Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NGOAI GIAO VIET NAM THOI NGUYEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.06 KB, 25 trang )

NGOẠI GIAO VIỆT NAM THỜI NGUYỄN
Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu
khi hoàng đế Gia long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và sụp đổ hoàn
toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945– tổng cộng là 143 năm tồn tại. Triều
đại Nhà Nguyễn được ghi nhớ với các giai đoạn chính:



Giai đoạn độc lập (1802 - 1858).
Giai đoạn bị đế quốc Pháp xâm lược và đô hộ (1858 - 1945).

Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân chủ
phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản lý
đất nước. Đặc biệt là những thành tựu trong cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng
còn có nhiều giá trị. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng: "Nhà Nguyễn có
nhiều chính sách hay. Chính sách Đình Nghị: Đã đi họp là phải phát biểu. Ý kiến
trong Đình Nghị phải được ghi chép. Nếu không phát biểu trong kỳ họp trước, kỳ
sau sẽ không được đi họp nữa. Hay chủ trương Hầu trị: Người của địa phương
không được đứng đầu trong địa phương. Phải đi nơi khác làm quan, khi đến địa
phương khác, không được lấy vợ, mua đất ở đó. Giám khảo chấm thi không được
tham gia khi có người nhà đi thi, hoặc phải trình báo…Đây là những chính sách mà
ngày nay chúng ta cần học tập".
II. Hoạt động đối ngoại
NGOẠI GIAO VỚI TRUNG QUỐC
Chính sách của “thiên triều’ đối với Đại Việt.
Đại Việt và Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi liền núi, sông liền sông. Nhân dân
hai nước đều yêu chuộng hoà bình, có quan hệ lâu đối với nhau. Dưới thời phong kiến,
thiên tử quyết định hết thảy vì thiên tử thay trời trị đần. Nhưng lẽ trời là:
“Khắp dưới gầm trời không đâu không là đất cua vua .
Tất cả trên mặt đâu không ai không là tôi của vua”.
Cho nên trong lịch sử Trung Quốc không triều đại nào không coi Đại Việt là phiên thuộc


và không tìm cách xâm chiếm:
- Nhà Tần (năm 221 trước Công Nguyên - 208 trước Công Nguyên) đưa quân xâm lược.
- Nhà Hán (202 trước Công Nguyên - 24 C.N) đô hộ .
- Thời Tam Quốc (220-280) Nhà Ngô đô hộ.
- Thời Nam Bắc triều (420-581 ) Tống, Tề, Lương, Trần đô hộ .


- Nhà Tuỳ (581 - 618) đô hộ.
- Nhà Đường (618- 907) đô hộ.
- Thời Năm đời Mười nước (907 - 960) Lương, Nam Hán đô hộ.
- Bắc Tống, Nam Tống (960 - 1279) đưa quân xâm lược
- Nhà Nguyên (1271 - 1388) ba lần xâm lược Đại Việt.
- Nhà Minh (1368 - 1644) đưa quân xâm chiếm .
- Nhà Thanh (1644 - 1911) đưa quân xâm lược .
Mỗi khi chiếm được nước ta, các triều đại phong kiến coi nước ta là đất Trung Quốc (nội
thuộc) áp dụng chế độ quận huyện, đối với dân Đại Việt thì thực hiện đồng hoá, vơ vét tài
nguyên. .
Khi không chiếm được nước Đại Việt thì họ áp dụng chế độ sách phong, triều cống nghĩa
là giữa hai nước có quan hệ bình thường trên cơ sở chịu tấn phong của Hoàng đế Trung
Quốc, chịu nộp cống theo quy định ba năm hoặc sáu năm một lần. Giữa các kỳ cống, nếu
có vấn đề cần giải quyết thì hai nước trao đổi công hàm hoặc cử sứ thần trực tiếp giải
quyết. .
Nhìn chung lại, Đại Việt và Trung Quốc là hai nước láng giềng, nhưng một bên là nước
tông chủ, luôn luôn thực hiện chính sách bành trướng một bên là chư hầu phải thần phục
Trung Quốc. Đó là nhân tố quyết định tình hình quan hệ giữa Đại Việt và thiên triều.
Có khi Đại Việt trước sau biết giữ phận nước bé, mong muốn thông hiếu với thiên triều
nhưng thiên triều không muốn thì “cây muốn lặng, gió chẳng đừng”, khi đó thiên triều
đùng đùng kéo quân sang (như đòi mượn đất Đại Việt để đi đánh Chiêm Thành không
được, hay tạo mọi cớ gì đó để đánh Đại Việt...). Có khi Đại Việt mạnh lên, đánh thắng
Trung Quốc thì dù Đại Việt có làm bẽ mặt thiên triều nhưng biết “vuốt mặt nể mũi” thì

quan hệ bình thường vẫn giữ được. Có khi nội bộ thiên triều suy yếu (loạn cung đình hay
gian thần nổi loạn) hay bị các dân tộc phương đông (Kim, Liêu, Hung Nô...), thậm chí bắt
sống cả Hoàng đế thì chính thiên triều phải xử nhũn.
Sau khi lấy được nhà Thanh Bắc Hà, vua Gia Long đă cử một sứ đoàn do Trịnh
Hoài Đức dẫn đầu sang xin cầu phong. Sứ đoàn này chưa hồi hương thì cuối năm đó vua
Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê Quang Định sang cầu phong vua Gia
Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam Việt. Sau những tranh luận về tên gọi vì nhà
Thanh ngại nhầm lẫn với nước Nam Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng và cùng đồng ý đảo
ngược lại thành Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây sang làm lễ tấn phong
cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm một lần và cứ
bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.


Tháng 8 năm 1809, sứ đoàn Việt Nam sang mừng thọ vua Gia Khánh 50 tuổi.
Liên tục từ 1813, 1817 và 1819 việc giao thiệp giữa Gia Long và nhà Thanh được êm
đẹp. Về sau, nhà Thanh đã nhiều lần cử người giúp triều Nguyễn trong vụ đàn áp Khởi
nghĩa Lê Duy Phụng ở Bắc Kỳ những năm 1861-1865.
II.Ngoại giao Việt Nam thời Tự chủ phản ánh các hoạt động ngoại giao giữa các
tiết độ sứ Tĩnh Hải quân thời kì tự chủ Việt Nam (đầu thế kỉ 10 sau hơn 1000 năm Bắc
Thuộc) với các vương triều Trung Quốc. Sử sách ghi lại các sự kiện này khá sơ lược.
A, Hoàn cảnh:
Đầu thế kỷ 10, nhà Đường suy yếu bởi khởi nghĩa nông dân và chiến tranh quân
phiệt cát cứ. Việt Nam khi đó là Tĩnh Hải quân, một đơn vị hành chính của Trung Quốc.
Quân phiệt Chu Ôn nắm lấy triều đình nhà Đường, khống chế vua Đường Chiêu
Tông và sau đó là Đường Ai Đế trở thành lực lượng chư hầu lớn nhất ở Trung nguyên.
Chu Ôn mưu trừ khử dần những người thân nhà Đường để giành ngai vàng. Tể tướng
Độc Cô Tổn bị đưa đi làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 905, nhưng chỉ được vài tháng
thì bị Chu Ôn đày ra đảo Hải Nam và giết chết.
Nhân cơ hội Trung Quốc chưa kịp cử Tiết độ sứ mới sang, một hào trưởng người
Việt là Khúc Thừa Dụ đã tiến vào phủ thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân.

Quyền tự chủ của người Việt được khôi phục từ đó.
B. Hoạt động ngoại giao.
I: Đối nội
1.Với nhà Đường
Ngay từ sau loạn An Sử (763), nhà Đường đã suy yếu và không kiểm soát được
các trấn ở xa. Các trấn tự quản và tự lập người thay thế rồi thỉnh mệnh nhà Đường. Nhà
Đường chỉ bất đắc dĩ thừa nhận trên giấy tờ.
Sau khi làm chủ Đại La, để có danh chính, Khúc Thừa Dụ sai người sang Trung
Quốc xin thỉnh mệnh nhà Đường, tỏ ý thần phục trên danh nghĩa. Quyền thần Chu Ôn
đang lo đối phó với các chư hầu nên nhân danh Đường Ai Đế phong cho Khúc Thừa Dụ
làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân, gia phong chức Đồng bình chương sự.
Được sự thừa nhận của nhà Đường là thắng lợi của họ Khúc trong việc xác lập
quyền tự chủ của người Việt. Việc Khúc Thừa Dụ làm chủ Tĩnh Hải quân khá êm thấm
và hòa bình, không gây chiến tranh đổ máu và thù hận với người phương Bắc. Khúc
Thừa Dụ một mặt buộc triều đình nhà Đường phải chấp nhận; mặt khác họ Khúc ngăn
chặn được các tiết độ sứ ở miền biên cương gần Tĩnh Hải quân không thể lợi dụng thời
cơ lấy danh nghĩa nhà Đường để đánh phá, vì Tĩnh Hải quân vẫn nhận thần phục nhà
Đường.


2.Với Lương Thái Tổ
Khúc Thừa Dụ mất (907), con là Khúc Hạo lên thay. Cùng lúc, Chu Ôn cướp ngôi
nhà Đường, lập ra nhà Hậu Lương. Khúc Hạo cho người sang giao hảo với triều đại mới
ở Trung Quốc là nhà Hậu Lương. Nhà Hậu Lương thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ.
Nhưng năm sau (908), vua Lương Thái Tổ Chu Ôn lại phong cho tiết độ sứ Quảng
Châu là Lưu Ẩn kiêm nhiệm cả chức tiết độ sứ Tĩnh Hải quân. Điều này đồng nghĩa với
việc nhà Lương vẫn muốn xóa bỏ sự tụ chủ của người Việt, đưa trở lại dưới quyền cai trị
của người Hán.
3.Với Nam Hán
Năm 911, Lưu Ẩn chết, em là Lưu Nghiễm lên thay. Năm 917, Nghiễm ly khai

nhà Hậu Lương, tự lập làm hoàng đế ở Quảng Châu, đặt quốc hiệu là Đại Việt, sau đó đổi
là Nam Hán. Biết ý đồ đánh chiếm Tĩnh Hải quân của Nghiễm, Khúc Hạo sai con là
Khúc Thừa Mỹ làm “khuyến hiếu sứ” sang Phiên Ngung (kinh đô Nam Hán) thăm dò
tình hình.
Sử sách không chép rõ về kết quả của chuyến đi cũng như thái độ của vua Nam
Hán. Ngay khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Thừa Mỹ lên thay chức Tiết độ
sứ Tĩnh Hải quân.
4.Với Lương Mạt Đế
Sau khi Chu Ôn bị sát hại (912), Lương Mạt Đế lên thay (913), nhà Lương càng
suy yếu trong cuộc chiến tranh với các chư hầu.
Trước nguy cơ bị Nam Hán xâm lược để mở rộng thế lực, Khúc Thừa Mỹ vẫn chủ
trương giữ ngoại giao với nhà Hậu Lương, muốn tranh thủ sự thừa nhận của nhà Hậu
Lương để kiềm chế Nam Hán. Năm 919, ông sai sứ sang Biện Kinh triều kiến Lương Mạt
Đế. Mạt Đế phong cho Khúc Thừa Mỹ làm Tiết độ sứ, ban cho lưỡi phủ việt vàng.
Năm 923, nhà Hậu Lương bị Nhà hậu Đường của Lý Tồn Úc tiêu diệt. Sự hậu
thuẫn trên danh nghĩa của trung nguyên với Tĩnh Hải quân không còn. Vua Nam Hán liền
điều quân đánh Tĩnh Hải quân. Thời gian xảy ra sự kiện này, sử sách có tài liệu ghi năm
923, có tài liệu ghi năm 930.
Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ - người đánh đuổi Nam Hán
năm 931 - giành ngôi, bị con rể Đình Nghệ là Ngô Quyền sắp kéo từ châu Ái ra đánh.
Công Tiễn sai người đi sứ sang Phiên Ngung, gặp vua Nam Hán xin cứu giúp. Chuyến đi
sứ này thực chất chỉ là hành động cầu viện, không phải là việc sự kiện ngoại giao. Vua
Nam Hán tuy nhận lời nhưng phát binh chậm, khi quân Hán tiến sang thì Công Tiễn đã bị
Ngô Quyền giết chết.


NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG HOA DƯỚI THỜI NHÀ
NGUYỄN
Dưới thời quân chủ, Trung Hoa là nước lớn, tự cho mình là trung tâm văn minh
của thế giới, tự xưng mình là giống người Hoa (giống người văn minh) và xem các nước

nhỏ chung quanh chỉ là Man di, mọi rợ, văn hoá thấp kém. Vua Tàu là Thiên Tử (con
Trời), thay mặt Trời cai trị muôn dân và đặt tên nước mình là Trung Quốc. Tất cả các
nước nhỏ đều phải thần phục Thiên Tử. Dòng họ nào được Thiên Tử thừa nhận và phong
vương thì có quyền cha truyền con nối, cai trị dân của nước mình. Nếu có ai chống lại
hay gặp trường hợp nước khác đem quân gây hấn thì Thiên Tử sẽ can thiệp hoặc các chư
hầu cũng có thể nhân danh Thiên Tử, đem quân đội đến giúp tái lập trật tự cho nước đó.
Dân có bổn phận trung thành tuyệt đối với vua, còn vua thì chịu trách nhiệm với Trời.
Trải qua gần một ngàn năm, dân tộc Việt chúng ta bị Trung Quốc xâm chiếm, trực
tiếp cai trị...Năm 938, Ngô Quyền thắng được quân Nam Hán, dựng cờ độc lập nhưng
mãi đến đời Đinh Bộ Lĩnh, Trung Quốc (nhà Lương) mới chính thức thừa nhận nền độc
lập của nước ta và cho Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam Quốc Vương. Dưới các triều đại Đinh,
Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, các vua Việt Nam, bên ngoài vẫn theo lệ triều cống,
thừa nhận vua Trung Quốc là Thiên Tử. Nhưng bên trong vẫn là vua một quốc gia độc
lập. Cứ ba năm một lần, vua nước ta vẫn tổ chức tế Nam Giao, tự xưng mình là Thiên Tử
đối với con dân trong nước. Bảo Đại là vị vua cuối cùng của Việt Nam tổ chức tế Nam
Giao.
Năm 1802, vua Gia Long thống nhất sơn hà, lần đầu tiên, Việt Nam có một lãnh
thổ rộng lớn từ Nam Quan đến Cà Mau với một dân số đông nhất và tất nhiên binh lực
của ta cũng mạnh nhất so với các triều đại trước đó. Dù là một nước hùng mạnh trong
vùng Đông Nam Á thời bấy giờ (thế kỷ 19) nhưng so với nhà Thanh (Trung Quốc),
chúng ta vẫn còn là một nước nhỏ bên cạnh nước lớn! Vì thế các vua nhà Nguyễn từ Gia
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức vẫn phải xin nhà Thanh “phong vương”. Các vua
đầu nhà Nguyễn, vẫn phải từ Huế ra tận miền Bắc để tiếp đón sứ nhà Thanh và lễ phong
vương đã được tổ chức tại Hà Nội. Đến đời vua Tự Đức, nhà Nguyễn nhất định đòi sứ
nhà Thanh phải đến tận thủ đô của Việt Nam là kinh thành Huế để phong vương mà
không chiụ đích thân ra Hà Nội như trước đó.
Sau khi vua Minh Mạng qua đời (1840), vua Thiệu Trị nối ngôi, triều đình Huế đã
cho sứ
bộ qua nhà Thanh báo tang và cầu phong. Sứ bộ của ta gồm có Lý Văn Phức
(tham tri bộ Lễ) làm Chánh sứ và Nguyễn Đức Hoạt (hữu thị lang) làm Phó sứ và Bùi

Phụ Phong (quang lộc tự khanh), bồi sứ.
Mùa Xuân năm Nhân Dần (1842) nhân dịp ra Hà Nội đón sứ nhà Thanh là Bảo
Thanh đến phong vương, vua Thiệu Trị cũng làm một chuyến du Xuân “thăm dân cho
biết sự tình”.
1. Chuẩn bị chuyến đi xa của vua


-Tế Nam Giao sớm hơn thường lệ : Trước đây lễ Tế Nam Giao thường được tổ
chức vào tháng thứ hai mùa Xuân, có khi được tổ chức vào tháng cuối Xuân vì phải chờ
thời tiết bớt mưa lạnh, khí trời ấm áp. Nhưng năm nay, vì vua có việc phải ra Bắc nên đã
tổ chức lễ nầy vào đầu mùa Xuân. Suốt tháng Chạp trước Tết năm đó, mưa lạnh kéo dài
khiến cho mọi người đều ái ngại. Hôm tế Nam Giao, gặp thời tiết mưa lạnh nên phải
dùng một thứ màn đặc biệt được chế ra từ đời vua Minh Mạng để che khi cử hành nghi
lễ. Cũng may mà mọi nghi lễ đều hoàn tất tốt đẹp. Vua Thiệu Trị rất mừng, từ hoàng tử,
hoàng thân và các quan văn võ tham dự việc tế lễ nầy đều được thưởng tiền bằng vàng
(kim tiền) và tiền bằng bạc (ngân tiền) đến các binh lính đi theo và dân các xã có bày
hương án để đón tiếp xa giá vua đi qua cũng được thưởng tiền quan (tiền đồng). (1)
-Bảo vệ Kinh Thành trong thời gian vua xuất cung:Việc vua đi ra khỏi cung là
việc quan trọng đến an ninh quốc gia nên vua đã cho Hoàng tử Hồng Bảo (con trưởng) và
các quan Tạ Quang Cự (trung quân), Hà Duy Phiên (Thượng thư bộ Hộ), Lê Văn Phú
(Thống chế doanh Thần cơ), Tôn Thất Bạch (thự Thượng thư bộ Lại),v.v...ở nhà giữ kinh
thành. Vua đem hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm đi theo. Vua ban bố cho toàn dân biết
việc Bắc tuần như sau:
“Trẫm kính nối nghiệp lớn, có việc bang giao, tuy còn ở trong hạn cư tang 27
tháng, cũng phải tạm xa nơi bàn thờ, trong lòng có chỗ không được yên, nhưng vì điển lễ
quan trọng, không thể bỏ thiếu, vậy sai hữu tư tra kỹ điển lệ, rồi xa giá ra Bắc Kỳ, nhân
để thăm coi địa phương, xem xét phong tục. Ngày mùng 9 tháng này đã đến kính cáo
Thái miếu, sai quan đến kính cáo Triệu miếu, ngày mùng 10, thân đến kính cáo Thế
miếu, sai quan đến kính cáo Hưng miếu, dâng lễ điện Phụng tiên, ngày 13, thân đến kính
cáo điện Phụng tiên, ngày 14, thân đến kính yết Hiếu lăng và Hiếu đông lăng, ngày 15,

thân đến hầu thăm cung Từ thọ, ngày 16, sắc dụ hoàng tử và đại thần lưu kinh đổng lý
mọi việc. Đến ngày 20, đại giá khởi hành. Phàm hoàng tử, hoàng thân và các đại thần
văn, võ cho chí bọn thân biền đi theo xa giá đều phải hộ vệ xe kiệu, dọn dẹp đường đi,
quản thúc đội ngũ cho nghiêm cẩn, theo đúng quân luật, đừng làm nhiễu dân các địa
phương. Những hoàng tử, hoàng thân, hoàng đệ và thân biền lớn nhỏ, ai nấy phải giữ
chức sự, cho phép theo sự cắt đặt của hoàng tử và đại thần lưu kinh” (2)
(Chú thích: Thái miếu: thờ Nguyễn Hoàng; Triệu miếu: thờ Nguyễn Kim; Thế
miếu: thờ vua Gia Long; Hưng miếu: thờ Nguyễn Phúc Luân cha của vua Gia Long. Hiếu
lăng: lăng vua Minh Mạng. Cung Từ thọ: nơi mẹ vua ở.)
2. Trên đường ra Bắc:
Xa giá của vua đi qua sông Hương, dọc đường những nơi vua đi qua, chỗ nào
cũng đặt hương án, các phụ lão các địa phương lạy mừng, vua đều ban thưởng 10 quan
tiền. Ngoài trâu và gạo nếp do dân dâng lên để mừng, vua không nhận bất cứ lễ vật gì
khác mục đích tiết kiệm cho dân. Những nơi vua đi qua, cho phép dân được gởi đơn
khiếu nại các việc oan ức tại địa phương. Từ kinh đô Huế ra Bắc, các địa phương phải
xây dựng các nhà tạm trú để vua quan nghỉ ngơi dọc đường, đều được thưởng tiền.
Thuyền của vua ra đến làng Trung Đơn (Quảng Trị) vì sông cạn nên các quan lính phải
phụ sức mà đẩy. Các quan bắt tội địa phương không chịu vét sông cho thông nên quan


tỉnh Quảng Trị là Đặng Đức Thiêm và Nguyễn Văn Đạt rất sợ hãi không dám vào chầu
vua. Nhưng vua cũng bỏ qua cho việc đó và cho hai vị quan nầy vào hầu. Sau khi rời
kinh thành ba ngày, xa giá vua đến tỉnh thành Quảng Trị. Các quan đến chầu, vua hỏi
việc làm ruộng trong tỉnh. Vua đi qua các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị tìm hiểu dân tình
và ra lệnh tha bớt thuế cho dân 30%. Vua sai đem lễ vật đến tế tại chùa Long phúc ở
Quảng Trị. Vua nói với bộ Lễ rằng: “Đất Quảng Trị là chỗ Thái tổ Gia dụ hoàng đế ta
bắt đầu dựng đô, dân trong hạt, ở 3 phường An Định, An Hướng, Phương Xuân truy nhớ
công đức, dựng lên chùa này, trong năm Minh Mạng thánh giá tuần hành qua đó, sai
quan vào tế, nay quên sao được!” Vua bèn sai quan lang trung là Tôn Thất Cáp và quan
tỉnh đến làm lễ tế. Vua cũng sai quan mang lễ vật đến tế “ thần Trảo Trảo linh thù”. Vua

nói:“ Sông Ái Tử là chỗ khi xưa Thái tổ Gia dụ hoàng đế ta đã giết tướng Mạc tên là Lập
Bạo, mà thần sông Trảo Trảo đã hiển linh ứng mộng ở đấy. Vẫn hay trời sinh thánh
nhân, chỉ một lữ quân, một thành ruộng, rồi cũng có cả nước, đánh giặc dẹp loạn, quyết
không phải nhờ một điềm mộng rồi mới thành công, những sông núi giúp thiêng, bách
thần trợ thuận thì từ đế vương đời xưa phần nhiều vẫn có. Đó cũng là lẽ không thể cho là
không đáng tin được. Còn sử nhà Minh có chép người Minh là Trương Phụ đuổi theo vua
Trùng Quang nhà Trần đến sông Ái Tử, thì e chưa được xác thực, vì tên đất xưa nay
phần nhiều giống nhau, lẫn nhau, đem tên đất ngày nay mà chứng với sách cổ, thì khó
lòng tin cả được” (3)
Rời kinh thành Huế được 5 hôm thì xa giá của vua đến trạm Trị Lập, vua phải bỏ
thuyền lên bộ để đến bến đò Thuận Trạch, vào địa giới tỉnh Quảng Bình. Từ Hồ Xá
(Quảng Trị) đến Thuận Trạch (Quảng Bình) có thể đi bằng đường thủy được. Nhưng có
một đoạn sông hẹp mà lắm cát, quan tỉnh dâng sớ xin đào sông cho thuyền vua qua. Vua
nói “Nay không đi theo đường cảng, đổi đi đường bộ, dù một mình có mệt nhọc, nhưng
dân ta được yên vui thì ta cũng quên sự mệt nhọc” Rồi vua không cho đào sông vì sợ vất
vả cho dân.
Khi vua đi ngang qua chùa Hoằng Phúc thuộc huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình là ngôi chùa do Nguyễn Hoàng (tức Thái tổ Gia dụ hoàng đế nhà
Nguyễn) xây dựng, đặt tên là chùa Kính Thiên. Công tác xây cất được nửa chừng thì bị
hỏa hoạn đời sau tiếp tục sửa lại. Năm Minh Mạng thứ 2, vua ra Bắc, có đến thăm chùa
và đặt tên là chùa Hoằng Phúc. Vua Thiệu Trị cấp cho chùa 300 quan tiền và dụ rằng
“Chùa nầy do Liệt thánh đời trước dựng lên, nét chữ của tiên thánh còn chói lọi lưu mãi
tại ngôi chùa. Trong năm Minh Mạng, thưởng cấp bạc lạng, đặt cho tên hay, thực là một
thắng tích của cảnh Phật. Nay qua đất nầy, truy nghĩ đến việc hay đời trước, cấp cho
tiền 300 quan”.
Ngày hôm sau, ngự giá của vua đến bên bờ sông Quảng Bình, tại đây có 3 chiếc
thuyền bọc đồng: Định Hải, An Hải và Vĩnh Hải. Vua ra lệnh cho 3 chiếc thuyền nầy
thao diễn , nhận thấy người điều khiển và binh lính đều thành thạo, vua liền ban thưởng
và ra lệnh cho thuyền ra biển đi trước đến Hà Nội. Ngày đinh sửu (27 tháng 2 Nhâm Dần)
vua vào nghỉ tại hành cung tỉnh Quảng Bình, có hai cụ già trên 90 tuổi đến ra mắt vua.

