiếc cầu trên đường mở Nước về phía nam của
các thế hệ tiền nhân.

Với tất cả những giá trị nổi bật ấy, ngày nay di sản văn hoá Huế kiêu hãnh
đứng sánh vai cùng bạn bè khắp năm châu, bốn biển trong danh mục di sản văn hoá
thế giới. Nhã nhạc cung đình Huế cũng được UNESCO công nhận là “Di sản phi
vật thể và truyền khẩu cho nhân loại”. Không chỉ vậy, Huế còn lưu giữ một phong
thái ung dung thuỳ mị, diụ dàng, đoan trang; sự hoà quyện gắn kết đất trời thiên
nhiên và con người; sự tổng hợp chung sống hoà bình giữa đạo và đời, giữa cổ xưa
và hiện đại. Vì thế, Thừa Thiên Huế vinh dự được chọn để xây dựng thành phố
Festival đặc trưng của Việt Nam [8; 5].
Nhìn lại chặng đường 20 năm đổi mới, những thành tựu mà Thừa Thiên Huế
đã đạt được là rất quan trọng, có tính toàn diện, lịch sử trên các lĩnh vực. Nổi bật là
nền kinh tế đã chuyển biến mạnh sản xuất hàng hoá nhiều thành phần; văn hoá xã
hội phát triển toàn diện; đời sống nhân dân được cải thiện rõ, niềm tin của nhân dân
được củng cố, ngày càng phấn khởi, tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng; quốc
phòng an ninh được tăng cường, giữ vững, hệ thống chính trị được trưởng thành,
lớn mạnh. Thế và lực của tỉnh mạnh gấp nhiều lần so với trước, đã và đang mở ra
những tiền đề vững chắc để tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới theo
hướng CNH–HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành tựu đạt được của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm qua
là kết quả của quá trình đổi mới và sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Những kết quả đó là bước
khởi đầu tốt đẹp có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề để đẩy mạnh quá trình CNH –
HĐH, xây dựng tỉnh Thừa Thiên Huế “phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, đẹp
về văn hoá, vững về chính trị, mạnh về an ninh quốc phòng[10; 9].
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được: nền kinh tế Thừa Thiên
Huế đã phát triển nhưng quy mô còn nhỏ, thiếu bền vững, bảo tồn gắn với phát triển
chưa sâu, một số mặt thiếu đồng bộ. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các
nhiệm vụ cấp bách về văn hoá xã hội còn một số tồn tại, khuyết điểm, hạn chế; nhận

7



Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

thức về “Âm mưu Diễn biến hoà bình” chưa sâu sắc, còn sơ hở, thiếu sót trong quá
trình điều hành, tổ chức thực hiện.
Dù vậy, đến 2005, trừ các thành phố trực thuộc Trung ương, Thừa Thiên Huế
là một trong 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về tăng trưởng GDP.
1.2. Phật giáo ở Huế - Quá trình du nhập và những đặc điểm:
Khoảng 600 năm trước Tây lịch, dân tộc Ấn Độ đã chứng kiến sự ra đời của
một hệ tư tưởng mang tầm vóc nhân loại. Đó là Đạo Phật. Trãi qua hơn 25 thế kỉ, tư
tưởng của đạo Phật không những vẫn tồn tại, có ảnh hưởng lớn trên thế giới, mà còn
được mọi người biết đến như là một phát hiện đầy mới mẻ.
Khác với các giáo chủ huyền thoại của nhiều tôn giáo, vị giáo chủ sáng lập
ra đạo Phật là một nhân vật lịch sử - đó là đức Phật Thích Ca. Xuất phát từ việc
nhìn thấy nỗi khổ ở đời, Ngài đi tìm con đường diệt khổ cho mình, cho con người
và cho chúng sinh.
Truyền rằng, sinh năm 566 trước công nguyên, khi tròn 19 tuổi, Siddhartha
được vua cha cưới vợ cho, hạ sinh con trai đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất
vào năm 29 tuổi, đặt tên là Rahula (La Hầu La). Tuy sống trong cảnh nhung lụa và
đầy hạnh phúc gia đình, nhưng do nhận thấy nỗi khổ của con người với kiếp sống
sinh, lão, bệnh, tử; Bất bình trước sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã của xã hội Ấn
Độ cổ đại, Siddhartha, năm 29 tuổi đã quyết định ra đi tìm đường giải khổ cho bản
thân và cho nhân loại.
Sau 6 năm trời chu du khắp vùng thung lũng sông Hằng, tầm sư, học đạo,
năm 35 tuổi, Siddhartha đã đạt được ý nguyện của mình. Người hiểu ra rằng: một
khi được sống một cuộc sống tràn đầy vật chất thoã mãn dục vọng và hưởng lạc,
con người sẽ bê tha và thối nát, còn cuộc sống tu hành, khổ hạnh ép xác chỉ chuốc
thêm khổ vào thân, chỉ có con đường “trung đạo” mới mong thành chính quả. Con
đường “trung đạo” nghĩa là không say mê việc đời, cũng không qúa khắc khổ, tự
mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lý, dẫn tới yên tĩnh và sự bừng sáng của

tâm hồn trí tuệ.
Sau khi giác ngộ được chân lý, tìm thấy được căn nguyên sinh thành biến
hoá của sự vật, tìm ra được cội nguồn của nỗi khổ và phương pháp diệt trừ nỗi khổ
cho sinh linh, Ngài thực hiện sự nghiệp giải thoát chúng sinh của mình trong 45
năm nữa rồi viên tịch. Từ đó, người đời gọi Ngài là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Suốt 45 năm, Thích Ca Mâu Ni vừa đem triết lý giải thoát của mình tuyên
truyền, phổ biến trong dân gian, vừa củng cố, bổ sung nâng dần lên thành một triết
8


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

lý vững chắc. Trong 45 năm thuyết pháp của Người, thực chất đó là cuộc đấu tranh
không khoan nhượng với giáo thuyết của Bà La Môn giáo, một tôn giáo đã ngự trị
và tha hoá xã hội Ấn Độ hàng ngàn năm.
Sinh thời, Phật Thích Ca không viết sách, người chỉ luận bàn với học trò
bằng phương pháp thuyết giảng. Với trên 82 ngàn cuộc thuyết pháp, Phật Thích Ca
đã căn cứ vào căn cơ mà vận dụng những phương pháp thuyết giảng cao thấp, dễ
khó khác nhau, thậm chí có những đối tượng Phật Thích Ca chỉ lấy những ví dụ và
hướng dẫn thực hành, không nêu lý luận. Vì vậy, sau khi Phật Thích Ca viên tịch
(thọ 80 tuổi), các đệ tử của Ngài đã tiến hành 4 lần đại hội kết tập kinh điển để xây
dựng thành một học thuyết tôn giáo tiện cho việc truyền giáo. Sau 4 lần kết tập,
kinh điển Phật giáo - toàn bộ giáo lý của Phật Thích Ca - được biên tập ghi chép
thành “Tam Tạng kinh”: Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng.
- Kinh tạng, ghi chép lời dạy của Phật (những thuyết pháp của một số đại đệ
tử Phật cũng được ghi lại trong Kinh tạng).
- Luật tạng, ghi chép những “Giới luật” do Phật Thích Ca chế ra (những quy
định của Phật Thích Ca trong hành đạo)
- Luận tạng, là những luận giải của Phật về Tạng kinh và Tạng luật. Đồng
thời còn phần nhiều là những luận giải của các đệ tử cao tăng của Phật.

