Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.68 KB, 15 trang )

B GIO DC V ĐO TO
TRƯỜNG ĐI HỌC KINH TẾ THNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐO TO SAU ĐI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO,
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO
Giáo viên hướng dẫn : TS. Bùi Văn Mưa
Người thực hiện : Trần Thị Huỳnh Anh
STT : 05
Lớp học : Đ5 – K21 - CHKT
TP.HCM., tháng 2 năm 2012
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1 : TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIO
1.Thế giới quan………………………………………………………………… 1
a)Thuyết duyên khởi………………………………………………………….….1
b)Vô ngã…………………………………………………………………………2
c)Vô thường…………………………………………………………………… 2
2)Nhân sinh quan……………………………………………………………… 3
a)Khổ đế………………………………………………………………………….3
b)Nhân đế……………………………………………………………………… 3
c)Diệt đế………………………………………………………………………….4
d)Đạo đế………………………………………………………………………….5
CHƯƠNG II : NHỮNG GI TRỊ V HN CHẾ CỦA PHẬT GIO
1.Những giá trị của Phật giáo……………………………………………………6
a)Giá trị giáo dục……………………………………………………………… 6


b)Ảnh hưởng đến văn hóa và con người Việt Nam…………………………… 6
2.Những hạn chế của Phật giáo…………………………………………………10
Kết luận
LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trường phái triết học-tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ
đại. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Đức Phật Thích Ca. Phật giáo
có ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
2
giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù không phải là Phật tử nhưng gia đình người viết
thờ Phật, đi chùa, ăn chay, cúng rằm…Mọi người đều rất tin tưởng rằng nếu mình ăn
ở hiền lành và thành tâm lễ Phật là Phật sẽ chứng giám, phù hộ, độ trì cho mình
được một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Đối với bản thân, mỗi khi bước vào chùa
thanh tịnh, nghe tiếng chuông ngân, tiếng kinh Phật, người viết lại cảm thấy lòng
nhẹ đi rất nhiều. Và trong cuộc sống đầy bon chen, phức tạp, có những lúc mệt mỏi,
người viết lại tìm đến cửa Phật, để có một niềm tin, một hy vọng mà vượt qua mọi
khó khăn, thử thách. Nhân cơ hội được làm tiểu luận về triết học Phật giáo, người
viết rất vui vì có thể hiểu rõ hơn về Phật giáo.
Trong tiểu luận, người viết sẽ trình bày những tư tưởng triết học cơ bản của
Phật giáo, những giá trị và ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống, văn hóa và con
người Việt Nam. Phật giáo đã mang lại những giá trị đạo đức to lớn, giúp con người
tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ
bất hạnh cho người khác, giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên
bình. Và mặc dù vậy, Phật giáo cũng có những mặt hạn chế, chưa phù hợp cần hoàn
thiện. Qua một số sách về triết học, về Phật giáo…người viết xin trình bày các vấn
đề nêu trên.


CHƯƠNG 1 : NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA
PHẬT GIO

Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy thể hiện trong thế giới quan và nhân
sinh quan của Phật Thích Ca, chúng được trình bày trong tạng Kinh, một trong Tam
tạng - kinh điển của Phật Giáo.
1.Thế giới quan :
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
3
Thế giới quan được phản ánh trong thuyết duyên khởi và được làm sáng tỏ qua
phạm trù vô ngã và vô thường.
a)Thuyết duyên khởi :
Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các
pháp – vạn vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý đều do nhân duyên
mà có. Nhân là nhân tố cơ bản để hình thành một hiện hữu, duyên là những điều
kiện ắt có và đủ tác động làm cho nhân sinh khởi. Như hạt lúa có thể mọc lên thành
cây lúa, thì hạt lúa ở đây là nhân, những điều kiện thuận lợi như đất, nước, phân…là
duyên giúp cho hạt lúa sinh ra cây lúa gọi là quả.
Phật giáo cũng trình bày thuyết Thập nhị nhân duyên, mười hai nguyên nhân dẫn
đến bể khổ của con người. Khởi đầu là vô minh, vì không nhận biết hiện hữu (con
người và thế giới) là do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi, luôn biến dịch và không
có một tự thể thường hằng, nên con người ảo tưởng về một tự ngã: đây là cái tôi và
đây là cái của tôi . Chính ảo tưởng và sự bất giác này quấy động tâm thức, làm sinh
khởi lòng tham ái, chấp thủ Và đó là động cơ cho các hành động của thân, lời và ý
(Hành). Mỗi khi ý niệm về một tự ngã sinh khởi thì Thức có mặt. Sự hiện hữu của
Thức tất yếu đòi hỏi sự có mặt của chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức (Danh
sắc, Lục nhập). Khi căn, trần và thức gặp gỡ nhau (Lục nhập), thì Xúc sinh khởi.
Cảm thọ (Thọ) có mặt ngay khi căn, trần và thức giao thoa nhau; cảm thọ sẽ
tuôn chảy như một dòng thác mà không một năng lượng nào có thể ngăn cản được,
vì bản chất của cảm thọ là thế. Thọ bao gồm những phản ứng tâm lý trước đối tượng
như là buồn, vui, yêu, ghét, trung tính Cảm thọ dễ chịu sẽ làm phát sinh luyến ái
(Ái). Trong Ái đã bao hàm chấp thủ và nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức
tương ứng với các cảnh giới của tâm thức (Hữu). Hữu tạo ra Sinh, và mỗi khi đã có

