Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.54 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
***
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài 01:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ
TRỊ, HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
NTH: Lê Huỳnh Lan Anh
STT: 04
Nhóm: 01
Lớp: CHKT - K21 – Đ.5
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh, 2012
0
2
Mục lục
A Phần mở đầu 3
B Nội dung 4
Lịch sử ra đời và nguồn gốc của triết học Phật giáo 4
1. Những tư tưởng triết học cơ bản 6
1.1 Thế giới quan 6
1.1.1 Vô thường, vô ngã 6
1.1.2 Duyên khởi 10
1.1.3 Duy thức 11
1.1.4 Trung đạo 12
1.2 Nhân sinh quan 12
1.2.1 Tứ diệu đế 12
1.2.2 Nhân quả 13
1.2.3 Nghiệp báo và luân hồi 15
1.2.4 Giải thoát và phương pháp để giải thoát 16
2. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Phật giáo 19


2.1 Những giá trị của Phật giáo 19
2.1.1 Giá trị giáo dục của Phật giáo 19
2.1.2 Giá trị khoa học của Phật giáo 19
2.1.3 Giá trị thiết thực nhân bản của Phật giáo 20
2.1.4 Phật giáo và văn hóa, con người Việt Nam 21
2.1.5 Các giá trị khác (về chính trị, chiến tranh, hòa bình VN….) 21
2.2 Những hạn chế của Phật giáo 22
2.2.1 Duy vật biện chứng nhưng còn chất phác 22
2.2.2 Phật giáo không mang nội dung chính trị 22
2.2.3 Phật giáo chú trọng phát triển tinh thần mà không chú trọng phát triển vật chất. .23
C. KẾT LUẬN 24
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học - một trong ba tôn giáo lớn nhất
trên thế giới hiện nay và tồn tại từ rất lâu đời. Hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng
Phật tử đông đảo được phân bố trên nhiều nước. Tại Việt Nam, đạo Phật cũng có nhiều
ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay được mở rộng, ngoài việc nghiên cứu
giáo lý, kinh điển, lịch sử… Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Tâm lí
học, Khảo cổ học, Xã hội học… Phật học đã trở thành một khoa học tương đối quan
trọng trong khoa học xã hội. Mặc dù Phật giáo có những giá trị sâu sắc như vậy nhưng
cũng có những mặt hạn chế, không phù hợp cần hoàn thiện.
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác –
Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận nhưng bên cạnh đó, bộ phận kiến trúc
thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà Phật đã ít
nhiều ăn sâu vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Vì vậy,
nghiên cứu lịch sử, giáo lý và của đạo Phật để hiểu thêm về thế giới quan, nhân sinh
quan trong Phật giáo, làm sáng rõ những giá trị và hạn chế là rất cần thiết.
Đạo Phật được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỉ II sau công nguyên và đã

nhanh chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
con người Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên Chúa. Vậy nên có thể nói
quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành,
phát triển tư tưởng, đạo đức của con người.
Do đó, nghiên cứu: “Tư tưởng triết học Phật giáo và những giá trị, hạn chế của
Phật giáo” là rất cần thiết và quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
đại bộ phận người Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước. Nghiên cứu để chúng ta
có thể hiểu rõ và phát huy những giá trị, khắc phục những hạn chế và những mặt không
phù hợp của Phật giáo tại Việt Nam, đồng thời đưa đất nước tiến lên và phát triển hội
nhập thế giới trong thời đại mới.
4
B. NỘI DUNG
Lịch sử ra đời và nguốn gốc của triết học phật giáo:
Tại ấn Độ:
Ấn Độ cổ đại là vùng đất phía nam châu Á, khí hậu, đất đai đa dạng và khắc
nghiệt cùng sự án ngữ của vòng cung dãy Hy mã lạp sơn kéo dài trên 2000km. Đây là
vị trí địa lý có ảnh hưởng nhật định tới quá trình hình thành văn hóa, tôn giáo và tư
tưởng triết học của người Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên ở bắc Ấn
Độ và phát triển rực rỡ khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Xã hội chia thành bốn
đẳng cấp chính: tăng lữ, quý tộc, bình dân và nô lệ.
Nô lệ bị ba tầng đè nén, áp bức, bóc lột , tận cùng của sự đau khổ dẫn đến sự bất
công xã hội lên tới đỉnh điểm từ đó xuất hiện các trường phái triết học để giải quyết
đơn đặt hàng của lịch sử.
Từ thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, cuộc đấu tranh giữa ba tôn giáo lớn ở Ấn Độ :
Balamon, Hồi giáo và Phật giáo trở nên gay gắt, Phật giáo bắt đầu suy tàn.
Tại Trung Quốc:
Từ nguồn cội Ấn Độ, Phật giáo đã theo dòng thời gian truyền đi khắp nơi. Cách đây
hơn 2000 năm, Phật giáo đã có mặt tại Trung Quốc (phái Đại thừa).
Tại Việt Nam:

Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tư của lưu lộ quốc tế thuộc Đông Nam Châu Á,
và là nơi dừng chân của các thương buôn của vùng Địa Trung Hải. Các mối quan hệ
kinh tế, thương mại, văn hóa , tôn giáo… được thiết lập. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong
đó có Phật giáo gặp nhiều thuận lợi du nhập vào nước ta.
Sự du nhập của Phật giáo (phái tiểu thừa) vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên
thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền sang trực tiếp từ
Ấn Độ. Du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã phát triển
phù hợp với truyền thống Việt Nam. Từ đó hình thành nhiều phái Phật giáo Việt Nam
như: phái Tini Daluchi, phái Thảo Đường, phái Trúc Lâm. Ảnh hưởng của nó khá toàn
diện và Phật giáo đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần
kiến lập và bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền vững mạnh, giữ vững nền độc lập dân
tộc.
Phật giáo truyền vào nước ta là Phật đại thừa với cả ba tông phái: Thiền tông, Mật tông,
Tinh độ tông.
Thiền tông với các quan niệm: Phật tại tâm, Phật có ở mọi nơi, ai cũng có thể trở thành
Phật, có thể trở thành Phật ngay tức khắc đã nâng con người lên trong ách kìm kẹp
nặng nề của trật tự phong kiến và Nho giáo. Nhưng Thiền tông không đề cập đến
những nhu cầu thực tế, hàng ngày nên chỉ được thịnh hành trong một giai đoạn lịch sử.
5
Mật tông với thuật phù chí, bùa phép, với phương pháp hàng long phục hổ, trấn tà yểm
huyệt, tuy thô thiển về mặt cách thức nhưng hứa hẹn thoả mãn một điều gì đó trong tâm
lý con người, nên được nhiều người tin theo nhất là quần chúng người nghèo khổ.
Nhưng nổi hơn cả, có sức hấp dẫn hơn cả phải tính đến Tinh độ tông.
Tinh độ tông với chủ trương niệm Phật A-di-đà, với sự tôn thờ Phật Quan thế âm, với
quan niệm sống từ bi hỉ xả, thì khi chết sẽ được về nơi tịnh thổ, được lên cõi niết bàn,
được thoát khỏi cảnh trầm luân khổ ải ở kiếp sau, đã đánh đúng vào yêu cầu thoát khổ
thoát nạn của con người trần gian, nên đã có sức lôi cuốn đặc biệt. Người ta dốc lòng
tin theo Phật Quan thế âm. Người ta còn tạo nên Phật Bà Quan âm nghìn mắt, nghìn tay
để chứng tổ rằng có một vị Phật có thể thấy được hết khổ ải của chúng sinh, có thể cứu
vớt được hết mọi người khổ đau. Chính do chủ trương cứu khổ, cứu nạn, đổi đời người

