Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ tác ĐỘNG của hội NHẬP KINH tế VIỆT NAM ASEAN đối với sự NGHIỆP QUỐC PHÒNG ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.15 KB, 129 trang )

2

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Bảng chữ viết tắt
Mục lục
Mở đầu
Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tác động của hội nhập
kinh tế Việt Nam -ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng
ở nước ta hiện nay.
1.1
Hội nhập kinh tế quốc tế và sự hội nhập kinh tế ASEAN
của Việt Nam
1.2
Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tác động của hội nhập
kinh tế Việt Nam - ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng
Chương 2 Thực trạng tác động của hội nhập kinh tế Việt Nam
-ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta hiện nay.
2.1
Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế Việt Nam ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta hiện nay.
2.2
Những thách thức từ hội nhập kinh tế Việt Nam-ASEAN
tác động đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta hiện nay.
2.3
Nguyên nhân của những thách thức và một số vấn đề đặt
ra từ sự tác động của hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN
đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta.
Chương 3 Những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy
tác động thuận lợi, khắc phục trở ngại của hội nhập
kinh tế Việt Nam - ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng


ở nước ta hiện nay.
3.1
Những quan điểm cơ bản
3.2
Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của hội
nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN đối với việc tăng cường
sự nghiệp quốc phòng.
Kết luận
Danh mục các công trình đã công bố của tác giả.

5
9

9
36
63
63
90
109

128

128
139

182
184


3


Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục

185
196
MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển của dân
tộc Việt Nam đã được ông cha ta tổng kết trong suốt lịch sử phát triển đất
nước. Ngày nay, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản
Việt Nam khởi xướng, lãnh đạo diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những
chuyển biến rất phức tạp. TCH, KVH đã, đang trở thành một xu thế khách
quan, tất yếu tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc
phòng-an ninh. Cách mạng nước ta vừa có vận hội lớn nhưng cũng vừa đứng
trước những thách thức không thể coi thường. CNĐQ, các thế lực thù địch
đang lợi dụng sự mở cửa, hội nhập của Việt Nam để tiếp tục thực hiện chiến
lược "DBHB", bạo loạn lật đổ kết hợp với răn đe quân sự và can thiệp vũ
trang khi có điều kiện nhằm xoá bỏ CNXH ở nước ta. Vì vậy, Đảng ta tiếp tục
khẳng định trong khi coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu,
phải luôn coi tăng cường củng cố quốc phòng là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng nhằm bảo đảm vừa đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vừa
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục chính sách mở cửa, đa phương hoá,
đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại và chủ động HNKTQT, đặc biệt
là với các nước ASEAN. Trong những năm đổi mới vừa qua chủ trương đó đã
góp phần tạo cho Việt Nam thế và lực mới để phát triển kinh tế- xã hội và
củng cố quốc phòng- an ninh của đất nước. Sự hội nhập kinh tế của Việt Nam

