Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

DIỄN TRÌNH LỊCH sử văn hóa VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.75 KB, 19 trang )

DIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
Cơ tầng văn hóa Việt Nam – cái gốc hình thành nên văn hóa Việt Nam được định
hình từ xa xưa trong lịch sử, qua các giai đoạn: Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử,
Thời kỳ thiên niên kỷ đầu công nguyên, Đỉnh cao văn hóa Việt Nam – thời Đại Việt.
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có
mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I TCN. Đây là một giai đoạn dài và có
tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam.
Giai đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: tiền sử và sơ sử. Thời kỳ tiền sử từ buổi đầu
đến cuối thời đại đá mới và thời sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm. Diễn trình
văn hóa Việt Nam có thể chia thành các giai đoạn sau:
Thời kỳ
Tiền sử
Sơ sử
TNK đầu Đại Việt Pháp thuộc Hiện đại
CN
(độc lập
tự chủ)
Thời gian Cách
nay 800 – 700 Từ thế kỷ Từ thế kỷ Từ
1858 1945

mấy
chục năm TCN I – X
X – XIX đến 1945
nay
vạn năm cho đến thế
đến khoảng kỷ I đầu
thế kỷ 8 CN
TCN
Không
Khu


vực 3 nền văn -Bắc đèo Qúa trình - Bắc Bộ Không
gian
Đông Nam hóa trên Ngang trở mở rộng (Tonkin)
gian lãnh
Á
đất nước ra: Bắc cương
- Trung Bộ thổ Việt
VN:
thuộc.
vực
về (Annam)
Nam như
Đông
-Miền
phương
- Nam Bộ ngày nay
Sơn, Sa Trung:
Nam kéo (Cochichin)
Huỳnh,
Champa. dài đến
Đồng Nai -Phía
thế
kỷ
nam: Óc XVII –
Eo.
XVIII thì
kết thúc
Thành tựu
2.1 Văn hóa Việt Nam thời tiền sử
- Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hoá Núi Đọ (núi Đọ, Thiệu Hoá, Thanh

Hoá). Trên bề mặt Núi Đọ, các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè, có
bàn tay gia công của người nguyên thuỷ. Những công cụ này rất thô sơ, chứng tỏ tay
nghề ghè đẽo còn rất vụng về.
- Tiếp đến là văn hoá Sơn Vi (xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Thời
gian từ 20.000 – 15.000 năm TCN, con người hiện đại (Homo sapiens) đã cư trú trên một
địa bàn rất rộng lớn. Đến nay đã có khoảng 160 địa điểm thuộc văn hóa Sơn Vi đã được
phát hiện. Không gian của văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Những người nguyên thủy chủ
nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc. Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi
gò trung du ở trung
lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông
Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động. Công cụ lao động của người nguyên thủy trong
văn hoá Sơn Vi làm từ đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Họ sống bằng săn bắn và hái lượm,
chưa có trồng trọt và chăn nuôi.


- Giai đoạn tiền sử cách đây 10.000 năm đã có những thay đổi quan trọng, đánh
dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài người bước vào thời đại đá mới.
Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hoá Hoà Bình kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến
7.000 năm cách ngày nay. Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách
ngày nay 34.100 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Trên vùng đất xen
núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với
không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.
Các di vật chính của thời kỳ Văn hóa Hòa Bình chính (niên đại sớm 12.000 năm
cách ngày nay) tại tỉnh Hòa Bình và các tỉnh từ Quảng Bình đến Thái Nguyên là các dụng
cụ bằng đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi; các mảnh gốm không có hình thù
do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của cư dân Văn
hóa Hòa Bình cho đến nay đã tìm thấy; các dụng cụ đào bới có cán tra, các vòng trang
sức bằng vỏ ốc. Thời kỳ này các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy di cốt người ở vài địa
điểm.

Di chỉ muộn của Văn hóa Hòa Bình được tìm thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000
TCN, thuộc Lạng Sơn. Các dụng cụ bằng đá ở đây đã có một trình độ chế tác cao hơn
nhiều, lưỡi đá đã được mài sắc, khảo cổ học gọi là “rìu Bắc Sơn”. Đồ gốm đã có tiến bộ,
kỹ thuật được làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, rồi cuộn tròn từ đáy lên
miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng
đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi.
Văn hóa Bắc Sơn là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới
có niên đại sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một vạn đến tám ngàn năm.
Không gian của văn hóa Bắc Sơn là các miền đất thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, ... ngày nay. Người nguyên thủy trong nền
văn hóa Bắc Sơn trú trong hang động, mái đá gần sông, suối. Họ sống bằng săn bắn, hái
lượm. Họ cũng bắt đầu canh tác nông nghiệp ở mức độ rất sơ khai. Cộng cụ lao động của
họ làm bằng đá đẽo hoặc mài và từ tre, gỗ. Các công cụ này tỏ ra tinh vi hơn so với công
cụ của người nguyên thủy thời văn hóa Hòa Bình. Đặc biệt, người nguyên thủy thời văn
hóa Bắc Sơn đã biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hơn so với người thời văn hóa Hòa
Bình và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn.
Văn hóa Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) là một nền
văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng
4.000 năm đến 3.500 năm. Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hiện ở Phú Thọ,
Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng.
Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối trong văn hoá Phùng Nguyên. Đồ
trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá.
Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo
dáng cho đến hoa văn trang trí.
Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn
có văn hóa Cồn Chân Tiên, Hoa Lộc (lưu vực sông Mã), văn hóa của các bộ lạc người
nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã,
tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (Trung Trung bộ), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam
bộ).
Văn hoá Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay

khoảng 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên (thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc), trước văn hóa Gò Mun. Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du Bắc
Bộ với một nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa trên nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa
màu. Các đấu tích luyện kim như xỉ đồng, các mảnh khuôn đúc (bằng đá) cho thấy nghề đúc
đồng đã có và phát triển thời kỳ này.


Văn hóa Gò Mun (gò Mun, xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) ước
chừng trong khoảng thời gian từ năm 1.000 - năm 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng.
Văn hóa Gò Mun được nhìn nhận như là nền văn hóa tiền văn hóa Đông Sơn. Thời kỳ
này, người Việt cổ đã có những chuyển biến rõ rệt về một xã hội phúc tạp và giàu có,
thúc đẩy việc ra đời nhà nước sơ khai của người Việt. Người Gò Mun cũng thích ở trên
những gò đồi cao nổi lên giữa vùng đồng bằng và trung du; họ bắt đầu thích tập trung ở
những vùng chân gò, những vùng gò thấp ven các sông Hồng, Cầu, Đáy, Cà Lồ... Cuộc
sống định cư lâu dài của họ đã để lại những tầng văn hóa khá dày.
Đến giai đoạn Gò Mun, công cụ và vũ khí đồng thau đã chiếm tỷ lệ trên 50% tổng
số công cụ và vũ khí, với các loại mũi tên, mũi nhọn, lưỡi câu, dao, giáo, dây, kim, giũa,
dùi, đục. Người Gò Mun sống bằng nghề làm ruộng trồng lúa nước là chính, đồng thời họ
cũng là những người chăn nuôi, săn bắn, đánh cá. Đây là một cung cách làm ăn tiến bộ,
cũng là cách làm ăn của mọi dân cư ở những vùng trung tâm nông nghiệp của thế giới cổ
đại.
Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun: 3 giai đoạn lớn của thời đại đồng thau
trong đó cư dân nông nghiệp Việt cổ, người Phùng Nguyên, người Đồng Đậu, người Gò
Mun ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, bắc Trung Bộ, đã từng bước chế ngự thiên
nhiên, làm ruộng lúa, phát huy được tính ưu việt của nền kinh tế nông nghiệp, bước vào
chế độ dòng cha, làm chủ vùng tam giác châu sông Hồng, mở đường cho một giai đoạn
văn hoá rực rở, đỉnh cao thời đại dựng nước: giai đoạn Đông Sơn.
2.2. Văn hóa Việt Nam thời Sơ sử
Văn hóa Đông Sơn là một nền văn hóa cổ từng tồn tại ở một số tỉnh miền bắc Việt
Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam (Phú Thọ, Yên Bái, Hòa Bình, Hà Tây, Hà Nội, Thanh

Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh mà trung tâm là khu vực Đền Hùng), và ba con sông lớn và
chính của đồng bằng Bắc Bộ (sông Hồng, sông Mã và sông Lam) vào thời kỳ đồ đồng và
thời kỳ đồ sắt sớm. Nền văn hóa này được đặt tên theo địa phương nơi các dấu tích đầu
tiên của nó được phát hiện, gần sông Mã, Thanh Hóa. Nhiều dấu tích đặc trưng cho văn
hóa Đông Sơn cũng được tìm thấy ở một số vùng lân cận Việt Nam như ở Vân Nam,
Quảng Tây, Hải Nam của Trung Quốc, ở Lào hay ở Thái Lan...
Có những nghiên cứu cho rằng trên cơ sở văn hóa Đông Sơn nhà nước văn minh
đầu tiên của người Việt, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng và nối tiếp là nhà nước
Âu Lạc của An Dương Vương đã phát triển, trước khi bị ảnh hưởng của nền văn minh
Hán. Theo đánh giá của các nhà khoa học, thì nền Văn hóa Đông Sơn là sự phát triển liên
tục và kế thừa từ các thời kỳ tiền Đông Sơn trước đó là Văn hóa Phùng Nguyên đến Văn
hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun.
Văn hóa Đông Sơn có mối liên hệ mật thiết với các nền văn hóa phát triển cùng
thời ven biển Đông như văn hóa Sa Huỳnh (ở Trung Nam Bộ) và văn hóa Đồng Nai (ở
lưu vực sông Đồng Nai).
Văn hóa Đông Sơn là thời kỳ kế thừa của các nền Văn hóa Phùng Nguyên có niên
đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm, Văn hóa Đồng Đậu, Văn hóa Gò Mun và có các
điểm chính phải nhấn mạnh:
• Văn hóa lúa nước phát triển, thực phẩm dồi dào và có dự trữ dẫn đến sự phân cấp
xã hội người Việt cổ.
• Kỹ thuật đúc đồng mà đỉnh cao là các trống đồng Đông Sơn.
• Kỹ thuật về quân sự mà đỉnh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và nỏ).
• Sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị mà đỉnh cao là
sự thành lập nhà nước Văn Lang.
Văn hóa Đông Sơn, kể từ văn hóa Phùng Nguyên tính đến thời điểm này, vẫn có
thể coi là nền văn hóa đồ đồng có niên đại xưa nhất so với niên đại văn hóa đồ đồng ở các