như thế nên Tịnh độ tông trở thành tông phái chủ đạo của Phật giáo Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA TRƯỜNG
PHÁI TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO.
1.1Thế giới quan:
1.1.1 Vô thường, vô ngã (bao gồm cả Ngũ uẩn)
Thời xưa, khi giảng về Thế giới vật chất; về con người, về các quy luật Tự
nhiên, quy luật vũ trụ, quy luật phát triển của con người đức Phật đã mô tả bằng những
công cụ đơn giản nhất và khái quát nhất.
Với Thế giới vật chất, gọi là Sắc, được cấu tạo từ bốn thành phần, đó là: Đất,
Nước, Gió và Lửa (bốn đại). Với Con người có thân xác và Tâm thức. Thân xác con
người, phần vật chất này cũng là Sắc. Sắc này về hình thức có năm dạng thể hiện, đó
là: màu sắc, thanh âm, mùi hương, vị và tiếp xúc. Con người cảm nhận về Thế giới vật
chất, tương ứng qua năm giác quan, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi và cơ thể. Tư tưởng và
Tâm thức cùng với năm hình thức của vật chất và năm giác quan, gọi chung là sáu căn,
sáu thức.
Quá trình vận hành Tâm thức con người, được Ngài mô tả bằng bốn thành phần,
đó là: Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Bốn cái này cùng với Sắc gọi là Năm uẩn để mô tả
toàn bộ con người, gồm cả thân xác và Tâm thức. Thọ uẩn chỉ nhóm cảm giác. Tưởng
uẩn chỉ nhóm tư duy. Hành uẩn chỉ nhóm ý chí. Thức uẩn chỉ nhóm trí giác. Sắc, Tâm
hoà hợp tạo nên con người, nên gọi là thân năm uẩn.
Quy luật của tự nhiên, quy luật của vũ trụ, quy luật phát triển của con người, gọi
là Pháp. Mô tả các quy luật này, đức Phật đưa ra giáo lý ba pháp ấn, là: vô thường, vô
ngã và khổ. Dạy về sự khổ của cuộc đời con người, Ngài giảng về bốn diệu đế, đó là:
khổ, tập, diệt và đạo.
Mô tả quy luật hình thành, phát triển, lụi tàn, rồi chuyển hoá, của con người,
Ngài đưa ra giáo lý mười hai Nhân duyên, Duyên khởi nghiệp quả, Tất cả, tất cả mọi
thứ, bao gồm: thế giới vật chất, con người (thân xác và Tâm thức) và quy luật tự nhiên,
quy luật vũ trụ, quy luật phát triển của con người (gọi là Pháp), Ngài biết, và Ngài đã
thiện xảo giảng cho chúng sinh, cho nhân loại theo ngôn ngữ của loài người, theo tri

thức của thời đại khi đó.
Trong hệ thống các giáo lý của Phật giáo, Ba Pháp ấn là nguyên lý cơ bản nhất.
Vô ngã là điều duy nhất chỉ có trong giáo lý của Phật giáo, đó cũng là một trong những
điều tuyệt vời nhất của trí tuệ nhân loại.
Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có
chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
7
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh
thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần
linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến
của luật nhân – quả.
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua
việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.
Cái mà Đức Phật đã dẫn giải là nếu có ngã (thực sự) thì con người phải có toàn
quyền kiểm soát nó; buộc nó phải vận hành theo ý của con người. Nó phải thuộc sự sở
hữu của con người. Con người phải có quyền lực trọn vẹn với nó. Con người sẽ không
còn bệnh tật. Con người sẽ không còn Khổ. Con người sẽ trường tồn. Tôi phải là cái
thuộc về của Tôi. Vận mệnh của chính bản thân tôi phải thuộc về tôi. Những cảm xúc
phúc lạc phải thuộc về tôi. Nhưng rõ ràng điều đó là không tưởng. Bệnh tật, sự già nua
và cái chết đe dọa thân xác, đe doạ con người. Con người không thể trường tồn được.
Sinh, lão, bệnh, tử và Khổ là quy luật của tự nhiên đối với con người. Thiên tai, mất
cân bằng về sinh thái, rồi chiến tranh đang là những sản phẩm do chính con người tạo
ra; đang đe dọa con người. Nhân loại đã không thể làm chủ được vận mệnh của mình.
Mỗi con người không thể có quyền sở hữu được cái Tôi của mình.
Con người không thể sở hữu được cái Ngã của mình. Cái Ngã không thuộc
quyền sở hữu của con người. Đây là chiều thứ nhất của Ngã. Đấy cũng là chiều thứ
nhất của Vô Ngã.
- Vô ngã: không có cái bất biến, không có đại ngã, tiểu ngã.
Vạn vật do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác),
tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức).

Vạn vật sự “hội hợp” của vật chất “sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong ) và tinh thần
“danh” ( thụ, tưởng, hành, thức)
Con người không làm chủ sở hữu được cái Ngã, vì cũng như mọi vật và sự vật,
con người là vô thường, cái ngã là vô thường. Vô thường, hay sự biến đổi là quy luật
của cuộc sống. Không có vô thường, không có sự sống và không thể có sự phát triển.
Hạt thóc giống thường tại, sẽ không bao giờ trở thành cây lúa, không bao giờ trổ bông,
không cho ra những hạt gạo trắng ngần. Sự vật không vô thường thì lịch sử tiến hóa
của nhân loại sẽ không phát triển; nền văn minh nhân loại mãi mãi ở thời kỳ đồ đá.
Giáo lý vô thường là niềm tin cho sự nỗ lực sáng tạo và phát triển của con người. Vô
thường là đặc tính thực của sự sống.
Chư hành vô thường là tất cả các sự vật không có gì hiện hữu trong một hình
thái cố định, tất cả các sự vật đều luôn luôn biến đổi. Các sự vật không tự nhiên sinh ra,
không tự nhiên mất đi (vô thuỷ, vô chung); mà luôn vận động, biến đổi từ hình thái này
sang hình thái khác. Tất cả sự vật đều hình thành, phát triển, suy thoái và triệt tiêu, triệt
8
tiêu để chuyển hoá sang một giai đoạn mới, một trạng thái mới. Vô thường là đặc tính
thực của sự vật.
Cái Tôi của con người cũng đang biến đổi, cũng vô thường. Cái tôi ngày hôm
nay, khác với cái tôi trước đây hai chục năm trước và sẽ khác với cái tôi hai chục năm
sau này. Những tư tưởng, những tình cảm, những suy nghĩ, những thói quen và cả trí
tuệ là không bao giờ đứng yên, nó phải biến đổi, nó phải phát triển. Đến cả cỏ cây cũng
phát triển, cũng thay đổi. Một cái cây đang xanh tươi, người ta xây một bức tường cạnh
nó, nó sẽ vươn ra hướng khác để đón ánh mặt trời. Làm sao mà con người không biến
đổi được. Một con người không biến đổi là con người chết. Nhưng sẽ có biến đổi tích
cực và có biến đổi tiêu cực. Biến đổi tích cực là phát triển. Biến đổi tiêu cực là phá hủy.
Sự biến đổi thông thường của cái tôi, là sự chuyển biến từ cái tôi sinh lý (vật lý),
qua cái tôi tâm lý và tới cái tôi tâm linh. Đó là sự biến đổi tích cực hay là sự biến đổi
tiêu cực? Đó là biến đổi phát triển hay là biến đổi phá huỷ? Lẽ thông thường thì dường
như là tích cực, đó là phát triển. Tư duy logic là vậy. Nhưng Tôn giáo là phi logic. Tôn
giáo có chiều sâu riêng. Theo chiều sâu này, tư duy logic khoa học nhiều khi là ngược