Hội nghị kết tập lần thứ nhất là sự thống nhất lại nội dung của thời kì truyền
bá đầu tiên của Phật. Các lời Phật giảng được ôn lại thống nhất thành 4 bộ Kinh A
Hàm. Các giới điều Luật Phật chế thời kỳ đầu cũng được thống nhất lại thành bộ 80
Tụng Luật. Tăng đoàn sau thời Phật nhập Niết Bàn vẫn còn giữ được sự thống nhất,
chưa có dấu hiệu gì của sự phân chia.
Cuộc kết tập lần thứ 2 chủ yếu là để giải quyết thống nhất về sự duy trì giới
luật. Cuộc kết tập kéo dài 8 tháng. Từ đây đã bắt đầu hình thành 2 phái - cũng được
gọi là 2 hệ tư tưởng – Đại chủng bộ và Thượng tọa bộ.
- Hệ tư tưởng cấp tiến, chủ yếu do các Tỳ kheo trẻ chủ trương linh động một
số điều giới luật cho phù hợp với xã hội, đồng thời chủ trương thực hành theo giáo
lý ở cuối thời Phương đẳng trở đi. Các Tỳ kheo trẻ chiếm số đông được gọi là “Đại
chúng bộ” – Sau này gọi là “Đại thừa” hay “Bắc tông”.
- Hệ tư tưởng bảo thủ, chủ yếu do các vị Tỳ kheo già chủ trương duy trì
nghiêm giới luật của thuở ban đầu và y theo giáo lý của thời A Hàm. Phái này là
Thượng tọa bộ, về sau gọi là “Tiểu thừa” hay “Nam tông”.

9


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Tiểu thừa hay Đại thừa đựơc coi như những cỗ xe đưa chúng sinh đến nơi thanh
tịnh, đến giải thoát. Nhưng nếu Tiểu thừa như cỗ xe nhỏ chỉ chở được ít người thì Đại
thừa như cỗ xe lớn có thể chở cùng một lúc nhiều người.
Tiểu thừa khi bàn về vũ trụ, thì nhấn mạnh vào các hiện tượng: Sinh - Diệt,
Hư- Giã, Lay động - Chuyển biến không ngừng của sự vật. Còn theo Đại thừa, khi
bàn về vũ trụ cũng có những tương đồng như trên nhưng Đại thừa còn tiến lên một
bậc là đi sâu vào bản thể của sự vật, đi vào một cảnh giới không sinh không diệt,
không lay động. Một cảnh giới “Chân như” tuyệt đối.
Phật giáo Tiểu thừa chủ trương: tự độ, tự giác, tự độ lấy mình ra khỏi vòng

sinh tử luân hồi, chỉ lo tự giác mà thôi. Đại thừa thì ngoài những vấn đề trên còn lo
phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cũng giác ngộ như mình, tức là: “Tự độ Độ tha; Tự giác - Giác tha”.
Tiểu thừa nhận thức đời sống là vô thường, có Sinh – Lão - Bệnh - Tử. Đời
sống là khổ não, nên mong cầu sự giải thoát ra khỏi luân hồi, sinh tử; đạt tới cảnh
giới “Niết bàn”. Tiểu thừa tách rời sinh tử với Niết bàn, cho đó là hai cảnh giới khác
nhau.
Đại thừa cũng nhận thức đời sống là vô thường, có Sinh – Lão – Bệnh - Tử;
nhưng phiền não không trụ nơi “sinh tử”, giải thoát không trụ nơi “Niết bàn”. Đại
thừa quan niệm “phiền não tức Bồ Đề”, sinh - tử và Niết bàn là một, chính trong
sinh tử mà tu dưỡng chứng đựơc Niết bàn.
Tiểu thừa chủ trương chấp vào văn tự, vào từng câu chữ trong kinh điển. Đại
thừa không cố chấp vào văn tự, chữ nghĩa mà hiểu kinh sách một cách rộng rãi, chú
trọng vào tinh thần hơn vào lời văn trong kinh điển.
Tuy công năng của Tiểu thừa và Đại thừa ít nhiều khác nhau; Tam Tạng của
Tiểu thừa và Đại thừa cũng thể hiện ít nhiều khác nhau, nhưng cả 2 phái trên đều
tôn trọng những tư tưởng cơ bản của Phật Thích Ca, nhất là những tư tưởng về thế
giới quan và nhân sinh quan. Với những tư tưởng triết lý nhân ái giàu tình người,
đạo Phật đã nhanh chóng vượt biên giới Ấn Độ lan rộng và truyền bá vào các quốc
gia, dân tộc klhác nhau.
Mục tiêu giải quyết vấn đề thì nhất quán, nhưng để chuyển tải được cho mọi
đối tượng, thành phần khác nhau nghe hiểu để thực hành, Phật Thích Ca và Phật
giáo đã có nhiều phương pháp khác nhau, nên cũng dần hình thành nhiều hệ phái,
tông phái có tính chất biệt truyền. Ngày nay, Phật giáo có tới 200 hệ phái.

10


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đã từng chỉ ra rằng: Sự du nhập của một

hệ tư tưởng vào một dân tộc hay một vùng nào đó, thường nó phải xuyên qua hàng
rào tâm lý, có khi cả hệ tư tưởng của dân tộc hoặc vùng ấy. Mặc khác, theo luật
“đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của người phương Đông thì lẽ thường
tình, khi một hệ tư tưởng được một vùng, hoặc một quốc gia tiếp nhận và nuôi
dưỡng thì nó phải có một lý do nào đấy. Do đó, Phật giáo được con người Việt Nam
tiếp nhận và sống thuỷ chung trong lòng dân tộc, tất nhiên phải có sự phù hợp,
tương đồng của cả hai phía: Phật giáo và dân tộc.
Phật giáo truyền đến Việt Nam vào những năm đầu công nguyên. Lúc bấy
giờ nước ta đang bị Trung Quốc xâm lược. Phật giáo đã dung hoà được với hệ tư
tưởng và tin ngưỡng dân tộc, vì vậy nó nhanh chóng tìm được chỗ đứng và có điều
kiện bám rễ chắc chắn trên mảnh đất này.
Dựa vào các sử liệu, hiện nay các sử gia đều thống nhất cho rằng: đạo Phật
đã đến Việt Nam trước hết là bằng đường biển theo bước chân của các thương nhân
và tăng sĩ Ấn Độ.
Sang thế kỷ IV–V, có thêm Phật giáo đại thừa từ Trung Quốc tràn vào. Từ
“Buddha” tiếng Hán phiên âm thành Phật đồ, tiếng Việt rút gọn lại là Phật; từ đây, từ
Phật dần dần thay thế cho từ Bụt khi nói về Buddaha ở Việt Nam.
Phật giáo Đại thừa của Trung Quốc, có 3 tông phái được truyền vào Việt
Nam: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
Thiền tông chủ trương tập trung trí tuệ, suy nghĩ để tự mình tìm ra chân lý.
Thiền tông vào Việt Nam luôn đề cao cái tâm. Phật tại tâm, Tâm là Niết bàn, là
Phật. Tu theo Thiền tông đòi hỏi nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy chủ yếu
chỉ phổ biến ở giới trí thức thượng lưu.
Tình Độ Tông chủ trương dựa chủ yếu vào sự giúp đỡ từ bên ngoài để cứu
chúng sinh. Đó là việc hướng họ đến một cõi Niết bàn cụ thể gọi là Tịnh độ (yên
tĩnh, trong sáng). Đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm để nhớ và làm theo
những lời dạy của Phật Adiđà, là những cách tu đơn giản. Vì vậy Tịnh độ tông trở
thành phổ biến ở giới bình dân.
Mật tông chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như dùng linh
phù, mật chú, ấn quyết,.. để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giải

thoát. Vào Việt Nam, Mật tông không còn tồn tại độc lập như một tông phái riêng
mà nhanh chóng hoà vào dòng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống cầu
đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh...
11