nơi khác trong vùng Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Các sinh hoạt văn hóa của cư dân
Đông Sơn được mô tả khá phong phú trên các hoa văn rất sắc nét của trống đồng. Các

yếu tố thuộc về văn hóa ở Đông Sơn không hề có bóng dáng của yếu tố bên ngoài. Bởi vì
thời điểm văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ nhất và thông qua niên đại xác định bằng
C14, thì cách ngày nay trên 2.500 năm.
Nghệ thuật Đông Sơn cho ta thấy sự cảm nhận tinh tế của các cư dân thời đó qua
khả năng chạm khắc, tạo hình tinh tế và một đời sống ca múa nhạc phong phú. Hình
chạm khắc trên tống đồng Đông Sơn cho ta thấy những hình người thổi kèn, các vũ công
đầu đội mũ lông chim trĩ, chim công (một loài chim đặc sắc phương Nam nhiệt đới), nhà
sàn của cư dân vùng nhiệt đới Đông Nam Á, bộ sưu tập về các loài chim cổ mà ngày nay
nhiều trong các số loài đó đã tuyệt chủng.
Đồ dùng Đông Sơn gồm có các loại thạp, có nắp hay không nắp, với những đồ án
hoa văn trang trí phức tạp, những thổ hình lẵng hoa có chân đế và vành rộng, các loại gùi,
vò, ấm, lọ, chậu. Qua đó làm chứng cứ về một xã hội phức tạp trên cơ sở các đại gia đình,
các dòng họ trong cộng đồng làng xã đã định cư ổn định.
Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con
người. Con người cần sinh sôi, mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã
nảy sinh tín ngưỡng phồn thực. Ở Việt Nam, tín ngưỡng đó tồn tại lâu dài, dưới hai dạng biểu
hiện: thờ sinh thực khí nam và nữ và thờ cả hành vi giao phối.
Trong tín ngưỡng người Việt, việc sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ
cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt, mà ngày nay vẫn còn
như một thứ tín ngưỡng từ Bắc vào Nam.
Người Việt yêu cuộc sống đầm ấm làng xã, thích định cư dài lâu và có truyền
thống coi trọng mồ mả của tổ tiên, họ ít phiêu lưu, chinh chiến, yêu hòa bình, yêu ca hát,
lễ hội, nhảy múa (các sử cổ của Trung Quốc còn ghi lại rõ từ trước Công Nguyên).
Người Việt trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ
công là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành
hoàng là vị thần cai quản che chở cho cả làng.
Tập tục ăn trầu cũng là đặc trưng chính của người Việt cổ, được thể hiện qua câu
chuyện cổ về sự tích trầu cau mà tầm lan tỏa và tập tục ăn trầu lan đến hầu hết các cư dân
Nam đảo và Đông Nam Á. Uống trà của người Việt cổ có từ xa xưa, khi người Hán ở
Trung Nguyên Trung Quốc chưa biết đến trà được thể hiện qua mô tả của sử Trung Hoa.

Cuộc sống theo tín ngưỡng phồn thực và trọng thiên nhiên, sống hài hòa với thiên
nhiên và thuyết âm dương có lẽ bắt nguồn từ đây.
Ta cũng nhắc đến vài nét chính của nghệ thuật chôn cất người chết mà các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy hầu như rải rác trên toàn bộ Bắc Bộ kéo dài đến miền Trung Việt
Nam - Mộ thuyền là một cách chôn cất khá độc đáo của người Việt cổ thuộc văn hóa
Đông Sơn.
Vũ khí Đông Sơn rất phổ biến, đa dạng về loại hình, độc đáo về hình dáng và
phong phú về số lượng. Điều này gắn liền với các thần thoại và truyền thuyết về truyền
thống chống giặc ngoại xâm, giữ nước của dân tộc Việt, ví dụ như câu chuyện nỏ thần của
vua Thục Phán An Dương Vương bắn mỗi phát ra hàng loạt mũi tên đồng làm cho tướng
xâm lược Triệu Đà phải khiếp vía kinh hồn. Những cuộc khai quật ở thành Cổ Loa (huyện
Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) đã phát hiện ra kho chứa hàng vạn mũi tên đồng. Mũi tên
Cỗ Loa có các loại hình cánh én, hình lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có chuôi dài.
Ngoài ra còn có giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu chiến... Rìu chiến có đến gần 10 loại: các
loại rìu xéo (hình dao xéo, hình thuyền, hình hia, hình bàn chân) rìu lưỡi xoè cân, rìu hình
chữ nhật, rìu hình dao phạng. Dao găm có các loại lưỡi hình lá tre đốc củ hành, đốc bầu dục
hay có chuôi là một tượng hình người, có loại dao găm lưỡi hình tam giác, cán dẹt hay tròn.


Các tấm che ngực có hình vuông hay hình chữ nhật, có hoa văn trang trí đúc nổi. Ở Hà
Nam Ninh còn tìm thấy cả giáp che ngực và mũ chiến bằng đồng.
Một kỹ thuật đặc biệt cũng cần nhắc đến cho vũ khí Đông Sơn là vừa qua các nhà
khảo cổ học Việt Nam đã khám phá ra kho mũi tên đồng Cổ Loa có hàng vạn chiếc ở khu
vực thành Cổ Loa (Đông Anh Hà Nội). Mũi tên đồng của vương quốc Âu Lạc có cấu tạo độc
đáo ba cạnh. Xét về mặt xuyên thủng thì không phải là yếu tố chính. Nhưng xét về mặt giải
phẫu, thì với mũi tên ba cạnh (quả khế) thì vết thương do mũi tên này gây ra có thể nói rằng,
rất trầm trọng. Kẻ bị bắn trúng mũi tên này không dám rút mũi tên ra-việc này sẽ gây mất
máu và dẫn đến tử vong rất nhanh.
Có lẽ kết hợp với yếu tố sông nước và kỹ thuật vũ khí mà đội quân đông hàng
chục vạn của Tần Thùy Hoàng phải thất bại thảm hại trước một dân tộc phương Nam,

trong khi trước đó quân Tần chưa hề nếm mùi thất bại khi thống nhất lãnh thổ Trung
Hoa.
Nếu Trung Hoa có chiến xa trong chiến tranh thì người Việt Đông Sơn lại có
thuyền chiến lớn, chở được nhiều người, đủ các loại vũ khí, cơ động rất tài tình trên vùng
sông nước của các con sông lớn nhỏ thuộc đồng bằng Sông Hồng. Voi chiến của các cư
dân Đông Sơn cũng là nỗi khiếp nhược cho những kẻ xâm lăng.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù phú có
xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp.
Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn phát triển của dân cư Việt cổ,
giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư
tại vùng đồng bằng. Việc định cư tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh
vực xã hội, kinh tế trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay
bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa nước, mức
độ dân cư cũng đông đúc hơn.
Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở trung tâm đồng bằng sông Hồng cũng
thể hiện sự phát triển về chiều rộng của Văn hóa Đông Sơn.
Để phục vụ cho trồng trọt, cư dân Đông Sơn bấy giờ đã đẩy mạnh chăn nuôi trâu,
bò để lấy sức kéo và phân bón. Nhiều di vật văn hóa Đông Sơn có xương trâu, bò. Các gia
súc, gia cầm cũng được cư dân Đông Sơn chăn nuôi rộng rãi [ dẫn nguồn], như lợn, gà, chó v.v...
Nghề thủ công đạt được bước tiến rất quan trọng từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra
nghề luyện kim, đúc đồng, tiến lên nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việc phát hiện
được những khuôn đúc đồng và xỉ đồng đã khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng
Vương sáng tạo ra.
Với kỹ thuật luyện đồng, cư dân Đông Sơn bấy giờ đã tạo nên bước ngoặt, loại trừ
hẳn đồ đá. Trong một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Đường Mây, Gò Chiền
Vậy, Đồng Mõm, Vinh Quang tìm thấy các di vật bằng sắt.
Nghề làm đồ gốm của các cư dân Đông Sơn cũng phát triển lên một bước. Nghệ
thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến. Người thợ gốm bấy giờ còn biết dùng
phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn và nung trong lò kín chuyên dụng. Chất lượng
gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Trình độ tạo hình cũng

ngày càng cao hơn. Các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn,
song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng.
Sự phát triển của nền kinh tế trên nhiều mặt là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng
hóa với nước ngoài. Hiện tượng một số trống đồng loại I Hêgơ của nước Văn Lang ở
Thái Lan, Malaixia, Indonesia... cũng như sự có mặt của những lưỡi qua đồng Chiến
quốc ở nhiều di tích văn hóa Đông Sơn đã chứng tỏ có sự buôn bán giữa người Việt cổ
đương thời với các quốc gia quanh vùng. Một số đồ trang sức và trâu, bò cũng đã trở
thành hàng hóa trong việc buôn bán giữa Văn Lang-Âu Lạc với các nước lân bang.