chiều.
Cái tôi tâm linh dường như cao siêu hơn thế rất nhiều. Có những bậc Đại sư, cốt
cách trang nghiêm, tu tập một đời nỗ lực, cái tham cái sân cái si dường như đã thoát bỏ,
uy tín rất cao, và rồi Đại sư đó thiết lập lên một Tông phái mới. Đại sư đó thiết lập
nhiều đạo tràng để phát triển Tông phái do mình lập ra. Đại sư đó thu được nhiều môn
đồ. Đại sư đó đã hoằng dương đạo pháp! Nhưng ơ kìa. Tại sao phải lập ra Tông phái
mới, tại sao phải đặt tên cho Tông phái mới, tại sao phải đưa ra một số pháp mới chả
khác gì pháp cũ, với tên mới được đặt? Tại sao phải làm thế? Lòng Từ bi không phải
như vậy. Tính Không và Vô ngã không phải như vậy. Đại sư đó đã làm như vậy, để
thấy rằng ta đã làm như vậy! Và Tông phái đó là Tông phái của Tôi. Đó chính là cái tôi
tâm linh. Nó cao siêu lắm. Nó càng cao siêu thì nó càng mạnh mẽ, nó càng thâm trầm.
Nó cao siêu như vậy, nó thâm trầm như vậy thì làm sao mà dễ buông bỏ được? Đạo
Phật trên thế giới có chín chục ngàn Tông phái, đáng nhẽ phải có chín chục ngàn vị
Phật rồi. Nhiều, nhiều và rất nhiều người trong số họ, không thể thành Phật phải chăng
vì cái tôi tâm linh cao siêu này.
Biến đổi, phát triển, bước nhảy đó là chiều thứ hai của Ngã và Vô Ngã.
Cuộc sống của con người thuộc về nhiều mối quan hệ hữu cơ trong thực tại vũ trụ,
không có bất kể cái gì tách biệt. Con người không thể tách biệt với tự nhiên. Con người
không thể tách biệt với dòng sông, cây cỏ và ánh mặt trời. Con người đang sống trên
Trái đất, sống từ những tài nguyên tự nhiên của Trái đất, từ hàng triệu triệu năm nay.
Và rồi cũng chính Con người đang tàn phá những tài nguyên thiên nhiên này. Thiên tai,
động đất, sóng thần, băng tan, đang liên tiếp xảy ra, vì sự tác động phá hoại của con
người. Nguyên nhân nào kết quả nấy. Con người cũng không thể tách biệt với những
9
người xung quanh. Có mối quan hệ xây dựng, có mối quan hệ phá huỷ. Cuộc sống hiện
tại của con người quyết định tính chất của mối quan hệ, dẫn đến cái hậu quả sẽ nhận
được trong thực tại và trong tương lai. Đây chính là điều nhân bản nhất về Ngã và Vô
Ngã. Con người không độc lập và cũng không phụ thuộc. Con người với con người, và
với thực tại Vũ trụ có những quan hệ hữu cơ với nhau.
Vô thường: không có cái trường tồn.


Sự xuất hiện của vạn vật là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh và biến đổi theo
chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt. (hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không) theo quy luật nhân
quả. Khi nói đến Vô thường liền hiểu ngay đó là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có
sự vận hành, chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô thường. Vì vậy Vô thường là một định
luật phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và nhân sinh.
Vì mang tính phổ biến nên Vô thường là một cuộc đại hóa, sự biến hóa cùng
khắp, bất cứ ở đâu và lúc nào. Dù đức Phật có xuất hiện hay không thì ngọn lửa Vô
thường vẫn cứ điềm nhiên âm ĩ thiêu đốt cả thế gian, không một phút tạm ngừng. Vì
thế, đứng về mặt tục đế hữu hình hữu hoại thì hẳn nhiên Vô thường là chân lý bất di
dịch.
Thân, tâm và cảnh giới là một dòng chảy (quá, hiện, vị lai). Chánh báo và y baó
của một chúng sinh tạo thành dòng sông sinh mệnh, lực đẩy tạo thành dòng sông sinh
mệnh chính là sự khát ái vào những sở thuộc như sự nghiệp tài sản, danh vọng nhằm
củng cố cái Tôi (giả ngã) trong vòng luân hồi vô tận. Khi nào cái Tôi còn bén rễ, khi
nào ý thức chấp ngã còn bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn xen vào cuộc sống thì
vòng luân hồi vẫn thường xoay chuyển.
Vô thường có ba:
- Nhất kỳ Vô thường - Tương tục Vô thường - Sát na sinh diệt Vô thường.
Nhất kỳ là thô tướng nhất của Vô thường, chỉ cho sự kết thúc của một tiến trình,
như sự chết của một người, nhưng chết không có nghĩa là mất hẳn, mà chỉ là tạm vắng
ở nơi này, để chuẩn bị biểu hiện thành sự sống ở nơi khác.
Tương tục là sự sinh diệt, băng hoại thường xuyên trong lòng sự vật, là sự
chuyển biến không ngừng, nên sự tương tục ấy là tể tướng của Vô thường.
Sát na sinh diệt là sự vô thường ma mãnh nhất, nhỏ nhiệm nhất. Sát na là thuật
ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ cho đơn vị ngắn nhất của thời gian. Một niệm thoáng
qua trong tâm thức có đến 90 sát na. Mỗi sát na là một tiểu niệm. Sự sinh diệt nhỏ
nhiệm của mỗi sát na chỉ có Phật trí mới thấy được. Ba phạm trù thuộc ba phân loại Vô
thường ở trên không chỉ có nơi các hiện tượng vật lý, mà thâu gồm luôn trong các hiện
tượng sinh lý và tâm lý nữa.

10
Vô thường thuộc yếu tố thời gian, là một diễn trình đi từ nhân đến quả. Diễn
trình đó nơi chúng sanh hữu tình thì biểu hiện thành sinh, già, bệnh, chết; nơi các pháp
thì có sinh, trụ, dị, diệt; nơi thế giới thì có thành, trụ, hoại, không. Sự thay đổi của bốn
mùa, sự di chuyển của các hành tinh, vệ tinh cũng không ra ngoài quy luật của diễn
trình đó. Thế giới vĩ mô, thế giới vi mô và thế giới trung bình cũng cùng một loại. Hễ
có thành ắt có hoại, có hợp ắt có tan. Người quán thông lý Vô thường thì liền dừng, ấy
là người tỉnh, người giác. Cái thực vĩnh cửu vốn vô hình vô tướng, còn cái hữu hình
hữu tướng chỉ là giả tạm. Nhưng sự sống vĩnh hằng cũng không thể tìm ngoài cái Vô
thường ảo mộng.
Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách
biện chứng và duy vật.
1.1.2 Duyên khởi (quan trọng nhất là "Thập nhị nhân duyên")
Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là
Pháp giới, đều do nhân và duyên tạo thành. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến
hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng nên thuyết “ nhân duyên”, có ba khái niệm chủ
yếu là Nhân, Quả và Duyên.
Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” (Vô minh-> hành->
thức->danh sắc-> lục xứ hay lục nhập-> xúc-> thụ-> ái-> thủ-> hữu-> sinh-> lão tử)
được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, giải thích nguyên nhân của
nỗi khổ là do nguyên nhân nhận thức, nguyên nhân tinh thần. Trong 12 nhân duyên ấy
thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả.
Ý nghĩa tôn giáo của giáo lý Duyên khởi nhấn mạnh giáo lý về học thuyết của nghiệp,
giải thích căn bản của sự đau khổ trong sự tồn tại của con người và thế giới.
Với ngày giác ngộ của Đức Phật và năm mới sắp đến, suy nghĩ của chúng ta
được phát khởi từ khái niệm chủ yếu của Phật giáo và sự đóng góp của Phật giáo cho tư
tưởng thế giới. Khái niệm chính của Phật giáo thường được gọi chung là Duyên khởi
hoặc Duyên sinh. Hầu hết người ta cho rằng Phật giáo như một tôn giáo.Tuy nhiên,
Phật giáo có một truyền thống phát triển cao của tư tưởng triết học dựa trên các nguyên
tắc của nhân và quả và được biểu hiện trong nguyên lý Duyên khởi.