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Cả 3 tông phái trên, mặc dù có những điểm khác biệt nhau, nhưng nhìn
chung, chúng đều dựa trên những giáo lý cơ bản của nhà Phật, giữa chúng có sự ảnh
hưởng đến nhau và đều mang tinh thần hoà mình vào đời sống thường nhật.
Thời Lý - Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển đến cực thịnh.
Đời Lê, nhà nước lấy Nho giáo làm chủ đạo tinh thần, Phật giáo dần suy
giảm. Đến thế kỷ XVIII, vua Quang Trung có quan tâm chấn hưng đạo Phật, xuống
chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, chọn các tăng nhân có học thức và đạo đức cho coi chùa,
song vì vua mất sớm nên việc này ít thu được kết quả.
Đầu thế kỷ XX, đứng trước những biến động do sự giao lưu với phương Tây
mang lại, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy lên, khởi đầu từ các đô thị miền
Nam. Những năm 30, các trung tâm Phật học ở Nam Kì, Trung Kì và Bắc Kì lần
lượt ra đời với những cơ quan ngôn luận riêng. Cho đến nay, Phật giáo vẫn là tôn
giáo có số lượng tín đồng đông nhất ở Việt Nam. Đạo Phật thân thiết với người Việt
Nam đến nỗi nếu một người nào đó không theo một tôn giáo nào thì chí ít là có tình
cảm với đạo Phật. Trong sự phát triển của Phật giáo Việt Nam thì Hà Nội, Huế, Sài
Gòn được xem là 3 trung tâm Phật giáo lớn của cả nước.
Về lịch sử Phật giáo ở Huế, theo tác giả Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm:
“Từ buổi đầu cõi Tiên Bình, Thuận Hoá có Phật giáo, có chùa chiền, có Phật giáo
dân gian, có chùa làng nhưng chưa thấy chùa Tổ có truyền thừa theo một dòng kệ
nào”[12; 14]. Hai tác giả cũng nhận xét rằng, trong số nhiều dòng Phật giáo truyền
vào Việt Nam thì đã có 2 thiền phái truyền vào Huế rất sớm, khoảng thế kỷ VIII đến
thế kỷ XIV.

“Trước tiên là thiền phái do một thiền sư Trung Quốc đã đến đất Ô Châu, Ô
Rí cắm tích trượng để hoằng hoá giáo pháp nhưng duyên cơ lại đẩy vị thiền sư này
ra Thăng Long để khai phá, đó là thiền sư Thảo Đường”[12; 14]. Như vậy, Phật
giáo đã tồn tại ở Thuận Hoá trước khi những đoàn người Việt từ phía Bắc vào đây
khẩn hoang lập nghiệp.
Thiền phái thứ 2 do người Việt sáng lập, “đó là dòng thiền Trúc lâm ở núi
Yên Tử. Phái này long thịnh vào thời dân Đại Việt đã làm chủ cõi đất Thuận Hoá.
Tuy có đến cửa Tư Dung và vùng Bắc Thuận Hoá nhưng không truyền bá rộng rãi ở
vùng đất mới này”[12; 14].
Nói về lịch sử, trước đây, Thuận Hoá thuộc đất Chăm Pa, chịu sự ảnh hưởng
của văn hoá Chăm Pa. Phải đến năm 1306 trở đi, Thuận Hoá mới trở lại là lãnh thổ
của Việt Nam. Từ đó, từng dòng người ở Bắc tiến dần về phái Nam. Lần đầu tiên
12


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

đến sinh cơ lập nghiệp trên đất Thuận Hoá, trước những bỡ ngỡ, cô đơn nơi vùng
đất mới, dân cư, phong tục, văn hoá đều xa lạ, đầy sự huyền bí và sự đe doạ, những
người dân lúc ấy đã phải giữ sự bình an của tâm hồn bằng chính những ngôi chùa
Phật. Những ngôi chùa làng vị tha, hướng thiện, từ bi của đức Phật là nơi an ủi tâm
hồn, giúp con người vượt khổ nạn. Cũng chính vì vậy mà đạo Phật đã bám sâu
trong đời sống tâm linh của họ.
Chính quyền trung ương buổi đầu khi tiếp nhận Thuận Hoá đã không còn
mang tinh thần lấy Phật giáo làm quốc đạo, bởi vì từ Trần Anh Tông (1311) trở đi
đến Hồ Quý Ly, hậu Lê đều đề cao Nho giáo. Với luật Hồng Đức (1460), vua Lê
Thánh Tông đã không còn coi trọng tăng ni và chùa chiền, mà coi Phật pháp là hư
ảo, viễn vông. Nhưng không vì thế mà Phật giáo mất đi ảnh hưởng của mình. Biết
bao thế hệ lưu dân Việt trong các thế kỷ từ XIV đến thế kỷ XIX đã rời bỏ các vùng
đồng bằng miền Bắc để tìm vào hội tụ ở đồng bằng sông Hương, và Phật giáo ở đây

đã là người bảo hộ cho những người dân đó khi đến với vùng đất mới.
* Phật giáo Thuận Hoá từ thời Hồ Quý Ly đến thời Lê (1400–1558):
Từ triều Trần về sau cho đến Lê Thánh Tông (1467–1497) đất Thuận Hoá
vào Nam còn được kể là vùng biên địa, dân ít, người thưa; triều đình Thăng Long ít
để ý đến cuộc sống dân dã.
Phật giáo là đạo thực hiện, là đạo giáo đi thẳng vào lòng người, để cứu vớt
chúng sinh ra khỏi nẻo khổ, nên luôn được nhiều người nghe theo và hỗ trợ. Vào
cuối đời nhà Trần năm 1374, Nho thần Lê Quát muốn “tịch tà hưng chánh” theo
nghĩa nhà Nho của ông, mà rốt cục vẫn không làm được. Ông nói: “Thuyết hoạ
phúc của nhà Phật tác động tới con người, sao mà được người ta tin theo sâu sắc và
bền vững như thế? Trên từ vương cung, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc
nhà Phật, thì dẫu đến hết tiền cũng không sẻn tiếc. Nếu ngày nay gửi gắm vào tháp
chùa thì mừng rỡ như nắm được khoán ước để lấy quả báo ngày sau. Cho nên trong
kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho tới thôn cùng ngõ hẻm không mệnh lệnh mà
người ta vẫn theo, không thề thốt mà người ta vẫn tin. Chỗ nào có người ở, tất có
chùa Phật, bỏ rồi lại xây, hỏng rồi lại sửa, chuông trống lâu đài chiếm đến nửa phần
so với dân cư. Phật giáo rất dễ hưng thịnh mà được rất mực tôn sùng”[12; 69-70].
Vào năm 1448, Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi: “Vua xuống chiếu cho quan
văn võ phải trai giới đến chùa Báo Ân ở cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa. Vua đích
thân tới vái xin”[12; 69-70].

13


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Chùa Thiên Mụ đã được xây dựng vào thời kỳ này, ghi nhận đầu tiên về sinh
hoạt Phật giáo tại vùng Thuận Hoá.
Qua những dữ liệu trên có thể nhận định rằng, Phật giáo Thuận Hoá ở thời
kỳ này đã phát triển và thịnh vượng.