Về tổ chức xã hội, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phân công lao động xã
hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các
địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tăng thêm nguồn của cải xã hội. Sản phẩm thặng dư xuất hiện ngày càng nhiều hơn, đã tạo
nên cơ sở cho sự phân hóa xã hội. Những của cải chung của xã hội (do lao động công ích,
do thu nhập từ ruộng đất công cộng của chiềng, chạ) dần dần bị một số người tìm cách
chiếm đoạt biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo
sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biến xã hội quan trọng là
xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo. Từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hóa
xã hội đã xuất hiện, nhưng chưa đáng kể. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hoà Vĩnh
Phúc có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 24 hiện
vật, phổ biến là số mộ còn lại đều có từ 3 đến 13 hiện vật. Đồ tuỳ táng giống nhau gồm
gốm công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm. Như vậy là, ở giai đoạn đầu thời Hùng Vương quan
hệ cộng đồng nguyên thuỷ mới bước vào quá trình tan rã.
Từ sự phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã
hội bấy giờ đã có hiện tượng phân hóa thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau. Sự phân
hóa đó đã diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét trải qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên
đến Đông Sơn. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội bấy giờ thành hai cực chưa sâu sắc. Sự
phân hóa tài sản là biểu hiện của sự phân hóa xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra
đời của nô lệ gia trưởng, dẫn tới sự hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau: Quý tộc

(gồm có các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu
có khác); Nô tì; Tầng lớp dân tự do của công xã nông thôn là tầng lớp đông đảo nhất
trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu; Tầng lớp trên của xã hội ngày
càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý công việc công cộng của chiềng, chạ...
Như vậy, những tiền đề đầu tiên cho sự hình thành quốc gia và nhà nước Văn
Lang thời Hùng Vương vào giai đoạn đầu Đông Sơn đã xuất hiện và phát triển qua 18 đời
và sau này chuyển tiếp cho vương quốc Âu Lạc của An Dương Vương vào giai đoạn cuối
Đông Sơn.
Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm 1000
TCN đến cuối thế kỷ thứ 2. Nền văn hóa Sa Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn
minh trên lãnh thổ Việt Nam, cùng với: Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Đồng Nai tạo thành
tam giác văn hóa của Việt Nam.
Văn hóa Sa Huỳnh được nhà khảo cổ người Pháp M. Vinet phát hiện lần đầu tiên
vào năm 1909 khi ông tìm thấy bên đầm An Khê, một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh Đức
Phổ Quảng Ngãi một số lượng lớn quan tài bằng chum (khoảng 200 chiếc). Người ta gọi
Di tích khảo cổ đó là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépot à Jarres Sa Huỳnh). Các cuộc khai
quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích gò Ma Vương hay còn gọi là Long Thạnh Đức
Phổ nơi được xem là có niên đại sớm nhất của nền văn hóa Sa Hùynh, đã đem lại những
đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển văn hóa
Sa Huỳnh. Nền văn hóa Sa Huỳnh đã được các nhà khảo cổ trên thế giới nghiên cứu từ
đó đến nay và ngày càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống của các tộc người thời tiền sơ sử
ở miền Trung Việt Nam. Xuất hiện cách nay khoảng 3.000 năm và kết thúc vào thế kỷ
thứ 1, văn hóa Sa Huỳnh có lẽ đã tồn tại hơn 5.000 năm kéo dài từ thời hậu kỳ đồ đá mới
đến đầu thời đại đồ sắt trên địa bàn các tỉnh từ Quảng Bình đến các tỉnh nam Trung bộ và
Tây Nguyên. Với một sức sáng tạo mạnh mẽ và phong phú, văn hóa Sa Huỳnh càng ngày
càng thấy có sự ảnh hưởng và giao lưu với nhiều vùng Đông Nam Á và Trung Hoa cổ
xưa và Ấn Độ cổ xưa khi gần đây, Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức hợp tác với các nhà
khảo cổ học khoa Lịch sử của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội, tiến hành khảo cứu trong các năm 2004-2005 tại một số vùng thuộc tỉnh



Quảng Ngãi. Bước đầu đã xác định được diện mạo một nền văn hóa đặc sắc ở miền
Trung, Việt Nam.
Dân cư cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã định cư chủ yếu dọc hai bên vùng đất thấp
thuộc các con sông dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, trải dài từ Quảng Bình cho đến Phú
Yên. Họ thuộc một nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á. Những dụng cụ bằng sắt
như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng... đã được tìm thấy ở đây. Đồ gốm lớn với hoa văn
đẹp, cùng với kỹ thuật dùng bàn xoay đã làm lạc hướng các nhà khảo cổ về nguồn gốc của
Vương quốc Chămpa, những đò gốm dùng để đựng các vật dụng và sản phẩm nông nghiệp,
đánh cá và cả mai táng người chết.
Phần đất miền Trung bao gồm xứ Quảng là nơi tụ hội và giao tiếp văn hoá Tây
Đông, giữa miền núi và miền biển và đồng bằng xứ Quảng đã từng là nơi hội tụ văn hoá,
kết tinh văn minh, dựng lên nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Lúa hai mùa, tằm
tám lứa, tơ mỗi năm được sử sách chép đến sớm nhất là đồng bằng xứ Quảng, trung tâm
của nền văn hoá Sa Huỳnh. Sách sử có nói đến người Chàm trồng hai vụ lúa và để thích
ứng với thời tiết, người Chàm đã tìm ra giống lúa chịu hạn gieo trồng vào đầu mùa khô, để
đầu mùa mưa thì lúa chín. Sử sách gọi là mùa Chiêm. Cũng do hoàn cảnh thiên nhiên khắc
nghiệt khô hạn nên cư dân cổ Sa Huỳnh và Chàm đã đào cả một hệ thống giếng lấy nước
tưới cho cây trồng nên giới nghiên cứu ghi nhận một nền văn hoá gọi là “văn hoá Giếng
Chàm cổ”.
Trước năm 1975, các nhà khảo cổ trên thế giới mới chỉ biết đến văn hóa Sa
Huỳnh qua hoạt động của cư dân đi biển. Họ chỉ lên đất liền đặt mai táng người chết
trong những mộ chum. Những mộ chum được tìm thấy ở Palavan (Philippines),
Bondontaphet (Thái Lan), Sa Huỳnh (Việt Nam). Sau năm 1975 các nhà khảo cổ Việt
Nam đã bỏ nhiều công sức tim hiểu, nghiên cứu nền văn hóa này và bước đầu đã có
những đóng góp quan trọng giúp chúng ta có cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về nền
văn hóa Sa Huỳnh. Đặc biệt trong những năm gần đây, tại Hội An, các nhà nghiên cứu
khảo cổ đã phát hiện nhiều di chỉ cư trú của người Sa Huỳnh với nhiều hiện vật phong
phú và đa dạng.
Các phát hiện cho thấy người Sa Huỳnh cổ là những cư dân nông nghiệp, và đi

biển chỉ là một trong những sinh hoạt của họ. Các đồng tiền Ngũ Thủ và Vương Mãng
(đầu thế kỷ thứ 1 TCN), các gương đồng của nhà Tây Hán, đỉnh đồng nhà Đông Hán có
trong các mộ chum chứng tỏ họ đã có một nền sản xuất hàng hóa cùng với sự giao thư ơng khá phát triển. Người Chàm đã biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê, dầu
rái, ngọc, vàng trên núi, hồ tiêu trên đồi, biết làm ruộng hai mùa ở đồng bằng hẹp Minh
Kinh và Ô Chân. Họ đã trồng cau, dừa và trồng dâu nuôi tằm “một năm tám lứa” từ trước
sau kỷ nguyên Dương lịch. Họ biết làm thuyền to gọi là nốôc (bàu) và thuyền nhỏ (tròong
ghe). Hai cảng Cửa Việt, Cửa Tùng đã từng là hải cảng quốc tế từ lâu trước khi Lâm Ấp
thành lập nhưng phồn thịnh nhất là thời quốc vương Chămpa cùng thời với triều Đường
(Trung Quốc). Người Chàm biết đánh cá biển và buôn bán đường biển trên vùng Đông
Nam Á, từ ven biển Trung quốc xuống tới Ấn Độ Dương.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy, ở những khu mộ táng của văn hóa Sa Huỳnh, các bộ
hạt chuỗi giá trị ở Lai Nghi. Trong khi rây bằng sàng phát hiện được hơn 8.600 hạt cườm
bằng thủy tinh màu xanh, vàng hoặc nâu có đường kính 1-3 mm. Ngoài bộ hạt chuỗi gồm
khoảng 1.500 hạt bằng đá mã não, achat, crystal, amethyst, nephrite và bằng vàng - còn có
4 khuyên tai bằng vàng. Người văn hóa Sa Huỳnh ở Lai Nghi nhiều nhất thích sự dụng loại
đá ngọc mã não làm đồ trang sức. Hơn 15 hình dạng hạt chuỗi khác nhau đươc chế tác - có
lẽ bằng đá mã não đến từ khu vực Myanma hoặc Ấn Độ. Trong tổng số 1.136 hạt chuỗi
bằng đá mã não tìm thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt: chiếc thứ nhất có hình con
chim nước, chiếc thứ hai có hình con hổ hoặc sư tử và chiếc thứ ba là hạt chuỗi khắc. Cả 3


hạt chuỗi này được phát hiện trong 3 mộ chum khác nhau cùng với nhiều đồ tùy táng quý
khác có niên đại vào thế kỷ 1-2 TCN. Những di vật hiếm thấy khác ở miền Trung Việt
Nam được kể đến là hai cái gương bằng đồng của thời kỳ Tây Hán.
Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ của văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân
dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng
thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là “Lưu li” gốc từ chữ Phạn là verulia từ đầu công
nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng
không những đa dạng về kiểu dáng mà còn phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen,
xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa đã từng ghi chép về một chén thủy tinh

xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Nổi bật trong những vật trang sức của người Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành
cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới. Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh
tế và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh và
cường tráng của nam giới. Những vật trang sức chế tác từ đá, mã não và thủy tinh có thể
nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra và được phổ biến
khắp vùng Đông Nam Á. Người ta đã tìm thấy khuyên tai ba mấu và khuyên tai hai đầu
thú ở Thái Lan, Malaysia, Philippines và Đài Loan.
Người Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời. Các đồ gốm gia dụng
đều đợc tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn
tinh tế và giàu xúc cảm.
Trong gốm Sa Huỳnh, các đồ đựng như bát, bình có chân đế, có thân gãy ở vai
hay đáy, chiếm tỷ lệ lớn. Mẫu gốm thường gặp là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có
hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò. Trong
các di chỉ mộ táng, phổ biến là mộ chum, trong chum chứa nhiều đồ trang sức bằng đồng,
đá quý, thủy tinh, đặc biệt là loại khuyên tai ba mấu nhọn và khuyên tai hai đầu thú. Các
đặc trưng đó của văn hóa Sa Huỳnh cũng đã tìm được ở các di chỉ trong lưu vực sông
Đồng Nai. Có nơi còn có những đặc trưng xưa hơn, mà khảo cổ học gọi là văn hóa thời
tiền Sa Huỳnh.
Điều đó đã xác nhận cách đây gần 3 ngàn năm, trên lưu vực sông Đồng Nai mà
lãnh thổ Lâm Đồng là thượng nguồn, đã có những bộ lạc sinh sống với một nền văn hóa
đồng - sắt đã phát triển và có đặc trưng riêng. Có thể nói, các bộ lạc này là tiền thân của
các dân tộc bản địa. Sách Lịch sử Việt Nam (Phan Huy Lê chủ biên) cho biết, bấy giờ trên
địa bàn của văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống. Bộ lạc Cau (chữ Phạn là Kramuka
vam'sa) cư trú vùng Phú Yên, Khánh Hòa- Ninh Thuận - Bình Thuận trở vào, và bộ lạc
Dừa (chữ Phạn là Narikela vam'sa) ở vùng Bình Định, Quảng Nam ngày nay. Bộ lạc Dừa
từ thế kỷ đầu trước công nguyên bị nhà Hán đô hộ (cùng thời kỳ với nước Âu Lạc) và đặt
tên là huyện Tượng Lâm. Năm 190- 193, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người
Hán, lập nên nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa). Bộ lạc Cau, khoảng
đầu công nguyên, đã hình thành một tiểu vương quốc riêng có tên là Panduranga (tên

Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng Chăm cổ), về sau gọi là Chăm Pa, có địa bàn từ Nha Trang Phan Rang, Phan Thiết ngày nay. Từ sự ra đời nói trên của dân tộc Chăm và nhà nước
của họ, cho thấy ở nam Trung bộ, Việt Nam thời ấy, đã có hai cộng đồng lớn: cộng đồng
người Chăm với ngôn ngữ thuộ nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia cư trú vùng ven biển và
cộng đồng với ngữ hệ Môn - Khơme (Mạ, Cơ Ho, M'Nông), cư trú vùng núi và Tây
Nguyên.
Người Sa Huỳnh cổ theo tính ngưỡng thờ mẫu (mẹ, bà) và còn tồn tại cho đến
ngày nay ở các dân tộc Chăm, các cư dân bản địa Tây Nguyên. Tuy theo đạo Hồi nhưng
đã biến cải thành đạo Bani mang bản sắc văn hoá truyền thống Chămpa thờ thần linh và
ông bà tiên tổ. Đồng bào Chàm ăn tết vào đầu năm nhằm ngày 19 tháng 4 Dương lịch và


2 lễ hội lớn hàng năm là lễ hội Katê tháng 7 lịch Chăm Pa để nhớ ơn trời đất, tổ tiên phù
hộ độ trì cho con cháu và tưởng nhớ các vị vua tài đức của họ. Lễ hội Chabur âm tính vào
tháng 9 để dâng cúng các nữ Thần như nữ thần Pô Inư Nagar còn gọi là Thiên Thiên Y A
Na là bà chúa xứ của đồng bào Chàm. Đặc biệt là sự đối lập giữa Nam Thần qua lễ hội
Katê và Nữ thần với lễ hội Chabur cùng những ý niệm trời đất, cha mẹ, đực cái… thể
hiện triết thuyết âm dương dịch biến luận của người Việt cổ còn lưu giữ mãi tới ngày nay.
Đồng bào Chàm còn lưu lại một nền văn hoá cổ với những vần thơ dân gian, những bia
ký sử thi văn học, những giai thoại truyền kỳ lịch sử cùng với nghệ thuật điêu khắc, tạc
tượng tinh vi, sống động của truyền thống của người Môn-Việt thời cổ đại.
2.3. Văn hóa Việt Nam thời kỳ thiên niên kỷ đầu Công nguyên
2.3.1 Văn hóa của cộng đồng cư dân ở châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
- sẽ học ở phần “Chương 2: Các vùng văn hóa Việt Nam
2.3.2 Văn hóa Champa
Trong quá trình phát triển vương quốc Chămpa được ghi chép trong các biên niên
sử với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, từ thế kỷ IX là Chămpa (hay Chiêm Thành).
Vương quốc Chămpa có nhiều thành phần tộc người, xuất hiện từ đầu công nguyên. Lịch
sử vương quốc Chămpa qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt,
Khmer, Java… phản ánh những nét khái quát như sau. Thư tịch cổ của Trung Quốc đã
ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực nam vùng đất

mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu
Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu
cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ
Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua). Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới
thành lập này có tên Lâm Ấp, “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm
trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc” như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử
(khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như
Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Tư Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra
tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ.
Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước thì
vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương
quốc bao gồm một liên minh/ liên lập của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và
tương đồng về văn hóa tộc người. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để
diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở
Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần
linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác – mà trên lý thuyết là những chư
hầu của họ. Như đã nói ở trên, địa bàn vương quốc Chămpa ở miền Trung, khu vực địa
hình hẹp chiều ngang tây – đông mà kéo dài theo chiều bắc – nam, lại bị chia cắt bởi các
đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng
sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng tây – đông. Những dòng
sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực. Vùng
hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp,
cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu
vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp
thành vương quốc Chămpa.
Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần
Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư
dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện
nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ
theo Ấn Độ giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc.



Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị
nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả.
Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của
muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh
thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng
Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn
giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà
nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền,
các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Siva.
Người Chăm cổ có nền kinh tế đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng
lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư
nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ
trang sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng
đường biển và đường sông. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô
hạn, người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước
chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… Sự phong phú và đa dạng của những di
tích di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền
kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Vương quốc Chămpa nổi tiếng
trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa,
buôn bán, trao đổi giao lưu với những quần đảo ở biển Đông và xa hơn, đến Trung Quốc
và Ấn Độ do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn
minh lớn của thế giới. Truyền thống văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài
văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước) còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của
những tộc người cư trú ven biển và trong các quần đảo trong biển Đông, trong đó có
người Chăm.
Trên cơ sở nền tảng là văn hóa Sa Huỳnh, vương quốc Chămpa những thế kỷ đầu
khi mới giành được độc lập cũng chịu khá nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa mà
chứng tích để lại là những đồng tiền Ngũ Thù thời Tây Hán (từ 206 trước công nguyên đến

năm 25 sau công nguyên), tiền Vương Mãng triều Tân từ năm 8 - 25 sau công nguyên, sưu
tập gương đồng tìm thấy ở khu vực miền Trung có niên đại thế kỷ I – III, nhiều tượng Phật,
mảnh gốm men ngọc, men màu, vũ khí sắt… trong một khung niên đại khá dài. Tư liệu lịch
sử còn ghi chép việc các vua Chămpa “xây cung điện theo kiểu Trung Quốc, có những
buồng những cột, cách đào hào đắp lũy để bao bọc lấy thành thị, cách đóng xe dùng trong
trận mạc và nhiều loại vũ khí, dạy cho thợ làm nhạc khí…”. Những đầu ngói ống trang trí
mặt hề, động vật tìm thấy tại những di tích thành cổ Chămpa được coi là có nguồn gốc từ
văn hóa Hán.
Sử liệu chữ viết về vương quốc Chămpa có niên đại sớm nhất là tấm bia Võ Cạnh
(Nha Trang) được xác định niên đại thế kỷ III. Nhưng những chứng tích phong phú và đa
dạng, phản ánh khá toàn diện về vương quốc Chămpa thì thể hiện tập trung tại các khu di
tích đền tháp Chămpa.
Khu vực Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: hiện biết khoảng 30 di tích
văn hóa Chămpa, tập trung thành từng nhóm ở bờ nam sông Gianh tiêu biểu là thành Cao
Lao Hạ, những minh văn trong hang động Phong Nha ở Quảng Bình. Nhóm ven sông
Thạch Hãn của đồng bằng Quảng Trị có Cổ thành, tháp Hà Trung. Nhóm ở đồng bằng
Thừa Thiên Huế: thành Lồi, tháp Liễu Cốc, tháp Vân Trạch Hòa, tháp Mỹ Khánh…
Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi: đây được xem là vùng trung tâm của vương
quốc Chămpa. Tại đây tập trung những di tích quan trọng và lớn nhất, với nhiều loại hình
di tích nhất. Đó là khu di tích Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam), ở đây còn dấu tích của thành cổ, nơi cư trú… được các nhà nghiên cứu cho rằng


đây là kinh thành Sư Tử Sinhapura. Xung quanh Trà Kiệu gần đây đã phát hiện và khai
quật nhiều di chỉ cư trú hay phế tích kiến trúc như Gò Cấm, Chùa Vua, Triền Trang,
Chiêm Sơn Đông, Chiêm Sơn Tây. Thánh địa Mỹ Sơn – trung tâm tôn giáo lớn nhất của
người Chăm – là một khu đền tháp tập trung trong một thung lũng, cách Trà Kiệu khoảng
20km về phía Tây. Hiện nay khu di tích này còn khoảng 70 đền tháp khá nguyên vẹn và
rất nhiều đền tháp bị hư hỏng do thời gian và chiến tranh. Trung tâm Phật giáo Đồng
Dương và là kinh thành Indrapura của vương quốc Chămpa trong thế kỷ IX – X. Tại đây

còn dấu tích tường thành, đền tháp, di tích cư trú, nhiều tượng Phật giáo bằng đồng nổi
tiếng đã được phát hiện tại đây.
Ngoài các trung tâm trên, khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi còn có các di tích:
Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An (Quảng Nam), thành Châu Sa, di tích Chánh Lộ, Khánh
Vân, An Tập, Cổ Lũy… phần lớn còn lại là phế tích (Quảng Ngãi).
Chứng tích phổ biến và tiêu biểu nhất của vương quốc Chămpa là những kiến trúc
đền tháp có mặt ở tất cả các khu vực và trong mọi giai đoạn lịch sử. Trải qua hàng chục
thế kỷ nhiều nhóm đền tháp đã trở nên hoang phế, không còn đầy đủ các công trình tạo
lập thành một tổng thể như khi mới khởi dựng, mà hầu như chỉ còn lại một công trình
đứng đơn lẻ, nhất là các di tích ven biển miền Trung. Thật ra các nhóm đền tháp Chămpa
bao giờ cũng có một nhóm, một tổng thể hoàn chỉnh phản ánh vũ trụ quan Ấn Độ. Theo
đó vũ trụ có hình vuông, chung quanh có núi và đại dương bao bọc, chính giữa là một
trục xuyên đến mặt trời. Đền thờ Ấn Độ giáo thể hiện rõ vũ trụ quan này với khuôn viên
được quy định vuông vắn, tường bao quanh xây cao, vuông góc với nhau tượng trưng là
núi. (Tuy nhiên do địa hình nên nhiều khi không hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc này). Các
công trình trong tổng thể được bố cục theo một đường trục chạy giữa, hướng chính là
hướng đông – hướng của thần thánh, của sự sinh sôi nảy nở. Cũng do hạn chế về địa hình
nên có nhóm tháp quay về hướng khác như nhóm Pô Dam quay về phía tây nam, các
nhóm A, G, E, F ở Mỹ Sơn quay về phía tây – còn được coi là quay về phía ngôi đền đá
B1, trung tâm của thánh địa.
Di vật trong văn hóa Chămpa vô cùng phong phú và đa dạng về chất liệu và loại
hình. Từ những tác phẩm điêu khắc trên đá sa thạch, trên gạch, gốm, những bức tượng
đồng đến những đồ thờ cúng và trang sức bằng vàng bạc… Tuy nhiên, gắn liền một cách
hữu cơ với kiến trúc đền tháp là những tác phẩm điêu khắc trên đá, trên gạch xây dựng,
thể hiện dưới hai loại hình: 1- các tác phẩm điêu khắc độc lập dùng để trang trí hay thờ
cúng; và 2- các tác phẩm điêu khắc mang chức năng liên kết tham gia vào công trình kiến
trúc tháp (tấm lá nhĩ, trụ cửa, mi cửa). Kiến trúc đền tháp quy định nội dung và hình thức
thể hiện của điêu khắc, ngược lại, điêu khắc góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa của việc xây
dựng các công trình đền tháp. Điêu khắc Chămpa phổ biến trên chất liệu đá Silic màu
xám, độ cứng cao, bề mặt thô và đá Granit màu xám xanh, thớ mịn. Kích thước hiện vật