Sinh, thì tiến trình suy yếu, tan rã, mất đi sẽ vận hành như một hệ quả đương nhiên:
nghĩa là lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não; hay khổ đau có mặt. Ðó là sự vận hành của
mười hai nhân duyên theo chiều sinh khởi (lưu chuyển) - chiều vận hành này có
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
4
động lực là vô minh, tham ái và chấp thủ. Nói khác đi, đây là con đường của khổ
đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối bởi vô minh.
Từ đây, Phật giáo cũng chủ trương vô tạo giả, tức không có vị thần linh tối cao
nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.
b)Vô ngã :
Vô ngã là không có một thực thể tối thượng nào tồn tại vĩnh hằng cả. Trong thế
giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc (vật chất như đất, nước,
lửa, gió) và danh (tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức) mà không có đại ngã hay
tiểu ngã.
Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo của các “đấng tối cao”, của “thượng đế” và
cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan chứ không phải do vị thần nào sáng
tạo ra.
c)Vô thường :
Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất
hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và
danh, khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi. Vạn vật luôn nằm trong chu trình
sinh-trụ-dị-diệt, chúng luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân
quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới
lại nhờ duyên mà thành quả mới…cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan – hợp
mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngã
về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác.
2)Nhân sinh quan :
Đứng trước sự khổ đau của nhân loại, Đức Phật quan sát cái khổ, cội nguồn dẫn
đến những cảnh khổ và tìm ra cách tận diệt những mầm mống khổ, một khi cái khổ

không còn nữa, thì mới có thể đi tới sự giải thoát. Tất cả được trình bày trong thuyết
Tứ diệu đế. Thuyết này gồm bốn bộ phận là : khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
a)Khổ đế :
Đức Phật nhận định : khổ là tất cả những cái phiền não trên thế gian này mà con
người phải gánh, không lúc này thì cũng lúc khác. Vì nguyên lý vô thường mà tất cả
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
5
mọi hình thức khoái lạc dù là hạnh phúc hay đau khổ cũng đều bị biến đổi và hủy
diệt và tất cả mọi hình thức hiện hữu đều mang mầm mống bất mãn, khổ đau.
Và theo Phật, có 8 nỗi khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải
gánh chịu là sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ,
oán tăng hội khổ, ngũ uẩn khổ.
Người mẹ mang thai, sinh ra con thì rất khổ nhọc, con nằm trong bụng mẹ chật
hẹp, tối tăm và cũng chịu đau đớn khi được sinh. Người đó khi về già thì gầy yếu,
tàn tạ, đầu óc lú lẫn. Và những lúc bệnh tật, những cơn đau đớn hành hạ thân xác.
Rồi khi chết, người ấy bấn loạn, thân thể tan rã, tanh hôi. Đó chỉ là những đau khổ
về thể xác còn về tinh thần thì sao?Người ấy phải chia lìa những vật, người và hoàn
cảnh mà mình yêu thương hay cứ phải gặp gỡ những vật, người và nơi chốn mà
mình thù ghét. Rồi mong cầu mà không toại nguyện, thất vọng vì công danh, phú
quý, tình duyên. Trong thân thể, lại còn có sự bấp bênh, sự mâu thuẫn nữa.
b)Nhân đế :
Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con
người. Phật cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát ra khỏi
dòng sông luân hồi. Luân hồi có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo Phật cho rằng sau
khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai
vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài vật hay
cỏ cây), cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Mà
luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham
sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do tam
độc (tham, sân, si) gây ra.