* Phật giáo Thuận Hoá dưới thời các chúa Nguyễn(1558–1777):
Khi vào trấn thủ Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng đã yểm trợ Phật Giáo để được
lòng dân.
Trong 9 đời của chúa Nguyễn, nhờ sự mộ đạo của các chúa Nguyễn, Phật
giáo thời kỳ này rất hưng thịnh. Về mặt tư tưởng, dân Thuận Hoá ở thời kỳ này đã
sống với một triết lý sống dung hợp cả 3 nguồn tư tưởng lớn: Thích, Khổng, Lão
với tín ngưỡng bình dân vốn có. Tuy nhiên, tư tưởng đạo Phật có phần nổi trội hơn,
trội về mặt tín ngưỡng chứ không phải về triết thuyết.
Thời gian này, Phật giáo ở Huế đã tồn tại nhiều phái. Phái của thiền sư
Hương Hải (ảnh hưởng của Phật giáo Trúc lâm Yên Tử), hai phái thiền Lâm Tế,
Tào Động từ Trung Quốc trực tiếp truyền sang và phái thiền Liễu Quán của người
Việt Nam bằng sự kết hợp Lâm–Tào với truyền thống tư tưởng của người Đàng
Trong.
Giữa thế kỷ XVII, phái Thiền Trúc Lâm được phục hưng ở vùng Quảng Trị,
Thuận Hoá nhờ công của thiền sư người bản địa: Minh Châu Hương Hải. Chúa
Nguyễn Phúc Tần rất ngưỡng mộ sư Hương Hải, năm 1667 chúa cho lập Thiền
Tĩnh Viện ở núi Quì Kính ở cửa biển Tư Dung để sư Hương Hải hành đạo. Do sự
tồn tại của phái thiền Trúc Lâm ở Huế không dài nên dấu ấn mà nó để lại trong đời
sống của đời sống nhân dân ở đây không sâu đậm lắm.
Được chúa Nguyễn trọng dụng, thiền sư Nguyên Thiều đã dốc hết lòng
truyền bá, hoằng dương đạo Phật ở Huế và Đàng Trong. Tuy các thiền sư Lâm Tế
không đóng vai trò như là cố vấn chính trị nhưng đã có vai trò rất quan trọng cố kết
lòng người, an dân, ổn định tinh thần của quãng đại quần chúng. Chính điều đó đã
làm cho đạo Phật ngày càng bám sâu, bám chắc trên mọi lĩnh vự của đời sống xã
hội lúc bấy giờ.
Chúa Nguyễn Phúc Chu đã tạo điều kiện cho phái Tào Động du nhập và phát
triển ở Đàng Trong. Người đặt cơ sở đầu tiên cho phái Tào động ở Đàng Trong là
thiền sư Hưng Liên Quả Hoằng, và người làm cho Tào Động phát triển là thiền sư
Thạch Liên Đại Sán. Sự tồn tại của phái Tào Động chỉ như là tư cách cố vấn chính
trị, xuất phát từ yêu cầu chính trị.

14


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Đến thế kỷ thứ XVIII, ở Huế xuất hiện phái Liễu Quán. Người sáng lập ra
phái này là thiền sư Liễu Quán người Việt Nam. Quan điểm truyền đạo của Liễu
Quán là phải kiên trì, lâm vô ứng biến và phải hoà ly nước với sữa, phù hợp với mọi
hoàn cảnh. Liễu Quán đã chắt lọc những tinh hoa của hai dòng thiền Lâm Tế - Tào
Động dung hợp với tâm lý và truyền thống của dân tộc Việt Nam.
* Phật giáo ở Huế dưới thời Tây Sơn(1788–1802):
Vua Quang Trung chủ trương mỗi phủ, huyện chỉ để một chùa lớn, tuyển
chọn tăng, ni, người hiếu đạo, chân chính trông coi chùa và truyền đạo, còn ai núp
bóng cửa thiền, sống ký sinh thì vua bắt hoàn tục. Giai đoạn này, khó có thể nói là
Phật giáo phát triển vì triều Tây Sơn quá ngắn.
* Phật giáo ở Huế dưới triều đại nhà Nguyễn (1802-1945):
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Gia Long, dù đề cao Nho
giáo thành địa vị độc tôn, ông cũng tạo điều kiện cho Phật giáo ở Huế chấn hưng:
Sửa sang chùa chiền (dù là một ngôi nhà tre nhỏ, lợp tranh), tập hợp giáo đoàn tăng
sĩ (dù mỗi chùa chỉ có vài ba người), lo chỉnh đốn cách thờ tự cho trang nghiêm để
tín đồ có chỗ làm lễ và nghe giảng Pháp, tụng Kinh. Đây thực chất là chính sách thu
phục lòng dân của vua Gia Long.
Vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị cũng đề cao Nho giáo lên địa vị độc tôn
trong đời sống tinh thần dân tộc, đồng thời sử dụng Phật giáo như chiến lược thu
phục nhân tâm. Nhờ thế mà Phật giáo có nhiều điều kiện phát triển.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, chúng đã tạo điều kiện cho
Thiên Chúa giáo phát triển, Phật giáo và các tôn giáo khác bị chèn ép. Trong tình
hình ấy, Phật giáo bị suy yếu, mãi đến những năm 20 của thế kỷ XX mới chấn
hưng, thức tỉnh phật tín đồ vì Phật pháp và chống kẻ xâm lược và tay sai cứu dân,
cứu nước.

* Phật giáo ở Huế từ 1945 đến 1975:
Hoà mình cùng dân tộc, Phật giáo ở Huế tiếp tục tham gia vào cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Phần lớn các tín đồ đều lãnh mọi trách nhiệm theo khả
năng của mình để cứu quốc. Các chùa cũng trở thành nơi tụ họp bí mật, che dấu cán
bộ Việt Minh. Các nhà tu hành đạo Phật đã tâm niệm rằng: “Dù hao tốn của chùa để
đổi lấy độc lập cho dân tộc, họ cũng sẵn sàng hy sinh không ngần ngại”[21; ?].
Giai đoạn này, ở Huế đã diễn ra một biến cố lịch sử mang tính nhân loại. Đó
là vụ “Ngô triều phá Phật năm 1963”. Trong vụ tàn sát vào đêm 8/5/1963, diễn ra ở
đài phát thanh Huế, có “4 người bị thương, 8 người bị giết bằng súng, lựu đạn và xe
15


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

thiết giáp cán. Trong số 8 người chết có 6 thanh thiếu niên, 2 em bị cán mất nữa
đầu, một em bị cán mất đầu, xương sọ bị vụn tan không nhìn được mặt, và một em
bị mất hẳn đầu”[12; 481]. Không dừng lại ở đó, những vụ bao vây, cấm vận các
chùa, rồi những vụ tàn sát tiếp tục diễn ra không chỉ ở Huế mà còn ở cả miền Nam.
Trước tình hình đó, tín đồ Phật tử ở Huế, trong cả nước và trên thế giới đã đấu tranh
với gia đình họ Ngô để bảo vệ Phật giáo, cứu đời. Nhiều nhà sư đã tự thiêu để bày
tỏ thái độ phẫn nộ đối với chế độ đương thời. Vụ “Ngô triều phá Phật năm 1963” đã
gây cho Phật giáo cả nước mà đặc biệt là Phật giáo ở Huế những tổn thất to lớn,
nhưng cũng càng khẳng định tinh thần đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì đạo pháp của
các tín đồ Phật tử. Điều đó đã góp phần không nhỏ trong thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ của dân tộc ta.
* Phật giáo ở Huế từ 1975 đến nay:
Từ sau ngày đất nước được thống nhất đến nay, Phật giáo ở Huế đã có những
bước tiến mới. Hoạt động của Phật tín đồ có tổ chức và nề nếp hơn.
Năm 1986, cả nước bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước. Với chính sách
tôn trọng tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước, Phật giáo ở Huế đã có điều kiện