thường lớn. Phần lớn di vật điêu khắc Chămpa là dạng phù điêu nổi cao gần như tượng
tròn, dù thể hiện nội dung, hình tượng nào thì vẫn mang tính hiện thực sâu sắc, nghệ thuật
tả chân dung sinh động, tượng người và động vật đạt trình độ cao về giải phẫu sinh học,
đề cao đặc điểm nhân chủng trong tượng người và các vị thần được nhân hóa. Điêu khắc
Chămpa còn phản ánh hiện thực xã hội từ cuộc sống sinh hoạt đời thường đến những
nghi lễ tôn giáo của vương quốc Chămpa.
Xác định niên đại và phong cách nghệ thuật cho di tích kiến trúc và tác phẩm điêu
khắc Chămpa là một vấn đề cho đến nay chưa có sự nhất trí hoàn toàn giữa các nhà
Chămpa học. Những nhà nghiên cứu phải dựa vào sự phát triển nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc Chămpa, đồng thời phải so sánh đối chiếu với các nền nghệ thuật có liên quan
như Ấn Độ, Môn, Khmer, Đại Việt, Java… để có thể định niên đại và phân chia giai đoạn
cho kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc Chămpa từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV. Vì vậy cho


đến nay có nhiều cách phân chia những giai đoạn và phong cách của nghệ thuật Chămpa,
những cách này có khác nhau đôi chút về tên gọi và niên đại. Theo nhà nghiên cứu Trần
Kỳ Phương, dựa vào kết quả nghiên cứu của P. Stern, theo nghệ thuật trang trí, bình đồ
kiến trúc cùng với sự phân tích kỹ thuật xây dựng của từng giai đoạn kiến trúc, đồng thời
so sánh với những biến cố lịch sử có liên quan đến sự hưng vong của các vương triều
Chămpa, dựa trên những minh văn liên quan đến từng di tích, quá trình chuyển hóa của
nghệ thuật Chămpa, có thể sắp xếp phế tích đền tháp Chămpa theo những giai đoạn và
phong cách một cách chi tiết như sau.
- Phong cách Trà Kiệu sớm – cuối thế kỷ VII. Đây là giai đoạn và phong cách cổ
nhất của nghệ thuật Chămpa. Hiện vật hầu hết tìm thấy từ Quảng Bình đến Quảng Nam,
tiêu biểu là đài thờ Trà Kiệu niên đại cuối thế kỷ VII, hiện đang trưng bày ở Bảo tàng
điêu khắc Chămpa (Đà Nẵng). Phong cách này chịu nhiều ảnh hưởng của miền
Amavarati (Nam Ấn Độ).
- Phong cách An Mỹ – đầu thế kỷ VIII. Tiêu biểu là sưu tập các bức tượng bán
thân các vị thần Ấn giáo phát hiện ở An Mỹ (Tam Kỳ, Quảng Nam). Bên cạnh sự ảnh
hưởng của nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Môn (miền trung Thái Lan) phong cách này

mang yếu tố bản địa Chămpa rõ hơn.
- Phong cách Mỹ Sơn E1 – thế kỷ VIII - IX. Hiện vật của phong cách này tìm
thấy ở nhiều nơi nhưng tập trung trong khu Mỹ Sơn. Tác phẩm tiêu biểu là đài thờ và mi
cửa kalan E1 và pho tượng Ganesa đứng ở E5 Mỹ Sơn. Giai đoạn này ảnh hưởng Ấn Độ
mờ dần, mối liên hệ với khu vực láng giềng như Môn, Khmer được tăng cường, tính chất
bản địa ngày càng khẳng định.
- Phong cách Đồng Dương – nửa cuối thế kỷ IX – đầu TK X: Phần lớn hiện vật
thuộc phong cách này tìm thấy ở Đồng Dương (Thăng Bình, Quảng Nam) và ở khu Mỹ
Sơn, trong đó có tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương có niên đại năm 875 nói về việc xây
dựng một Phật điện lớn. Phong cách này đạt đến đỉnh cao của những yếu tố bản địa, nhất
là trong việc bộc lộ nội tâm con người.
- Phong cách Khương Mỹ – thế kỷ X. Phong cách này kế thừa phong cách bản địa
trước đó và có thêm ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Các tác phẩm diễn tả chân thực,
mộc mạc, mang vẻ đẹp hiện thực.
- Phong cách Trà Kiệu muộn – cuối thế kỷ X. Phong cách này thể hiện sự hiền hòa,
duyên dáng, tiêu biểu là các vũ nữ Trà Kiệu trên các bệ thờ tại đây. Đây là giai đoạn đạt đỉnh
cao của nghệ thuật Chămpa cùng với giai đoạn Đồng Dương, nhưng phong cách Trà Kiệu
muộn còn có sự tiếp thu yếu tố của nghệ thuật Java và Khmer.
- Phong cách Chánh Lộ – thế kỷ XI. Đây là khu phế tích kiến trúc, các hiện vật
tìm thấy ở đây mang những đặc điểm bảo lưu và kế thừa của phong cách Trà Kiệu muộn.
Trong giai đoạn này có các nhóm tháp Chiên Đàn (Quảng Nam), Pô Nagar (Nha Trang),
Bánh Ít, Tháp Bạc, Bình Lâm (Bình Định),Tháp Nhạn (Phú Yên), một số tháp trong khu
Mỹ Sơn.
- Phong cách Tháp Mẫm – thế kỷ XII đến XIII. Chủ yếu thể hiện trên các nhóm
tháp và tác phẩm tìm thấy từ Quảng Ngãi đến Bình Định. Nổi bật là tính hoành tráng và
những đặc trưng thống nhất dễ nhận biết bở các tác phẩm. Tấm bia ở nhóm G khu Mỹ
Sơn có niên đại năm 1157 xác định niên đại cho phong cách này. Ngoài ra có thể nhận
thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Bayon, Angkor Vat, và nghệ thuật Đại Việt thời Lý trong
phong cách này.
- Phong cách Pô Klaung Garai – cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI. Đây là

phong cách cuối cùng của nghệ thuật Chămpa, thể hiện ở vùng Ninh Thuận – Bình Thuận
và Tây Nguyên. Sau giai đoạn này nghệ thuật Chămpa dần dần mai một.


Những năm gần đây loại hình di tích thành cổ Chămpa đã được phát hiện và khai
quật ở nhiều tỉnh miền Trung nước ta. Người Chăm đã xây đắp nhiều tòa thành cổ có
chức năng quân sự và làm trung tâm chính trị của từng tiểu vương quốc cũng như của cả
vương quốc Chămpa. Các tòa thành cổ được ghi chép trong sử liệu cũng như được phát
hiện trên thực địa đều có một số đặc điểm chung:
- Thành thường được xây dựng ở vị trí trọng yếu của các đồng bằng lớn ven biển
miền trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… ven các
con sông lớn Thu Bồn, Trà Khúc, Sông Côn, Đà Rằng…
- Quy mô các thành khá lớn, quy chỉnh hình vuông hay chữ nhật, có hệ thống hào
nước bao quanh tạo thành căn cứ vững chắc.
- Kỹ thuật xây thành tương đối giống nhau, đắp đất và xây gạch bên ngoài.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử những tòa thành ấy đã mất dần vai trò quan trọng
của chúng. Do chiến tranh hay thiên nhiên phá hủy rồi dần bị lãng quên, hay được thời
sau sử dụng lại nên ở nhiều di tích thành cổ yếu tố văn hóa Chămpa không còn nhiều mà
thường bị phủ một lớp văn hóa muộn hơn.
2.3.3 Văn hóa Óc Eo
Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đề nghị đặt cho
một địa điểm nằm ở phía nam tỉnh An Giang thuộc đồng bằng sông Cửu Long (huyện
Thoại Sơn). Nơi này có thể đã từng tồn tại một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù
Nam từ thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 7.
Theo L.Malleret, nền văn hóa này có phạm vi phân bố chủ yếu ở vùng trũng miền
Tây sông Hậu gồm điạ bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc
Liêu… và một phần đất Đông Nam Campuchia. Các di tích cuả nền văn hóa này có quy mô
khá lớn, trong đó có hai thị trấn Trăm Phố và Oc Eo. Riêng Óc Eo có diện tích rộng tới 450
ha, là một đô thị mang đặc điểm cuả một thành phố ven biển với tiền cảng Tà Keo (Cạnh
Đền) cách đấy 15km. Xã hội Óc Eo là một xã hội phát triển nhiều ngành nghề thủ công như