Những mắc xích làm nhân duyên là: 1) Vô minh-ngu dốt: là sự mù lòa căn bản
đối với sự thật của tự thân và tình trạng cuộc sống. Đó là một sự thiếu hiểu biết mà
hôm nay chúng ta gọi là “sự từ chối”. 2) Hành: hành động ý chí bao gồm các sự thúc
đẩy và động cơ phát sinh của chúng ta từ sự ngu dốt của chúng ta trong các hình thái
hận thù, tham lam, thành kiến 3) Thức: nhận thức, bao gồm cả vô thức hoặc tổng thể
của sự nhận thức về các sự vật. Xuyên qua nhiều sự ảnh hưởng hay những hạt giống
được lưu trữ ở đây mà chúng ta phát triển các xu hướng tốt hoặc xấu. 4) Danh và Sắc:
Tên và hình thể là các khía cạnh tinh thần và thể chất của chúng ta. Đó là, cơ thể vật lý
và tính cách hoặc tính đồng nhất. 5) Lục nhập: sáu năng lực của giác quan: tâm và năm
11
giác quan vật lý. 6) Xúc: Sự liên hệ xuyên qua các giác quan với các đối tượng. 7) Thọ:
Cảm giác hoặc nhận thức và kinh nghiệm đối với mọi điều. 8) Ái: là tham muốn, bắt
nguồn từ cảm giác của chúng ta, vì kinh nghiệm lặp đi lặp lại chẳng hạn như chúng ta
không có thể chỉ ăn một khoanh mỏng của khoai tây. 9) Thủ: bám hoặc nắm bắt và
dính chặt. Chúng ta không thể buông bỏ. 10) Hữu:Trở thành là ước muốn sâu xa cho
cuộc sống, phản chiếu trong những sự phấn đấu của chúng ta bằng việc tự bảo tồn. 11)
Sinh: Sự sinh ra hoặc tái sinh. 12) Lão tử: Tuổi già (Decay) và cái chết, quá trình bắt
đầu lúc mới sinh và trở nên rõ ràng hơn như thời gian-vô thường-sự tiếp tục.
Theo tiến trình này, chúng ta bị ảnh hưởng bởi những ảo giác và sự thiếu hiểu biết cơ
bản và do vậy chúng ta mù lòa đối với thực tại đích thực. Đó là chúng ta không thể
nhìn thấy sự vật như chúng thực sự là. Chúng ta biết rằng các giác quan của chúng ta
có thể bị lừa gạt như trong ảo giác quang học. Kết quả là, chúng ta phát triển những
cảm giác sâu sắc của tham lam, hận thù và thành kiến, bản chất ích kỷ căn bản của
chúng ta. Xuyên qua ý thức nằm dưới và các hoạt động của tâm chúng ta và các giác
quan của chúng ta, chúng ta thể hiện hành động trên thế giới, tạo ra khổ đau hay tốt
đẹp. Chúng ta bám vào những điều mà chúng ta nghĩ rằng có lợi ích cho cái tôi của
chúng ta hoặc bảo vệ nó. Do đó, chúng ta khởi tưởng một sự tham muốn sâu xa để tiếp
tục cuộc sống của chúng ta (trở thành). Nghiệp được tạo ra thông qua quá trình này dẫn
đến sự tái sinh kế tiếp và chu kỳ của sinh-lão và tử. Tất cả chúng sinh trải qua tiến trình
này cho đến khi họ tìm đường ra khỏi bánh xe luân chuyển hoặc con sông của sinh và

tử, được gọi là vòng luân hồi trong giáo lý Phật giáo.
Giáo lý về Mười hai nhân duyên thúc đẩy sự nỗ lực tìm kiếm cho sự giác ngộ
để nhận ra sự giải phóng từ tiến trình này. Việc phân chia thành ba đời sống: quá khứ,
hiện tại và tương lai biểu lộ rằng sự nô lệ tinh thần của chúng ta tiếp tục tái sinh trong
quan điểm của Phật giáo về luân hồi. Trong sự giảng dạy truyền thống, vòng luân
chuyển không kết thúc với ba chu kỳ. Thay vào đó, nếu tình dục và sự thiếu hiểu biết
của chúng ta chi phối tính chất của chúng ta trong cuộc sống thì tiến trình đau khổ tiếp
tục. Sự đa dạng của các truyền thống Phật giáo đã cung cấp các đạo lộ để giúp chúng ta
vượt qua tiến trình này và trở thành giác ngộ, đạt được niết bàn hay Phật tánh.
Mối quan hệ Nhân – Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời
gian.
1.1.3 Duy thức (vạn pháp duy tâm)
“Vạn Pháp Duy Tâm Tạo”:*Vạn: là mười ngàn, nhưng không chỉ có 10 ngàn,
mà ở đây phải hiểu là nhiều, rất rất nhiều. *Pháp: Pháp ở đây không chỉ có nghĩa là
Pháp Phật, mà phải được hiểu là tất cả các Pháp Hữu Vi, Pháp Vô Vi, Pháp Thiện,
Pháp Ác, Pháp Hành. Nói chung là tất cả những gì do hành động, ý thức, suy nghĩ, lời
nói…. tạo thành đều là Pháp. Pháp ở đây cũng có nghĩa là Pháp Giới. *Duy: ở đây
được hiểu là duy nhất, hay là đầu tiên. *Tâm Tạo: nghĩa là từ Tâm mà tạo nên. Hiểu
nguyên câu này sơ bộ như sau “Tất cả mọi thứ (Pháp) đều do Tâm tạo thành”.
12
Hãy xem qua ví dụ dưới đây để hiểu rỏ hơn ý nghĩa này. Ví dụ: Chúng ta muốn
xây một cái nhà, thì trước tiên trong Tâm của Ta phải hình thành nên cái Nhà trước
tiên, rồi từ đó mới hình thành nên nhà có mấy phòng, nhà có mấy tầng, làm sao để có
Tiền mua nhà,….Từ cái Tâm ban đầu khởi lên ý niệm muốn có cái Nhà, thì hình ảnh
cái Nhà mới xuất hiện, rồi từ đó sẽ sinh ra Hành, nghĩa là Hành Động, tìm mọi cách để
làm sao có được cái nhà như ý muốn mà cái Tâm ban đầu phát khởi, như làm nhiều
việc hơn, kiếm tiền nhiều hơn để có được cái nhà đó…
Ví dụ trên nếu ai chưa hiểu rỏ mọi vật (Pháp) đều do Tâm tạo nên thì xin xem
tiếp ví dụ dưới đây: Ngày xưa con người đâu có biết bay(trước khi phát minh ra máy
bay), nhưng cũng bắt đầu từ Tâm mong cầu được bay như chim nên con người mới