Vua hỏi: “Hai ông già đến đây là do lòng chân thành hay là vì phủ huyện thúc đẩy bắt
phải đến?” Hai cụ già trả lời “Bọn chúng tôi sinh ở bãi biển, được thấm nhuần ơn trên
đã lâu, nay nghe Đại giá tới đây, xiết bao trông ngóng, cho nên khúm núm ra ngay,


không có ai bắt buộc cả”. Vua lại hỏi: “Gíống tôm ở thôn Động Hải cứu vớt được người,
chuyện ấy có thực không?” Hai cụ già thưa rằng: “Có câu chuyện ấy”. Vua nói: “Đó
cũng là một chuyện lạ! Hoàng Quýnh năm trước làm việc ở đây đã biết việc nầy, có chép
ở tập Văn Kiến tùng thoại.”
Câu chuyện xảy ra như sau: Năm Minh Mạng thứ 7, ở thôn Động Hải, thành
Quảng Bình, có người đánh cá, bắt được một con tôm to, dài tới vài thước, khắp mình có
vết như gấm, râu mọc cứng, dài và lớn bằng thân mà cụt mất một cái. Đem tôm ra chợ
bán ai cũng lấy làm lạ. Có người nhà Thanh, họ Tạ, kiều cư tại đấy mua về sắp đem làm
thịt, một người họ Dương, ở gần nhà, can rằng: không nên ăn, rồi bỏ tiền ra chuộc đem
thả xuống sông, con tôm nhảy luôn ra biển. Sau đó, người họ Dương làm nghề buôn bán,
đáp thuyền ra biển, bỗng gặp cơn sóng, gió thuyền đắm, họ Dương sắp bị chìm xuống
đáy biển, chợt biú (bám vào) được một tấm ván, theo sóng trôi giạt, may được vào bờ.
Dương nhìn ra thì vật để cho mình bíu (bám vào) chính là con tôm ngày trước mình đã
thả, râu cụt y như xưa, có thể nhận rõ. Dương cuí đầu vái tạ, con tôm liền ẩn mình xuống
dưới sóng, rồi không trông thấy nữa.
Vua lên trên thành Quảng Bình xem xét lũy Trường Dục, địa thế nuí sông hiểm
trở. Vua nói với bộ Công rằng:“Một dãi trường luỹ, trên tiếp núi Đâu Mâu, dưới đến tận
bờ biển, Liệt thánh ta trước đây mưu sâu tính xa, gia công gây dựng, đức Thánh tổ Nhân
hoàng đế ta lại sửa sang thêm, làm cho vĩnh viễn hữu hình. Nay nhân coi khắp hình thế,
nên sửa sang thêm một lần nữa để cho bờ cõi vững vàng. Về xưởng súng ở trên thành,
nên theo theo cách thức ở kinh thành mà làm” Vua lại nói thêm “Việc đắp ra trường
lũy, bắt đầu từ đời Hiếu Văn hoàng đế ta, do một công thần khai quốc là Hoằng quốc
công Đào Duy Từ bắt đầu mưu tính việc ấy. Sau Thaí tông Hiếu Triết hoàng đế ta 2 lần
đánh được quân Bắc và Thế tổ Cao hoàng đế ta đại thắng giặc Bắc, đều ở chỗ nầy. Nên
đặt tên cho lũy là “Định Bắc trường thành” để cho danh nghĩa được chính đáng”.

Khi vua đến hành cung Quảng Khê (Quảng Bình) thì ở lại và bộ Công làm bè để
qua sông Linh Giang (sông Gianh) nhưng khi cho thí nghiệm thử thì gặp gió lớn, dây
buộc bè bị đứt nên phải lấy thuyền công, dựng mui lên để sang. Các đại thần và đoàn hộ
vệ đều được thưởng; dân, quân làm việc cũng được thưởng. Riêng bộ Công, quan tỉnh và
những người trách nhiệm đều bị phạt...Vua đi qua tỉnh Quảng Bình đã ra lệnh tha bớt
30% thuế thân cho dân.
Xa giá vua đi qua Đèo Ngang (Hoành Sơn) là ranh giới giữa Quảng Bình và Hà
Tĩnh. Khi vua đến hành cung, không có tiếng trống báo hiệu, các quan đều bị phạt. Khi
xa giá đến thành Hà Tĩnh, vua cho 2 người già 100 tuổi vào hầu, cho mỗi người một đồng
kim tiền (tiền vàng). Những người có con làm quan nên cha mẹ được ân phong cũng đã
đến yết kiến vua như Trương Quốc Hiền (Hàn lầm viện thị độc) là thân phụ của Trương
Quốc Dụng (thi lang bộ Lễ), Phạm Diệu là thân phụ của Phạm Thế Hiển (thị lang bộ
Binh), Đỗ Đình Thư là thân phụ của Đỗ Khắc Thư (bố chính Bắc Ninh), Vũ Phạm Đàm,
thân phụ của Vũ Phạm Khải (hồng lô tự khanh) đều được ban thưởng. Người thiểu số ở
Cam Môn, Cam Cá Kính cũng đến dâng lễ vật địa phương lên vua. Vua ban cho tiền
vàng và áo, rồi cho về.


Thuyền vua đến sông Đại Nại, qua núi Hồng Lĩnh, vua hỏi về thắng tích núi ấy.
Quan tỉnh là Vũ Đức Nhu thưa rằng “ Núi nầy khởi đầu từ huyện Nghi Xuân, qua huyện
Thiên Lộc (nay là Can Lộc) quanh co, liên tiếp 99 ngọn. Tương truyền có đàn chim hạc
đậu trên nuí, cho nên đặt tên là Hồng Lĩnh. Phiá Nam núi có ngôi chùa cổ tên gọi là
Hương Tích”
Hai hôm sau, xa giá vua đến sông Lam tỉnh Nghệ An, ngự doanh bắn súng, các
đội lính trong tỉnh cũng vội vàng bắn súng rối rít nên quan đem chuyện nầy ra đàn hặc
(phê bình). Suất đội trong tỉnh là Tống Đắc Thịnh bị phạt đánh đòn và bị các chức, các
quan trong tỉnh cũng bị giáng chức. Khi xe của vua đến thành Nghệ An, thân hào nhân sĩ
và dân trong thành ra đứng hai bên đường chào mừng. Vua rất vui và nói với đại thần
Trương Đăng Quế “Lòng người mong trẫm đến như thế nầy, hành trình có nên chậm lại
không?”Trương Đăng Quế thưa: “ Sứ thần nhà Thanh phải đến thượng tuần tháng 3 mới

qua cửa ải. Kỳ hạn đi đường của ta cũng đủ chỉnh bị, vậy thong thả cũng được”. Vua bèn
sai đóng quân lại vài ngày và cho gọi các quan địa phương là Vũ Tuấn và Hồ Hựu đến
hỏi han tình hình và cho mỗi người một đồng tiền vàng. Vua hỏi “Có bắt dân làm hành
cung và nhà trạm không?” Hai người tâu: “Hành cung ở tỉnh lỵ do binh lính ở tỉnh làm,
còn hành cung ở các trạm thì do dân địa phương làm”. Vua nói: “Binh lính thì có lương,
còn dân thì lấy gì mà cung ứng? Bất đắc dĩ mà bắt dân làm, ý trẫm không muốn thế. Tính
theo giá các vật liệu mà trả tiền lại cho dân”. Hai ông ấy thưa: “ Bóng cờ của vua đi tới,
ngàn năm mới một lần được gặp, đem sức làm ruộng phục vụ người trên là phận sự của
dân, mà cũng là ý muốn của họ, chứ không muốn lĩnh giá”. Vua nói: “Kính vua, mến
người trên, vẫn là cái tính rất hậu của dân ta, nhưng trẫm đối với việc yêu dân, chưa
từng một chút xao lãng, há nỡ khinh dị dùng sức của dân sao? Tất phải thưởng cấp cho
dân nhiều hơn”. Vua nói với quan bộ Hộ rằng: “Hạt này lúa mạ tốt tươi, trộm cướp dẹp
hết, nhân dân đều yên, trẫm rất lấy làm khen ngợi, bằng lòng. Về những thân biền thuộc
tỉnh, gia ơn thưởng cấp cho mọi người theo thứ bậc”. Người thiểu số ở vùng Trấn
Ninh ,v.v. đem lễ vật (ngà voi, sừng tê giác...) đến mừng. Vua ra lệnh ban thưởng...Khi đi
qua đền thờ An Dương Vương, vua ra lệnh cho quan Thượng thư bộ Công là Nguyễn
Trung Mậu sắm lễ vật đến tế. (8)
Ngự giá đi qua Thiết cảng, tương truyền: ngày xưa nhân có các sông chảy xuống
thông qua các núi, người ta mới lựa theo hình thế, đào ra, từ Hà Nội có thể đi suốt đến
phiá Nam tỉnh Nghệ An. Bây giờ cảng này đã bị phù sa mỗi ngày một bồi thêm nên bị
lấp, thành ra đất bằng. (9)
-Vua đến Thanh Hóa: Các kỳ lão trong hạt ra bái yết. Vua nói “Hạt nầy là quê
hương nhà vua, không thể xem như các nơi khác được”. Vua ra lệnh trợ cấp cho các kỳ
lão rất hậu. Có Lê Văn Linh là người Định Tường trứơc theo vua Gia Long qua Vọng
Các, nay định cư tại Thanh Hóa, đến yết kiến. Vua thưởng cho 3 đồng tiền bạc hạng lớn
và một đồng tiền bằng bạc “Tam đa”. Người thiểu số vùng Sầm Sơn đem ngà voi, sừng tê
giác đến ra mắt. Vua ban cho tiền bằng vàng, tiền bằng bạc và áo xiêm, rồi cho về. Các
tỉnh vua đi qua đều được bớt 30% tiền thuế cho dân. Riêng tỉnh Thanh Hoá được bớt 50%
các thứ thuế. (10)



Vua vào yết Nguyên miếu rồi đến núi Triệu Tường, lăng Trường Nguyên. Sai
quan đến tế cao miếu Trừng quốc công. Vua nói: “Gia Miêu ngoại trang ở huyện Tống
Sơn là quê hương nhà vua, được thấm nhuần giáo hoá và yên ổn đã lâu năm, lần nầy
trẫm ra Bắc tuần, được tới yết kiến Nguyên miếu, hôm nay xa giá đến hành cung Thanh
cao, những người kỳ lão, chức mục ở qúi hương đón xe lạy yết, lòng thành khẩn đáng
khen. Lại thấy người còn thật thà, tục vẫn thuần hậu, trẫm rất lấy làm khen ngợi, bằng
lòng. Nay thưởng cho những người trong tôn thất, công tính và các kỳ mục ở quí hương:
bạc, ngân tiền và đồ mặc, có thứ bậc”
Vua thăm núi Triệu Tường ở Thanh Hoá, tương truyền là nơi có ngôi mộ của
Nguyễn Kim (tức Triệu Tổ của nhà Nguyễn). Nguyễn Kim có công giúp con cháu nhà
Lê chống lại họ Mạc (cướp ngôi nhà Lê). Ngăm 1546, Nguyên Hoà (niên hiệu Lê Trang
Tông) thứ 14 đời nhà Lê, Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất, tướng nhà Mạc trá hàng
đầu độc chết. Khi đem chôn, thầy địa lý chọn huyệt mã nơi miệng con rồng, khi linh cữu
vừa đặt xuống thì bỗng nhiên trời làm mưa to gió lớn, sấm sét làm cho mọi người kinh
hải bỏ chạy. Khi mưa tạnh gió yên, mọi người trở lại thì thấy đá núi tiếp liền, cây cối
xanh rậm, không biết chỗ nào mà tìm. Xem như mộ đã được “thiên táng”. Vì thế, gia đình
chỉ trông vào núi mà tế, chỉ thấy núi cao chót vót, hơn hẳn các núi khác, cho nên gọi là
núi Thiên Tôn. Sau khi Nguyễn Kim chết, binh quyền về tay con rể là Trịnh Kiểm.
Nguyễn Hoàng (Thái tổ Gia dũ hoàng đế nhà Nguyễn) tìm đường vào Nam lập nghiệp, về
sau mở mang đất mới thành giang sơn lâu dài của con cháu nhà Nguyễn sau nầy. Đến
thăm nơi đây, thấy gnôi đình làng (qúy hương là quê của vua) vẫn còn lợp tranh, vua ban
cho 500 quan tiền để lợp lại. Vua Thiệu Trị làm bài thơ (ngự chế): “Đẹp thay giang sơn
chỗ này! Tạo hoá đúc thiêng, nước nhà chứa phúc, khác gì đất Thai, Mân của nhà Chu,
đất Phong, Bái của nhà Hán xưa”(Thai, Mân là hai nơi phát tích của nhà Chu. Thai là
nơi tổ nhà Chu được phong nay là Thiểm Tây; Mân là đất Chu Thái Vương ở, nay cũng
thuộc tỉnh Thiêm Tây, Trung Quốc). Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã truy tôn đế hiệu
cho Nguyễn Kim là Triệu Tổ, đặt tên lăng là Trường Nguyên lăng, dựng miếu Triệu Tổ
và thờ ở Thái Miếu (Kinh thành Huế). Vua Minh Mạng khi đến yết kiến lăng Nguyễn
Kim đã phong cho núi ấy là núi Triệu Tường, và sai đắp thành chung quanh để bảo vệ