nghề gốm, nghề luyện đồng, luyện sắt, luyện thiếc, nghề kim hoàn. Đặc biệt nông nghiệp
và thương nghiệp lúc này đã khá phát triển với một loạt chứng cứ như những công trình
thuỷ lợi cổ, kênh rạch vừa tưới tiêu vừa là đường giao thông, sản phẩm thủ công thể hiện
sự chuyên hoá, những đồng tiền bằng vàng, bạc, thiếc còn nguyên hay cắt làm tư làm tám,
các loại trang sức, con dấu bằng đá quý, thuỷ tinh, nhiều sản phẩm có nguồn gốc ngoại
nhập. Nền văn hoá này còn để lại nhiều kiến trúc khác nhau như vết tích nhà sàn, những
kiến trúc đồ sộ bằng gạch đá lẫn lộn thể hiện trình độ cao trong kỹ thuật xây dựng. Nghệ
thuật tạc tượng điêu luyện gồm hai nhóm tượng Ấn Độ giáo và Phật giáo. Ngoài ra còn tìm
thấy chữ viết trên các con dấu, mặt nhẫn, bia đá… đó là dạng chữ Phạn (Brami ) thế kỷ V
thời kỳ Gúpta của Ấn Độ cổ đại. L.Malleret cho rằng nền văn hóa này là sản phẩm của một
nhà nước cổ đại tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VI ở Đông Nam Á, từng được sử Trung
Quốc ghi chép nhiều lần, đó là Vương quốc Phù Nam. Tính chất cảng thị thể hiện qua vị trí
địa lý của thành thị Óc Eo và các di vật có nguồn gốc từ Ấn Độ, Điạ Trung Hải, Trung
Đông, Trung Hoa làm cho văn hóa Óc Eo mang đậm yếu tố “ngoại sinh”, được những nhà
nghiên cứu trước đây coi là nguyên nhân chủ yếu của sự phát triển văn hóa này.
Từ sau năm 1975, nghiên cứu về văn hóa Óc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng
sông Cửu Long là một nhiệm vụ trọng yếu của khảo cổ học Việt Nam. Những phát hiện
mới đã làm cho số lượng di tích và di vật tăng gấp nhiều lần trước đây. Diện mạo văn hoá
Óc Eo ngày càng rõ nét, nhất là tính chất và truyền thống phát triển cuả nó trong khoảng
10 thế kỷ đầu Công nguyên và trong không gian từ lưu vực sông Hậu, sông Tiền đến lưu
vực Vàm Cỏ - Đồng Nai. Cư dân văn hóa Óc Eo cư trú trên những tiểu vùng sinh thái
khác nhau nên có những đặc điểm khác nhau về lối sống, thể hiện trên các di tích và di
vật khảo cổ học. Đó là các tiểu vùng: tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, ven biển


Tây Nam (vùng Bạc Liêu- Cà Mau),hạ lưu sông Tiền, Đông Nam bộ và khu vực rừng
ngập mặn ven biển Đông Nam bộ. Điạ bàn sinh tụ cuả cư dân văn hóa Óc Eo rất rộng lớn
nhưng họ đã thích ứng được với mọi hoàn cảnh, tạo lập cuộc sống ổn định và phát triển
nền văn hoá đặc sắc cuả mình.
Các cuộc khai quật quan trọng là tại các di tích Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo

(An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ
(Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Phụng Sơn Tự-Chùa
Gò (TP.HCM)… Đây cũng là những Di tích Lịch sử-Văn hóa Quốc gia được bảo tồn và
tôn tạo thành những bảo tàng ngoài trời phục vụ cho nghiên cứu, học tập và du lịch. Di
tích kiến trúc trong văn hóa Óc Eo gồm di tích cư trú, kiến trúc đền tháp và mộ táng. Vật
liệu xây dựng gồm gỗ, gạch, đá: dấu tích các cọc nhà sàn và một số cấu kiện trang trí hoa
văn, phế tích hay nền móng đền tháp thờ hoặc đền tháp-mộ táng. Gỗ và đá là nguyên vật
liệu cư dân bản điạ quen dùng từ thời tiền sử còn gạch là vật liệu mới do tiếp thu kỹ thuật
cuả Ấn Độ từ đầu Công nguyên. Vật liệu đá có kích thước rất lớn, tham gia vào các công
trình là bộ phận cuả kiến trúc chứ không chỉ là các chi tiết trang trí, được lắp ghép-kết nối
bằng kỹ thuật chốt mộng. Hầu hết phế tích cho biết đây là đền tháp theo kiểu Ấn Độ có
bình đồ hình vuông, nền móng dày đến hơn 1m xây bằng gạch, đất sét và đá sỏi để có thể
chịu lực cuả công trình đồ sộ bên trên. Đặc biệt, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát
hiện được loại hình mộ táng mà trước đây các học giả Pháp chưa biết đến. Đó là các
huyệt mộ hình vuông, hình chữ nhật hay hình phễu, bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành
bề mặt khá bằng phẳng. Trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như
các mảnh vàng chạm khắc những biểu tượng cuả Bàlamôn hay Phật giáo, đồ trang sức,
một số đồ tuỳ táng khác.
Việc phát hiện và khai quật những di chỉ có niên đại sớm hơn văn hóa Óc Eo như
Gò Cây Tung (An Giang ), Gò Cao Su, Gò Ô Chùa ( Long An), Giồng Cá Vồ, Giồng
Phệt ( Cần Giờ- TP.HCM ) đã mang lại “ điều lý thú và cực kỳ quan trọng là từ những di
tích tiền Óc Eo này, chúng ta đã nhận ra những mầm mống cuả văn hóa Oc Eo, nghiã là
những yếu tố sơ khai mà sau này phổ biến và định hình trong văn hóa Óc Eo”. Các khám
phá mới về giai đoạn “tiền Óc Eo” ở Nam bộ ngày càng làm rõ hơn nguồn gốc bản điạ
cuả văn hóa này, đồng thời cũng cho thấy yếu tố văn hóa Ấn Độ đã xuất hiện ngay từ giai
đoạn tiền sử ở đây. Vì vậy ảnh hưởng cuả văn hoá Ấn Độ đến văn hoá Óc Eo từ đầu
Công nguyên trở về sau chỉ là sự tăng cường các ảnh hưởng đã có từ trước đó.
Hàng ngàn hiện vật nguyên vẹn làm bằng các chất liệu như vàng, bạc, đồng, thiếc,
chì, thuỷ tinh, đá, gỗ, gốm và hàng trăm ngàn mảnh hiện vật đang được bảo quản và
trưng bày tại bảo tàng các tỉnh Nam bộ là nguồn tài liệu chủ yếu giúp các nhà khoa học

nghiên cứu về nhiều mặt đời sống cư dân văn hóa Óc Eo. Nổi bật là các loại đồ trang sức,
tượng thờ và đồ gốm gia dụng. Đây cũng là sản phẩm cuả các nghề thủ công phát triển
cao, đa dạng và tinh xảo. Nhiều di chỉ -xưởng chế tạo đồ gốm, đồ trang sức được tìm thấy
ở khu di tích lớn như Óc Eo-Ba Thê, Nền Chuà, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò Hàng…
Hiện vật bằng vàng có nhiều kiểu dáng như nhẫn, bông tai, hạt chuỗi, các lá vàng
chạm khắc chế tác bằng nhiều kỹ thuật khác nhau mà đặc sắc nhất là kỹ thuật khắc miết
tạo ra hình và chữ trên lá vàng. Đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thạch anh, thuỷ tinh
với nhiều màu sắc, nhiều kích cỡ, nhiều hình dáng. Đặc biệt là những con dấu, mặt nhẫn
khắc hình người, động vật, khắc chữ Phạn cổ và các loại tiền vàng, bạc, hợp kim thiếc.
Sản phẩm từ kim loại màu phổ biến hợp kim thiếc- đến mức nhiều người coi văn hóa Óc
Eo là “văn hóa đồ thiếc”. Nếu kỹ thuật sản xuất thuỷ tinh, vàng, nguyên liệu và sản
phẩm mã não được người Óc Eo tiếp thu từ Ấn Độ thì có thể cho rằng, nguyên liệu và kỹ
thuật sản xuất đồ thiếc tại Óc Eo là đến từ bán đảo Malaixia - khu vực có trữ lượng thiếc
vào loại nhiều lớn thế giới và nghề truyền thống chế tạo đồ thiếc còn nổi tiếng đến ngày


nay. Bán đảo Malaixia cũng là một trong những trung tâm quan trọng cuả Vương quốc cổ
Phù Nam, tương tự trung tâm Óc Eo-Ba Thê-Cạnh Đền ở đồng bằng sông Cưủ Long.
Tượng thờ Bàlamôn và Phật giáo bằng đá và bằng gỗ, một số ít bằng đồng, được
tìm thấy trong nhiều di tích và rải rác trên khắp vùng Nam bộ cả miền Tây và miền Đông.
Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất cuả nghệ thuật điêu khắc Hindu giáo và Phật giáo ở đây
là từ TK 5 đến TK7. Sự đa dạng về loại hình và hình thức thể hiện đã phản ánh sự phức
tạp và đan xen cuả các nguồn gốc ảnh hưởng trong đó chủ yếu là nghệ thuật An Độ, đồng
thời vẫn thể hiện rõ xu hướng hiện thực - bản điạ hóa các hình tượng tôn giáo Ấn Độ. Về
loại hình không phải chỉ có tượng và biểu tượng thần phật mà còn có nhiều hình tượng
linh thú, thần thoại trong điện thờ Ấn Độ giáo và Phật giáo. Đặc biệt trong văn hóa Óc Eo
có những pho tượng Phật bằng gỗ khá lớn và độc đáo như sưu tập tượng gỗ ở di tích Gò
Tháp. Truyền thống nghệ thuật tượng cổ ở Nam bộ còn được duy trì và phát triển trong
giai đoạn sau, từ TK 8 trở đi mà nhiều nhà nghiên cưú tạm gọi là “giai đoạn hậu Óc Eo”.
Nghệ thuật Phật giáo và Ấn Độ giáo đến đồng bằng sông Cửu Long thông qua giao lưu