nghiên cứu, sáng tạo ra nhiều công cụ để góp phần tạo nên chiếc máy bay như ngày
nay. Việc tạo nên chiếc máy bay không phải là do nhôm, thép, máy tính hợp lại mà tạo
ra, mà là do chính cái Tâm ban đầu phát khởi mà tạo ra mọi thứ để phục vụ cho việc ra
đời những sản phẩm, công cụ hình thành nên chiếc máy bay.
1.1.4 Trung đạo (Bình đẳng quan)
Tinh tấn theo nội dung kinh điển Phật giáo là trung đạo, không thái quá, không bất cập,
lìa mọi cực đoan, làm cho hành giả phấn chấn tu tập thêm lên.
Sa môn học đạo giải thoát tâm điều tiết hài hòa mới có thể đạt được đạo. Đối với đạo
mà bạo phát, bạo phát thì thân thể mệt, thân thể mệt thì ý phiền não, ý phiền não sẽ dẫn
đến thối thất, thối thất đạo hạnh thì tội gia tăng. Do đó, chỉ nên giữ trạng thái trung đạo,
thanh tịnh an lạc thì đạo sẽ không thối thất.
Người hành đạo giải thoát muốn thành tựu đạo quả phải thực hành trung
đạo, xa lìa hai cực đoan ép xác và thọ hưởng: “Có hai cực đoan người xuất gia
không được hành. Một là say đắm dục lạc đối với các dục hạ liệt, phàm phu
không phải thánh hạnh, không liên hệ đến mục đích tu tập. Hai là tự hành hạ tự
thân khổ đau, không phải thánh hạnh, không hướng đến mục đích giải thoát. Từ
bỏ hai cực đoan này là con đường Trung đạo.”
1.2 Nhân sinh quan:
1.2.1 Tứ diệu đế
Tứ diệu đế chính là một trong những tuệ giác sáng chói nhất của Phật.
• Ngài đã tìm ra sự thật đen tối nhất của cõi đời là bệnh, già, chết và sự phiền não
thường trực trong lòng mỗi người, ngài gọi là Khổ (Khổ đế).
• Sự thật thứ hai ngài tìm ra là nguyên nhân đau khổ, ngài gọi là Khổ tập (Tập đế).
13
• Sự thật thứ ba ngài tìm ra là pháp môn tu tập để dứt trừ nguyên nhân đau khổ,
ngài gọi là Khổ tập diệt (Diệt đế).
Và sự thật thứ tư ngài tìm ra là con đường cho mọi người đi tới hạnh phúc, an
vui vĩnh cửu, ngài gọi là Khổ tập diệt đạo (Đạo đế). [12]
Không nỗi bất hạnh nào có thể so sánh được, khi nghịch cảnh của cuộc đời đưa
những bé thơ vào cuộc mưu sinh không cha thiếu mẹ. Những đứa trẻ đang lầm lũi với

những ước mơ nhỏ bé của mình là mong được mọi sự giúp đỡ và được lớn lên trong
vòng tay ấm áp của mọi người. Một dấu chấm hỏi lớn đặt ra giữa cuộc đời, trong tâm
hồn non nớt, đang cần sự chia sẻ giúp đỡ hảo tâm của những tấm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả,
muốn được cảm thông và sẻ chia cùng các em.
Số phận nghiệt ngã của những đứa trẻ đang ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, vẫn
tin rằng, trên trái đất này, vẫn còn đâu đó, những bàn tay rộng mở sẽ nắm lấy những
bàn tay côi cút, bé bỏng, để các em có cơ hội được sống và được thực hiện mơ ước nhỏ
nhoi hiền hoà của mình.
Người học Phật thấy khổ, hiểu được nguyên nhân của sự khổ, tìm cách giúp cho
đỡ khổ, bằng những phương tiện mình có trong khả năng, thì đây cũng chính là sự áp
dụng một phần của Tứ Diệu Đế mà Đức Phật đã dạy khi xưa, đi vào đời sống hiện thực
ngày nay. Ngài cũng có nói rằng : Phải tự, sống, chiêm nghiệm, kiểm chứng, xác thực
bằng bản thân cá nhân của mình trước, cho đến khi cảm thấy điều đó là Ngài nói đúng,
thì mới đem chỉ cho người khác, để đạt được thành qủa giống như cái mình đã làm.
1.2.2 Nhân quả
Phật giáo đề cấp đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sử vật phải từ kết quả
tìm ra nguyên nhân và xem xét kết quả này là nguyên nhân của kết quả khác trong mối
quan hệ khác.
Nhân là nguyên nhân; quả là kết quả. Quả là cái quả do mầm mống phát sinh,
Nhân là nhân lực phát động, quả là sự thành hình của năng lực phát động ấy. Nhân quả
là một định luật của tất cả mọi sự vật. Khi chúng ta muốn có cái kết quả như thế nào đó
thì phải hội đủ các nhân duyên thì kết quả mới như ý muốn. Có người muốn kết quả
như vậy nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế nên kết quả không đạt do đó họ
đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của "luật Nhân quả”.
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ
quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi
như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
Nhân quả vì thế không chỉ có riêng của Phật giáo, mà trước đó và ngay trong
thời kỳ đức Phật còn tại thế, các luận sư ngoại đạo cũng đã lập thành luận thuyết chủ
14

trương rõ ràng rồi, nhưng cũng vì kiến giải quá nhiều về nhân quả, nên mọi kiến giải
trở thành đa thù sai biệt và chống đối nhau trên quan điểm nảy sinh ra bốn loại mà đức
Phật gọi là tà chấp. Đức Phật, chỉ kết hợp lại những gì khế cơ khế lý mà thành lập nhân
quả Phật giáo. Nhân quả Phật giáo vì thế đã trở thành hai hệ thống qua Phật giáo phát
triển của các hệ phái sau này, đó là nhân quả Tiểu thừa và nhân quả Đại thừa trong việc
kết hợp với định thức duyên khởi tùy thuộc vào thời gian và không gian mà hình thành
cơ sở lý luận cho tất cả mọi quan hệ duyên khởi trong thế giới.
Theo các nhà ngọai đạo cổ đại Ấn độ, có thể phân chia làm bốn lọai luận điểm
về quan hệ nhân quả, mà Phật giáo liệt họ vào bốn loại chấp:
- Tà nhân tà quả: Họ chủ trương đem nguyên nhân sinh khởi ra vạn vật vũ trụ
qui về năng lực do trời Đại tự tại.
- Không nhân, có quả: chủ trương này, họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới hiện
tượng là quả, chỉ vì cái nhân của cái quả này khó mà tham cứu, nên họ phủ nhận
nguyên nhân khởi lên quả này.
- Có nhân, không quả: Chủ trương này, họ thừa nhận sự tồn tại của thế giới hiện
tượng cho là nhân, chỉ vì kết quả của nhân này khó mà tham cứu, cho nên họ phủ định
kết quả của nhân này.
- Không nhân, không quả: Chủ trương này, họ phủ định cả nhân lẫn quả.
Ngoài bốn loại nhân quả trên ra, Phật giáo còn nhận thấy có hai thứ luận thuyết
về nhân quả nữa:
- Trong nhân có quả: Chủ trương này, thừa nhận mọi hiện tượng trong thế giới
đang hiện hữu qua quả chúng đã có sẵn đầy đủ trong nhân, đây là chủ trương của các
nhà tư tưởng Bà-la-môn giáo cùng học phái Số luận; tức là họ chấp nhận trong nhân
luôn luôn đầy đủ tánh quả, cho nên tính chất của nhân cùng quả tương đồng
- Trong nhân không có quả: Chủ trương này cùng với học phái Thắng luận, họ
không chấp nhận chủ trương trong nhân có quả và đối lập lại chủ trương trên. Họ đề
xướng cần phải kết hợp nhiều yếu tố căn bản độc lập mới có thể sinh khởi ra thế giới
hiện tượng, vì vậy trong nhân ắt đã không có quả, mà cần phải vay mượn nhiều tướng
nhân để hỗ tương hòa hợp mới có thể sinh ra quả được; do vậy, tính chất nhân cùng quả
không tương đồng. Luận thuyết này cũng có thể gọi là trong quả đã có nhân.