miếu gọi là thành Triệu Tường. Hôm ấy trời mưa, vua rất mừng nói: “Lễ thăm yết lăng
vừa xong, liền ứng trận mưa qúy hóa, mưa này là điềm tốt, là triệu được mùa” “ Tống
Sơn là đất phát tích, quốc gia ta thánh nối, thần truyền, cơ nghiệp ức vạn năm thực bắt
đầu gây dựng ở đấy. Nay Trẫm ra Bắc, kính yết Nguyên miếu, vọng bái lăng tổ, nhìn thấy
núi sông rạng đẹp, cây cối xanh rườm, lòng luyến mộ không kể sao xiết!” Khi mới lên
ngôi, vua Thiệu Trị đã tha hết các thuế ruộng, thuế thân cũng như mọi sưu dịch cho dân
trong huyện. Nay nhân dịp nầy lại tha cho thêm một năm nữa. Và còn thưởng thêm 300
lạng bạc, 100 tấm lụa màu, 10 con trâu và 10 chĩnh rượu. Có một toà nhà do dân làm ra,
trước đây thưởng 300 quan nay lại thưởng thêm 300 quan nữa. Vua viết thư và gửi các
sản vật tại quê hương tức Quý hương
(huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá) gưỉ về cho Thánh Từ là mẹ của vua để báo tin.
Vua đi qua núi Tam Điệp để vào tỉnh Ninh Bình. Vua lên núi Dục Thúy đọc các
thơ văn người xưa đã khắc vào đá, bài nào không hay thì sai đục bỏ đi. Nguyên tên núi
nầy ngày xưa do Thái phó nhà Trần là Trương Hán Siêu đặt tên, là nơi có phong cảnh sơn
thủy rất đẹp, ai đi qua đó cũng có đề thơ vịnh cảnh...Vua Thiệu Trị đặt tên núi là Hộ


Thành và sai dựng pháo đài phòng thủ. Vua ra lệnh tha bớt 3 phần 10 thuế cho dân tỉnh
Ninh Bình. Tổng đốc Hà –Ninh (Hà Nam-Ninh Bình) là Phạm Hữu Tâm đến yết kiến.
Vua ban cho một chiếc áo nhung phục (tức áo ra trận) của vua, màu đỏ thêu hình rồng
cuốn. Vua nói: “Ngươi là bề tôi cương trực, hoàng khảo ta để lại cho Trẫm, năm ngoái
xét công, đã thưởng cho một chiếc đai dát vàng, chạm ngọc là đồ vật khi ta còn ở tiềm
để, cốt tỏ cái ý vật cũ, người xưa, suy lòng thể dạ mà trao cho. Ngày nay ban áo, tức là
cởi áo mặc cho ngươi, cốt muốn cho ngươi nối mãi được sự tin yêu, giữ vững lâu dài nơi
tỉnh lớn, ngươi nên cố gắng lên”
Rời Ninh Bình, ngày Ất mùi, hai ngày sau vua đến Hưng Yên, tha 3 phần 10 thuế
cho dân. Những nơi về hưũ ngạn sông Cưủ An được bớt 5 phần 10 tiền thuế. Những xã
thôn ở ngoài đê vì nạn mất mùa lụt bão,còn thíếu nợ nhà nước thì được tha bớt 8 phần 10.
Xa giá vua đến gần sông Hà Nội. Vua ra lệnh cho lính nghỉ ngơi. Từ khi ra khỏi kinh
thành Huế đến nay là 27 ngày, đi đường mất 15 ngày và nghỉ ngơi 12 ngày.

-Vua đến Hà Nội: Vua rời Hưng Yên đến Hà Nội vào ngày Mậu tuất (2 tháng 2
năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Xe vua đến bờ sông vào một buổi sáng đẹp trời mùa Xuân.
Hàng vạn người kéo nhau đến đón chào vua . Vua ngự tại điện trong thành, các quan vào
chầu. Vua sai ban bao gấm cho mọi người. Phái bộ đi sứ nhà Thanh đã trở về gồm có: Lý
Văn Phức (hữu Tham tri bộ Lễ), Nguyễn Đức Hoạt ( hữu Thị lang), Bùi Phụ Phong
(Quang Lộc tự khanh) đều có mặt đông đủ để vào chầu vua. Vua thưởng cho văn võ đại
thần và các quan địa phương mỗi người một đồng tiền vàng (kim tiền) có dây đeo. Từ
quản vệ, lang trung khoa đạo trở xuống thì thưởng tiền theo thứ bậc. Các hoàng đệ (em
vua) đi theo vì trời lạnh được ban áo mặc rét. Riêng Kiến An công vì là người thân với
nhà vua nên được ban áo cẩm bào. Theo lệ, các quan Tổng đốc các tỉnh đem dâng ngọc.
Nhưng vua cho phép được dâng phẩm vật điạ phương thay vì ngọc và vua chỉ nhận một
số lễ dâng tượng trưng mà thôi. Số còn lại được trả về cho các địa phương. Ngoài ra, vua
còn thưởng tiền cho họ nữa. Ngày Canh Tý, vua tiếp các bô lão từ các tỉnh đến. Mỗi tỉnh
một người đại diện được vua hỏi về tình hình tại các địa phương. Sau đó, vua tiếp các vị
hưu quan, các vị tiến sĩ, cử nhân và tú tài... Dân tỉnh Hà Nội được giảm thuế 4 phần 10,
các tỉnh khác vùng núi 2 phần 10, các nơi có bệnh dịch, mất mùa được tha nay thêm 3
phần 10 nữa.
3. Duyệt binh lớn để phô trương thanh thế khi tiếp sứ nhà Thanh
Vua ra lệnh tập họp binh lính 5 tỉnh lớn ở Bắc Kỳ để duyệt binh. Hiệp biện đại
học sĩ Lê Đăng Doanh và Hành doanh đại thần Mai Công Ngôn sung chức Tổng lý duyệt
binh. Vua dụ bảo rằng: “Bang giao là việc lớn, người nước xa đến quan chiêm. Chỉnh
đốn quân sĩ, phô bày binh uy, chính là lúc này. Trẫm sẽ một phen duyệt cả các quân để
làm cho uy thế của nước mạnh mẽ. Các ngươi đều nên kiểm soát, sắp đặt tâu lên cho kịp
biết ngay” Vua còn dụ cho bộ Binh như sau: “Việc binh có thể trăm năm không dùng
đến, nhưng không thể một ngày không giảng tập, voi, ngựa, thuyền, tàu đều quan hệ về
binh chính, nên gồm duyệt cả, Trẫm sẽ thân tới xem”. Trước hết là tập trận voi, sau đó
đến trận ngựa. Nước ta từ xưa dã dùng trận voi là một lợi khí mà các nước khác không
có. Vua Thiệu Trị đã nhận xét: “ Khi ra trận ở đồng bằng, có quân bộ giúp sức, có súng
lớn đặt lên, hoặc cưỡi đi trước, hoặc kéo xe đi sau, xông bên tả, đánh bên hưũ, tới đâu
cũng làm cho tan nát, xưa nay các nước dùng binh ít thấy như thế. Cho nên chính sách

dùng voi của triều Nguyễn rất quan trọng. Các nước đều khen ngợi, muốn bắt chứơc mà


không thể bằng được”. Vua còn lưu ý các quan về lợi thế của ngựa. “Có 10 điều lợi: 1đón giặc lúc mới đến, 2-thừa lúc giặc hư không, 3-theo quân giặc đánh bừa bộn, 4-đón
giặc đánh đàng trước, 5-chặn giữ lương thực, tuyệt lương đi của giặc, 6-phá các bến
đồn, hủy bỏ cầu đập, 7-đánh úp khi giặc không phòng bị, đánh thình lình khi giặc chưa
chấn chỉnh, 8-đánh lúc giặc trễ nải, thừa lúc giặc không ngờ, 9- đốt những chỗ chứa
lương của giặc, 10- dẫm xéo nát ruộng nương làm hệ lụy cho con em của giặc. Đó là
những cái lợi của kỵ chiến. Quân kỵ có thể rời ra, tan ra, có thể tụ tập ở xa nghìn dặm
mà về tới chỉ bằng một trăm dặm, ra vào được luôn luôn, cho nên gọi là quân ly hợp.
Xưa kia kỵ sĩ chỉ có cung tên là món sở trường nay thì có các súng điểu sang, tiêu sang,
gươm trường súng ngựa, công đánh phá giặc hơn biết chừng nào. Vả lại người dùng
binh giỏi, không cần phải đánh, người đánh giỏi không cần phải bày trận. Thế nhưng
trời sinh ra 05 (năm) hành, binh (binh khí thuộc về hành Kim) không thể bỏ được, thì về
phép đánh trận, người làm tứơng không nên không biết. Trận có 4 thế “chính”, chuyển
làm 4 thế “kỳ”. Thiên trận ở phương Càn, gọi là cửa Thiên; địa trận ở phương Khôn, gọi
là cửa Địa; phong trận ở phương Tốn, gọi là cửa Phong; vân trận ở phương Khảm, gọi
là cửa Vân; phi long ở phương Chấn, gọi là cửa Phi long; vũ dực ở phương Đoài, goị là
cửa Vũ dực; điểu tường ở phương Ly, gọi là cửa Điểu tường; xà bàn ở phương Cấn goị
là cửa Xà bàn. Thiên, Địa, Phong, Vân là 4 cửa chính; long, hổ, điểu, xà là 4 cửa kỳ.
Càn, Khôn, Cấn, Tốn là cửa đóng; Khảm, Ly, Chấn, Đoài là cửa mở. Trong ngoài tiếp
ứng thành một cái thế nương tựa. Bốn “chính”, bốn “kỳ”, đó là bát trận, nhưng cốt yếu,
lại chỉ ở ba. Xưa vua Cao Tông nhà Đường ngự diện Vũ Thành, hỏi: “Nhà binh có ba
trận là thế nào?” Viên Bán Thiên nói: “Tôi nghe đời xưa theo các sao, các ngày xấu là
thiên trận; theo sông núi đối diện hay quay lưng lại là địa trận; theo tổ chức các đội ngũ,
là nhân trận, nhưng tôi trộm cho là không phải thế. Hành binh theo chính nghĩa như trận
mưa qúy hoá đổ xuống, hợp với thiên thời, ấy là thiên trận; đủ lương ăn, ít tiêu phí, vừa
làm ruộng vừa chiến đấu hợp với địa nghi, ấy là địa trận; đem quân đi, quân sĩ như con
em theo cha anh, được sự nhân hòa, ấy là nhân trận: nếu bỏ những điều đó, thì đánh thế
nào được?” Vua Cao Tông khen là phải. Đó tức là trận tam tài mà là cốt yếu của nhà

binh”. Các quan nghe vua nói như vậy đều cúi đầu xin chiụ kém vua về kiến thức mà vua
đã đọc trong sách vở. Vua lại hỏi các quan: “Trận ngựa với trận voi, đàng nào khó
hơn?” Phạm Hưũ Tâm thưa: “Trận ngựa khó hơn” Vua nói: “Phải đấy! Trận voi chỉ là
chiếu theo phép luyện tập thường, còn trận ngựa thì quân kỵ bắn tên, cầm đao, xông pha
vào trận, nếu không quen thạo thì mình bị bại trước, còn giết giặc được sao? Thế cho
nên khó hơn. Nay đợi duyệt binh xong ban thưởng, sẽ lấy khó, dễ làm thứ bậc cốt cho
đúng mức công bằng để tỏ ra sự ban khen và khuyến khích”. Vua cũng quan tâm đến
thuỷ chiến và tự mình đặt ra những luật lệ, điều khoản về thế trận của thủy chiến và sai
Tôn Thất Bật và Vũ Văn Trứ lo thao diễn về trận thủy chiến. (14)
Qua tường thuật của các sử gia triều Nguyễn trong Quốc Sử Quán mà chúng tôi
đã trích dẫn trên đây, chúng ta nhận thấy rằng trách nhiệm của người lãnh đạo đất nước
thời xưa (vai trò của một ông vua) không phải chỉ biết ăn chơi, trụy lạc mà chính là phải
có trách nhiệm đối với tổ qúôc và đồng bào. Đó là bổn phận bảo vệ tổ quốc và đồng bào,
bảo vệ đất nước của tổ tiên để lại. Vua Thiệu Trị được biết đến như là một con người học
rộng, có tài văn chương...Nhưng kiến thức của nhà vua không phải chỉ trong lãnh vực văn
chương, triết học, đạo lý thánh hiền mà nhà vua còn quan tâm đến lãnh vực quân sự, ngài
đọc sách, nghiên cứu cả về nghệ thuật điều binh, khiển tướng, cách đánh giặc thế nào để


