Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.85 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN ÁI NHI

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số : 60.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. CAO THỊ OANH

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI GIẾT NGƯỜI ....................................................................................................9
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội giết người .................................................9
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người ...............................11
1.3. Quá trình hình thành nhân thân người phạm tội giết người ..........................20
1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội giết
người .........................................................................................................................24
1.5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội giết người ..............31
Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI GIẾT NGƯỜI


TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................................................36
2.1. Khái quát tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2011 - 2015 .......................................................................................................36
2.2. Thực trạng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................................40
2.3. Thực trạng những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm
tội giết người .............................................................................................................49
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỒ HỒ CHÍ MINH TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI ..............................................................................................................64
3.1. Dự báo tình hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh .........64
3.2. Nhân thân người phạm tội và việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình
hình tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ........................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................78
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT

An ninh trật tự

BLHS

Bộ luật hình sự

CQTHTT


Cơ quan tiến hành tố tụng

KCN

Khu công nghiệp

NLTNHS

Năng lực trách nhiệm hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trung tâm kinh tế, chính trị,

văn hóa – xã hội lớn nhất cả nước. Là đầu tàu kinh tế của cả nước, Thành phố Hồ
Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế diễn ra năng động nhất, dẫn đầu cả nước về tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Trung bình hàng năm, Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp
21,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách quốc gia của
cá nước. Tổng diện tích của Thành phố Hồ Chí Minh là 2.095,06 km² trong đó khu
vực đô thị bao gồm 19 quận nội thành và vùng nông thôn rộng lớn với 5 huyện
ngoại thành là huyện Củ Chi, huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn, huyện Nhà Bè
và huyện Cần Giờ. Là vùng “đất lành”, Thành phố Hồ Chí Minh thu hút một lượng
lớn dân nhập cư từ mọi miền đất nước. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê năm
2015 thì dân số Thành phố Hồ Chí Minh là 8.224.000. Tuy nhiên, trên thực tế nếu
tính những người cư trú không đăng ký và nhập cư trong thời gian ngắn hạn thì dân
số thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh vượt trên 10 triệu người. Mật độ dân số ở
đây khá cao, khoảng 3.809 người/ km². Sự phân bố dân cư không đồng đều, chủ yếu
tập trung ở các quận nội thành. Với đặc điểm dân cư như vậy nên ở Thành phố Hồ
Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng nhau sinh sống nhưng đông nhất vẫn là
dân tộc Kinh, dân tộc Hoa, dân tộc Khmer; ở đây cũng đa dạng về tôn giáo, nhưng
phổ biến nhất là Phật giáo, Công giáo, Tinh lành, Cao Đài và một bộ phận dân cư
theo tín ngưỡng thờ ông bà. Xuất phát từ những đặc điểm này, Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chiến lược, mục tiêu và ra
sức nỗ lực trong mọi việc, trong đó có việc phòng, chống tội phạm nhằm đảm bảo
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chẳng hạn như: Nghị quyết số 16/NQ-TW
ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị về “phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố
Hồ Chí Minh đến năm 2020”; Chỉ thị số 10/CT-TU ngày 14/5/2003 của Thành ủy
về “Lãnh đạo phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh tộ quốc”; Chỉ thị 48/CT-TW ngày 20/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình

1



mới”;… Tuy nhiên, trên thực tế, tình hình tội phạm nói chung vẫn diễn ra rất phức
tạp. Đối với tình hình tội giết người nói riêng luôn xảy ra với số lượng lớn và chiếm
tỷ lệ cao so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo số liệu thống kê của TAND Thành phố Hồ Chí Minh, trong giai đoạn 2011 –
2015, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý 3426 hồ sơ vụ án với tổng số bị cáo
là 8419 bị cáo, trong đó đã xét xử 2316 vụ án và tổng số bị cáo bị xét xử là 4950 bị
cáo. Trong đó, chỉ riêng tội giết người thì TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý
894 vụ (chiếm 26,09% tổng số vụ) với tổng số bị cáo là 1778 bị cáo (chiếm 21,12%
tổng số bị cáo).
Tội giết người bao giờ cũng là loại tội phạm nguy hiểm nhất, gây bức xúc và
tạo ra tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân vì nó tước đi quyền con
người cơ bản nhất – đó là quyền được sống. Vậy mà tội giết người lại chiếm đến
hơn ¼ số vụ án được xét xử, số bị cáo phạm tội giết người chiếm đến hơn 20% tổng
số bị cáo phạm tất cả các loại tội phạm khác. Do đó, việc hạn chế và loại trừ được
loại tội phạm nguy hiểm này là một vấn đề cấp bách. Với cách nhìn nhận như vậy,
để phòng ngừa tội giết người hiệu quả hơn, đề tài “Nhân thân người phạm tội giết
người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học
- Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế.
- Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2008.
- Giáo trình tội phạm học của tập thể tác giả, Trường Đại hoc Luật Hà Nội,
năm 2012, tái bản năm 2013, 2015.
- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác
giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000.
- Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam, do GS.TS Nguyễn Văn Cảnh và
PGS.TS Phạm Văn Tỉnh chủ biên, Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2013.
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác
giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr.5-8.