vào ASEAN đã, đang và sẽ tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã


4

hội, trong đó có lĩnh vực quốc phòng. Một mặt, sự hội nhập đó góp phần củng
cố quốc phòng về mọi mặt. Mặt khác, trên những mức độ khác nhau, nó cũng
đem lại những thách thức và khó khăn nhất định cho sự nghiệp xây dựng nền
quốc phòng toàn dân. Do đó, đã xuất hiện những nhận thức và hành động rất
khác nhau về vấn đề này. Yêu cầu đặt ra là cần nghiên cứu một cách có hệ
thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự tác động của hội nhập kinh tế
Việt Nam - ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta, từ đó đề xuất
những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của hội nhập
kinh tế Việt Nam - ASEAN đến tăng cường sự nghiệp quốc phòng của đất
nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác
giả chọn đề tài: "Tác động của hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN đối với
sự nghiệp quốc phòng ở nước ta hiện nay" làm luận án Tiến sĩ của mình.
2- Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, cả trước và sau khi Việt Nam chính thức ra
nhập ASEAN đã có nhiều công trình nghiên cứu về ASEAN và sự HNKT
Việt Nam - ASEAN cùng những tác động của nó đến quá trình phát triển kinh
tế đất nước ở các góc độ khác nhau như: "Việt Nam - ASEAN" của tập thể
các tác giả do Phạm Đức Thành làm chủ biên; "HNKT Việt Nam - ASEAN"
của Trần Quang Lâm và Nguyễn Khắc Thân; " ASEAN và sự hội nhập của
Việt Nam" của tác giả Đào Huy Ngọc, Nguyễn Phương Bình và Hoàng Anh
Tuấn; "Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN " của Đinh Xuân Lý; "Hợp
tác khu vực ASEAN: quá trình hình thành và đặc điểm" của Nguyễn Duy
Quý; "AFTA và Việt Nam" của Hồ Vũ; "Việc thực hiện AFTA và tác động
của nó đối với các nước ASEAN" của Nguyễn Hồng Nhung; "Hợp tác khu
vực ASEAN và triển vọng tham gia của Việt Nam" của Viện nghiên cứu

Đông Nam Á... Gần đây còn có một số công trình nghiên cứu về sự tác động
của HNKT Việt Nam - ASEAN đến sự phát triển kinh tế và quốc phòng của
đất nước như: " Việt Nam gia nhập ASEAN và ảnh hưởng của nó đối với sự


5

phát triển kinh tế của Việt Nam" của tác giả Đào Thị Ngọc Minh; "Một vài
suy nghĩ về tác động của Việt Nam gia nhập ASEAN đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Ngọc Giao; "Quan hệ kinh tế Việt
Nam - ASEAN và tác động của nó đến quốc phòng- an ninh nước ta trong
giai đoạn hiện nay" của Bùi Quang Đức.
Nhìn chung các công trình trên đây chỉ chủ yếu tập trung đề cập đến
khía cạnh kinh tế của vấn đề hội nhập. Bên cạnh đó cũng có một vài công
trình đề cập đến khía cạnh quốc phòng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về sự tác động của HNKT Việt Nam - ASEAN đến sự nghiệp
quốc phòng của đất nước một cách có hệ thống.
3- Mục đích, nhiệm vụ của luận án
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và thực trạng về những tác động của
HNKT Việt Nam- ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở Việt Nam từ đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy tác động tích cực,
khắc phục trở ngại của sự hội nhập đó đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta
hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tác động của HNKT Việt
Nam - ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta.
- Phân tích làm rõ thực trạng những tác động chủ yếu của HNKT
Việt Nam - ASEAN đến những nhân tố tạo thành sức mạnh của nền quốc
phòng ở nước ta hiện nay.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy tác
động thuận lợi, khắc phục trở ngại của sự hội nhập kinh tế Việt Nam –
ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng của Việt Nam.
4- Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự tác động của HNKT Việt Nam-


6

ASEAN đến các nhân tố tạo thành sức mạnh quốc phòng ở Việt Nam.
Phạm vi phân tích và khảo sát của luận án được tập trung chủ yếu vào
phân tích làm rõ những tác động bao gồm cả những tác động từ ASEAN và từ
các đối tác truyền thống của ASEAN đến quốc phòng của nước ta kể từ khi
Việt Nam chính thức tham gia hiệp ước Bali và trở thành quan sát viên của
ASEAN (1992) đến nay.
5- Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
Những nghiên cứu của luận án được dựa trên những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chính trị
XHCN, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh quân đội;
đường lối quan điểm của Đảng. Đồng thời dựa trên các tư liệu, số liệu điều
tra, khảo sát, nghiên cứu thực tế ở một số đơn vị, địa phương và kế thừa các
thông tin của các cơ quan nghiên cứu, các công trình đã được công bố có liên
quan.
Các phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong triển khai
đề tài là: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, thống kê so sánh và phương
pháp trừu tượng hoá cùng một số phương pháp khác.
6- Đóng góp mới của luận án
- Phân tích, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về sự tác động của hội
nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN đến quốc phòng ở nước ta.