có những lời khuyên bảo nhắc nhở các quan, các tướng về vai trò của quân đội trong việc
bảo vệ tổ quốc, bảo vệ đồng bào.
4. Sứ nhà Thanh đến Hà Nội phong vương cho Thiệu Trị
Các quan nhà Nguyễn được lệnh tổ chức tiếp đón sứ nhà Thanh một cách chu đáo.
Khi qua cửa ải, sứ Tàu là Bảo Thanh thấy quán xá đều có treo đèn ngoài cửa, đường sá
sửa sang, thành quách bền vững, quân đội nghiêm chỉnh, dân cư đông đúc, làng xóm
phồn thịnh nên tấm tắc khen ngợi không dứt. Bảo Thanh đến Gia Thụy, vào công quán,
bèn hỏi viên quan của Việt Nam là Trần Văn Trung rằng: “Quán nầy sau khi làm lễ xong
còn có để nguyên như cũ không?” Trung đáp: “Xong việc thì triệt bỏ đi ngay”. Thanh
nói: “Như vậy há chẳng uổng mất bao nhiêu công khó nhọc và phí tổn?” Trung đem
những lời ấy tâu lên vua. Vua nói: “Hắn thật là ngây thơ!” Vua liền sai bộ Lễ đem

những chi tiết về nghi lễ bang giao trao cho Thanh duyệt . Hai bên đã trao đổi và đồng ý
những điều đã được sắp xếp trong chương trình.
Lễ sách phong
Quyết định Lễ Sách Phong vào ngày Bính Tý. Sáng sớm hôm ấy, từ cửa Chu
Tước đến bến sông Nhị Hà, binh lính và voi dàn thành hàng. Trên thành, cờ xí rực rỡ.
Các phố đều treo đèn, kết hoa, mỗi nhà đều đặt hương án, cắm hoa, dân đứng trước cửa,
hai bên hương án, đốt nhang trầm để đón rước. Theo lệ cũ, vua đội mũ Cưủ Long, mặc áo
màu hồng , đeo đai ngọc (trước đây vua thường mặc áo màu vàng gọi là hoàng bào). Vua
đến cửa Chu Tước đứng đợi. Hoàng tử thứ hai là Hường Nhậm (về sau được nối ngôi là
vua Tự Đức) và em vua là Tương An công Miên Bảo giúp vua về các trang phục. Thọ
Xuân công Miên Định, Phú Bình công Miên An làm ngự tiền thân thần. Văn minh điện
Đại học sĩ Trương Đăng Quế làm Ngự tiền thị lập. Hiệp biện Đại học sĩ Trương Đăng
Doanh giữ chức nghi lễ. Thống chế Tôn Thất Bật, Tổng đốc Mai Công Ngôn làm hỗ tất
đại thần. Thống chế Nguyễn Trọng Tính, Vũ Văn Giải làm thị vệ đại thần. Các quan văn
võ đều mặc triều phục, đứng hầu hai bên điện Long Thiên. Vua sai Tổng đốc Thanh Hoá
là Tôn Thất Lương mặc áo bào tía, mũ mãng, đi đến công quán Gia Thụy đón tiếp sứ
Tàu. Giờ ngọ, sứ nhà Thanh đến, làm lễ sách phong. Kiến An công Miên Đài, Định Viễn
công Miên Bính nhận sắc phong. Lễ xong, mời Bảo Thanh uống trà, Thanh từ chối. Vua
sai đưa sứ trở về công quán nghỉ ngơi.
Ngày hôm sau (Đinh Sửu), Lễ Dụ Tế ở điện Thị Triều (Lễ đọc tờ Dụ của vua nhà
Thanh gửi sang tế vua Minh Mạng). Sứ nhà Thanh đã mang đến 50 tấm lụa, 100 lạng bạc
làm lễ vật gửi đến trước. Vua Thiệu Trị cũng đã sai quan Hưũ tư bổ túc thêm một số lễ
vật nữa cho đầy đủ và nhà vua đã mặc lễ phục đến trước bàn thờ vua Minh Mạng (thần
ngự) kính cáo trước. Khi sứ nhà Thanh đến, vua sai Định Viễn công Miên Bính và Diên
Khánh công Miên Tấn bưng rượu và Đông các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn bưng tờ dụ (của
vua Thanh), Thượng thư Nguyễn Trung Mậu và Phan Bá Đạt bưng hương, Tổng đốc
Nguyễn Đăng Giai, Thống chế Tôn Thất Đường, Tham tri Lý Văn Phức, Lê Bá Tú, Buì
Qũy, Thị lang Nguyễn Trạch bưng lụa cùng dâng lễ tế. Lễ xong, sứ nhà Thanh chắp tay
cuí đầu lui ra, vua cũng đưa tay lên trán để đáp lại. (15)



Điều đáng lưu ý: Trong việc tiếp đón sứ nhà Thanh và diễn tiến các nghi lễ đều
theo điển lễ của Việt Nam. Bảo Thanh cũng như những viên quan thông dịch đi theo ông
ta đều nhất nhất tuân theo luật lệ của nước ta. Vua Thiệu Trị rất hài lòng và ngỏ lời khen
ngợi, tặng quà rất hậu. Riêng sứ nhà Thanh chỉ nhận có 8 thứ (01 chiếc tê giác dát hoa
bằng vàng, 01 đôi tê giác, 02 cân kỳ nam, 10 cân trầm hương, 01 cặp ngà voi, 02 cân
nhục quế, lụa và vải, mỗi thứ 100 tấm).
Vua sai Đào Trí Phú tiển đưa Bảo Thanh ra tận cửa ải. Vua cũng dự trù sẽ cho
một phái đoàn qua tạ ơn vua nhà Thanh nhưng vua Thanh cho phép sẽ tạ ơn vào dịp
mang cống phẩm qua cũng được.
Ban thưởng cho những người có công. Phạt những người thiếu trách nhiệm.
Vua ban thưởng cho những người có công tuỳ theo cấp bực lớn nhỏ. Riêng dân
phu tỉnh Lạng Sơn vì có công làm đường sá cho sứ bộ đi qua nên được thưởng thêm 750
quan tiền. Một số các quan vì không làm tròn nhiệm vụ nên đã bị phạt là hưũ Tham tri bộ
Lại Vũ Đức Khuê, Bố chính Nam Định là Nguyễn Quốc Hoan và Lãnh binh Hà Nội là
Phùng Hưũ Hóa bị bãi chức. Nguyên hôm làm lễ Tuyên phong, sứ nhà Thanh ngồi trên
kiệu đi thẳng vào cửa Chu Tước, bị Thọ Xuân công Miên Định thét bắt phải dừng lại,
Bảo Thanh mới chịu xuống kiệu. Vua cho rằng các quan có trách nhiệm nói trên đã
không chịu đi theo sứ nhà Thanh để hướng dẫn họ nên mới xảy ra chuyện tới lui trái
phép. (16)
Vua hồi loan, trở về cung
Xe của vua hồi loan trở về cung, các quan ra đón vua ở Trấn Bình Đài. Vua đến
cung Từ Thọ lạy mừng Thái hậu, sau đó mới ngự về điện Cần Chánh. Hoàng tử lưu kinh
(ở lại giữ kinh đô) và các quan đến lạy mừng, đem cờ, ấn nộp. Trên kỳ đài treo cờ Khánh
hỷ (cờ mừng có đủ các màu sắc). Hai hôm sau, vua đến điện Hiếu Tư làm lễ tạ ơn và báo
cáo với tổ tiên việc bang giao đã xong. Vua lập đàn chay ở chùa Thiên Mụ, ban tờ Dụ
cho toàn dân: “Năm nay, đại giá Bắc tuần, đường đi qua 9 quận, trước ngày khải loan,
trẫm ở trong cung, mật cầu trời, tổ ban phúc khiến cho Thánh tổ mẫu thái hoàng thái
hậu ta lành mạnh, đó là điều mong ước nhất. Từ đầu Xuân khải loan đến đầu Hạ hồi tất,
thường thường nhận được tin mừng ở kinh: Thánh từ ngày càng mạnh khoẻ. Vả lại, lúc

đi thì mưa Xuân tạnh ráo đón xe ra, lúc về thì mùa Hạ thuận tiết hộ vệ đường về, trẫm
thấy trong mình càng khoẻ, những người đi theo cùng đều được lành mạnh. Nay cờ rồng
đã tiến về kinh, kính yết Từ cung, bà cháu sum họp vui vẻ; tới triều, các quan tấp nập
mừng vui, lòng trẫm mừng rỡ khôn kể xiết! Vậy lập đàn cầu phúc, sai thự thống chế
doanh Kỳ vũ Tôn Thất Đường, thị lang bộ lễ Trương Quốc Dụng coi việc ấy”
Mấy hôm sau, ngày Bính Thân, vua ban tờ Chiếu cho toàn dân biết:
“...Trẫm kính nối nghiệp xưa, theo sự được nghe, ghi lời đạo đức, lo sâu xa, tĩnh
mật để nối sáng người xưa, xem xét chế độ, kính cẩn việc làm, nghĩ nối chí theo việc tức
là đạo hiếu. Vì thế, kính tuân hiến pháp sẵn định, làm việc bang giao. Ngày 22 tháng
Giêng năm nay, xa giá Bắc tuần, ngày 18 tháng hai đến hành tại Hà Nội. Cờ đi tới đâu
cũng xét quan lại, chỉnh binh nhung, làm tốt, gia ơn khắp tới dân chúng. Già trẻ nơi làng


mạc thấy bóng cờ đều vui mừng; quan chức các địa phương họp lễ cống đến triều yết.
Xét các lệ xưa nay để làm điển lễ, hợp mọi tình trên dưới để tiếp phúc trời. Lần nầy sứ
Thanh vâng mệnh sang đây, trong khi tới, lui, kính cẩn theo lễ độ; sự hoà thuận vui vẻ
hợp với tình văn, quốc thể càng thêm tôn, thần dân đều mừng rỡ. Thật là nhờ về hoàng tổ
Thế tổ Cao hoàng đế và hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế ta uy đức đã rộng khắp,
nên được như thế. Ngày 28 tháng trước, lễ lớn khánh thành; ngày 29 hồi loan; ngày 12
tháng này, tới kinh. Từ mình trẫm cho chí các hoàng đệ, hoàng thân và các quan đi theo,
mọi sự đều được tốt lành cả. Nhận thấy sự được phúc lớn lao, khắp trong ngoài vui vẻ,
lòng trẫm mừng, cảm kể sao cho xiết! Ngày 14, đã thân đến kính tạ điện Hiếu tư; ngày
15, thân đến mừng sức khoẻ cung Từ thọ; ngày 17 thân đến kính tạ Thái miếu, sai quan
đến kính tạ Triệu miếu; ngày 18, thân đến kính tạ Thế miếu, sai quan đến kính tạ Hưng
miếu. Nay ban chiếu khắp thiên hạ để vui lòng mọi người. Than ôi! noi điển cũ để trọn
việc thân thiện với nước khác, làm tỏ mưu mô, công nghiệp người xưa; giữ phúc trước để
tiến tới yên định cho dân sinh, cốt đón mừng vui lâu dài của vận mệnh. Bá cáo cho mọi
người, xa gần đều nghe, biết”. (17)
Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Tây Sơn và các vua đầu nhà
Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng) đều cho sứ qua Trung Quốc xin vua Tàu phong vương.