2


- Bài viết: “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận”, của tác giả TS.
Bùi Kiên Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr.14-18.
- Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học”
của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường ĐH Luật Hà Nội năm 1996.
- Luận án Tiến sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình
sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005.
- Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr.46-53.
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr.2-7.
Các công trình nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân người phạm tội,
phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm khác có liên
quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, vai trò của nhân thân người phạm
tội trong cơ chế hành vi phạm tội… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà luận
văn sẽ kế thừa làm nền tảng lý luận trong luận văn của mình.
2.2. Tình hình nghiên cứu cụ thể
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài
sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội” của Nguyễn
Chí Công (2013), Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học” của Ngô Minh Hải
(2015), Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu từ

thực tiễn tỉnh Bình Dương” của Phạm Thị Triều Mến (2016), Học viện Khoa học xã
hội Việt Nam.

3


- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sức khỏe
của người khác trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” của Võ Thị Tương (2016), Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam.
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định hình phạt”
của tác giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr.41-43.
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết
định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003, tr.21-23.
- Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử
phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm Sát,
số 5/2005, tr.34-36.
- Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình
phạt” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2005,
tr.3- 9.
- Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách
nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí kiểm sát, số 17/2005,
tr.32- 35.
- Bài viết: “Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh
mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội” của tác giả Đỗ Đức Hồng
Hà, Tạp chí Toà án nhân dân, số 18/2005, tr.17- 20.
- Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma
tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr.3237.
- Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân
thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr.2327 và số 14,tr.19-28.
- Bài viết: “ Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn

Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr.52- 57.

4


- Bài viết: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Tạp chí kiểm
sát, số 6/2015, tr.47- 53.
Các tác giả trong các công trình nghiên cứu trên đã phân tích làm rõ vai trò
của nhân thân người phạm tội trong quyết định hình phạt, trong định tội danh hoặc
trong quy định liên quan đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Một số
tác giả đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội gắn với một
số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma
tuý… Những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những tri thức, hiểu
biết quan trọng mà tác giả có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu làm đề tài của
mình.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về
nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người phạm tội cũng
như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong các loại tội, nhóm
tội ở các địa phương nhất định trong các công trình của các tác giả kể trên, tác giả
sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn tình hình tội phạm giết người trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011 - 2015, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm rõ lý
luận về nhân thân người phạm tội gắn với đặc điểm tình hình kinh tế, văn hoá, đạo
đức, truyền thống... của người dân thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, kiến nghị các
giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Đây chính là hướng nghiên cứu của
luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội giết người trong giai đoạn 2011
đến năm 2015 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh không có mục đích tự thân.
Mục đích của nó, thiết nghĩ, phải là hoàn thiện giải pháp phòng ngừa tội giết người

5


trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc làm rõ những đặc điểm nhân
thân người phạm tội và xác định được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành
nhân thân người phạm tội giết người ở Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật. Nhiệm vụ này bao gồm những hoạt
động cụ thể như: Tìm, thu thập và nghiên cứu những tài liệu về tội phạm học, về
pháp luật hình sự và những tài liệu khác liên quan đến đề tài luận văn làm cơ sở cho
việc nhận thức thống nhất, rõ ràng phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phù hợp;
Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau:
Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường xuyên
của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự từ
năm 2011 đến năm 2015 của Toàn án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội giết
người;
Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về tội giết người trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015 và
xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần thiết.
Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan Công an,
Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm các việc cụ thể sau:
- Khái quát hóa những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội;

- Áp dụng lý luận đó vào việc làm rõ các đặc điểm nhân thân và các yếu tố
tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh;
- Kiến nghị hoàn thiện giải pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan hệ
phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người với các hiện
tượng, quá trình kinh tế-xã hội khác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, tức là
làm rõ quy luật của sự phạm tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Xét về mặt nội dung: đề tài của tác giả nghiên cứu trong phạm vi tội phạm
học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Về cấp xét xử: Luận văn tập trung nghiên cứu cấp xét xử hình sự sơ thẩm.
Về thời gian: đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 05 năm, từ năm
2011 đến năm 2015, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án về
tội giết người và 200 bản án hình sự sơ thẩm về tội giết người trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
Về không gian: đề tài Luận văn được thực hiện trên phạm vi Thành phố Hồ
Chí Minh.
Về tội danh: đề tài nghiên cứu tội giết người theo quy định tại Điều 93
Chương XIV Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏa, nhân phẩm, danh dự của con
người trong BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê

nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước ta về phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội giết người nói
riêng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chung của lĩnh vực khoa học xã hội và các phương pháp nghiên cứu đặc thù của
Tội phạm học, như: phương pháp kế thừa, phương pháp hệ thống, thống kê, lịch sử,
logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, dự báo để rút ra được những kết luận có tính lý
luận và thực tiễn.