thực hiện nhu cầu tín ngưỡng của mình. Quan hệ giữa chính quyền nhà nước, nhân
dân và tín đồ Phật giáo ngày càng trỏ nên thân thiết. Hầu hết các tín đồ đều nhận
thức được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình trong trong tiến trình xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc với đường hướng “Đạo pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Ngày 23/11/1990 đã diễn ra Đại hội Phật giáo tỉnh lần thứ nhất. Đại hội đã
bầu ra Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh do hoà thượng Thích Mật Hiển làm trưởng ban.
Phật giáo ở Huế từ ngày du nhập cho đến nay, là một quá trình gắn bó chặt
chẽ cùng lịch sử dân tộc. Phật giáo ở Huế là nơi tụ điểm và phát sinh của một dòng
thiền rất mạnh: Thiền Liễu Quán, để một mặt tiếp nối sự hoằng hoá giáo pháp của
đức Phật, một mặt làm cho đạo mạch Phật giáo Việt Nam lưu trường. Đồng thời,
Huế cũng là điểm hội tụ thống nhất của Phật giáo ba miền Bắc – Trung - Nam.
Từ sự phát triển của Phật giáo ở Huế từ ngày du nhập cho đến nay, có
thể tìm ra một số đặc điểm tiêu biểu, những nét riêng của Phật giáo ở Huế như
sau:
Thứ nhất, Huế là một trong nhưng trung tâm Phật giáo của cả nước, là “cái
nôi” của giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ở Thừa Thiên Huế có khoảng 200.000 ngàn
tín đồ (có quy y) Phật giáo, chiếm khoảng 20% dân số toàn tỉnh (nếu tính số người
có cảm tình với Phật giáo – đi chùa, niệm Phật,.. thì tỉ lệ đó có thể lên đến 60%).
16


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Trong đó, riêng thành phố Huế có 130.000 tín đồ, chiếm khoảng 31% dân số thành
phố (toàn quốc có khoảng 10 triệu tín đồ, chiếm tỉ lệ 14% dân số). Toàn tỉnh có
khoảng hơn 400 tăng ni, 454 ngôi chùa, tịnh xá, tịnh thất; 296 Niệm Phật Đường
với 53.150 đoàn sinh sinh hoạt trong 225 GĐPT; một trụ sở văn phòng Ban Trị Sự;
Một trường cao cấp Phật học, nay là học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố
Huế...
Đã có một thời, Huế được xem là thủ đô của Phật giáo Việt Nam. Trong Phật

giáo có nhiều tăng tài và cư sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước, số đông đều xuất gia
tu học và trưởng thành ở Huế; Qua các thời kỳ, nhiều luồng tư tưởng của Phật giáo
Việt Nam đều xuất phát ở Huế; Các hoạt động Phật sự tại Huế có ảnh hưởng trên
phạm vi nhiều tỉnh trong nước và nước ngoài. Có thể nói, Huế là điểm hội tụ nhưng
cũng là điểm phản chiếu - có sức lan toả rất lớn của các hoạt động Phật giáo trên
phạm vi cả nước. Vì vậy mà giáo sư Nguyễn Tài Thư đã từng nhận định: “Ở miền
Nam, Phật giáo phát triển mạnh nhất là các trung tâm như là Huế và Sài Gòn. Trong
đó Huế là tiêu biểu hơn cả. Phật giáo Huế ngày nay cũng mang những sắc thái khác
nơi khác. Ở đó, giáo lý được biên soạn cẩn thận, nói chung các nhà sư có tâm huyết
với lý tưởng cúa mình, hệ thống được tổ chức chặt chẽ...Tình hình tổ chức Phật giáo
như Huế thì nơi khác chưa có. Huế đã là trung tâm sinh hoạt có nề nếp, có sức thu
hút và lôi kéo với nơi khác... Bởi vậy, nếp sinh hoạt Phật giáo Huế ngày nay có thể
trở thành nếp sinh hoạt của nhiều vùng Phật giáo khác ngày mai”[23; 89].
Tại đại hội đại biểu Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế nhiệm kỳ III (19972002), Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ cũng đã khẳng định: “Nước ta có lịch sử
4000 năm văn hiến, Phật giáo có 2000 năm gắn bó với dân tộc, sự nghiệp chấn
hưng Phật giáo có cái nôi đầy tình nghĩa là tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ mảnh đất này,
biết bao nhiêu vị danh tăng đã xuất hiện, biết bao công trình Phật giáo đã viên
thành, biết bao cống hiến vinh quang cho Tổ Quốc đã vang dội đất nước”[29; 10].
Như vậy, Phật giáo ở Huế đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát
triển của Phật giáo Việt Nam.
Thứ hai, Huế là nơi có nhiều chùa và mật độ chùa tập trung khá cao.
Thừa Thiên Huế tuy là một tỉnh “trẻ” hơn và có số dân ít hơn thủ đô Hà Nội
nhưng lại có số lượng chùa tương tự (400 ngôi chùa). Trong đó, thành phố Huế
chiếm hơn 120 ngôi chùa, bình quân mỗi huyện còn lại 35 ngôi chùa. Thậm chí có
nơi như xã Thuỷ Xuân (thành phố Huế) mật độ tập trung chùa chiền lên đến mức
thái quá- cứ 200 tín đồ thì có một ngôi chùa với 4 tăng sĩ.
17


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay


Bảng điều tra sau đây về công trình nghiên cứu khoa học của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997-1999) sẽ cho ta thấy được tỷ lệ so sánh về
số lượng chùa của 3 trung tâm Phật giáo Hà Nội, Huế và Sài Gòn.
Thành phố

Số lượng So với số dân
chùa
phố 100
1/2700

Số lượng tăng So với số dân
ni
487
1/570

Thành
Huế
TP Hồ Chí 940
1/4500
1379
1/1379
Minh
TP Hà Nội
404
1/5930
367
1/6500
Những con số trên đã chứng minh cho mức độ dày đặc về sự tồn tại của các
ngôi chùa ở Huế. Có thể nói rằng, tại Huế, không có con đường nào, không có xóm

thôn nào, không phường xã nào, không bờ sông, ngọn núi nào lại không có ít nhất
một ngôi chùa.
Khác với Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, ở Huế có sự phân biệt giữa chùa,
niệm Phật đường, am, cốc. Nếu ở Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, nhiều ngôi chùa
được nối liền vói nhà ở của cư dân nên quang cảnh chùa đã hoà chung vào quang
cảnh của phố, phường, xóm, thì ở Huế, các ngôi chùa đều có khuôn viên riêng, sân
chùa là lòng chữ khẩu của mỗi ngôi chùa và đồng thời là một vườn cảnh được chăm
chút rất cầu kỳ. Vì vậy, Ở Huế, người ta đến chùa không chỉ là để hành đạo mà còn
để tham quan, để hít thở và thưởng thức những cảnh đẹp và không khí trong lành
của chùa.
Thứ ba, Phật giáo ở Huế có sự dung hợp mạnh mẽ giữa Thiền Tông và Tịnh
Độ Tông.
Thiền Tông là tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ-Đề-Đạt-Ma sáng lập
ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ VI. Khi du nhập vào Việt Nam, nó là thiền tông
Nam phái và đã có sự biến đổi để phù hợp với tín ngưỡng, tâm lý của người Việt
Nam. Thiền Tông với ý nghĩa lấy Thiền định làm phép tu - tu thiền với ý nghĩa yên
lặng mà suy nghĩ để tìm ra chân lý. Thiền Tông luôn đề cao cái tâm, tâm là Niết
Bàn, là Phật, để hiểu Phật không cần phải câu nệ vào kinh sách, văn tự...
Trong khi đó, Tịnh Độ Tông lại chủ trương thờ Tam bảo và niệm Phật, dựa
vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu. Đi chùa lễ Phật, thường xuyên tụng niệm để
nhớ và làm theo những lời dạy của Phật Adiđà là những cách tu đơn giản. Vì vậy,
Tịnh Độ Tông trở thành phổ biến ở giới bình dân.