Vua Việt Nam được vua Tàu cấp cho một chiếc ấn đúc bằng vàng. Dưới thời nhà
Nguyễn, mặc dù Huế là kinh đô của Việt Nam, nhưng các vua nhà Nguyễn vẫn phải ra
tận Hà Nội nhận sắc phong. Sứ Tàu cũng thích đến Hà Nội vì nơi đây gần Trung Quốc
hơn, tránh được cảnh đi lại đường sá xa xôi, vất vả nhọc nhằn, khí hậu khắc nghiệt. Hà
Nội là nơi đời sống vật chất, tinh thần cao hơn các nơi khác nên được xem là chốn ngàn
năm văn vật. Vua Thiệu Trị là vua cuối cùng của nhà Nguyễn ra Hà Nội nhận sắc phong.
Nhưng kể từ vua Tự Đức, nhà vua muốn chứng tỏ rằng, Huế mới là kinh đô, là nơi nhân
tài tụ hội, là nơi văn vật không thua kém gì Hà Nội, đời sống tinh thần, vật chất ở đây cao
hơn các nơi khác. Vua Tự Đức lấy lý do Hà Nội không phải là kinh đô của nước Việt
Nam để từ chối ra Bắc và buộc sứ nhà Thanh là Lao Sùng Quang (18) phải đến kinh đô
Huế để phong vương vào năm Kỷ Dậu (1849). Trong việc ngoại giao với nhà Thanh, các
vua Việt Nam, nhất là các vua nhà Nguyễn luôn luôn bảo vệ chủ quyền quốc gia và danh
dự của dân tộc
NGOẠI GIAO VỚI XIÊM LA
Trong thời kỳ các chúa Nguyễn còn chiến tranh với Tây Sơn, Xiêm La đã lợi
dụng cơ hội để phân chia đất Cao Miên năm 1779 dưới đời quốc vương Trịnh Quốc Anh.
Năm 1794, Nặc Ấn lưu vong qua Vọng các rồi được vua Xiêm cho một đạo quân
đưa về nước nhưng hai tỉnh Battambang và Angkor phải nhượng cho nước Xiêm. Nặc
Ấn mất năm 1796. Năm 1802 Miên mới có vua là Nặc Ông Chân, con Nặc Ông Ấn. Tuy
đă thần phục Xiêm La, Ông Chân vẫn cử sứ đoàn ra chầu vua Gia Long tại Thăng Long.
Từ năm 1805 Miên thần phục triều đình Việt nhưng năm sau lại sang Vọng Các thụ
phong tiếp.
Người Xiêm không tán thành chính sách nước đôi này nên ngầm giúp Nặc Ông
Nguyên, em của Ông Chân, nổi loạn. Ông Chân phải chạy sang cầu cứu triều Nguyễn.
Xiêm liền tiến quân đánh thành La Bích (Lovek). Vua Gia Long cử Lê Văn Duyệt, Tổng
trấn Gia Định Thành dẫn 10.000 quân hộ vệ đưa Ông Chân trở về nước khiến Xiêm và


Nặc Ông Nguyên phải rút lui. Lê Văn Duyệt sau đó đặt chế độ bảo hộ trên đất Miên từ
đấy và xây thành Nam Vang và thành La Lem Sau đó vua cử Nguyễn Văn Thụy đem

1.000 quân sang trấn giữ xứ này như một thuộc quốc.
Dù có xung đột từ thời kỳ trước đó đến khi Gia Long nắm quyền, việc giao thiệp
giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên
vẫn có sự sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện và tặng phẩm. Tại Ai Lao, Đại Việt và Xiêm
La cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng
Cam Lộ, dân ở các vùng Cao Nguyên hai tỉnh Thanh - Nghệ, người thượng (tức người
Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hảo Xã, cũng có cống phẩm đến để tỏ lòng tuân theo
chính quyền của triều Nguyễn.
Năm 1827, Quân Xiêm La đánh Vạn Tượng khiến quốc vương xứ này là A Nộ
chống không nổi phải sang cầu cứu triều đình Việt Nam. Vua Minh Mạng cho Thống chế
Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại. Năm 1828
Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục đem 3.000 quân và 24
con voi đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn Tường nhưng đạo quân của nhà
Nguyễn và A Nộ lại bị thua phải xin viện binh ở Nghệ An. Vua Minh Mạng chán việc
này hạ lệnh bãi bỏ và chỉ còn phòng vệ vùng biên giới. Sau A Nộ chạy về Trấn Ninh bị
bắt nộp cho Xiêm La.
Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị Thống chế Phạm
Văn Điển và Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo quân nhà Nguyễn ở
Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư cho họ để trách cứ. Xiêm La trả lời
khiêm Nhượng rồi rút quân về. Tuy vậy họ vẫn bí mật giúp người Chân Lạp nổi lên
chống lại chính quyền Đại Nam hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các xứ quy phụ triều đình.
Cuối năm 1833, nước Xiêm mang quân vào nội địa Nam Hà và Chân Lạp theo lời
kêu gọi của Lê văn Khôi. Theo sử gia Phạm Văn Sơn thì: "Xiêm La từ khi mất quyền bảo
hộ ở Chân Lạp vẫn hằn học với Việt Nam, lúc không sinh sự được với ta thì lại quay ra
quấy rối Ai Lao và Chân Lạp, hoặc khi thấy có biến cố xảy ra trên đất Việt Nam liền nắm
ngay cơ hội để xâm lấn".
NGOẠI GIAO VỚI AI LAO
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam.
Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh:
Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị đều xin làm nội thuộc và trở thành các châu, phủ của

Việt Nam.
NGOẠI GIAO VỚI CHÂN LẠP
Khi Gia Định bị thất thủ, quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La.
Đến năm đinh mão (1807), Nặc Ông Chân bỏ Tiêm La xin về thần phục vua Việt Nam,
theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần. Đồ cống vật gồm: voi đực cao 5 thước 2 con; sừng


tê giác 2 chiếc; ngà voi 2 cái; hột sa nhân 50 cân; đậu khấu 50 cân; hoàng lạp 50 cân;
cánh kiến 50 cân; và sơn đen 20 lọ.
Khi vua Gia Long lên ngôi, nước Cao Miên tuy mất Thủy Chân Lạp cho người
Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục. Thời Minh Mạng, sau khi phá được quân Xiêm,
Tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam
Vang để bảo hộ Chân Lạp.
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có
con trai nối dõi, quyền bính chuyển sang cho Trà Long và Lê Kiên - hai người Chân Lạp
làm quan cho người Việt. Năm sau, Trương Minh Giảng lập công chúa Angmey, con của
Nặc Ông Chân, còn gọi là Ngọc Vân công chúa, làm quận chúa. Ông đổi nước Chân Lạp
thành Trấn Tây thành, chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan coi sóc mọi việc
quân sự và dân sự.
Do quan lại Đại Nam tại Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân Chân
Lạp; do nhà Nguyễn bắt Ngọc Vân công chúa về Gia Định, đày Trà Long và Lê Kiên ra
miền Bắc Việt Nam, nhân dân Chân Lạp oán giận và nổi dậy chống quân Việt Nam ở
khắp nơi. Người em của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa với sự giúp đỡ của
Xiêm La. Quân nhà Nguyễn đánh dẹp không nổi, đến khi vua Minh Mạng qua đời thì
Trương Minh Giảng phải bỏ Trấn Tây thành rút về An Giang.
Ký ức của người khowmer về các cuộc nổi dậy của họ thời đầu thế kỷ 19 và về sự
tàn bạo của quan quân nhà Nguyễn khi đánh dẹp đã được lưu truyền trong ca dao và
truyện kể của người Khmer. Họ dùng từ "Youn" (trong tiếng khmer có nghĩa là "man rợ")
để chỉ người Việt. Các bà mẹ thường dùng chuyện "Youn bắt" để dọa con. Kênh Vĩnh
Tế- con kênh đào dài 25 dặm được xây dựng bởi dân phu Việt và một phần người Khmer

ở Thoại Sơn - đã để lại những câu chuyện về cách đối xử tàn ác của người Việt đối với
người Khmer mà sau này người khmer đỏ đã sử dụng trong các chiến dịch tuyên truyền
khơi dậy lòng hận thù của người Campuchia đối với người Việt.

NGOẠI GIAO VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY
. Nước Anh: Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng
buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam ngày nay. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng
không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị từ
chối.
. Pháp:Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian
truân có nhờ ông Đá Ba Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau,
Vanniervà Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50 lính hầu và khi chầu
thì không cần lạy Hoàng đế.


Năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybefle để thăm dò bang
giao. Thuyền trưởng là Achille kergarion nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành
những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn
Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không
thi hành thì nay bỏ, không nói đến.
Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e ngại,
nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần phải giao hảo với
người Phương Tây nhưng không thể biệt đãi một quố gia đặc biệt nào. Năm 1819, John
white, một thương gia Hoa Kì tới Gia Định và được hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng
khi buôn bán ở Việt Nam.
Vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người
Á Đông lúc đó, coi người Âu Châu là bọn man di, là quân xâm lược. Ngoài ra ông cũng
không thích cả Công giáo của Châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ
Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế
Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.

Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng tỏ thái độ lạnh
nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng nữa. Minh Mạng cho
Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa hai chính phủ, người Việt Nam
vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ thỏa thuận mua bán với người Pháp
nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc
thư của Pháp xin cho ông Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Đông Dương không được nhà
vua đếm xỉa đến.
Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước từ
mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thương
mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa hàng có quốc thư xin thông thương nhưng
không được tiếp nhận.
Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa Hàn,
cửa Thị Nại và Quảng Yên ngỳ nay xin thông thương cũng không được chấp nhận. Sau
khi Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình nhà Nguyễn với các
nước phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Tỵ để lo
buôn bán và Thượng Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng không có kết
quả vì những người được ủy thác vào các việc này không được học gì về ngoại giao.

Chính sách ngoại giao với phương Tây thời Minh Mạng
Sau hai cuộc cách mạng tư sản và công nghiệp, chủ nghĩa thực dân phương Tây
đã bành trướng ra toàn thế giới. Rất hiếm thấy một quốc gia châu Á nào còn giữ được nền
độc lập thực sự trước làn sóng thực dân này. Xem xét chính sách ngoại giao và phương
thức ứng xử đối với Công giáo thời Minh Mạng trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, tác giả


vạch ra sự phiến diện của quan điểm cho rằng chính sách ‘bế quan toả cảng’ của nhà
Nguyễn là nguyên nhân mất nước thế kỷ XIX.
Lâu nay trong nhận thức lịch sử vẫn tồn tại quan điểm phê phán chính sách “bế
quan toả cảng”, đóng cửa đất nước của triều Nguyễn đã dẫn tới bi kịch là Việt Nam bị
mất độc lập. Tuy nhiên tới những năm gần đây, bằng các nghiên cứu sâu hơn trong chính

sách ngoại giao của nhà Nguyễn đã cho thấy thực tế không hoàn toàn như vậy. Đặc biệt
Đại Nam thời vua Minh Mạng, đất nước đã không hoàn toàn đóng cửa mà chỉ có thể coi
là sự cảnh giác cần thiết trước những thay đổi của thời đại và chính Minh Mạng cũng rất
nỗ lực để đưa đất nước của ông hoà chung nhịp điệu ấy, chỉ tiếc rằng ông không đủ thời
gian cho kế hoạch dài hơi mà ông đã có ý định thực hiện từ rất sớm. Qua nguồn tư liệu từ
chính sử nhà Nguyễn cho thấy suốt thời gian trị vì, Minh Mạng đã nghiên cứu và tìm hiểu
kỹ phương Tây vừa để thực hiện cho chiến thuật phòng thủ chống lại phương Tây, vừa là
một lựa chọn và rốt cuộc chấp nhận một đường lối mới với những cách nhìn và giải pháp
mới. Tuy nhiên phái bộ đầu tiên tới châu Âu do ông cử đi đã không thể thực hiện được ý
đồ của triều đình buộc phải quay về mà không được tiếp ở cấp cao tại Pari cũng như tại
Luân Đôn(1. Khi đoàn sứ giả trở về nước thì vua Minh Mạng đã mất do ngã ngựa, vì vậy
chúng ta không thể tìm hiểu được hồi kết của chính sách ngoại giao với người Tây dương
dưới thời vua Minh Mạng, song không thể phủ nhận rằng nhận thức về phương Tây của
ông đã đưa tới trạng thái ấm lạnh khác nhau ở từng thời kỳ nhưng cuối cùng là sự thay
đổi lớn lao về mặt tư tưởng là chấp nhận thực tế và ông sẵn sàng mở rộng cánh cửa quốc
gia để đón luồng gió mới, tuy nhiên thời gian đã không ủng hộ ông.
Tiếp nhận vương triều kho bước vào tuổi 30 – ở độ tuổi mà nhận thức chính trị
sắc bén nhất, đồng thời ở độ tuổi này đủ thời gian cho ông thay đổi quan điểm của mình
trước những vấn đề lớn. Đất nước mà ông tiếp quản vừa trải qua một thế kỷ dài loạn lạc
binh đao, gần 20 năm cầm quyền của vua Gia Long chưa thể quy tụ lòng người về một
mối. Triều đình vẫn phải lựa chọn giải pháp phân quyền có điều kiện: trực trị miền
Trung, gián trị miền Bắc và miền Nam qua việc lập Bắc thành tổng trấn và Gia Định
thành tổng trấn. Tiếp nối vua cha Gia Long, ông vừa lao củng cố nội trị, phát triển kinh
tế, giáo hoá thuần phong, vừa theo dõi và quan sát các nước trong khu vực, đề phòng mối
hoạ từ bên ngoài, mặt khác Minh Mạng còn gánh thêm một nhiệm vụ, một nỗ lực xoá bỏ
quuền lực địa phương khi nó trở thành một trở lực cho sự thống nhất lãnh thổ khi những
ý đồ mang tính chất cát cứ, ly tâm muốn tách khỏi triều đình qua động thái của Lê Văn
Duyệt, Nguyễn Thành Nhân mà ông được tiếp nhận (dù cho những thông tin tới tai ông
có chính xác hay không) cũng khiến ông thận trọng và cảnh giác hơn với các cựu thần có
công thiết lập vương triều. Để rồi từ đó có thể đi tới liên hệ hành động bài trừ công giáo

của ông cũng chính là cách hạ bệ uy tín cá nhân của những người mà ông lo rằng sẽ lợi
dụng lực lượng này để chiếm đoạt quyền lực. Nhãn quan chính trị của Minh Mạng bị chi
phối mạnh mẽ bởi những sự kiện liên tiếp xảy ra với đất nước ông và các nước láng giềng
khi thời kỳ Minh Mạng cầm quyền, các thế lực thực dân bắt đầu can thiệp vào Đông Nam
Á theo những cách thức bạo lực hơn thì hiển nhiên bằng tất cả khả năng có thể, ông cố
gắng nâng cao khả năng phòng vệ cho đất nước của mình là lựa chọn số một.
Thái độ của Minh Mạng với Kitô giáo và nguyên nhân