Còn nhân quả của Phật giáo đại để phân ra làm hai hệ thống Tiểu thừa và Đại
thừa. Tiểu thừa lấy Câu xá luận 6 làm điển hình đề xuất ra thuyết tứ duyên, lục nhân,
ngũ quả; còn Đại thừa thì lấy Duy thức tông của Thành Duy Thức luận 8 làm đại biểu,
dùng tứ duyên, thập nhân, ngũ quả làm nội dung chủ yếu để luận về nhân quả.
1.2.3 Nghiệp báo và luân hồi
Thuyết luân hồi:
- Tiếng Sanskrit là Samsara (bánh xe quay tròn)
- Khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu
thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài vật
15
thậm chí cỏ cây), cứ như thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước
gây ra, lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
- Chúng sinh nào chưa được giác ngộ, đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ,
mỗi chúng ta đều đã trải qua hàng ngàn hàng vạn cuộc đời, chỉ những người tu hành
đắc đạo, được vào cõi Phật mới thoát khỏi luân hồi.
Nghiệp báo:
- Nghiệp theo tiếng Sanskrit là Karman, tiếng Pāli là Kamma, là cái do hành
động của ta gây ra.
- Nghiệp báo là sự gánh chịu hậu quả trong cuộc sống hiện tại của con người do
hành vi của kiếp trước gây ra.
Tất cả mọi sinh mệnh hữu tình sinh ra sống còn và chết đi, chúng bị lệ thuộc vào
nghiệp nhân và nghiệp quả để trở thành một sinh mệnh hữu tình trong hiện tại.
Luân hồi là một hình thức biểu hiện hiện tượng sinh diệt của các pháp qua định
thức duyên khởi từ nhân qua quả. Qua đó nghiệp lực là sức mạnh chủ động hình thành
sự sinh diệt biến đổi lưu chuyển được thể hiện qua quá khứ-hiện tại-tương lai theo thời
gian, tuỳ thuộc vào từng thuộc tính của mỗi cá nhân và Cộng đồng xứ sở (biệt nghiệp
và cộng nghiệp) và tùy thuộc vào sức nhanh chậm, mạnh yếu của tác nhân nghiệp đã
được tạo ra bỡi thân-khẩu-ý do ba độc tham-sân-si từ vô minh phát khởi của chúng ta
trong quá khứ, trong hiện tại, hay trong tương lai mà luân chuyển theo chúng. Vậy luân
hồi có được và hiện hữu tuỳ thuộc vào lực dụng của nghiệp nhân đã được tạo ra từ

hành vi của mỗi chúng ta và, theo đó mà biến chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ cõi
này sang cõi nọ, trong ba cõi sáu đường để nhận lãnh báo thọ quả mà mình đã tạo ra
trước đó.[13]
Luân hồi có nghĩa là chúng sanh từ vô thỉ cho đến ngày hôm nay, do nhân ba
độc tham-sân-si của hoặc nghiệp, mà cảm quả báo lưu chuyển sinh tử trong ba cõi sáu
đường, như sự chuyển động bất tận của một bánh xe quay không bao giờ dừng nghỉ,
cho nên gọi là luân hồi. Luân hồi ở đây còn có nghĩa là sinh tử, hay sinh tử luân hồi,
sinh tử tương tục, luân hồi chuyển sinh, lưu chuyển hay luân chuyển. Luân hồi còn là
một trong những giáo nghĩa chủ yếu của Bà-la-môn giáo Ấn Độ xưa kia. Phật giáo
cũng nương vào nghĩa này, thêm vào những gì không có và, bớt đi những gì không phù
hợp với chân lý để biến thành giáo nghĩa của riêng mình.
Luân hồi như thế, không chỉ dành cho chúng sinh hữu tình hạn hẹp trong cõi Ta-bà
này, mà cho tất cả mọi chúng sinh hiện trôi lăn trong sáu cõi ba đường, cũng đều bị lệ
thuộc vào những tác nhân do hành vi thiện ác nhiều ít bỡi tham ái chấp ngã, phát xuất
từ tâm lệ thuộc vào đối tượng có khả năng phát khởi ra hành động tạo tác (tư tâm sở)
mà nhận lãnh những kết quả lành dữ trong hiện tai hay trong tương lai, tuỳ theo nghiệp
lực mà chúng sinh ấy tạo ra trong quá khứ. Không những chúng chỉ dành cho biệt
nghiệp chúng sinh hữu tình, mà còn dành cho tất cả mọi sự vật đang hiện hữu giữa thế
16
gian này qua hiện tướng cộng nghiệp có sinh diệt biến dị đều bị lệ thuộc vào định luật
luân hồi này. Ở đây luân hồi được coi như là một lực dụng của Nghiệp.
Nghiệp tiếng Sanskrit gọi là Karman, tiếng Pāli gọi là Kamma, Trung quốc
phiên âm là Yết-ma, có nghĩa là tạo tác, ý chỉ cho hành vi, những gì đã tạo ra, hay chỉ
cho hành động, tác dụng, ý chí v.v… nói chung chỉ cho hoạt động của thân và tâm của
chúng ta, hay hoạt động của thân tâm do ý chí tác động phát sinh. Đây chính là những
tác nhân trong hiện tại được chỉ đạo bỡi ý chí phát sinh ra trong tâm thức, hay những
tác động tâm ý khiến cho thân và miệng làm theo ý chí sai khiến. Ở đây nếu nghiệp
đem liên hệ với nhân quả mà kết hợp thì, chỉ cho tác nhân của những hành vi trong quá
khứ, hình thành lực lượng liên tục cho đến ngày hôm nay qua thọ quả, đó chính là sức
mạnh của nghiệp, mà thường trong Phật giáo gọi là nghiệp lực.

Ngoài ra nghiệp cũng còn bao gồm những hành vi trên cả tư tưởng thiện ác, khổ
vui v.v… nhân quả báo ứng, cùng tư tưởng luân hồi đời trước, đời này và, đời sau vốn
là tư tưởng của Ấn độ từ xưa đến nay hiện đang lưu hành vào lúc bấy giờ, Phật giáo
vẫn chịu ảnh hưởng của chúng qua việc chấp nhận những quan điểm, mà đức Phật cho
là đúng theo chỗ sở ngộ của Ngài, để dung hợp thành chủ trương về nghiệp theo nhân
sinh quan của đức Phật, đôi khi chống lại chủ trương thường ngã của Bà-la-môn giáo.
1.2.4 Giải thoát và phương pháp để giải thoát
Những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi
trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được
giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Trên thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi
thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ châu
và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân chúng ở các xứ
văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần
quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà
thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày
càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập
xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu,
những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ
trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con
người.
- Giải thoát: là chấm dứt hoàn toàn các nguyên nhân dẫn đến sinh tử, thoát ra
khỏi Luân hồi và đạt Niết bàn.
- Niết bàn: có thể được hiểu là sự chấm dứt ái dục hay lìa bỏ ái dục, dập tắt, ám
chỉ lửa phiền não đã được dập tắt, đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát.
- Con đường giải thoát (moska): Phật dạy rằng khi môn đệ làm cho lòng mình
sạch hết tham lam, nóng giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh
17
giới Niết Bàn. Do đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân,
lửa si mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.

Đạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu
cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh,
để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn
ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc
chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên,
ngay sau đó, Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
"Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ
đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại.
Ba phương pháp quan trọng để giúp chúng sinh tiêu diệt được tam độc:
- Giới: phải thực hiện ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm,
không uống rượu, không nối dối). Thực hiện ngũ giới sẽ tiêu diệt được tham
- Định: phải giữ cho mình trạng thái yên tĩnh tuyệt đối, hoàn toàn tách rời khỏi
thế giới hữu hình, đạt tới trạng thái hoàn toàn không. Thực hiện được định sẽ diệt được
sân
- Tuệ: đạt tới sự trong sáng tuyệt vời, không mê muội, không tham, sân. Thực
hiện được tuệ sẽ tiêu diệt được si.
"Bát chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính
của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
- Chánh kiến là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý
nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối
bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường
kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực".
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người.
Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà
kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm

khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị.
18
Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến,
thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói
những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho
họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người
biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh,
không nói pháp sanh diệt, thị phi.
- Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại
người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có
hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết
báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không
chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
- Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những
nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người
có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt
ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội,
luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
- Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả
những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc
nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
- Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự
đấu tranh, cãi vã.
- Chánh định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để
dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham
ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới
phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng
niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng
xăng lộn xộn.
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là

Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương
pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện
đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ
xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật
mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì
hiện đời cả.
19
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO
2.1 Những giá trị của Phật giáo
2.1.1 Giá trị về giáo dục
Nổi bật lên và bao trùm toàn bộ các lý thuyết của Triết học Phật giáo là tính
thiện. Phật dạy con người phải nghĩ thiện, nói thiện, làm thiện, phấn đấu vì cái thiện. Vì
thế, những điển tích, những bài học về sự hướng thiện trong Phật giáo rất phong phú và
sâu sắc. Cho tới tận ngày nay những điều răn dạy của Phật vẫn luôn nhận được sự ủng
hộ của các tầng lớp dân chúng từ những người nghèo khổ cho tới những kẻ giàu sang
phú quý.
Vì thế tính giáo dục của Phật giáo đã đến với nhân loại với tinh thần khoan dung
kêu gọi mọi người nhường cơm xẻ áo, nhìn nhau bằng ánh mắt từ hòa, góp phần hình
thành nên nền đạo đức xã hội, để hòa điệu với cái “ta rộng lớn” của toàn thể vũ trụ vô
biên, Đức Phật đã từng dạy: Một hạnh phúc vĩnh cửu chỉ sống mạnh trong một tâm hồn
giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể thực hiện một khi cá nhân chịu nhường bước.
Một bản ngã đứng tách riêng ra ngoài là không thể tồn tại khỏe mạnh được. Đó là mục
đích giáo dục con người hoàn thiện cả về tài lẫn đức trong một xã hội văn minh. [13]
Vì vậy nội dung giáo dục của triết lý Phật giáo chẳng khác gì lời kêu gọi hòa
bình – một nhu cầu luôn cần cho mọi người, mọi nhà, và là tài sản quý báu nhất của
nhân loại. Đây là giá trị nhân đạo nhất và khác với mọi tôn giáo khác, trong suốt lịch sử
tồn tại và phát triển Phật giáo luôn xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như sứ giả
của hòa bình và an lạc.


Từ đó ta thấy giá trị tinh thần đạo đức toàn diện của giáo dục Phật giáo là trình
bày sự thật về những mối tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời để giúp con
người có được chính kiến hòng tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hoàn cảnh,
để có thể chinh phục và cảm hóa được mọi người xung quanh.
2.1.2 Giá trị về khoa học
Khoa học đã mở ra con đường thích ứng với thời đại, khẳng định giá trị thực
tiễn của nhân sinh quan. Nếu thế giới công nhận sự thành tựu của khoa học, tức là họ
đã đi vào quỹ đạo của Phật giáo. Bởi vì Phật giáo không phải là tôn giáo thuần tín
ngưỡng, mà là tôn giáo của lý trí. Cho nên nghiên cứu Phật giáo trên lập trường khoa
học, có thể soi sáng cho nhân loại trên hành trình tìm cầu chân lý. Đại sư Thái Hư từng
nói : “ Khoa học càng phát triển, tức là hiển bày ý nghĩa chân thật của Phật giáo”.[14]
Phương diện khác, Tôn Trung Sơn nói : “ Phật học là mẹ của triết học, nghiên
cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Học thuyết trước kia cho rằng, địa cầu là
trung tâm của vũ trụ, đứng yên không chuyển động, mặt trời xoay chung quanh địa cầu.
20
Phật giáo miêu tả vũ trụ cách đây mấy ngàn năm, lại phù hợp với khoa học hiện đại.
Phật giáo cho rằng một ngàn thái dương hệ bằng một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu
thiên thế giới bằng một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới bằng một đại
thiên thế giới. Mỗi đại thiên thế giới bằng một quốc độ Phật. Như thế một quốc độ Phật
có một tỷ thái dương hệ, tương đương với một dãy tinh vân trong thiên văn học.
Phật giáo chẳng những không phủ nhận sự tiến bộ của khoa học, mà còn thừa
nhận tính hợp lý của nó. Nếu theo cái nhìn của khoa học để lý giải diệu nghĩa của Phật
giáo, cũng có thể thấy rõ sự mê muội của nhân loại trước kia. Nhưng chỉ thoả mãn về
tri thức và dục vọng, lại thiếu vắng đạo đức, như thế khoa học không thể đem lại hạnh
phúc cho con người mà chỉ mang đến những điều tang tóc và nguy hại, thậm chí còn
tiêu diệt cả nhân loại. Cho nên, bồi dưỡng đạo đức vẫn là việc không thể khiếm khuyết
trong cuộc sống.
2.1.3 Giá trị thiết thực nhân bản của phật giáo
Thế nào là nhân bản? và thế nào là giá trị nhân bản?
“Nhân” là người, “Bản” là gốc, là cơ sở, là nền tảng

Như vậy, có thể hiểu nhân bản là cái gốc của con người, cái cơ sở, nền tảng của
con người, cái làm nên con người và phân biệt con người với các động vật khác. Nếu
hiểu sâu xa hơn thì nhân bản là thái độ nhìn đời, thái độ cư xử của một con người
Nếu nhân bản là cái gốc của con người thì giáo dục nhân bản là giáo dục một
bản tính người có thái độ sống, thái độ nhìn đời, thái độ cư xử “Hợp quy tắc” như mọi
người thừa nhận.
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh Ấn
Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng những ngăn
cách xã hội giữa các đẳng cấp. Rồi từ những căn bản đó, Phật giáo đã duỗi dài nguyên
lý vào cuộc sống con người khắp mọi nơi. Trong cội rễ sâu xa, ngay từ khởi thủy tư
tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã mang trong mình những giá trị nhân bản chung
toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp. Trong
đó lòng Từ bi – Bình đẳng – Vô ngã cùng sự hướng thiện mà đạo Phật muốn giáo dục
con người với mục đích “cứu khổ” là quan trọng nhất.
Theo Đạo Phật, chính “chấp ngã” đã gây ra cho lịch sử loài người những cuộc
chiến tranh núi xương sông máu, chiến tranh tội ác và bạo lực đã và đang là điều nhức
nhối của toàn nhân loại. Trong tình hình này Phật Giáo kêu gọi mọi người hãy dứt các
việc làm ác mà hãy hành thiện, khuyên con người dang rộng vòng tay ôm vũ trụ vào
lòng và đừng bao giờ khép kín tâm tư lại. Hãy phát triển nhân đạo và từ bi quên đi
những cái ta ích kỷ, nhỏ hẹp để được yêu vũ trụ rộng lớn.
Giáo dục con người sống có đạo đức và đạt được hạnh phúc
21
Phật giáo cho con người là hơn cả vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt đẹp để
có thể sống hài hòa. Để giáo dục đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu, với yếu tố
biện chứng, kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn nguyên của khổ
đau là do thâm, sân , si cùng với lý luận về thập nhị nhân duyên, đồng thời khẳng định
con đường diệt khổ đó là “trung đạo”, “bát chính đạo” chứa đựng sự lý đầy thuyết
phục và hướng con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm
thông, hỷ xả với nhau một cách hòa mục. Vị tha dạy con người sống vì người khác,
bao dung độ lượng đó là phương pháp giúp con người đạt được đức hạnh. Đây là động