Sở dĩ ta ham muốn, tham lam vì ta chưa hiểu được cái chân bản vốn có của ta
cũng như vạn vật là luôn luôn biến đổi, không có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và cái kiếp sống
trước, rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau. Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
6
của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó
quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
c)Diệt đế :
Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Ðế
là lý lẽ chân thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu và thuyết minh. Diệt đế là
sự thật đúng đắn về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt được khi đã diệt hết
mọi phiền não, mê mờ. Đó là một trạng thái tâm thức hết sạch mọi đau khổ, một
cảnh giới vô cùng vắng lặng, thanh tịnh tuyệt đối, an lạc tuyệt trần, sáng suốt vô
biên, nơi đây, hư vô, tịch diệt, vắng lặng tất cả mọi hình thức si mê, vọng động khổ
đau gọi là Niết bàn.
Khổ là quả, mà tập là nhân. Diệt khổ mà chỉ diệt cái quả thì không bao giờ hết
khổ được. Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nhân của nó, như muốn nhổ cái
thân cây, thì phải bớí cho hết cái rễ ăn sâu trong lòng đất. Vì vậy, phải khắc phục vô
minh lúc đó tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt, chân tâm sẽ thanh thản, tự
do. Phật giáo trình bày cho mọi người nhìn thấy cái hiện tại đen tối của mình, cái
hoàn cảnh xấu xa, có nhiều sự sự khuyết điểm, để cải đổi nó, kiến tạo lại một cuộc
sống đẹp đẽ, an vui hơn
d)Đạo đế :
Đạo đế tức là con đường chuyển hóa, con đường đưa đến giải thoát, là phương
pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh
phúc tuyệt đối Niết bàn. Muốn được như vậy thì phải thực hành bát chính đạo. Đó
là: chính kiến (hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói
chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân
chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những

điều hay lẽ phải), chính định ( tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung
quy, Bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…
Muốn thực hiện Bát chính đạo thì phải có phương pháp nhằm ngăn ngừa những
điều gian ác gây thiệt hại cho mình, làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người.
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
7
Nội dung các phương pháp đó là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học
(giới, định, tuệ). Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính
nghiệp, chính mệnh); sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm,
chính định); si được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn luyện Tứ đẳng
(từ, bi, hỉ, xả)…và Lục độ (6 phép tu: bố thí, trì giới – kiên trì tu luyện, nhẫn nhục,
tịnh tiến – cố gắng nỗ lực vươn lên, thiền định – tập trung vào điều ngay và không
để cái xấu che lấp, bát nhã – hiểu thấu mọi chuyện trên thế gian). Phật giáo phản đối
chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng, công bằng xã hội, khuyên
chúng sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm việc thiện.
CHƯƠNG II : NHỮNG GI TRỊ V HN CHẾ CỦA
PHẬT GIO
1.Những giá trị của Phật giáo :
a)Giá trị giáo dục :
Theo Đạo Phật, chính “chấp ngã” đã gây ra cho lịch sử loài người những cuộc
chiến tranh núi xương sông máu, chiến tranh tội ác và bạo lực đã và đang là điều
nhức nhối của toàn nhân loại. Trong tình hình này Phật Giáo kêu gọi mọi người hãy
dứt các việc làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ
trụ vào lòng và đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển nhân đạo và từ bi
quên đi những cái ta ích kỷ, nhỏ hẹp để được yêu vũ trụ rộng lớn. Dạy con người
sống cảm thông, hỷ xả với nhau một cách hòa mục và sống vì người khác, bao dung
độ lượng đó là phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy
sinh mọi điều tốt lành.