Chắc hẳn Minh Mạng không thể quên người giúp đỡ, đồng thời là cố vấn thân cận
của cha ông cũng chính là một giáo sĩ truyền đạo. Và chính vị giáo sĩ này đã mang tới
bản hiệp ước giữa Nguyễn Ánh với triều đình Pháp mà nếu nhìn lại nội dung của bản
hiệp ước này, người ta sẽ không thể vô tư khi xem hoạt động giáo sĩ chỉ là sự truyền đạo
thông thường(2). Từ Bá-đa-lộc, Nguyễn Ánh đã hi vọng nhận được sự viện trợ về mặt vật
chất, nhân lực, và những viện trợ quân sự từ chính phủ Pháp để đánh lại nghĩa quân Tây
Sơn mà trong con mắt của người Pháp đó là những kẻ tiếm quyền. Trong khi đó, Pigneau
lại hi vọng sẽ nhận được sự bảo trợ của hoàng đế cho những hoạt động truyền giáo của
ông. Chắc hẳn điều này sớm được đặt ra trong những bàn luận của quan lại triều đình
Huế và nó cũng tác động tới nhận thức của Minh Mạng khi ông bước vào tuổi trưởng
thành đưa tới sự ác cảm của ông với Kitô giáo. Ngay cả trước khi Minh Mạng lên ngôi
hoàng đế thì lối ứng xử của ông với các tín đồ Kitô giáo đã dẫn tới sự lo lắng của cộng
đồng giáo dân khi ông lên nắm quyền. Đầu năm 1820, người ta đã quan sát thấy: với các
tín đồ Kitô giáo và người ngoại quốc, người ta lo ngại rằng chính sách trục xuất khỏi
vương quốc hoặc tiêu diệt họ sẽ được ban hành vì ông ta (Minh Mạng) là kẻ thù không
đội trời chung của cả hai loại người kể trên(3.
Tuy nhiên, trong quá khứ không phải ông là người đầu tiên thi hành biện pháp
cứng rắn với tôn giáo này và cũng không phải ngay khi cầm quyền, ông đã thi hành ngay
biện pháp đuổi giáo sĩ và giết hại giáo dân. Sự hà khắc trong chính sách của triều đình
Huế đối với Kitô giáo và giáo sĩ chỉ thực sự bắt đầu từ năm 1833. Cũng nên nhìn nhận
rằng chính sách cấm đạo của vua Minh Mạng hoàn toàn nhắm vào mục đích duy trì trật

tự xã hội mà nhà vua tin rằng là bị đe bởi những du hặc của đạo Gia tô (4). Nhất là khi
những cuộc khởi nghĩa hay âm mưu lật đổ ông bị phát hiện đều có sự tham gia của lực
lượng giáo dân và sự ủng hộ của giáo sĩ nước ngoài như cuộc khởi nghĩa của Lê Văn
Khôi, hay hành động lôi kéo giáo dân và giáo sĩ trong âm mưu lật đổ ngai vàng của người
cháu gọi ông bằng chú ruột. Vì vậy không nên nhìn nhận chính sách tôn giáo của triều
Nguyễn như một biểu hiện của “bế quan toả cảng”. Sự ác cảm của Minh Mạng đối với
Kitô giáo còn là do những thông tin sai lệch từ những cận thần mang tới cho ông: Tả phó
đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt tâu rằng: “…Mã Song khai rằng thầy thuốc nước hắn,
nhân người sắp chết, khoét lấy con mắt, phơi khô, hợp với hai vị a nguỵ và nhữ hương,
tán nhỏ chế thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục truyền rằng tà giáo Tây dương thường khoét
mắt người, và cho một trai, một gái, ở chung nhà có tường ngăn cách, lâu ngày động dục
tình, nhân đấy đập cho chết bẹp, lấy nước (xác chết đó) hoà làm bánh thánh, mỗi khi
giảng đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo không bỏ được. Cả đến người theo đạo,
khi trai, gái, lấy vợ chồng, thì đạo trưởng đem người con gái vào nhà kín, với danh nghĩa
là giảng đạo, thực là để dâm ô”(5). Điều này mang tới mối lo ngại thực sự cho nhà vua bởi
theo nhãn quan Nho giáo của ông thì đó đều là những điều cấm kỵ, phạm vào thuần
phong mỹ tục – nền tảng đạo đức cơ bản mà ông muốn dựa vào để giáo hoá dân chúng.
Dưới thời vua Gia Long, do mối quan hệ thân thiết trước đây với những giáo sĩ
người Pháp mà tình cảm của nhà vua với hệ tư tưởng mới này khá cởi mở. Tuy nhiên vì
một bê bối chính trị nào đó (6), vua Gia Long cũng dần dần lạnh nhạt với các cố vấn người
Pháp dù vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ nhưng sự bành trướng của người dân châu Âu ở
Đông Nam Á khiến vua Gia Long thêm e ngại, nhất là khi người Anh chiếm Tân Gia Ba.
Nhà vua thấy cần phải giao hảo với người phương Tây nhưng không thể biệt đãi một


quốc gia đặc biệt nào(7). Hẳn nhiên những thay đổi trong ứng xử của vua cha với những
người bạn cũ sẽ tác động mạnh mẽ tới vị thái tử thứ 4 khi lên nắm quyền, ở đúng thời
điểm các quốc gia phương Tây cố gắng thương lượng với Đại Nam để tìm đạt những đặc
quyền chính trị và thương mại, những mưu toan và mục đích của họ làm cho triều
Nguyễn vô cùng lo ngại.

Bản thân Minh Mạng cũng cảnh giác cao ảnh hưởng cảu đạo Công giáo bởi ông
nhận thấy các nước châu Á (đáng chú ý là Ấn Độ và nhiều nước Đông Nam Á) từng mở
cửa quan hệ với các liệt cường phương Tây đều bị biến thành thuộc địa: Trong khi đó các
nước Nho học khác triệt để ngăn cấm Kitô giáo vẫn được an toàn như Trung Quốc, Triều
Tiên, Nhật Bản. Từ những phái viên được cử tới Trung Quốc, chắc chắn Minh Mạng biết
điều gì xảy ra với các tín đồ Kitô giáo ở những quốc gia này và có thể ông cố gắng theo
gương họ(8).
Sự thay đổi trong chính sách ngoại giao với phương Tây
Không thể phủ nhận sự ác cảm của Minh Mạng với Kitô giáo là rào cản, trở ngại
trong giao thiệp của ông với các nước phương Tây. Tuy nhiên điều đó không thể ngăn
cản ông tìm hiểu hay nghi ngờ mọi thứ đến từ nước ngoài, bản thân ông là một người yêu
thích địa lý, lịch sử, kỹ thuật và phát minh khoa học phương Tây. Tự ông đã mày mò tìm
hiểu cách sử dụng “cái ống nhòm” do người Tây dương tặng và không tiếc lời khen là
tuyệt diệu(9). Dù cho chưa có chính sách thúc đẩy quan hệ giao thương nhưng sự giao
thiệp với các nước phương Tây thông qua quan hệ buôn bán vẫn diễn ra chính thức với tư
cách triều đình. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), có người Phú Lãng Sa dâng quốc thư và
sản vật địa phương cùng đến với Thắng, đậu thuyền ở Đà Nẵng. Đem thư dịch là xin
thông thương. Vua giao đìh thần bàn, rồi hạ lệnh cho ty Thương bạc đưa thư trả lời nhận
cho, và biếu nhiều phẩm vật(10). Trong chính sử còn ghi nhận viên quan Bộ Hộ là Lê Công
Tường phụng mệnh triều đình đi bán đường cát cho người Pháp ở cửa biển Đà Nẵng, nhẹ
dạ ăn của đút sau bị cắt chức phải phát đi hiệu lực (11). Đầu thời Minh Mạng (1820), đã có
thương nhân Hoa Kỳ đến giao thương ở Gia Định: “Thành Gia Định dâng chim hạc đen
và lợn vàng nước Ma Ly Căn”(12).
Tuy nhiên, khi thương nhân người Anh đến không mang theo quốc thư của triều
đình là không đủ tư cách nên bị từ chối bởi không hợp theo luật lệ của nước Đại Nam,
nhân đó nhà vua sai hữu ty bàn định điều lệ về việc các nước đến buôn, trong đó không
phân biệt thuyền buôn đến từ các nươc trong khu vực hay đến từ Tây dương đều tuân
theo quy định chung(13). Thái độ của Minh Mạng khá ôn hoà khi tuyên bố tất cả các quốc
gia đều được tự do mậu dịch với điều kiện phải tôn trọng luật lệ Đại Nam. Tình hình của
các quốc gia láng giềng cũng tác động mạnh mẽ tới thái độ của nhà vua đối với người

Tây dương, đặc biệt là người Anh. Nhân sứ giả nước Xiêm tới, vua Minh Mạng có buổi
bàn luận về cuộc chiến tranh Anh – Miến Điện với phái đoàn Xiêm “Nước Xiêm và nước
Miến Điện có thù với nhau đời đời, nay nước Miến Điện bị người Hồng Mao đánh, người
Xiêm có hả lòng không?” Sứ giả trả lời “Có”. Vua cười nói rằng “Nước Xiêm có nước
Miến Điện như nhà có phên giậu, nếu Hồng Mao đánh mà lấy được, thì thế rồi tất đến
nước Xiêm. Người mưu việc nước Xiêm nên lo chứ chẳng nên vui”. Theo nhà vua người
Xiêm nên lo vì sau đó nước Xiêm sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm hơn bởi láng giềng của


họ sẽ là một nước phương Tây hùng mạnh(14). Dù mang trong lòng nỗi lo về sự xâm nhập
của phương Tây ta còn thấy nhà vua có ứng xử khá tế nhị, tánh làm mất lòng hoặc chí ít
là khong cho người Anh hay người Pháp có “duyên cớ” để can thiệp vào công việc nội
bộ. Sự thật là Minh Mạng e ngại rằng nếu nhường cho người Pháp một vài đặc quyền
thương mại thì người Anh cũng sẽ đòi hỏi, điều đó còn cho thấy sự khôn khéo, thận trọng
tỏng quan hệ bang giao với các nước Tây dương của nhà vua: “Năm trước nước Anh Cát
Lợi nhiều lần dâng lễ, trẫm đều từ chối không nhận, nay chẳng lẽ lại cho Phú Lãng Sa
thông hiếu”(15).
Sự thận trọng trong quan hệ giao thương với người phương Tây là có căn cứ kho
sự nhòm ngó ngày càng lộ liễu. Binh thuyền nước Phú Lãng Sa đến đậu ở cửa biển Đà
Nẵng muốn xin thông hiếu song lại đưa hung tin về việc người Anh muốn xâm chiếm
Quảng Đông và nhắn nhủ triều đình Huế đừng giúp Quảng Đông, bên cạnh đó cảnh giác
triều đình Huế về mối hệ luỵ này, rồi lấy cớ khảo sát khoa học lên núi Tam Thai xem xét,
đòi vẽ địa đồ Bắc Thành. Tiếp nhận thông tin của người Pháp, nhà vua cả cười mà rằng:
“Nước ấy muốn mượn việc đó làm ơn với ta để mong đạt kế muốn giao hiếu đó thôi.
Nước Hồng Mao xâm lấn nước Thanh có can hệ gì đến ta!” Tuy nhiên người ta lại thấy
ngược lại, thông tin từ các nước láng giềng là mối quan tâm đặc biệt của nhà vua. Năm
Minh Mạng thứ 7 (1826), khi sứ giả Xiêm vào kinh yết kiến, nhà vua lại một lần nữa bàn
bạc với sứ giả về chiến tranh giữa Anh và Miến Điện. Sau lại mở địa đồ trỏ bảo bầy tôi
rằng “Trẫm nghe nói nước Xiêm La cùng nước Hồng Mao có hiềm khích, chợt có dùng
binh thì Hà Tiên là chỗ hai nước xung đột nhau, ta nên tính toán ra sao để phòng việc