- Phân tích tương đối toàn diện thực trạng những tác động của HNKT
Việt Nam - ASEAN đến sự nghiệp quốc phòng ở nước ta trong những năm
vừa qua.
- Là luận án đầu tiên của Việt Nam trình bày tương đối có hệ thống các
quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm khai thác những tác động thuận lợi, khắc
phục trở ngại của sự hội nhập kinh tế Việt Nam – ASEAN đến sự nghiệp
quốc phòng Việt Nam.
7 - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn


7

- Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về sự tác động
của HNKT Việt Nam - ASEAN đối với sự nghiệp quốc phòng ở nước ta.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy một số
nội dung thuộc các môn: kinh tế chính trị XHCN, kinh tế quân sự, học thuyết
bảo vệ Tổ quốc trong các nhà trường quân sự.
8- Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 3 chương 7 tiết, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP
KINH TẾ VIỆT NAM -ASEAN ĐẾN SỰ NGHIỆP QUỐC PHÒNG
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1- HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ SỰ HỘI NHẬP KINH TẾ ASEAN
CỦA VIỆT NAM

1.1.1- Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Lý luận và thực tiễn đều khẳng định HNKTQT, khu vực là bước đi tất

yếu trong bối cảnh TCH, KVH mà bất cứ nước nào cũng phải tham gia. Vì
thế nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung và khó tránh
khỏi bị rơi vào lạc hậu. Trái lại mở cửa và HNKTQT, khu vực tuy có thể phải
trả giá nhất định, song đó là bước đi cần thiết hướng tới sự phát triển của mỗi
nước. HNKT là một khái niệm rộng lớn, phức tạp, có nhiều cách tiếp cận,
xem xét, hiện nay còn có các quan niệm khác nhau:
Quan niệm thứ nhất: "Hội nhập thực chất là đấu tranh để giành thị
trường hàng hoá, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, tham gia phân công lao động
quốc tế, để khai thác các tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy tối đa nội
lực nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh kinh tế và vị thế của quốc gia”
[45, tr.3]. Quan niệm này đã nêu lên được mục tiêu cốt lõi của HNKT là mở
rộng thị trường, tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ để nâng cao sức mạnh


8

kinh tế, vị thế quốc gia. Nhưng chưa nói lên được nội dung chủ yếu của quá
trình hội nhập là mở cửa nền kinh tế, điều chỉnh các chính sách, luật lệ, cơ cấu
nền kinh tế cho thích ứng với tình hình và thông lệ quốc tế; đồng thời cũng
chưa phản ánh được tính chất phức tạp, hai mặt của hội nhập, mới chỉ thấy
mặt đấu tranh mà không thấy mặt hợp tác.
Quan niệm thứ hai: “HNKTQT là quá trình điều chỉnh chính sách kinh
tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường mạnh để thực hiện tự do hoá trên các
lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác, tài chính,
tiền tệ, đồng thời sẵn sàng tận dụng các ưu đãi của các thành viên khác đem
lại cho mình để phát triển sản xuất, mở mang thị trường hàng hoá và đầu tư ra
nước ngoài” [92, tr.32]. Ở quan niệm này, một mặt đã nêu được mục tiêu của
hội nhập là mở mang thị trường hàng hoá và đầu tư ra nước ngoài, tận dụng
các ưu đãi để phát triển sản xuất. Mặt khác, đã chỉ ra được một số khía cạnh
trong nội dung của hội nhập là điều chỉnh chính sách kinh tế, tự do hoá các

lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng tính khái quát chưa cao và mới chỉ thấy mặt
hợp tác mà không thấy mặt đấu tranh.
Quan niệm thứ ba: “HNKT với trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự
phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong
nước với bên ngoài, mở rộng không gian, môi trường để phát triển và chiếm
lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể có được trong quan hệ kinh tế quốc tế” [1, tr.19].
Ở đây tác giả đã nói lên được nội dung cốt lõi của HNKT là mở cửa nền kinh
tế nhằm đạt mục tiêu mở rộng không gian, môi trường để phát triển, nhưng lại
chưa nêu được cách thức và biện pháp để mở cửa nền kinh tế. Trên thực tế để
mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới các nước đều phải tiến hành hàng
loạt các biện pháp nhằm cải cách và điều chỉnh các chính sách, luật lệ, cơ cấu
kinh tế trong nước cho phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tựu chung lại, những quan niệm trên đây đều đúng, nhưng tính khái
quát chưa cao, chưa phản ánh được đầy đủ các đặc trưng, bản chất của hội nhập
kinh tế. Thực tiễn cho thấy, HNKT là một vấn đề rộng lớn, phong phú, đa


9

dạng và rất phức tạp. Do vậy, sự tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về HNKT
cũng là chuyện bình thường. Kế thừa, phát triển các quan niệm nêu trên, theo
tác giả một khái niệm HNKT đầy đủ phải bao hàm những đặc trưng cơ bản sau
đây:
Trước hết, HNKTQT là một quá trình tất yếu mà trọng tâm là mở cửa
kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở
rộng không gian để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy, hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là
nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của mỗi nước.
Hai là, hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên trường quốc tế và
ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng

cường nội lực, cải cách, điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh
doanh, cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với “luật chơi chung” của quốc
tế. Điều này nhiều khi tạo cảm tưởng là các nước bị ép phải cải cách, mở cửa,
nhưng thực ra là vì sự phát triển của chính mình. Chính sách hội nhập gắn
chặt, dựa vào chiến lược phát triển của đất nước; đồng thời cải cách, điều
chỉnh cơ chế chính sách, luật lệ, hành chính phải bám sát với yêu cầu của hội
nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả của hội nhập, đồng
thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy quá trình cải cách trong nước. Nhờ đó nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, hội nhập mang tính hai mặt vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh và đấu tranh.
Ba là, HNKTQT diễn ra ở nhiều qui mô và cấp độ. Về qui mô có tam
giác, tứ giác, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực, liên châu lục và toàn cầu.
Cho đến nay đã hình thành ba tổ chức kinh tế toàn cầu: Quĩ tiền tệ quốc tế
(IMF) gồm 182 nước thành viên; ngân hàng thế giới (WB) gồm 180 nước
thành viên; tổ chức thương mại thế giới (WTO) gồm 144 nước thành viên.
Bên cạnh đó đã có hàng trăm tổ chức kinh tế khu vực như: liên lục địa
(ASEM, Đại Tây Dương...); khu vực (EU, APEC, ấn Độ Dương...); tiểu khu


10

vực (Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á, Nam Mỹ, Bắc mỹ...); liên quốc gia (chỉ
riêng ASEAN đã có tam giác phía Nam, tam giác phía Bắc, tam giác phía
Đông, tứ giác, tiểu vùng lưu vực sông Mê Kông...). Về cấp độ của HNKTQT,
bắt đầu từ sự thỏa thuận song phương và đa phương về buôn bán, trao đổi
hàng hoá, dịch vụ; tiếp theo là thoả thuận song phương và đa phương về thuế
quan bằng các hiệp định thương mại trong buôn bán, kinh doanh; cấp độ thứ
ba là thiết lập ưu đãi thuế quan dài hạn thông qua việc ký kết thỏa thuận giữa
các bên. Chẳng hạn, khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); cấp độ thứ tư
là thành lập thị trường chung; cấp độ thứ năm, cấp độ cao nhất cho đến thời