7


6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người phạm
tội giết người, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về nhân
thân người phạm tội giết người, nhân thân người phạm tội cũng như lý luận Tội
phạm học.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là những tài liệu quan trọng
giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm do người
phạm tội giết người thực hiện, góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động phòng,
chống tội phạm nói chung trong phạm vi toàn Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả
nghiên cứu của luận văn cũng là những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ,
giảng viên, sinh viên trong các cơ sở đào tạo.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có kết
cấu ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội giết
người
Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Giải pháp phòng ngừa tội giết người trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
GIẾT NGƯỜI
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội giết người
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
như: Khoa học Luật Hình sự, Khoa học Luật Tố tụng hình sự, Xã hội học Tội
phạm,... Tuy nhiên, mỗi ngành khoa học nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới
các góc độ, mục đích, cách tiếp cận khác nhau. Tội phạm học nghiên cứu các đặc
điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với cơ chế hành vi phạm tội, cũng
như có ý nghĩa trong phòng chống, tình hình tội phạm.
Xã hội loài người là một tập hợp người, được tổ chức, có phân công lao
động, tồn tại qua thời gian, sống trên cùng một vùng lãnh thổ và chia sẽ những mục
đích chung, cùng nhau thực hiện những nhu cầu chủ yếu của đời sống, như: nhu cầu
tái sản xuất, sản xuất của cải vật chất, nhu cầu an ninh, các nhu cầu tinh thần,...
Theo K. Marx, xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Do đó, bản chất của con người bao gồm cả tính tự nhiên (những nội dung về sinh
học) và cả tính xã hội (những nội dung về xã hội). Đặc tính sinh học của con người
thể hiện ở giới tính, tuổi, dân tộc,... và những nhu cầu tự nhiên cho sự tồn tại của
con người. Khi nghiên cứu về nhu cầu của con người, Maslow cho rằng con người
có năm nhóm nhu cầu khác nhau cần được thỏa mãn:
- Thấp nhất là nhu cầu sinh lý: ở đây con người thể hiện nhu cầu được sinh
tồn như thở, thức ăn, nước uống, tình dục, nghỉ ngơi, nơi trú ngụ,... Con người chỉ
có thể đáp ứng được nhu cầu này của mình thông qua hoạt động tự lao động.

- Tiếp theo là nhu cầu được an toàn: Đây là nhu cầu được bảo vệ về an toàn
thân thể, việc làm, gia đình, sức khỏe, tài sản đước bảo đảm.
- Bậc ba trong tháp nhu cầu của Maslow là nhu cầu được giao tiếp xã hội
- Bậc bốn trong tháp nhu cầu của Maslow là nhu cầu được tôn trọng.
- Bậc cao nhất trong tháp nhu cầu này là nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định
bản thân.

9


Bất kỳ cá nhân nào trong xã hội đều cần thỏa mãn những nhu cầu này.
Nhưng để thỏa mãn được nó, mỗi cá nhân không thể tách mình riêng biệt ra khỏi
mối quan hệ và sự tương tác với những cá nhân khác trong xã hội. Tương tác xã hội
là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các cá nhân với nhau (cấp độ vi mô),
sự tương tác giữa các thiết chế xã hội như: gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo,
nhà nước, pháp luật,... (cấp độ vĩ mô). Quá trình tương tác này được thực hiện
thông qua hành vi của con người và chịu ảnh hưởng của các giá trị, chuẩn mực của
xã hội. Chính sự tương tác xã hội sẽ tạo ra các mối liên hệ giữa người với người
trong cơ cấu xã hội (nhóm, tập hợp, hội đoàn) – từ đó xuất hiện quan hệ xã hội giữa
người và người. Đây chính là đặc tính xã hội của con người.
Nhân thân con người là sự thống nhất giữa các đặc tính xã hội và các đặc tính
sinh học, tâm lý của một người, thể hiện bản chất riêng của con người đó trong các
mối quan hệ xã hội, thể hiện họ là chính họ.
Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không
phải con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS và bị coi là tội phạm [34, tr.149]. Vì vậy, khi
đề cập đến nhân thân người phạm tội là nói đến các đặc điểm của nhân thân con
người nói chung và cả những đặc điểm đặc trưng của bản thân người phạm tội –
những đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của họ, như là: tại thời điểm
thực hiện hành vi phạm tội họ có NLTNHS, đạt độ tuổi theo luật định, tâm lý, tính

cách, thói quen, sở thích, quan điểm, thái độ, ý thức pháp luật,... Tất cả các đặc
điểm tâm, sinh lý này của người phạm tội phụ thuộc vào điều kiện sống, giáo dục
của gia đình và nhà trường, và những mối quan hệ nhất định. Chính các đặc điểm
này dưới sự tác động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của những tình
huống cụ thể đã tạo thành động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Trong Tội phạm học, nhân thân người phạm tội là tổng hòa các yếu tố, các
đặc điểm riêng biệt của người phạm tội ở một địa bàn hành chính – lãnh thổ nhất
định, trong một khoảng thời gian nhất định về các mặt tâm – sinh lý – xã hội, nhân

10


khẩu – nhân chủng học, dân tộc học và pháp lý, những cái có ý nghĩa, điều kiện của
tội phạm để có giải pháp phòng ngừa tội phạm phù hợp [4, tr.348].
Như vậy, có thể kết luận rằng: Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các đặc
điểm tự nhiên, xã hội của người phạm tội trong mối tương tác với những hoàn cảnh,
điều kiện nhất định dẫn đến việc con người thực hiện một hành vi mà pháp luật hình
sự gọi đó là tội phạm. Bao gồm: đặc điểm tự nhiên, đặc điểm xã hội, và đặc điểm
pháp lý hình sự. Các đặc điểm này của nhân thân người phạm tội chỉ bộc lộ hoàn
toàn khi một người đã thực hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội nói chung có thể rút ra khái
niệm nhân thân người phạm tội giết người như sau:
Nhân thân người phạm tội giết người là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu
thể hiện bản chất của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều
kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội giết
người được quy định tại Điều 93 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người
Mỗi nhân thân người phạm tội cụ thể đều có những đặc điểm, dấu hiệu chung
trong từng nhóm người phạm tội hay trong tất cả người phạm tội và nó còn có
những đặc điểm, dấu hiệu đặc thù của nhân thân người phạm tội đó. Trong phạm vi

luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết
người. Hệ thống các đặc điểm của nhân thân người phạm tội giết người cũng có các
đặc điểm của nhân thân người phạm tội nói chung nhưng cũng có các đặc điểm
riêng, có thể chia làm bốn nhóm sau:
- Nhóm đặc điểm sinh học của người phạm tội;
- Nhóm đặc điểm xã hội của người phạm tội;
- Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lí của người phạm tội
- Nhóm đặc điểm pháp lí hình sự.
1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học
1.2.1.1. Giới tính