18


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Những đặc điểm trên đã làm cho Tịnh Độ Tông và Thiền Tông dễ ăn sâu vào
lòng người, tín đồ Phật tử ở Huế vì thế mà cũng dễ dàng tiếp nhận. Trong đó, về

mặt tư tưởng thì Thiền Tông đóng vai trò quan trọng, còn cách thức tu hành thì Tịnh
Độ Tông là chủ yếu. Vì vậy, ở Huế ngày nay các tu sĩ một mặt rất chú trọng đến
trình độ uyên thâm kinh sách, nhưng mặt khác cũng coi giáo lý như đò đưa khách
sang sông, không chấp giáo lý, văn tự để chống nhau mà điều quan trọng nhất là
sống tốt đời đẹp đạo.
Đặc điểm thứ tư, Phật giáo ở Huế mang đậm sắc thái yêu thiên nhiên, quê
hương và đất nước.
Tình yêu quê hương, đất nước của Phật giáo ở Huế được thể hiện ngay từ
buổi đầu mới du nhập, nhưng tiêu biểu nhất là giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ
cứu nước. Giảm sát sinh là lời khuyên của đạo Phật đối với mọi tín đồ và cả đối với
dân chúng. Nhưng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, giáo lý được tín đồ thực hiện một cách
linh động và hợp lý. Khuynh hướng nhập thế, đặt sự tồn tại của Phật giáo trong lòng
sự tồn tại của dân tộc được Phật tin đồ thể hiện rất rõ trong hai cuộc kháng chiến.
Họ sẵn sàng đổ máu, sẵn sàng tự thiêu, sẵn sàng đấu tranh vì đạo pháp,vì độc lập
dân tộc. Cái chết tự thiêu lẫm liệt của các đại đức: Nguyên Hương, Thanh Tuệ, Tiêu
Diêu,.. và phong trào đấu tranh của đồng bào Phật tử sát cánh cùng nhân dân Huế
trong những lúc gian khó, nguy hiểm nhất của dân tộc đã chứng minh cho tình yêu
quê hương, yêu đất nước của tín đồ Phật giáo Thừa Thiên Huế.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, nhìn chung Phật giáo ở
Huế vẫn giữ vững truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, tham gia sinh hoạt
trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam theo tinh thần “Đạo pháp- dân tộc – xã hội chủ
nghĩa”.
Không chỉ thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước, Phật giáo ở Huế luôn
thể hiện một tình yêu đối với thiên nhiên. Nơi mà các ngôi chùa Huế toạ lạc thường
là những điểm cao và thanh tịnh, với cách xây dựng theo luật “phong thuỷ”. Vì vậy,
đến chùa Huế, người ta không chỉ để lễ Phật, nghe thuyết pháp,.. mà còn đến để vãn
cảnh, để tìm sự thư thái cho tâm hồn mình. Nhìn vào khuôn viên các ngôi chùa ở
Huế, ta thấy đó như là một bức tranh toàn cảnh của núi non, sông nước, cây cối,
hoa lá, chim muông... Tất cả điều đó được thực hiện với sự công phu tỉ mỉ của con
người và với tấm lòng rất đỗi yêu thiên nhiên của người Huế.

1.3. Những tư tưởng chủ yếu của triết học Phật giáo ảnh hưởng đến lối
sống con người.
19


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”, Mác
đã viết: “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người.
Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự giác của con người chưa tìm thấy bản thân mình
hoặc đã đánh mất bản thân mình một lần nữa. Nhưng con người không phải là một
tồn tại trừu tượng, ẩn náu đâu đó, ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới
những con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn
giáo, tức thế giới quan lộn ngược, vì chính bản thân chúng là thế giới lộn ngược.
Tôn giáo chính là lý luận phổ biến của thế giới ấy, là toát yếu bách khoa của nó, là
lôgic của nó dưới hình thức phổ cập, là niềm danh dự duy linh luận của nó, là nhiệt
tình của nó, là sự thừa nhận về một đạo đức của nó, là cái bổ sung trang nghiêm của
nó, là cơ sở phổ biến của sự tự an ủi và tự liên hệ của nó. Tôn giáo biến bản chất
con người thành tính hiện thực ảo tưởng vì bản chất con người không có tính hiện
thực sự... Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không
có tinh thần...”[1; 14].
Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” cũng có cách nhìn tương tự: “Bất
cứ tôn giáo nào cũng đều chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc người ta những
sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà
trong đó những sức mạnh ở thế gian đã mang hình thức siêu thế gian. Trong những
thời kỳ đầu của lịch sử, chính những sức mạnh của thiên nhiên là những cái được
phản ánh như thế trước hết và trãi qua quá trình diễn biến và qua các dân tộc, những
sức mạnh thiên nhiên ấy đã được nhân hoá theo đủ mọi cách với đủ mọi vẻ...
Nhưng cũng chẳng bao lâu bên cạnh những sức mạnh xã hội này cũng xa lạ y như

sức mạnh thiên nhiên vậy; Lúc đầu cũng không thể hiểu được và cũng không thể chi
phối người ta với một cái vẻ thiết yếu bề ngoài thật hệt như những sức mạnh tự
nhiên vậy. Những nhân vật ảo tưởng lúc đầu chỉ phản ánh những sức mạnh huyền
bí của thiên nhiên thì nay lại vì lý do nói trên mà có thể có cả những thuộc tính xã
hội và trở thành những nhân vật đại biểu cho sức mạnh lịch sử”[4; 537-538].
Những luận điểm nổi tiếng trên đây của Mác, Ănghen đã nói lên đầy đủ, trọn
vẹn nguồn gốc, bản chất, chức năng ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội
của con người từ thế giới quan đến nhân sinh quan đến lối sống, phong tục tập quán
trong đời sống cộng đồng dân cư. Phật giáo một dòng đạo lớn của nhân loại cũng có
những ảnh hưởng như thế.