không ngờ”(16). Một cách gián tiếp, triều đình Huế đã thể hiện mối lo ngại của mình trước
các thế lực Tây dương bằng hành động mang tính thăm dò những cơ sở mà người phương
Tây đặt trong khu vực. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), nhà vua sai Cai cơ Ngô Văn Trung
và Tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đi Hạ Châu, vua dụ rằng: “Chuyến đi này không
phải để mua hàng hoá, chính là muốn biết núi sông, phong tục, nhân vật của nước ngoài.
Bọn ngươi đến nơi phải xem kỹ la bàn, ghi chép rõ ràng cho biết phương hướng”. Động
thái thăm dò phương Tây của triều đình Huế cũng được người nước ngoài nhìn nhận:
“Ngoài việc thực hiện những thương vụ cho nhà vua, các phái viên đi sứ còn làm nhiệm
vụ điều tra những cơ sở phương Tây trong vùng. Năm 1825, vua đã gửi hai đội vũ trang
và một đoàn quan lại tới vùng Singapour để mua hàng len và hàng thuỷ tinh. Sau mới
phát hiện là những viên quan này cũng tới để tường trình những điều kiện và quan điểm
của những thuộc địa châu Âu ở eo Malacca”(17). Nguỵ trang dưới mục đích mua hàng hoá
và vũ khí, Minh Mạng đã phái nhiều đoàn sứ giả đến các nước trong khu vực Đông Nam
Á, Nam Á, đặc biệt là Đông Nam Á hải đảo để tìm hiểu những hoạt động của người
phương Tây ở cơ sở của họ. Theo thống kê của Giáo sư Chen Ching-ho, từ năm 1778 đến
năm 1847, không kể 18 cuộc đi sứ không có cứ liệu chính xác, ông đã liệt kê có tới 11
cuộc tới Batavia, 6 cuộc tại Singapour, hai cuộc xuống vùng Tiều tây dương, 2 lần tới
Penang, 2 lần tới Semarang, 2 lần đến Luzon, 1 lần đến Joho và 1 lần đến Malacca.
Không tính những cuộc đi sứ mà cứ liệu chưa chính xác thì trong tổng số 29 chuyến đi
xuống vùng Hạ Châu thì có tới 18 chuyến đi được thực hiện dưới thời vua Minh Mạng.
Một mật độ cao hơn hẳn cho thấy sự quan tâm của nhà vua tới vùng biển này, nơi mà
người phương Tây đã xác lập được căn cứ từ lâu.
Có lẽ những báo cáo của phái viên đi sứ ít nhiều đã làm thay đổi chính sách ngoại giao
của triều đình Huế, dù vẫn cẩn trọng từ chối ký kết những hiệp ước thương mại chính


thức với các quốc gia phương Tây nhưng Minh Mạng lại không ngăn cản các thương gia
đên buôn bán ở Việt Nam. Năm 1825, nhà vua còn cho gửi thư hỏi vị khâm sứ Anh ở Tân
Gia Ba tại sao các thương nhân Anh lại không tới buôn bán tại các thương khẩu Việt
Nam. Ngoài ra trong ghi chép của những phái viên đi sứ cũng hé cho chúng ta biết nhiệm

vụ quan trọng mà triều đình Huế giao phó cho họ. Tiêu biểu nhất là ghi chép của Phan
Huy Chú trong Hải trình chí lược khi Phan tự nhận việc ghi lại về sự trạng của người
Man Di ở các đảo xa, tình hình người vật các xứ lạ như góp phần nhỏ cho việc “quan
phong”(18) của Thánh triều. Rất có thể việc ghi lại Hải trình chí lược là yêu cầu của Minh
Mạng đối với phái viên Phan Huy Chú bởi trong lời dẫn, Phan gián tiếp ám chỉ điều này.
Sách làm xong vào tháng 5 (Âm lịch) năm Minh Mạng thứ 14 (1833) thì tháng 9 năm ấy
Phan lại được khôi phục chức vụ Tư vụ ngạch ngoại giao bộ Công, chứng tỏ Minh Mạng
đánh giá cao việc làm của phái bộ trong chuyến công cán tới Hạ Châu năm trước. Trong
những ghi chép của Phan Huy Chú, Lý Văn Phức hay Cao Bá Quát là những bản được
biết đến nhiều nhất, người ta thấy rằng những sứ giả Việt Nam tỏ ra không quan tâm
nhiều lắm tới cư dân bản xứ mà chú ý nhiều hơn tới những hoạt động kinh tế, hệ thống
hành chính, tổ chức quân sự và sự cạnh tranh của người Tây dương cùng kỹ nghệ hiện
đại của họ. “Hồng Mao ở cách Đại Tây Dương đi thuyền mất hơn 5 tháng. Chỉ vì tàu
thuyền của họ vũ khí sắc bén, nên họ có thể vượt biển khơi mà cướp đảo xa, chiếm lấy
mà thống trị. Mấy trăm năm nay người Đồ Bà bèn trở thành tôi đòi của họ, phải chia
nhau vào ở nơi rừng núi, chịu nộp thuế lệ. Tuy có lúc muốn chống lại người Hồng Mao
nhưng sức không làm nổi, đành để cho họ trói buộc mà chịu sai khiến”(19). Qua đó Phan
Huy Chú đã chỉ ra nguyên nhân mất nước không thể cưỡng lại của người Đồ Bà trước sự
báo cáo của những đoàn đi sứ xuống vùng Hạ Châu mà Minh Mạng đã nhanh chóng đốc
thúc việc đóng tàu thuyền theo kỹ nghệ phương Tây, và thành công đầu tiên đến vào năm
1839
Về thủ tục hải quan của Riau, ghi chép của Phan Huy Chú cho ta thấy sự gọ nhẹ
và thái độ không chút e dè khi tiếp đón những đoàn thuyền từ xứ khác tới ở những trụ sở
do người Tây dương quản lý: “Khi thuyền mới đến thì đã thấy một chiếc thuyền tuần tra
treo cờ trắng đi tới. Có 5 người lính tới hỏi xem thuyền khách có bao nhiêu người, đi
hướng nào. Họ biên chép rồi đi ngay”. Tường trình này có đưa tới sự so sánh để rồi thay
đổi thủ tục hải quan mà triều đình Minh Mạng tiến hành đối với các thuyền buôn đến từ
nước ngoài hay không? Song ta thấy rằng tới những năm cuối triều Minh Mạng, các sứ
thần Tây dương đến Việt Nam được tiếp đón cởi mở và thân thiện hơn. Mục lục châu bản
triều Nguyễn năm Minh Mạng thứ 19 còn ghi lại chi tiết cảnh giao thương diễn ra dưới

thuyền của người Anh trong không khí tôn trọng, nhiệt thành: “Võ Văn Giải, Lý Văn
Phức tâu: “Tối ngày mùng 6 này, phụng dụ tới Đà Nẵng để tiếp chuyện với người Anh
Cát Lợi tới Đà Nẵng hôm trước. Lúc tới tàu thì chủ tàu là Yết Giả chào mừng vui vẻ mời
ngồi nói chuyện và xem hàng hoá, lựa mua một vài hàng tốt để đem về dâng. Hai bên đều
tỏ ý nhã nhặn có lễ độ cho mời người dưới thuyền lên bờ mua đồ cần dùng”. Trong khi
trước đó thủ tục hải quan của triều đình Huế khá chặt chẽ với nhiều công đoạn, thông
thường tàu thuyền các nước đến cảng Đà Nẵng. sau khi thông báo có quốc thư và lễ vật
xin đệ trình lên nhà vua với các quan sở tại, tàu thuyền của họ sẽ được cập cảng, hiển
nhiên phải bị khám xét, sau đó được cử lên bờ có sự giám sát của quan binh địa phương
mua những nhu yếu phẩm cần thiết như thực phẩm, nước uống, than củi… Và tất cả ở lại


trên tàu chờ quan địa phương viết báo cáo về kinh xin chỉ thị của nhà vua. Thời gian mà
họ phải đợi tính từ khi tàu cập cảng có thể là 10 hoặc 15 ngày(20).
Kết luận
Thế kỷ XIX là thời kỳ chuyển hướng lịch sử không chỉ với Việt Nam mà cũng là
tình hình chung của nhiều nước phương Đông khi các thế lực thực dân đã can thiệp vào
khu vực một cách trực tiếp hơn. Lúc bấy giờ, các nước phưong Tây đã tiến hành xong hai
cuộc đại cách mạng là cách mạng tư sản và cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản
cũng dần chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc thì phương Đông
nói chung, trong đó có Việt Nam vẫn ở thời kỳ phong kiến. Nhà Nguyễn được dựng lên
trong bối cảnh đất nước trải qua một thời kỳ chia cắt kéo dài, sự thống nhất về lãnh thổ và
chủ quyền mới chỉ đạt được tương đối, Minh Mạng phải gánh vác nhiệm vụ đưa đất nước
của ông bước qua giai đoạn khủng hoảng song những biến đổi khôn lường của tình hình
khu vực đã buộc ông phải lựa chọn một thái độ thận trọng, đôi khi là cảnh giác cao. Dưới
thời vua Minh Mạng, quy định về việc cho tàu thuyền phương Tây chỉ được đậu ở cửa
biển Đà Nẵng được thực hiện chặt chẽ nhất. Đạo dụ năm 1835 thể hiện thái độ kiên quyết
của nhà vua: “…Tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép
nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái… Từ nay người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới
cho vào cửa biển buôn bán, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hán, không được

ghé vào cửa khác, có lỗi”(21). Chỉ cho phép tàu nước Tây được đậu tại cửa biển Đà Nẵng
còn là mục đích tránh sự nhòm ngó bởi cửa biển này cách kinh đô Huế 100km, một
khoảng cách có thể coi là an toàn.
Có thể thấy chính sách đối ngoại cảu Minh Mạng đối với các nước phương Tây
khá mềm dẻo, tế nhị bằng một nỗ lực cao nhất tránh làm mất lòng các nước thái cường
cùng ý định tìm hiểu để rồi cố gắng đưa đất nước tiến gần hơn phương Tây theo cách của
ông mà vẫn giữ được những nền tảng đạo đức cơ bản. Tuy nhiên cuộc chiến tranh nha
phiến năm 1839 bùng nổ với sự can thiệp bằng vũ lực của người Anh ở Quảng Châu càng
khiến vua Minh Mạng ý thức được nguy cơ mà Việt Nam phải đương đầu trước sự bành
trướng của chủ nghĩa thực dân: Một mặt nhà vua cho phòng vệ những nơi hiểm yếu trên
bờ biển Đại Nam, đặt thêm pháo đài ở Hải Phòng, xây thêm pháo đài ở cửa biển Thị Nại,
chia lính thú tuần phòng ở đảo Côn Lôn, đảo Phú Quốc. Mặt khác, chính Minh Mạng trên
cơ sở thăm dò thái độ của các cường quốc châu Âu đã sửa đổi chính sách ngoại giao.
Năm 1840, nhà vua cho người di Penang rồi sang Calcutta xem người Anh dự bị chiến sự
Trung Hoa thế nào, cho tàu sang Djakara xem người Hoà Lan toan tính ra sao. Trong
châu bản triều Minh Mệnh còn ghi lại khi thị lang Võ Đức Khuê điều trần về việc thông
thương, có đề nghị không nên để thuyền ngoại quốc tới Đại Nam, và không nên để người
Đại Nam tới ngoại quốc vì sợ người ngoại quốc tới thì việc nước sẽ bị khuy du như nhà
Thanh để người Anh tới mà Trung Hoa rối loạn. Vua Minh Mạng cho bản điều trần ấy là
bất thông “lời nói không ý thức, không thi hành được”(22).
Trong văn hoá đầu thế kỷ XIX, sự xâm nhập của phưong Tây sang phương Đông
véctơ lực không thể cưỡng lại thì Minh Mạng vẫn là con người của truyền thống, thế nên
sự “chấp nhận” phương Tây của ông cũng trên tâm trạng vừa e dè, vừa cởi mở lại đan
xen tam lý bất ổn vừa ngưỡng mộ, vừa xem thường với một nỗ lực muốn thoát khỏi


nhưng bị chi phối bới nhận thức về sức mạnh không thể cưỡng chế trước ưu thế kỹ thuật
phương Tây. Đó chính là thách thức trong việc lựa chọn lối ứng xử trước một xu thế mới.
Tuy vậy xuyên suốt trong chính sách ngoại giao với người Tây dương dưới thời vua
Minh Mạng vẫn toát lên sự mềm dẻo, tính thích nghi với những điều kiện mới và hoàn

cảnh mới. Lịch sử không thể đặt ra những chữ “nếu”, vì vậy chúng ta không thể biết được
nỗ lực tiếp theo của ông như thế nào trong ý định hoá giải phương Tây kho ông đã nhận
ra rằng ông không thể không mở cửa đất nước của mình.
Hình ảnh: châu bản được vua Bảo đại chuẩn y

.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×