11


Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội, tội phạm học xác định
hai vấn đề: tỷ lệ phạm tội của nam giới và nữ giới, và những đặc trưng của tội phạm
do nam giới và nữ giới thực hiện.
Khi nghiên cứu số liệu cơ cấu giới tính của những người phạm tội nói chung
và người phạm tội giết người nói riêng cho thấy rằng nam giới chiếm số lượng
tương đối lớn trong tổng số người phạm tội. Nghiên cứu đặc điểm giới tính của
người phạm tội giết người giúp chúng ta xác định tỷ lệ người phạm tội giết người
giữa nam và nữ, ảnh hưởng của giới tính đến việc thực hiện hành vi giết người.
Thực tế hiện nay cho thấy, trong số các bị cáo phạm tội giết người thì có hơn 90%
là nam giới. Sỡ dĩ nam giới phạm tội giết người nhiều hơn nữ giới là vì đặc điểm
tâm sinh lý của nam dễ bị ảnh hưởng của môi trường sống, dễ làm phát sinh tâm lý
tiêu cực, dễ nhiễm thói hư tật xấu. Bên cạnh đó, nam giới thường có khuynh hướng
muốn thể hiện sức mạnh của mình hoặc thích dung vũ lực khuất phục và răn đe
người khác nên họ cũng dễ phạm tội giết người hơn nữ giới.
1.2.1.2. Lứa tuổi
Sự phát triển về thể chất, tâm sinh lý, nhận thức, tinh thần, ý thức, kiến thức

xã hội, kinh nghiệm sống,… của mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có những đặc điểm riêng
khác nhau. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi của con người. Việc nghiên
cứu đặc điểm về lứa tuổi nhằm xác định hai vấn đề quan trọng là: lứa tuổi nào phạm
tội nhiều nhất, phân bố và diễn biến của tội phạm theo lứa tuổi và cơ cấu của tội
phạm theo lứa tuổi. Độ tuổi của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu gồm
4 nhóm: nhóm người từ 14 đến dưới 18 tuổi, nhóm người từ 18 đến 30 tuổi, nhóm
người từ 30 tuổi đến 45 tuổi và nhóm người trên 45 tuổi. Thực tế cho thấy người
phạm tội giết người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất. Những năm
gần đây, người phạm tội giết người đang có xu hướng trẻ hóa, nhóm người phạm tội
dưới 18 tuổi đang có xu hướng gia tăng. Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp cho
việc sắp xếp thứ tự ưu tiên trong các biện pháp giáo dục, cải tạo, đấu tranh phòng,
ngừa tội giết người
1.2.2. Nhóm đặc điểm xã hội

12


1.2.2.1. Ttrình độ học vấn
Theo định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt thì học vấn là sự hiểu biết do học
tập mà có. Trình độ học vấn thể hiện mức độ hiểu biết, kiến thức của con người về
thế giới khách quan, về xã hội, về các mối quan hệ xã hội và những lĩnh vực khác
trong đời sống. Tất cả những sự hiểu biết này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển trí tuệ, đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Có thể
nói, trình độ học vấn có sự tác động rất lớn lên hành vi ứng xử và cách giải quyết
mâu thuẫn trong cuộc sống của mỗi người. Trong rất nhiều trường hợp do trình độ
học vấn thấp đã tạo ra nhiều hạn chế trong việc một cá nhân xử lý các tình huống
phát sinh trong cuộc sống hàng ngày, làm cho nhiều người có suy nghĩ lệch lạc, từ
đó họ có những hành vi trái với những quy định của pháp luật nói chung và pháp
luật hình sự nói riêng.
Nghiên cứu đặc điểm về trình độ học vấn giúp xác định được sự phân bổ của

tội phạm theo trình độ học vấn, cơ cấu của tội phạm theo trình độ học vấn. Kết quả
thống kê cho thấy trình độ học vấn của người phạm tội thường thấp hơn so với
những người không phạm tội trong cùng một lứa tuổi (trừ một số nhóm tội như: tội
tham nhũng, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về kinh tế, tội phạm có
động cơ vụ lợi được thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ quyền hạn thì thường do
những người có trình độ học vấn cao thực hiện).
Đối với tội giết người, phần lớn người phạm tội giết người có trình độ học
vấn là trung học cơ sở. Với trình độ học vấn này, người phạm tội giết người đã có
đủ khả năng nhận thức về mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và hậu quả do
hành vi của mình gây ra. Nhưng do nhân cách chưa phát triển hoàn chỉnh, ý thức
pháp luật còn thấp, thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình, cùng với mặt trái của
phim ảnh bạo lực, internet và các phương tiện truyền thông đại chúng khác đã làm
nảy sinh những suy nghĩ tiêu cực, lệch lạc trong giải quyết mâu thuẫn, cuối cùng
dẫn đến hành vi giết người.
1.2.2.2. Địa vị xã hội và nghề nghiệp