trao đổi các vật phẩm chủ yếu bằng đường biển, chúng góp phần làm giàu thêm văn hóa
bản điạ và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát triển các
trung tâm tôn giáo- văn hóa- kinh tế- chính trị lớn ở vùng đất này trong những thế kỷ đầu
Công nguyên.
Đồ gốm có mặt trong hầu hết các di tích khảo cổ và là loại hình hiện vật thể hiện
truyền thống bản địa nhất. Sản phẩm gồm các loại bình, hũ, nồi, nắp, bát, cốc, chai… Đặc
biệt là loại bếp lò làm bằng gốm (“cà ràng” theo cách gọi của người Khmer hiện nay ở
đồng bằng sông Cưủ Long). Đây là vật dụng quen thuộc và rất cần thiết cuả cư dân sống
ở vùng ven biển và sông rạch, trên nhà sàn hay trên ghe xuồng. Bếp lò gốm đã xuất hiện
trong các di tích cư trú và cả trong mộ táng (với chức năng là đồ tuỳ táng) từ thời tiền sử
trước đó ở lưu vực sông Vàm Cỏ- Đồng Nai và đến văn hóa Óc Eo đã trở thành di vật đặc
trưng cuả văn hóa này. Hiện nay bếp lò gốm phổ biến ở nhiều nơi trong vùng Đông Nam
Á. Ngoài đồ gốm gia dụng, vật liệu xây dựng bằng đất nung như gạch ngói, phù điêu
trang trí cũng là di vật chủ yếu trong các di tích kiến trúc đền tháp cuả văn hóa Óc Eo.
Sau hàng ngàn năm bị hoang phế bởi thiên nhiên (lũ lụt, sự bồi lấp cuả phù sa),
bởi những nguyên nhân xã hội như chiến tranh, sự phá hoại vô thức cuả con người, dấu
tích văn hoá Óc Eo chỉ còn là những phế tích và “các mảnh vụn” cuả nghệ thuật, kỹ thuật
chế tạo sản phẩm phục vụ mọi mặt đời sống xã hội. Việc sưu tầm, lưu giữ, nghiên cứu và
bảo tồn di tích- di vật văn hóa Óc Eo sẽ góp phần làm sáng tỏ quá trình khai phá, mở
mang và phát triển vùng đất Nam bộ một cách xác thực nhất. Nội hàm của Văn hóa Óc
Eo chứa đựng những giá trị lớn về vật chất và tinh thần, có ý nghĩa quan trọng đối với
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội ngày nay ở Nam bộ- một vùng đất giàu
tiềm năng.
2.4. Văn hoá Việt Nam thời tự chủ (thế kỷ X đến nửa sau thế kỷ XIX)
Lịch sử của dân tộc Việt là một chặng dài đầy biến cố nhưng cũng là một trong
những dân tộc kiên cường trước các cuộc xâm lăng về lãnh thổ, đồng thời sức kháng cự
của một nền văn hóa lâu đời Đông Sơn đã không để cho các triều đại phong kiến phương
Bắc hùng mạnh đồng hóa.
Năm 931, người đặt nền móng cho sự kháng cự với triều đại Nam Hán là Dương
Đình Nghệ. Chiến thắng quân Nam Hán, nhưng Dương Đình Nghệ chưa thể đủ uy lực để

phục quốc mà vẫn tự phong chức Tiết độ sứ.
Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn, một thuộc tướng và là hào
trưởng đất Phong Châu giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Lúc bấy giờ, Ngô Quyền là con
rể của Dương Đình Nghệ, tập hợp được đông đảo dân chúng chiếm thành Đại La, (Nam
Hà Nội ngày nay).


Triều đình Nam Hán rất muốn đưa quân sang để thu hồi đất Giao Chỉ và đã cử
Hoằng Tháo cùng với đội thuyền chiến đi theo đường biển tiến về đồng bằng Bắc Bộ. Kết
cục, cả một đoàn binh thuyền lớn của quân Nam Hán vừa vượt biển tiến vào mạn sông
Bạch Đằng đã được nhử vào thế trận đã bày sẵn và bị tiêu diệt gọn trong một thời gian rất
ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của quân Nam Hán bị đánh đắm, hầu hết quân xâm lược bị
tiêu diệt. Chủ soái của giặc là Lưu Hoằng Tháo cũng bị giết tại trận.
Sau chiến thắng chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc, Ngô Quyền bắt đầu xây dựng
quốc gia độc lập. Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, định đô ở Cổ Loa (Đông
Anh, Hà Nội). Ông đặt ra chức quan văn, võ, nghi lễ trong triều. Nhưng đáng tiếc thời gian
tại ngôi của ông thật ngắn ngủi, chỉ được 6 năm (939-944).
Triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn đến
Ngô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí trong nước có tất
cả 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm.
Những sứ quân ấy giành dật lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân
dân vô cùng khổ sở. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn 12 sứ quân, quy giang sơn
về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. Triều Ngô kết thúc năm 965 và bắt đầu triều đại
nhà Đinh (968-980). Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.
Tiếp đến là triều đại nhà Tiền Lê (980-1009) khởi đầu từ Lê Đại Hành và kết thức
bởi ông vua bạo ngược Lê Long Đĩnh.
• Củng cố độc lập - chiến tranh vệ quốc
Theo các nhà sử học và qua các tài liệu cổ, Văn minh sông Hồng thực sự nhận
được sức bật lần thứ hai là bắt đầu bởi triều Lý (1010-1225). Thời kỳ này Đại Việt dưới
triều Lý thăng hoa như tên gọi thủ đô của triều Lý - Thăng Long.

Thành tựu văn hóa và tư tưởng cũng như tôn giáo đều phát triển nhanh chóng và
xã hội Đại Việt sống trong cảnh thanh bình, giàu có kéo dài hơn 200 năm. Xã hội Đại
Việt có trật tự và đạo đức, kinh tế, quân sự và văn hóa đều phát triển nhanh chóng và ổn
định. Thời kỳ này đã xây đắp một nền móng vứng chắc cho triều đại nhà Trần sau này đã
chiến thắng 3 lần quân xâm lược Nguyên-Mông, mà bản thân triều đình nhà Tống không
làm được.
Triều đại nhà Trần (1225-1400) kế thừa di sản rực rỡ hơn 200 năm của nhà Lý. Nhà
Trần đã để lại cho lịch sử Đại Việt những di sản như những bản anh hùng ca về sự hùng
mạnh và văn minh của hơn 400 năm xây dựng nhà nước độc lập, chống trả và đánh lùi những
đạo quân xâm lược hùng mạnh nhất trong lịch sử thời Trung cổ.
Triều đại nhà Hồ:
Sau khi bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần
thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần
Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Triều đình nhà Minh (Trung Quốc) rất muốn chinh phạt Đại Việt, nhân cơ hội Hồ
Quý Ly đảo chính, cướp ngôi nhà Trần, nên vào năm 1407 quân nhà Minh tràn vào đất
Đại Việt. Hồ Quý Ly liên tục thất bại và đến tháng 6 năm 1407, Hồ Quý Ly cùng con trai
Hồ Nguyên Trừng bị bắt và vương quốc Đại Ngu sụp đổ.
Giai đoạn suy sụp của thời kỳ Bắc Thuộc ngắn ngủi, nhưng lại nuôi một sự trỗi dậy
mạnh mẽ của người Việt khi bị triều đình nhà Minh Hán hóa có chủ đích và quyết liệt. 20
năm dưới sự cai trị của nhà Minh, Đại Việt bị tàn phá nặng nề, các di sản, các báu vật bị
cướp, người tài và các học gia bị bắt đưa về Trung Quốc, chùa chiền, miếu mạo bị đốt phá.
Tất cả những gì quân xâm lược làm là có chủ đích tận diệt ý chí phản kháng và sự nuối tiếc
một nền văn minh sông hành. Dân Việt đoàn kết đứng đậy để cứu nền văn minh của mình
và mở ra triều nhà Hậu Lê rực rỡ.


Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng
như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, v.v… chính thức phất cờ khởi nghĩa
Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân

xâm lược nhà Minh cứu nước.
Kết thúc cuộc chiến bằng cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt
viện binh nhà Minh tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427.
Sau khi đuổi hết quân xâm lược nhà Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm
1428, dựng lên vương triều Lê. Lê Lợi ở ngôi được 5 năm thì mất (năm 1433), an táng tại
Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Lê Thái Tổ.
Trải qua các đời trị vì của các vua nhà Hậu Lê kể từ Lê Thái Tổ cho đến thời cai
trị của Hoàng Đế Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông, Đại Việt phát tiển mạnh mẽ và dân
chúng sống trong yên vui, đất nước thịnh trị, mở mang bờ cõi về phương Nam, lãnh thổ
Đại Việt kéo dài từ ải Nam Quan vào đến Thạch Bi Sơn (thuộc Phú Yên ngày nay).
* Những thành tựu của văn hóa Đại Việt
Vào thời đại Đồ đồng đã ra đời một nền văn hóa thống nhất và độc đáo, đạt mức
độ kỹ thuật và nghệ thuật cao, nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Các nghiên cứu nhân chủng,
lịch sử và khảo cổ gần đây đã khẳng định sự tồn tại một thời kỳ các Vua Hùng khoảng
trên 1000 năm trước Công nguyên tên Vương quốc Văn Lang, sau đó đổi tên là Âu Lạc.
Đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, Ấu Lạc đã bị xâm chiếm và sát nhập vào đế chế
phong kiến Hán hùng mạnh ở phương Bắc. Nhưng sự thống trị của phong kiến Trung
Hoa kéo dài mười thế kỷ đã không bẻ gẫy và không đồng hoá được nền văn hoá Việt.
Một điều đương nhiên, khi kẻ đi xâm lược không bẻ gãy được nền văn hóa hùng
mạnh bản địa thì tức thì kẻ xâm lược và trực tiếp ở lại cai trị lại bị chính nền văn hóa đó
đồng hóa. Nhưng cũng phải kể đến ảnh hưởng văn hóa của kẻ đi xâm lược cũng có mặt
tích cực cho văn hóa bản địa. Thực tế chứng minh qua nhiều nền văn hóa trên thế giới
cho thấy điều này hoàn toàn đúng. Một ví dụ cho nền văn hóa Trung Hoa, đó là dân tộc
Hán suốt trong chiều dài lịch sử của mình thường xuyên bị những cư dân du mục phía
Bắc xâm lược và đô hộ, nhưng những kẻ xâm lược và ở lại cai trị từ phương Bắc Trung
Quốc mất dần văn hóa của mình để hòa mình vào văn hóa Trung Hoa. Điều này nói lên
để khẳng định lại một lần nữa cho Văn minh Sông Hồng phát triển càng rực rỡ và hùng
mạnh hơn ở thời kỳ hoàng kim - Đế chế Đại Việt của Hoàng đế Lê Thánh Tông. (…)
Văn hoá Đại Việt thế kỷ XVI - 1858
• Sau thời kì hỗn loạn Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn phân tranh, đến nhà Nguyễn, Nho

giáo lại được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó đã đến hồi suy tàn, không còn đủ khả
năng đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa tiến kịp phương Tây.
• Thiên chúa giáo bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam theo bước chân các giáo sĩ
phương Tây.
• Sự xuất hiện chữ Quốc ngữ.
• Vào thế kỷ XVI, các Giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam, cùng các nhà buôn. Từ
năm 1615, các Giáo sĩ dòng Tên bắt đầu thiết lập những cộng đồng giáo dân rồi đặt hai
trung tâm ở Hội An và Thăng Long. Cũng còn nhiều dòng khác, như dòng Đa Minh
(Dominicain), dòng thánh Francos (Franciscain)... và người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
Ý, Pháp... Năm 1658, Giáo hoàng cho phép lập Hội truyền giáo nước ngoài ở Paris cho
các giáo sĩ đại diện Roma hoạt động ở Trung Quốc và Đông Dương...
• Ở Đàng Trong (Hội An), thương nhân Bồ Đào Nha giúp chúa Nguyễn mở lò đúc
súng ở Huế. ở Đàng Ngoài, hãng buôn Hà Lan ở Phố Hiến giúp chúa Trịnh tàu và súng
đạn.
• Mới đầu, các chúa Trịnh và Nguyễn đều để cho truyền đạo Thiên Chúa. Nhưng
vài chục năm sau, đạo bị cấm, tùy thời kỳ cấm ngặt hay lỏng. Vào cuối thế kỷ XVIII,