b)Ảnh hưởng đến văn hóa và con người Việt Nam :
Trong ca dao, dân ca, tục ngữ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
của người Việt Nam, tuy ngôn từ không mang dáng dấp của Phật giáo nhưng ý
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
8
nghĩa lại mang triết lý Phật giáo sâu sắc như “ở hiền gặp lành” , “kiếp mần thân
chịu”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”…Qua đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân
sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh, người Việt Nam luôn hiếu kính cha mẹ
như “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, tôn sư
trọng đạo như “không thầy đố mày làm nên” và yêu thương mọi người như "lá lành
đùm lá rách", hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải
thương nhau cùng”.
Trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn
Du, ta thấy nổi bật nhất là lý thuyết về khổ đế, tinh thần về hiếu đạo và thuyết về
nhân quả, nghiệp báo qua số phận của Thúy Kiều. “Đã mang lấy nghiệp vào thân,
thì đừng trách lẫn trời gần trời xa”, vì cái nghiệp ấy mà người con gái đầu xanh
chưa tội tình gì mới bước chân vào cuộc đời đã gặp biết bao khổ lụy: cha và em trai
bị tù tội, tình duyên đầu đời tan vỡ. Hay trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi,
ta cũng thấy tinh thần Từ Bi qua “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt
trước lo trừ bạo”.
Tinh thần Từ Bi còn được thể hiện qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và
bố thí. Ăn chay để không sát sanh hại vật, thể hiện tình thương yêu mọi loài. Ăn
chay và thờ Phật là hai việc luôn đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ Phật
trong dân gian không chỉ đối với Phật tử, mà những người không phải Phật tử cũng
dùng tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho
cảnh nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Và đến ngày rằm, mồng một, người Việt Nam
thường hay mua chim, cá, rùa…để đem về chùa cầu nguyện rồi phóng sanh. Tuy
nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên này càng
bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các
đồng bào gặp thiên tai, hoàn cảnh sống gặp khó khăn. Người Việt cũng hay làm

phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo khó, hoạn nạn. Việc này đã ăn
sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng.
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
9
Ngoài ra, người Việt Nam còn cúng rằm, mùng một để dâng cúng Tam Bảo và
tổ tiên ông bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa
hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ. Người Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng
chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm tháng tư (Phật
Đản) và rằm tháng bảy (lễ vu lan). Tuy nhiên đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục
đích và quan niệm của mỗi người. Một số người chỉ muốn đi xem lễ hội hoặc thích
cảnh thanh tịnh của chùa chiền. Đây cũng là cơ hội giúp họ quay về với đạo Phật.
Khi trong gia đình có người thân mất đi, người ta cũng thỉnh chư tăng, ni đến
tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ. Khi tiến tới hôn nhân, nhiều
đôi bạn trẻ, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên
của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa
để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành
ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm
kim chỉ nam cho cuộc sống mới.
Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám chết, đám
cưới, xuất hành đầu năm người Việt thường đi chùa để nhờ các thầy coi giúp giùm
ngày nào tốt thì làm, ngày nào xấu thì tránh . Nhưng theo Phật giáo, với người làm
điều lành, ngày nào cũng là ngày tốt; với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày
lành. Đây là một loại hình mê tín, người Phật tử không nên chạy theo. Cũng như
việc đốt vàng mã, người ta cho rằng, người mà kiếp này ở ác, nhiều tội lỗi thì ở nơi
địa ngục sẽ bị đói lạnh, không thể siêu thoát hoặc đầu thai được. Người thân ở
dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu và đốt vàng mã. Tuy nhiên, tùy theo
nghiệp thiện ác mà người chết thọ sanh vào sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt
vàng mã của người thân.
Khi gặp khó khăn hay hoạn nạn trong cuộc sống, người Việt tin là cúng sao giải
hạn sẽ hết. Người ta cũng hay xin xăm, bói quẻ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu

năm mới hoặc các ngày lễ lớn để có được những điều tiên đoán về công việc làm ăn,
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
10
học tập, hôn nhân, gia đình… Đây cũng là những tập tục không lành mạnh do tin
tưởng vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước.
Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các
bài ca, tuồng, vở diễn, hát bội, hát chèo, cải lương và kịch nói như vở "Quan Âm
Thị Kính", "Phạm Công Cúc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều","Lưu Bình Dương
Lễ", "Kim Nhan" Tất cả đều mang tính thưởng thiện phạt ác, hướng thiện một cách
cao đẹp và kết thúc đều có hậu.
Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo các kiểu kiến trúc
chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và
Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối hợp
cùng với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô hình kiến trúc rất
riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Mái chùa bao giờ cũng ẩn sau lũy tre làng, dưới
gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Có nhiều ngôi
chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở
miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam có
các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng
Ngày nay có dịp tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy
nhiều cốt tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một
niềm tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh
hưởng của Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm
như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương,
Bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm Tất cả các pho tượng đều rất đẹp,
mang tính thẩm mỹ cao. Mỗi tượng tuy khác nhau về tư thế, đường nét, hình khối
nhưng tất cả đều nói lên sự trong sáng của tâm hồn, sự thanh khiết của trí tuệ, sự
trầm ngâm suy nghĩ về nỗi đau của chúng sinh.
Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng chùa ngày đầu
xuân hoặc tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo cũng là đề tài gây

nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều tranh lụa, tranh màu
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
11
nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được các họa sĩ, nghệ nhân lên tuổi
ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua các tác phẩm như "chùa
Thầy" của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, "Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức
Tăng" của Đỗ Quang Em
Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời
sống chính trị xã hội. Dưới triều Lý, Trần, các nhà sư trở thành một tầng lớp phong
kiến tăng lữ có thế lực trong xã hội. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt
động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình. Như sư Vạn -
Hạnh là người đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý, sư Đa -
Bảo và Viên - Thông được tham dự, bàn bạc và quyết định các việc trong triều như
cố vấn của nhà vua….Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội
cũng tham gia vào hoạt động chính trị
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật
giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và
nghệ thuật của người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa
độc đáo của mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương
lai.
2.Những hạn chế của Phật giáo :
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy
con người nói chung mà không thấy con người thuộc các giai cấp đối kháng nhau
trong xã hội trước đây, không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã hội. Do đó,
không thấy được nguyên nhân xã hội dẫn đến sự khổ ải của con người, không thấy
được sự cần thiết phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi, bác ái
trong một số trường hợp bất lợi cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Quan điểm duy tâm thần bí khiến người ta không hướng vào hiện thực, mà
hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào Phật để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi
tư duy như vậy thì không cần đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và hành động.

Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
12
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu đề tài, ta thấy rằng Phật giáo là một tôn giáo lớn, tồn tại
rất lâu đời, hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng Phật tử đông đảo được phân
bố trên nhiều nước. Tư tưởng triết học của Phật giáo thể hiện trong thế giới
quan và nhân sinh quan thông qua thuyết Duyên khởi, phạm trù vô ngã, vô
thường, luôn tập trung vào con người, mọi người đều bình đẳng trước Phật. Phật
chỉ dạy con người nỗi khổ ở thế gian và cách để diệt trừ nỗi khổ đó. Phật luôn
chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được bốn chữ từ, bi, hỷ, xả
trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh phúc. Khuyên mọi người
hướng thiện, không làm điều ác, sống yêu thương và khoan dung với nhau. Bởi
gieo nhân lành sẽ gặt quả tốt, nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể
làm thay đổi, do đó cần phải biết sửa chữa, tu tập. Và Phật giáo cũng đã ít nhiều
ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Người
Việt Nam luôn tin tưởng vào giáo lý của Phật giáo, yêu thương cha mẹ, giúp đỡ
mọi người, sống ngay thẳng….Tuy nhiên vẫn còn một số tập tục mê tín, chưa
phù hợp cần xóa bỏ.
Phật giáo đã để lại những giá trị sâu sắc cho nhân loại trong cả quá khứ, hiện
tại và tương lai. Ngày nay, cuộc sống hiện đại đã giúp cho mọi người được ăn
ngon, mặc ấm, tuy nhiên cũng còn lắm bộn bề, lo toan. Để được bình an, tinh
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
13
thần vững chải, thì theo Phật dạy, hãy quay về nương tựa nơi chính mình. Ðừng
tìm nơi nương tượng nào khác ở ngoài. Hãy nắm vững chân lý làm ngọn đèn soi
sáng cho mình. Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho mình
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Duy Cần – Phật Học Tinh Hoa – NXB TP Hồ Chí Minh – 1997
[2] Nguyễn Lang - Việt Nam Phật giáo sử luận - NXB Văn học Hà Nội – 1992
[3] TS Bùi Văn Mưa – Đại cương về lịch sử triết học-2010

[4] PGS Nguyễn Tài Thư - Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con
người Việt Nam hiện nay - NXB Chính trị quốc gia – 1997
Những tư tưởng triết học Phật giáo, những giá trị và hạn chế của triết học Phật giáo
14

×