13


Địa vị xã hội và nghề nghiệp là một trong những đặc điểm quan trọng của
nhân thân con người nói chung và nhân thân người phạm tội nói riêng. Nếu như vị
trí xã hội là thế đứng của một cá nhân trong một nhóm, một đoàn thể đã được xã hội
quy định thì địa vị xã hội được hiểu là toàn bộ đánh giá của xã hội về mặt uy tín, thế
lực, sự trọng vọng,… đối với một cá nhân. Địa vị xã hội và nghề nghiệp có mối
quan hệ nhất định với nhau và liên quan mật thiết đến hành vi của con người. Đối
với những người có nghề nghiệp ổn định, có địa vị xã hội cao sẽ dễ dàng có được
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách, những nhu cầu cơ bản của
đời sống được đảm bảo thì sẽ hạn chế được việc xảy ra mâu thuẫn, đặc biệt là
những mâu thuẫn từ kinh tế.
Nghiên cứu địa vị xã hội và nghề nghiệp cho biết nhóm người làm việc ở

những ngành, lĩnh vực nào trong xã hội dễ thực hiện tội phạm và loại tội phạm họ
thực hiện [41, tr.145]. Một số nhóm tội mà đặc điểm nghề nghiệp và địa vị xã hội có
ảnh hưởng khá lớn đến hành vi phạm tội như là nhóm các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế, nhóm tội tham nhũng,… Đối với tội giết người thì địa vị xã hội và nghề
nghiệp không ảnh hưởng nhiều đến hành vi phạm tội. Theo số liệu thống kê thì đa
số người phạm tội giết người thường là những người không có nghề nghiệp, hoặc có
nghề nghiệp nhưng không ổn định hoặc là những người đã có tiền án, tiền sự về
nhóm các tội xâm phạm sở hữu
Dựa vào đặc điểm nghề nghiệp, người phạm tội giết người được chia thành 3
nhóm: nghề nghiệp ổn định, nghề nghiệp không ổn định và không có nghề nghiệp.
Dựa vào địa vị xã hội, có thể chia người phạm tội giết người thành 2 nhóm: người
có địa vị xã hội cao và người có địa vị xã hội thấp.
1.2.2.3. Hoàn cảnh gia đình
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau. Trong các nghiên
cứu của xã hội học, gia đình được hiểu là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ
sở hôn nhân và quan hệ huyết thống, những thành viên trong gia đình có sự gắn bó

14


và ràng buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được
nhà nước thừa nhận và bảo vệ [37, tr.176].
Đối với xã hội, gia đình có nhiều chức năng như chức năng tái sản sinh xã
hội (duy trì nòi giống), chức năng giáo dục, chức năng kinh tế và văn hóa, chức
năng thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm lý, chức năng chăm sóc người già và trẻ em.
Tất cả những chức năng này có mối liên hệ mật thiết và tác động lẫn nhau nhưng có
thể nói rằng chức năng giáo dục của gia đình là chức năng quan trọng nhất. Gia đình
là trường học đầu tiên và là môi trường quan trọng cho việc hình thành nhân cách

và năng lực của cá nhân. Thông qua gia đình, cá nhân được học hỏi các chuẩn mực,
các giá trị mà xã hội đề cao. Những yếu tố quan trọng nhất trong nhân cách của một
cá nhân như là: nhận thức về chính mình, thái độ, sở thích, niềm tin, mục đích sống,
định hướng giá trị, định hướng nghề nghiệp… đều được hình thành trong khuôn khổ
gia đình thông qua vai trò của những thành viên trong gia đình đặc biệt là cha mẹ.
Những khiếm khuyết của gia đình cộng với những yếu tố khác đã tác động
đến việc thực hiện tội phạm của cá nhân. Người phạm tội thường xuất thân trong
những gia đình có một số khiếm khuyết, hạn chế nhất định như sự khó khăn về kinh
tế; hoàn cảnh hôn nhân, gia đình không đầm ấm, thiếu hạnh phúc; gia đình có sự
hạn chế trong việc kiểm soát, giáo dục, quản lí đối với các thành viên. Những biểu
hiện cụ thể của sự khiếm khuyết trong gia đình có thể ở một số hoàn cảnh như: gia
đình có cơ cấu không hoàn thiện; gia đình có bầu không khí xung đột căng thẳng
kéo dài; gia đình có khiếm khuyết, sai lệch trong ý thức đạo đức, ý thức pháp luật
và định hướng giá trị; gia đình có một hoặc nhiều thành viên phạm tội.
Nghiên cứu cho thấy phần lớn người phạm tội giết người xuất thân từ cuộc
sống gia đình không hòa thuận, các thành viên trong gia đình không có trách nhiệm
với nhau, thiếu sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Ngoài ra, hoàn cảnh kinh tế của gia
đình của người phạm tội giết người cũng khá khó khăn. Điều kiện kinh tế của gia
đình có sự ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục, trình độ học vấn, và nghề nghiệp
của một cá nhân.