lực nảy sinh mọi điều tốt lành.
Phật giáo khẳng định tất cả mọi người đều có “Phật tính” sẽ đạt được nếu thực
hành đúng theo giáo lý trao dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình sẽ được hạnh
phúc.Phật giáo đề ra tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương hỉ xả cứu khổ cứu nạn là những
tư tưởng gây được xúc động trong lòng người và đã trở thành một trong những nguồn
gốc của lòng thương người, chủ nghĩa nhân đạo, thể hiện sự qua tâm đến con người và
cứu vớt con người.
2.1.4 Phật giáo và văn hóa, con người Việt Nam
Người đạo Phật tại Việt Nam rất chăm lo đến việc thực hiện nghi lễ của đạo
mình. Họ chăm chú lên chùa, trân trọng và thành kính trong lúc thực hành các nghi lễ,
họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm điều thiện. Con người nhà Phật nhìn
sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì cũng là kết quả của một cái trước và là
nguyên nhân của cái sau. Họ còn nhìn thế giới, xã hội con người trong dòng vận động
không ngừng, ở đó khộng có gì tồn tại mãi mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái
này sang cái khác. Lý thuyến nhân duyên sinh, vô thường, vô ngã của nhà Phật dã cho
phối ý nghĩa và hành động của họ.
Nhân cách Phật giáo có những ảnh hưởng tốt qua tập tục ăn chay, thờ Phật,
phóng sanh và bố thí, tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa, ảnh hưởng qua nghi thức
ma chay. Tuy nhiên, cũng có những hiện tượng mê tín dị đoan như tập tục đốt vàng mã,
tập tục coi ngày giờ; tập tục cúng sao hạn, tập tục xin xăm, bỏi quẻ.
Đối với nền văn hóa Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng trong văn học ca dao
dân ca, ảnh hưởng đến tác phẩm văn học và qua các loại hình nghệ thuật: thể hiện qua
nghệ thuật sân khấu hát bội, hát chèo, cải lương và kịch nói, nghệ thuật tạo hình: kiến
trúc điêu khắc.
2.1.5 Các giá trị khác (về chính trị, chiến tranh, hòa bình ở VN….)
Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được bốn chữ từ,
bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh phúc. Đạo Phật chủ
trương một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại trừ mọi oán thù. Trong giáo
lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhật là giới sát. Đạo Phật chủ trương ôn hòa, hòa bình
và hòa hợp giữa các dân tộc, không muốn chúng sinh tàn sát lẫn nhau. Xem chiến tranh

xâm lược do đế quốc tiến hành chống các nước yếu hơn, phá hoại hòa bình, độc lập,
anh ninh là tội ác.
22
Thời Lý, Trần nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ
những cương vị quan trọng trong triều đình.
Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào
hoạt động chính trị, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
2.2 Những hạn chế của Phật giáo
2.2.1 Duy vật biện chứng nhưng còn chất phác
Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy
con người nói chung mà không thấy con người thuộc các giai cấp đối kháng nhau trong
xã hội trước đây, không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã hội. Do đó, không
thấy được nguyên nhân xã hội đưa đến sự khổ ải của con người, không thấy được sự
cần thiết phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Vì thế quan niệm từ bi, bác ái trong một
số trường hợp bất lợi cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức.
Thế giới quan Phật giáo mang tính vô thần, còn chứa những tư tưởng biện chứng
chất phác. Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh
thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần
linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến
của luật nhân – quả.
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc
luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.
2.2.2 Phật giáo không mang nội dung chính trị
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh
vực chính trị - xã hội, họ phải sử dụng các tư tưởng của nhà Nho hay Lão - trang. Nhà
sư Viên Thông cho rằng: "Lòng dân là gốc trị loạn", trong đó "lòng dân" là khái niệm
và tư trưởng của nhà nho; hoặc nhà sư Đỗ Pháp Thuận nói: "Vô vi cư diện các, xứ xứ
tức đao binh" (nếu đường lối vô vi ngự trị trong triều đình, thì nơi nơi sẽ tắt chiến
tranh) trong đó " vô vi" là khái niệm của Lão - Trang, mặc dù khái niệm đó đã được
giải thích theo quan niệm nhà Phật.

2.2.3 Phật giáo chú trọng phát triển tinh thần mà không chú trọng phát
triển vật chất.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan điểm
duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào hiện thực mà hướng
vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi tư duy
như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và hành động.
Linh hồn, "cái tôi", "atman" có tồn tại không? Câu trả lời của phật giáo là:
không có linh hồn. Câu trả lời như vậy chỉ có thể có với một quan điểm có căn cứ rõ
ràng về một vấn đề liên quan hiển nhiên đến lĩnh vực siêu hình.
Tất cả đạo đức học phật giáo được xây dựng trên tư tưởng "giải thoát", tức đạt
đến niết bàn và thuyết luân hồi, trừng phạt. Ở đây, có nói đến cuộc sống đã được trù
23
định trước khi sinh, cũng như sau khi chết. Đó lại là những câu trả lời cho những vấn
đề siêu hình.
Trong các sử truyện và biên niên sử của Nhật bản cổ đại, nói nhiều đến việc ở
trong cung đình người ta đọc các bài giảng về triết học của Long Thọ với mục đích cầu
mưa khi trời đại hạn. Trong quan hệ này, phật giáo không khác chút nào với những hệ
thống tôn giáo khác trong việc thỏa hiệp và tiếp nhận những yếu tố trong mê tín dị đoan
dân gian.
Đức Phật đã luôn dạy rằng không có "cái tôi" độc lập, như vậy không có thế giới tách
rời "cái tôi", không có "những vật thể" độc lập không có "cuộc sống" tách rời, - tất cả
những cái đó là - những tương tác bền chặt và chỉ bị tách khỏi nhau trong tưởng tượng.
Chủ từ "tôi" không được thừa nhận bởi đa số những người Phật tử, bởi là không tồn tại
cái mà không được thiết lập trực tiếp bằng các phương thức nhận thức đúng đắn, tức
hoặc bằng cách quan sát trực tiếp nội trạng và ngoại thể, hoặc bằng cách suy luận tư
biện .
Điều đó có nghĩa: "Cái tôi" mà chủ nghĩa thực tại ngây thơ không nghi ngờ sự
tồn tại của nó, là không thể nhận biết bằng kinh nghiệm. Bởi vậy không cần thiết đưa
vào trong những yếu tố tiên nghiệm thuần túy cái thực tại đặc biệt, linh hồn hay "cái
tôi" để lý giải một hiện tượng hư ảo như vậy. Cái được gọi là "cái tôi" kinh nghiệm

hoàn toàn được lý giải bằng những yếu tố và những quy luật khác nhau trong những
liên tưởng của chúng. Do đó những vấn đề bị trệch đi hoàn toàn không do chúng là siêu
hình, mà vì không thể trả lời chúng về mặt lôgíc. Đức Phật đứng trên quan điểm đó.
24
C. KẾT LUẬN
Phật giáo là một tôn giáo, vì vậy ngoài những mặt tích cực cũng có những mặt thiếu sót
về mặt khoa học và nhân sinh quan. Song, với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận
thức rõ những yếu tố tích cực trong tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử và cho đến ngày
nay, Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại thần quyền. Trong những tư tưởng của nó
có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật là tiến nói chống chế độ đẳng cấp
khắc nghiệt, tố cáo bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nói lên khát vọng
giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình
đẳng, bác ái cho mọi người, đó là những tiêu chuẩn đạo đưc cơ bản của đồi sống xã
hội. Những giá trị đạo đức của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn giáo lớn
nhất trên thế giới là Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo.
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta hiểu rõ thêm về nguồn gốc, những tư tưởng
triết học cơ bản về nhân sinh quan và thế giới quan của Phật giáo, hiểu thêm về những
giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học Phật giáo.
Mặc dù Phật giáo còn những hạn chế, tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận những
giá trị to lớn mà Phật giáo đã mang lại cho con người. Nó giúp con người hướng nội,
cân nhắc về các hành động để hướng thiện, không gây đau khổ cho người khác, sống
thân ái yêu thương nhau và gìn giữ hòa bình cho xã hội.
Xã hội đang phát triển hiện đại, đòi hỏi con người ngày càng hoàn thiện hơn. Cùng với
sự phát triển của xã hội, Phật giáo đã đang và sẽ luôn tồn tại và gắn liền với cuộc sống
người Việt Nam chúng ta. Việc khai thác các mặt tích cực của Phật giáo vận dụng vào
cuộc sống nhằm xây dựng nhân cách thế hệ trẻ Việt Nam hoàn thiện là mục tiêu cần
hướng tới và cần sự kết hợp của xã hội và tự giác của bản thân cá nhân mỗi người.
25

×