20


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Sở dĩ đạo Phật có được sức sống mãnh liệt, lâu dài với lịch sử là vì mục đích
tối thượng của nó là cứu nạn cứu khổ, đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người.
Giáo lý của đạo Phật chủ yếu tập trung vào cuộc sống hiện thực mà ít bàn đến
những hiện tượng tự nhiên, điều đó hoàn toàn phù hợp với quần chúng, khi mà trình
độ nhận thức của họ còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, đạo Phật thực sự trở thành
chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng trong xã hội. Dần dần, nó
càng bám sâu vào lối sống, cách suy nghĩ, đời sống tâm linh của con người.
Vậy, những tư tưởng, những triết lý nào của Phật giáo đã có những tác động
đến lối sống của con người? Quả thật, để trả lời cho vấn đề này là không giản đơn.
Dựa vào kiến thức còn hạn chế, tác giả luận văn chỉ xin đề cập một số nội
dung chủ yếu trong thế giới quan và nhân sinh quan của triết học Phật giáo có ảnh
hưởng đến lối sống con người.
* Thế giới quan Phật giáo:
Trong khi Ấn Độ giáo và nhiều tôn giáo khác cho rằng vũ trụ có tạo vật chủ,

thì ngược lại, Phật giáo chủ trương vô thần. Theo Phật giáo, vũ trụ tự nó, không do
ai sinh ra, không ai có thể tiêu diệt, không một thế lực nào có thể dùng ý muốn của
mình mà chi phối sự vận hành của nó; vũ trụ là không sinh, không diệt, vô thuỷ, vô
chung. Trong vũ trụ, vạn sự, vạn vật mà Phật giáo gọi là vạn pháp đều nhờ duyên
mà có. Duyên hội sự vật sinh, duyên tan sự vật mất.
Khái niệm Pháp (dharma) trong triết học Phật giáo có ý nghĩa quan trọng đến
mức, hệ thống Phật giáo với nghĩa đã biết, có thể gọi là thuyết dharma. Chính đây là
đặc trưng riêng biệt của triết học Phật giáo, khiến cho nó khác những khuynh hướng
triết học khác. Nếu như học thuyết ý niệm là đặc trưng của triết học Platôn, còn học
thuyết về tiêm nghiệm là đặc trưng của triết học Kart, thì học thuyết Dharma (Pháp)
là đặc trưng của triết học Phật giáo.
Trong tác phẩm “Đạo Phật ngày nay”, Nikhyo Niwano định nghĩa Pháp như
sau: “Trước hết như đã biểu thị bằng các từ “thực tướng của tất cả các sự vật”. Pháp
nghĩa là tất cả các sự vật hiện hữu trong vũ trụ và tất cả các sự kiện xảy ra trên thế
giới.
Thứ hai, Pháp nghĩa là một chân lý duy nhất thâm nhập vào tất cả các sự vật.
Thứ ba, Pháp nghĩa là quy luật như là một luật tắc được thiết lập khi chân lý
xuất hiện, như là một hiện tượng mà chúng ta có thể nhìn thấy được bằng mắt và
nghe bằng tai.
Thứ tư, Pháp nghĩa là giáo lý về chân lý[18; 78].
21


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Pháp mà đức Phật dạy là “Quy luật khiến cho mọi sự vật hiện hữu”. Chúng
ta không hiện hữu một cách ngẫu nhiên mà hiện hữu và sống nhờ Pháp này[18;
429]. Pháp truyền sức sống cho tất cả các sự vật hiện hữu trong vũ trụ. “Hiện tượng
trong thế giới ... là biểu hiện của cái chân như”[16; 612].
Đức Phật Thích Ca là người nhận rõ cái chân lý làm cho mọi sự vật được

sống. Phật dạy: “Hãy đến với ta và thực hành Pháp như ta vậy. Sau đó chắc chắn
các vị sẽ hiểu được các giá trị của Pháp”.
Trong vũ trụ, vạn sự, vạn vật mà Phật giáo gọi là vạn Pháp. Vạn Pháp không
có tự tính (không có bản tính riêng của mình) mà chỉ là sự hoà hợp của nhân duyên.
Trong thuyết nhân duyên giải thích căn nguyên biến hoá vô thường của vạn Pháp,
có 3 khái niệm chủ yếu: Nhân, quả và duyên. Tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ đều không thoát ra được sự chi phối của luật nhân quả. “Nhân” là nguyên nhân
đầu tiên, là mầm tạo “quả”. Nhân nhờ duyên (điều kiện) để sinh ra quả. Quả nhờ
duyên để thành ra nhân khác, nhân nhờ duyên thành ra quả mới... Chuỗi các mối
liên hệ Nhân- duyên- quả như vậy gọi là tính “trùng trùng duyên khởi”, “Pháp giới
tính”. Phật giáo cho rằng, nhân duyên hoà hợp thì sự vật sinh, nhân duyên tan rã là
sự vật diệt.
Với quan niệm này nên đạo Phật cho rằng: không phải sự vật hiện tượng sinh
ra mới gọi là sinh, mất đi mới gọi là diệt, mà trong cái sinh đã có mầm móng của cái
diệt, và trong cái diệt đã có mầm móng của cái sinh. Sinh diệt là hai quá trình xảy ra
đồng thời trong một sự vật, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Vạn
vật trong thế giới là một hệ thống nhân duyên cứ sinh sinh diệt diệt mãi tiếp nối
nhau đến vô cùng vô tận. Vì thế, thế giới vạn vật là vô thuỷ, vô chung, là dòng biến
hoá vô thường không có gì là cố định duy nhất.
Vạn Pháp vô thường. Vô thường tức là thường xuyên biến đổi.
Không có Pháp nào là tồn tại vĩnh cữu mà tất cả tuân theo luật sinh, trụ, dị,
diệt (thành, trụ, hoại, không). Con người và sự vật trong đời này luôn thay đổi, biến
dịch từng giờ, từng phút, từng sát na. Sự thay đổi này phải tuân theo những quy luật
nhất định. Những quy luật này tồn tại khách quan. Mọi Pháp đều bị luật vô thường
chi phối. Tất cả Pháp hữu vi là vô thường.
Mọi Pháp là vô thường nhưng không có vật gì là hoại diệt. Chỉ có hình thái
thay đổi, không có gì tiêu tan, mất hẳn. Trạng thái chất cứng biến thành chất lỏng,
trạng thái chất lỏng biến thành chất hơi,.. tất cả biến đổi, nhưng không bao giờ mất
đi hoàn toàn.
22



Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

Vô thường là một tiến trình tự nhiên của mọi sự vật, vạn Pháp trong thế giới.
Nếu nhìn các tác động của mọi sự vật, vạn Pháp, qua những chuỗi tác động mãi
không cùng, trùng trùng điệp điệp thì thấy tính cách trùng trùng duyên khởi của
Vạn Pháp. Đó là thế giới của mọi sự vật trong không gian và thời gian tương đối.
Cái tuyệt đối và cái tương đối đồng thời có hai mặt với nhau, trong nhau, không hề
tách rời.
Vạn pháp vô ngã. Vô ngã là không có cái Ta, không có bản thể vĩnh hằng,
bất biến. Sở dĩ không có cái Ta, không có bản thể vĩnh hằng, bất biến vì vạn Pháp
chỉ do nhân duyên phù hợp và trong trạng thái vô thường bất định.
Sự vật và hiện tượng đều liên hệ với nhau. Kinh Pháp Hoa viết: “Các sự vật
hiện hữu trong quan hệ lẫn nhau và tuỳ thuộc lẫn nhau”. Nguyên lý này được thể
hiện trong công thức: Khi cái này có thì cái kia cũng có; khi cái này hiện thì cái kia
cũng hiện; khi cái này không có thì cái kia cũng không có; khi cái này ngừng thì cái
kia cũng ngừng. Theo nguyên lý này của tính quy định, tính tương đối, của sự phụ
thuộc lẫn nhau, thì sự tồn tại của toàn bộ và tính liên tục của cuộc đời cũng như sự
kết thúc cuả nó được giải thích bằng công thức chi tiết là thập nhị nhân duyên.
Tất cả những tư tưởng trên tạo nên nội dung thuyết duyên khởi của Phật
giáo. Khi đánh giá thuyết này, Thích Thiện Châu trong tác phẩm “Phật tử” đã viết:
“Cốt tuỷ của đạo Phật là đạo lý duyên khởi. Đạo lý này nói rõ tương quan, tương
liên giữa mọi hiện tượng tâm, sinh, vật lý. Sự hiện hữu của thế giới chỉ là tương
quan đồng thời của nhận thức chủ quan và đối tượng khách quan. Sự vật ở ngoài ta
và trong ta vốn sinh, diệt, biến chuyển theo luật nhân quả mà không hề tiêu diệt
hoàn toàn, ấy là tương quan khác thời. Nói cách khác, sự vật là “vô ngã” nghĩa là
không có bản chất “độc lập” mà là tổng hợp của nhiều điều kiện, và “vô thường”
nghĩa là luôn luôn thay đổỉ từ trạng thái này sang trạng thái khác”[13; 21].
Như vậy, “Duyên khởi”, “Vô ngã”, “Vô thường”, “Nhân quả” là những