15


Dựa vào đặc điểm hoàn cảnh gia đình, người phạm tội giết người được chia
thành: gia đình khuyết thiếu; gia đình không hòa thuận, thiếu quan tâm đến con cái;
gia đình nuông chiều con cái; tình trạng hôn nhân của người phạm tội giết người
được chia thành: chưa có gia đình; có gia đình (có con, chưa có con, đã ly hôn).
Nghiên cứu đặc điểm về hoàn cảnh gia đình giúp nhận thức được nguyên
nhân của việc hình thành các đặc điểm tâm lí tiêu cực của người phạm tội giết

người; thấy được vai trò, trách nhiệm của gia đình đối với hành vi phạm tội của họ.
Từ đó có thể kiến nghị những biện pháp phòng ngừa sớm từ góc độ gia đình thông
qua các biện pháp giáo dục và kiểm soát của gia đình đối với cá nhân.
1.2.2.4. Nơi cư trú, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo
Ngoài các đặc điểm xã hội của nhân thân người phạm tội giết người nói trên,
các đặc điểm khác như: dân tộc, quốc tịch, nơi cư trú, nơi sinh, tôn giáo,… cũng có
ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách con người. Ngoài ra những
yếu tố này còn có thể ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lí cá nhân như: yếu
tố văn hóa, tập quán, thói quen, nét tính cách đặc trưng của địa phương nơi cư
trú,… Điều này có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và hoạt động phòng, ngừa tội
phạm.
Dựa vào đặc điểm dân tộc, người phạm tội giết người được chia thành 02
nhóm: người dân tộc Kinh, người dân tộc thiểu số. Dựa vào đặc điểm quốc tịch,
người phạm tội giết người được chia thành 03 nhóm: công dân Việt Nam, người
nước ngoài và người không quốc tịch. Dựa vào đặc điểm tôn giáo, người phạm tội
giết người được chia thành 04 nhóm: người không theo tôn giáo, người theo đạo
Phật, người theo đạo Thiên chúa, và các tôn giáo khác. Dựa vào đặc điểm nơi cư trú
và nơi cư trú, người phạm tội giết người được chia thành 03 nhóm: người nhập cư
và có nơi cư trú ổn định, người có hộ khẩu thường trú, và người không có nơi cư trú
ổn định.
1.2.3. Nhóm đặc điểm nhận thức, tâm lí

16


Nhóm các đặc điểm về nhận thức, tâm lí của người phạm tội giết người bao
gồm: định hướng giá trị, ý thức đạo đức, ý thức pháp luật, nhu cầu, hứng thú, động
cơ, mục đích phạm tội,…
1.2.3.1. Ý thức đạo đức
Theo Tâm lí học thì ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất chỉ có ở con

người, là sự phản ánh bằng ngôn ngữ những gì con người đã tiếp thu trong quá trình
quan hệ qua lại với thế giới khách quan [11, tr. 291]. Theo Triết học Mac – Lênin
thì ý thức xã hội là tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tri thức, quan điểm, tư
tưởng, tình cảm, truyền thống, tập quán,… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong một giai đoạn nhất định.
Là một dạng của ý thức xã hội, ý thức đạo đức thể hiện trong sự đánh giá về
các giá trị như: tốt – xấu, khen – chê, cao thượng – thấp hèn,… Ý thức đạo đức
được hình thành dựa trên sự hiểu biết và tuân thủ các nguyên tắc, các chuẩn mực
trong việc điều khiển hành vi, trong cách ứng xử của con người trong đời sống xã
hội. Những giá trị, chuẩn mực của đạo đức xã hội là nền tảng để điều chỉnh hành vi
của cá nhân, hình thành nhu cầu đạo đức ở mỗi cá nhân. Những nguyên tắc, yêu cầu
của đạo đức trở thành khuôn mẫu cho hành vi, xử sự của cá nhân.
Khi nghiên cứu về ý thức đạo đức của người phạm tội giết người đã cho thấy
người phạm tội giết người có sự hạn chế trong việc tiếp cận với những giá trị đạo
đức, điều này thể hiện ở sự hiểu biết của họ về các giá trị đạo đức là không đầy đủ,
thiếu chiều sâu. Bản thân họ có những quan niệm, đánh giá riêng về những giá trị
đạo đức, sự đánh giá này lại sai lệch so với những chuẩn mực chung của xã hội. Đối
với họ, lợi ích cá nhân, sự thỏa mãn cái tôi của bản thân họ là trên hết. Vì vậy họ lựa
chọn cách xử sự để thỏa mãn nhu cầu đó của mình mà bất chấp cả việc điều đó có
thể xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác.
1.2.3.2. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật được hiểu là một thể thống nhất gồm sự hiểu biết về pháp
luật và thái độ đối với pháp luật của cá nhân. Thật ra, ý thức pháp luật và ý thức đạo
đức có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi

17


của con người. Bởi lẽ, rất nhiều quy định, giá trị, chuẩn mực của đạo đức được cụ
thể hóa trong các quy định của pháp luật.

Khi nghiên cứu về ý thức pháp luật của người phạm tội giết người cho thấy
phần lớn người phạm tội giết người có sự hiểu biết về pháp luật rất hạn chế, những
quy định của pháp luật chưa thực sự có ý nghĩa trong việc giải quyết các quan hệ
trong đời sống hàng ngày của họ, việc giải quyết các mối quan hệ xã hội chủ yếu
dựa trên thói quen, kinh nghiệm của bản thân.
1.2.3.3. Nhu cầu, sở thích, thói quen
Những đặc điểm nhu cầu, sở thích, thói quen tồn tại ở bất kỳ con người nào
trong xã hội, nhưng ở những người phạm tội giết người thì phần đông họ có nhu
cầu, sở thích, thói quen tiêu cực, không lành mạnh. Nhu cầu, sở thích, thói quen tác
động trực tiếp đến việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội và sự kiên định thực
hiện tội phạm. Đối với mỗi loại tội phạm khác nhau thì người phạm tội cũng xuất
phát từ nhu cầu, sở thích, thói quen khác nhau. Người phạm tội giết người thường
có nhu cầu khẳng định mình, muốn khuất phục người khác bằng cách dùng bạo lực
để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong cuộc sống – kể cả những mâu thuẫn nhỏ
nhặt nhất. Đa phần người phạm tội giết người có sở thích vật chất không chính
đáng, coi trọng vật chất, có thái độ lười lao động, sống gấp, thói quen rượu chè, cờ
bạc, sử dụng ma túy…
1.2.3.4. Động cơ, mục đích phạm tội
Động cơ, mục đích phạm tội thể hiện trạng thái tâm lý của người phạm tội
đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Động cơ được hiểu là
động lực bên trong thúc đẩy con người hành động, còn mục đích là mục tiêu được
đặt ra, là kết quả mà con người muốn đạt được thông qua hành vi của mình. Nói
một cách khác, động cơ và mục đích là các yếu tố về mặt tâm lí, thể hiện ý thức chủ
quan của con người.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, nếu động cơ phạm tội càng mãnh liệt, mục
đích phạm tội càng rõ ràng thì tính chất của tội phạm càng nguy hiểm và hậu quả
của tội phạm càng nghiêm trọng. Vì vậy, nghiên cứu động cơ, mục đích của người