Giáo sĩ Pháp Pigneau de Behaine giúp chúa Nguyễn Ánh nên Gia Long lên ngôi cho
truyền đạo. Các vua sau lại cấm đạo và đàn áp giáo dân, giết linh mục, đồng thời buôn
bán và phương Tây bị ngưng trệ, khiến đế quốc Pháp lấy cớ tấn công Việt Nam từ 1858
và chiếm hoàn toàn đất nước vào năm 1885.
Thời kỳ thế kỷ XVII - 1885, cuộc đối thoại Việt Nam - phương Tây không lấy gì
làm mặn mà, công cuộc hiện đại hóa mờ nhạt. Văn hóa phương Tây gây một cú sốc đối
với văn hóa truyền thống Việt Nam nặng ảnh hưởng Khổng học.
Nhà vua và quần thần, các Nho sĩ đều đánh giá thấp văn hóa phương Tây, cho là chỉ
thiên về vật chất, thiếu đạo đức cơ bản của Thánh hiền. Những nhà Nho tiến bộ đề ra cải cách,
theo kỹ thuật phương Tây (Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện... ) đều bị gạt bỏ.
Còn đạo Thiên Chúa thì bị cấm vì cho là tà đạo, không chấp nhận thờ cúng tổ tiên, thần
thánh của Tam Giáo. Nhưng đạo Thiên Chúa đã mang lại cho Việt Nam một thành quả quý

báu mà không ai ngờ tới: chữ Quốc ngữ vào thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha,
Pháp... đã sáng tạo ra Quốc ngữ để truyền giáo cho dễ (đọc kinh bổn, cầu nguyện...). Không
ngờ đầu thế kỷ XX nó sẽ là công cụ tuyệt vời để làm cách mạng và phát triển mà ngành khoa
học, văn nghệ, chính trị (thay cho chữ Nho).
2.5. Văn hoá Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945
• Đây là thời kỳ Pháp thuộc. Tiếp biến văn hóa dĩ nhiên là cưỡng bức, nhất là trong thời
kỳ đầu. Nhưng dần dần, cũng đồng thời có đối thoại tự nguyện.
• Thiết tưởng, không cần nhắc lại những tai họa mà thực dân Pháp gây ra cho nhân
dân Việt Nam. Ở một khía cạnh nào đó thì chính sách thực dân cũng có phần tạo ra
những tiếp biến (Acculturation) văn hóa làm giàu văn hóa Việt Nam, nhiều khi ngoài ý
muốn của thực dân. Hiện nay, trên đất nước ta còn rất nhiều công trình mang dáng dấp
văn hoá Pháp.
• Tiếng Pháp đưa vào dạy chính thức ở nhà trường.
• Hệ thống chữ quốc ngữ được được sử dụng phổ biến hơn,
• Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền bá vào nước ta.
• Văn học, nghệ thuật phương Tây gây ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn nghệ
nước ta (giai đoạn 1930 -1945) Kịch, thơ mới, tranh sơn dầu.
• Khi Pháp mới chiếm ta, đối đầu văn hóa là chủ yếu. Tri thức Nho học không
muốn đổi bút lông lấy bút chì để học Quốc ngữ và tiếng Pháp. Nhưng từ những năm 20,
30 của thế kỷ XX, song song với đối đầu là đối thoại văn hóa. Các nhà Nho hiện đại như
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Dương Quảng Hàm, các trí thức mới như Nguyễn Công
Tiễu, Hoàng Xuân Hãn. Nhất Linh... đưa khoa học và dân chủ phương Tây vào ta. Khái
niệm "cái tôi" của phương Tây và chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã giúp tạo ra thơ mới và cả
một dòng văn học Việt Nam. Cuộc gặp gỡ Tây - Đông đã sinh ra hội họa hiện đại Việt
Nam. Kiến trúc sư He'brard tạo ra phong cách Đông Dương kết hợp Đông Tây.
• Đối thoại với dân chủ và cách mạng phương Tây, kể cả CHXH đã giúp cho các
nhà cách mạng Việt Nam vạch ra chiến lược giải phóng dân tộc. Điển hình là lãnh tụ Hồ
Chí Minh, người được đánh giá là “Con người hiện đại tiêu biểu nhất cho Việt Nam”.
2.6. Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay
• Cách mạng Tháng 8/1945 đã chấm dứt 80 năm Pháp đô hộ. Cho đến 1986 (đổi

mới) chủ yếu là 30 năm chiến tranh (1946 - 1975) chống Pháp và chống Mỹ có tính chất
quốc tế vì vấn đề Việt Nam được quốc tế hóa.
• Trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), cuộc đối thoại văn hóa
Việt - Pháp thời kỳ Pháp thuộc đã có kết quả một cách bất ngờ, do những trí thức và văn
nghệ sĩ trưởng thành trước đó đã có hoàn cánh tự do đem hết tài năng phục vụ đất nước
độc lập.


• Chữ Quốc ngữ của các Giáo sĩ phương Tây tạo ra đã phổ biến thời Pháp thuộc
trong đó sống chính trị, văn hóa, nhưng đến năm 1945, 90% dân vẫn mù chữ.
• Các Bác sĩ thời Pháp như Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng , Đặng Văn Ngữ... mở
trường Y và đào tạo các Y, Bác sĩ cho mặt trận và hậu phương.
• Đa số văn nghệ sĩ thời trước đều phục vụ kháng chiến. Một số nhà nghiên cứu đã
có tên tuổi trong thời Pháp thuộc (như Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Văn Giáp... )
đã đặt nền móng cho khoa học xã hội (Sử, Dân tộc học, Kháo cổ học, Ngôn ngữ học...).
• Các họa sĩ do Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đào tạo cũng mở trường
đào tạo các lớp sau. Nghệ thuật và văn học thời chiến (đến 1975) không còn lãng mạn
như trước 1945 mà phục vụ cuộc chiến tranh yêu nước, thích hợp với chủ nghĩa hiện thực
XHCN.
• Sau khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ (1954), các cường quốc dàn xếp cắt đôi Việt
Nam để phục vụ chiến tranh lạnh. Miền Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Âu - Mỹ, còn
miền Bắc chịu ảnh hưởng văn hóa XHCN Đông Âu - Trung Quốc. Có điều nên nói là
miền Bắc cũng có cơ hội đối thoại với văn hóa dân tộc các nước Đông Âu và Trung Âu.
Do đó mà hàng loạt các tác phẩm cổ điển của Nga, Đức, Ba Lan. Tiệp Khắc, Rumani,
Bungari, Anbani... được dịch và phổ biến rộng rãi.
Hơn 90% ở nông thôn trong toàn quốc, tư duy và phong tục tập quán vẫn in đậm dấu
truyền thống nặng ảnh hưởng Khổng học, phong kiến. Chỉ với hiện đại hóa lần thứ ba
(1945 - 1986), xã hội mới thực sự có những biến đổi cơ bản do cách mạng và chiến tranh,
ảnh hưởng thế giới đa dạng và sâu sắc. Có những cố gắng cộng nghiệp hóa và đô thị hóa
có hệ thống. Những cố găng này ít kết quả do chiến tranh kéo dài và tư duy chưa thoáng.

Sau chiến tranh (1975) mãi đến Đổi mới (1986), hiện đại hóa lần thứ IV mới có điều kiện
sâu rộng, kể cả đối thoại với văn hóa phương Tây.
• Đuổi theo kinh tế các nước láng giềng ở Đông Nam Á vì sau 30 năm chiến tranh,
kinh tế cửa ta yếu kém, mức sinh hoạt nhân dân thấp. Đổi mới với hai yếu tố (kinh tế thị
trường - mở cửa) góp phần giải quyết các vấn đề trên.
• Toàn cầu hóa nói chung có lợi cho các nước giàu phương Tây và có hại cho các
nước đang phát triển như nước ta. Nó có thể dẫn đến tương đồng văn hóa
(homogenisation), làm mất bản sắc dân tộc của nước nghèo, ta phải chấp nhận nó, đấu
tranh cho nó có một bộ mặt nhân bản, khai thác các cạnh khía tích cực của nó để bảo đảm
cho đa dạng văn hóa.
• Ta đối thoại văn hóa và phương Tây không ở thế cân bằng do kinh tế phát triển
chậm, không kiểm soát nó những văn hoá phẩm vật thể và phi vật thể nước ngoài tràn
vào, không phải dễ dàng bảo vệ bản sắc dân tộc. Nhưng qua lịch sử, ta đã có kinh nghiệm
tiếp biến văn hoá thành công, giữ được và làm giàu bản sắc dân tộc, qua đấu tranh và đốt
thoại thời Bắc thuộc và Pháp thuộc. Đối thoại với văn hóa phương Tây, ta cần sử dụng
những cơ hội do cách mạng thông tin và giao thông tạo ra để đóng góp với thế giới.
• Có nhiều cơ hội trao đổi văn hóa với phương Tây qua con đường Chính phủ và
nhân dân. Ấy là không kể Internet, các Website... Ta có dịp đưa ra ngoài hội họa, múa rối
nước, tuồng, chèo, ẩm thực... Quan trọng nhất là vừa giữ được bản sắc dân tộc vừa hiện
đại hóa



×