phạm trù của Phật giáo. Xét về phương diện bản thể luận đã thể hiện quan điểm tính
“Duy vật” và “biện chứng”, nó đối lập với định mệnh luận và thần linh luận. Đó là
những tư tưởng cốt lỏi trong việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết
học. Những tử tưởng trên đóng vai trò quyết định đối với việc hình thành quan điểm
về con người và quan điểm về nhân sinh của tôn giáo này.
* Nhân sinh quan Phật giáo.
Những quan điểm về bản thể luận ở trên chỉ mang tính chất là cơ sở giải
thích cho triết lý nhân sinh và con đường giải thoát của đạo Phật. Quan trọng hơn cả
23


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

và có ảnh hưởng lớn hơn cả đến việc hình thành lối sống của con người vẫn là
những quan niệm được thể hiện trong nhân sinh quan.
Học thuyết về nhân sinh quan của Phật giáo gắn bó chặt chẽ và là hệ quả trực
tiếp của quan niệm muôn vật sinh ra, tồn tại rồi mất đi theo quy luật sinh - diệt và
sự tiếp thu tư tưởng luân hồi nghiệp báo của Upanishad. Điều đó được thể hiện ở
chỗ, Phật giáo quan niệm: cũng như các sự vật, con người mất đi ở chỗ này nhưng
lại sinh thành ở chỗ khác. Quá trình sinh thác luân hồi đó đều do “Nghiệp” chi phối
theo luật nhân duyên. Mục đích cuối cùng của Phật là tìm ra con đường giải thoát,
đưa chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi bất tận đó.
Với thuyết “luân hồi”, “nghiệp báo”, Phật cho rằng: con người trong quá
trình tồn tại do duyên hợp, ngủ uẩn đã làm những việc thiện, ác, tạo ra “nghiệp”.
Theo luật nhân quả, những việc làm thiện, ác hay “nghiệp” sẽ là động lực, là nhân
tố để tạo ra sự kết hợp ngủ uẩn tiếp theo... Cứ như vậy kéo con người vào vòng luân
hồi sinh tử không ngừng từ đời này sang đời khác.
Với thuyết “luân hồi”, “nghiệp báo” của đạo Phật thì bất kỳ một hành vi
thiện, ác nào của con người dù là nhỏ bé, dù được bưng bít che đậy như thế nào
cũng không tránh khỏi quả báo.

Xây dựng thuyết nghiệp, Phật giáo giải thích tất cả những nỗi băn khoăn của
người ta ở đời, giải thích từ cấu tạo hình hài đến đau khổ, hạnh phúc của từng chúng
sinh cụ thể, từng thế hệ của con người và chúng sinh... Đến đây có thể hiểu cái “Ta”
của Phật giáo, mà cụ thể con người hay chúng sinh riêng biệt, thực chất là sản phẩm
của hành động hay là cái nghiệp, nó lang thang trong vòng Lục đạo của luân hồi
sinh tử, nó cũng chẳng có chỗ nào để ra đi và trở về cả. Điểm này của Phật giáo
khác hẳn với không ít tôn giáo khác. Từ việc cho con người hay chúng sinh chính là
nghiệp báo, được thể hiện từ hành, cho nên con người của Phật giáo là con người
của hành động và điều này cũng khác hẳn với con người của nhiều học thuyết khác.
Quan điểm về nghiệp cũng khác hẳn vối một số tôn giáo Ấn Độ khác ở chỗ:
nếu họ quan niệm nghiệp như một cái gì đè nặng suốt đời người, như một thứ định
mệnh, thì Phật giáo chấp nhận nghiệp quá khứ và hiện tại, còn tương lai tuỳ thuộc
vào ta. Do đó, cái gì trước kia ta làm ác, nay từ bỏ nó và không chấp vào hành vi ấy
nữa mới là điều kiện tiên quyết để giải thoát. Phật nói: “nghiệp ác của ngươi, ngươi
tự làm, tự chịu”[31; 70]. Nhưng Phật cũng nói: “này các tỳ kheo, nếu có người nào
đó nói, một người phải chịu quả báo theo đúng hành vi của anh ta thì trong trường
hợp đó sẽ không có đời sống tôn giáo, sẽ không có cơ may để đoạn trừ toàn bộ khổ
24


Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đối với lối sống của người Huế hiện nay

não. Nhưng nếu có người nào đó nói rằng quả báo mà một người chịu thích ứng với
hành vi của anh ta làm thì trong trường hợp đó... có đời sống”[14; 196]. Điều đó có
nghĩa là, một người tạo ra các nghiệp ác, nếu anh ta biết thật thà hối lỗi, cải tà quy
chính, tích cực làm điều thiện, điều lành thì dần dần những nghiệp thiện mới được
anh ta làm có khả năng hạn chế, thậm chí tiêu diệt được nghiệp ác cũ đã làm trước
đây.
Những lời dạy của Phật tuy giản đơn nhưng đó chính là những cách thức rất
hiệu quả để con người không chỉ có làm điều tốt, triệt tiêu “nghiệp ác” trong quá

khứ mà còn hưóng con người đến một thế giới mới với những hành vi tốt đẹp ở trên
đời.
Tuy nhiên, nội dung cơ bản của giáo lý đạo Phật khi lý giải về cuộc đời con
người là học thuyết về “khổ” và con đường “cứu khổ”. Phật giáo cho rằng: đời
người là “bể khổ”, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước
biển và vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước biển.
Từ quan niệm như vậy nên mục đích cuối cùng và cũng là tư tưởng chủ đạo
có tính xuyên suốt toàn bộ học thuyết nhân sinh Phật giáo là tư tưởng “giải thoát”
chúng sinh khỏi trầm luân đau khổ. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn
chân lý mà mọi người phải thực hiện. Đó là “Tứ diệu đế”. Đây là quan điểm cốt lỏi
nhất về nhân sinh và cũng là những định hướng cơ bản nhất của tưởng triết học Phật
giáo. Tứ diệu đế bao gồm: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
* Một là, khổ đế (Dukkha).
Dukkha là: “chân lý màu nhiệm về đau khổ” và nó được lý giải thành ra cuộc
đời, theo Phật, chỉ là đau khổ và khổ não.
Khái niệm Dukkha có thể xem xét từ 3 quan điểm:
1. Dukkha như là sự đau khổ thông thường.
2. Dukkha như là sự đau khổ do sự thay đổi gây nên.
3. Dukkha như là trạng thái bị quy định.
Mọi thứ đau khổ như sinh lão, bệnh, tử liên kết với người khó chịu hay lệ
thuộc vào những điều kiện khó chịu, chia ly với những người yêu thương hay mất
đi những điều kiện thích thú, không đạt được cái mình muốn, đau khổ than khóc,
tuyệt vọng. Tất cả những hình thức đau khổ tương tự về thể chất và tinh thần được
mọi người nhìn nhận là sự đau khổ, điều nằm trong Dukkha theo nghĩa sự đau khổ
thông thường.

25



×