18



phạm tội giết người vừa góp phần làm rõ nguyên nhân thực hiện tội phạm, đồng
thời cũng giúp cho việc đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, từ đó giúp cho việc tìm ra những biện pháp tác động tích cực
nhằm loại trừ động cơ phạm tội, ngăn cản mục đích tội phạm, hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả mà người phạm tội giết người có thể gây ra cho xã hội. Những người
phạm tội giết người thường xuất phát từ động cơ tự tôn nhằm thể hiện “cái tôi”,
mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tự khẳng định mình, muốn chứng tỏ sức mạnh
của bản thân trước người khác, hẹp hòi, ích kỉ.
Như vậy, nghiên cứu những đặc điểm về nhận thức, tâm lý của người phạm
tội giết người giúp xác định nguyên nhân thực hiện tội giết người, từ đó giúp tìm ra
những biện pháp tác động, giáo dục, cải tạo phù hợp và đạt hiệu quả cao.
1.2.4. Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự
Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự là những dấu hiệu thể hiện tính chất nguy
hiểm của tội phạm và của nhân thân người phạm tội, có ý nghĩa trong việc định tội
danh, định khung và quyết định hình phạt.
Các đặc điểm pháp lý hình sự trong nhân thân người phạm tội giết người bao
gồm: người phạm tội lần đầu; người tái phạm, tái phạm nguy hiểm; người tổ chức,
cầm đầu, mang tính chuyên nghiệp.
- Phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội là nghiên cứu nhân thân của con người
ít nhất đã một lần phạm tội. Hành vi phạm tội do người có nhiều tiền án, tiền sự
thực hiện bao giờ cũng có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn nhiều so
với người mới phạm tội lần đầu, ở họ đã có kinh nghiệm trong việc thực hiện tội
phạm cũng như đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, cho nên trách nhiệm hình
sự mà họ phải chịu cũng phải nặng hơn người mới phạm tội lần đầu. Tiền án, tiền
sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm là những dấu hiệu thể hiện xu hướng chống đối xã
hội, coi thường pháp luật, sự cố ý xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể và
của cá nhân… Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm
không chỉ giúp nhận thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội


19


mà còn giúp hiểu rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm cũng như có cơ sở trong việc
đề ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Những dấu hiệu này thường được quy định là tình tiết định khung hoặc các
tình tiết tăng năng, giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 46, Điều 48 BLHS 1999
(sửa đổi, bổ sung 2009). Tại điểm p khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung
2009) thì tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung của tội giết người.
Một số đặc điểm pháp lý hình sự trong nhân thân người phạm tội giết người
như: giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, giết người để thực hiện hoặc che giấu
một tội phạm khác, giết người bằng cách lợi dụng nghề nghiệp, phạm tội có tổ chức
được quy định là tình tiết định khung tại các điểm e, điểm g, điểm k, điểm o Điều
93 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009).
Các đặc điểm nêu trên đều thể hiện ý thức phạm tội của người phạm tội. Do
đó, việc nghiên cứu các đặc điểm này giúp hiểu rõ được ý thức phạm tội của người
phạm tội và nguyên nhân phát sinh tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp
phòng ngừa hữu hiệu
Tóm lại, nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội giết người thì
phải nghiên cứu cả bốn nhóm đặc điểm nêu và đặt chúng trong mối quan hệ hữu cơ
để giúp cho việc phác họa một bức tranh tổng thể, hệ thống về nhân thân người
phạm tội giết người. Từ đó đề ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và
tội giết người nói riêng một cách đồng bộ, rõ ràng, hợp lý và đạt hiệu quả cao.
1.3. Quá trình hình thành nhân thân người phạm tội giết người
Người phạm tội giết người trước hết cũng là một con người, một cá nhân
trong đời sống, nên bản thân họ cũng có một quá trình hình thành nhân cách (bao
gồm các đặc điểm nhân thân), quá trình này còn được gọi là quá trình xã hội hóa.
Dưới góc độ xã hội học nói chung và xã hội học tội phạm nói riêng, quá trình

hình thành nhân cách cá nhân (hay còn gọi là quá trình xã hội hóa) là quá trình con
người học hỏi, tuân thủ theo các chuẩn mực, các giá trị, các vai trò mà xã hội đã đề
ra. Chính quá trình này đã tạo ra những cơ sở cho việc hình thành nhân cách của

20


con người. Nhân cách là một hệ thống có tổ chức, là toàn bộ những suy nghĩ, cảm
nghĩ, ứng xử của con người và được hình thành trên nền tảng những giá trị và chuẩn
mực nhất định. Nói một cách khác, nhân cách bao gồm tất cả những điều con người
suy nghĩ về thế giới xung quanh, về chính bản thân, những điều con người cảm
nhận, phản ứng của con người trước các tình huống, phản ứng đối với người khác
và những hành vi ứng xử của chúng ta trong đời sống hàng ngày.
Quá trình hình thành nhân cách cá nhân là một quá trình phức tạp nên có
nhiều quan điểm khác nhau, nhiều cách giải thích khác nhau về quá trình này.
Chẳng hạn như cách giải thích của Cesare Lombroso về vấn đề tội phạm đã cho
rằng hành vi của con người là kết quả, là sản phẩm của những yếu tố di truyền và do
sự cấu tạo về gen. Sigmund Freud thì tin rằng các yếu tố sinh lý đóng một vai trò
quan trọng trong sự hình thành nhân cách của con người. Ông nhấn mạnh thời kỳ
thơ ấu là thời kỳ quan trọng trong việc hình thành nhân cách của cá nhân, và tất cả
những gì bất bình thường xảy ra đối với cá nhân trong giai đoạn này sẽ để lại những
dấu ấn trong tiềm thức của cá nhân. Theo Jean Piaget thì quá trình hình thành nhân
cách của con người phát triển qua bốn giai đoạn: Giai đoạn cảm giác tương ứng với
hai năm đầu đời sau khi đứa bé chào đời, đây là giai đoạn mà thế giới bên ngoài
được kinh nghiệm thông qua giác quan, qua sự tiếp xúc vật chất; Giai đoạn tiền lý
luận là giai đoạn con người bắt đầu có thể sử dụng biểu tượng, ngôn ngữ, trong giai
đoạn này đứa bé phân biệt được tư tưởng và thực tại khách quan; Giai đoạn lý luận
cụ thể là giai đoạn đứa trẻ biết bỏ đi cái nhìn vị kỷ và biết đặt mình vào vị trí của
người khác; Giai đoạn lý luận hình thức là giai đoạn có những tư duy trừu tượng
cao và có thể tưởng tượng ra các khả năng của thực tế.

Rõ ràng, có nhiều quan điểm khác nhau để giải thích cho một quá trình phức
tạp – quá trình hình thành nhân cách, hình thành các đặc điểm nhân thân của một cá
nhân, nhưng tựu chung lại thì có thể thấy rằng quá trình này diễn ra trong suốt cuộc
đời của con người, từ lúc sinh ra cho đến khi con người chết đi, nhưng có thể phân
ra thành ba giai đoạn chính:

21


- Xã hội hóa lần thứ nhất: Quá trình này diễn ra trong gia đình, kể từ đứa trẻ
được sinh ra, được dạy dỗ để trở thành một con người xã hội.
- Xã hội hóa lần thứ hai: Đó là khi đứa trẻ rời gia đình để đi học, chịu sự tác
động của nhà trường và nhóm bạn thân cùng tuổi.
- Xã hội hóa lần thứ ba: Đây là giai đoạn xã hội hóa khi cá nhân đã thành
niên, là quá trình mà cá nhân học được các chuẩn mực liên quan đến các vị trí xã
hội mới.
Trong các xã hội truyền thống, quá trình hình thành nhân cách chủ yếu xảy ra
trong gia đình nên tạo ra những nhân cách thuần nhất. Ngược lại, trong xã hội hiện
đại lại có nhiều nhân tố khác nhau đóng góp vào quá trình hình thành nhân cách của
cá nhân.
Gia đình là bối cảnh xã hội chính là xã hội thu nhỏ mà lần đầu tiên cá nhân
được tiếp xúc, là nhóm sơ cấp đầu tiên góp phần hình thành nhân cách của cá nhân.
Trẻ em không những được cha mẹ dạy bảo, mà chính bầu không khí trong gia đình,
chính môi trường sống của gia đình đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc lên nhân cách
của trẻ, tác động đến cái nhìn về chính mình, về thế giới xung quanh của trẻ em.
Ngoài gia đình, môi trường xã hội mà hầu hết các trẻ em đều được tiếp xúc là
trường học. Trường học không chỉ dạy cho học sinh các kỹ năng để sau này đảm
trách các vai trò trong xã hội mà trường học còn truyền đạt những giá trị của xã hội,
đề cao lối sống chủ đạo của xã hôi. Đồng thời, trong giai đoạn này, trẻ em còn tìm
thấy và tiếp xúc với những nhóm trẻ cùng tuổi ở khu phố hay ở trường học. Nhóm

bạn bè là một môi trường xã hội đặc biệt vì ở đây trẻ em được độc lập, thoát khỏi sự
kiểm soát và áp đặt của người lớn. Do sự biến đổi nhanh của xã hội nên mối quan
tâm của cha mẹ và con cái rất khác nhau – cái mà người ta thường hay gọi là
khoảng cách thế hệ. Ngày nay áp lực của nhóm bạn bè cùng tuổi lên hành vi của trẻ
là rất mạnh và trẻ em thường tuân thủ theo chuẩn mực của nhóm để được chấp
nhận. Tuy nhiên, nhóm bạn cùng tuổi thường chỉ có ảnh hưởng lên những nguyện
vọng trước mắt và ngắn hạn của cá nhân, trong khi gia đình vẫn còn có ảnh hưởng
lên các nguyện vọng, ước mơ về lâu dài của cá nhân.

22


×