điểm hiện nay là liên minh kinh tế, tiền tệ, hình thành đồng tiền, ngân hàng
Trung ương chung và có sự phối hợp các chính sách kinh tế với nhau, chẳng
hạn EU [58, tr. 85].
Từ những phân tích trên có thể rút ra: HNKTQT là một quá trình tất
yếu, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh diễn ra ở nhiều cấp độ và quy
mô mà trọng tâm là mở cửa kinh tế thông qua cải cách và điều chỉnh các cơ
chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước cho
phù hợp với “luật chơi chung” của quốc tế, khu vực nhằm tạo điều kiện huy
động tốt nhất nội lực, ngoại lực, mở rộng không gian để phát triển và chiếm
lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể có được trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.1.2- Quan điểm của Đảng ta về hội nhập kinh tế
Đảng ta không bao giờ chủ trương theo đuổi đường lối biệt lập mà luôn
coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình. Ngay từ khi đất
nước mới giành được độc lập năm 1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các
nhà báo ngày 23 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Chúng
ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào khai thác những
nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác, chúng ta sẽ mời những nhà chuyên
môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong


11

cuộc kiến thiết quốc gia" [60, tr. 44]. Cuối năm 1946, trong bài "lời kêu gọi
Liên hợp quốc", Hồ Chí Minh lại nêu lên những nguyên tắc cơ bản trong
chính sách đối ngoại của nước Việt Nam. Trong đó khẳng định: Đối với Lào
và Cămpuchia, nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và
bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước
có chủ quyền. Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi
chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực. Trong đầu tư, Việt Nam

dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước
ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Trong thương mại, Việt Nam
sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn
bán quá cảnh quốc tế. Đồng thời, Việt Nam tham gia mọi tổ chức hợp tác
quốc tế dưới sự lãnh đạo của liên hiệp quốc [61, tr. 470].
Đến giữa những năm 70 của thế kỷ XX, nước ta đã gia nhập SEV, tích
cực tham gia phong trào không liên kết, nhóm 77, liên hợp quốc mà một trong
những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới công bằng,
thúc đẩy quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước kể cả những
nước TBCN.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và
HNKTQT càng được thể hiện rõ nét và được thực hiện tích cực hơn. Đại hội
lần thứ VI của Đảng đã chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nhằm đưa
nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội. Để phục vụ cho việc thực
hiện đường lối đổi mới, Đại hội và các Hội nghị Trung ương tiếp theo nhất là
Nghị quyết 13 (tháng 5 năm 1988) của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương 8A (tháng 3 năm 1990) đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới, đề
ra các chủ trương và giải pháp với nội dung chủ yếu là đẩy lùi chính sách bao
vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế.
Theo tinh thần đó, năm 1987 nước ta đã thông qua luật đầu tư nước ngoài với
những quy định khá thông thoáng.


12

Đại hội lần thứ VII đã mở ra bước đột phá mới, đưa ra đường lối đối
ngoại với khẩu hiệu: "Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố
rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [23, tr. 40].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Tiếp

tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển" [24, tr. 41].
Đại hội lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [25, tr.119]. Cụ thể
hoá đường lối đó ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về
HNKTQT. Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, những quan điểm chỉ đạo và xác
định một số nhiệm vụ cụ thể cần tập trung thực hiện trong quá trình
HNKTQT ở nước ta trong những năm tới.
Về mục tiêu HNKTQT, Nghị quyết nêu rõ: “chủ động HNKTQT nhằm
mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh
CNH, HĐH theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” [9, tr.3].
Để bảo đảm cho HNKTQT thắng lợi, thực sự đáp ứng yêu cầu xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN, Nghị quyết còn chỉ
ra những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập.
Một là, quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là: chủ động
HNKTQT và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.


13

Hai là, HNKTQT là sự nghiệp của toàn dân; trong quá trình hội nhập
cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn
xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, HNKTQT là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh,

vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo
và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn
đề, trường hợp cụ thể; vừa phải để phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải
chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Bốn là, nhận thức đầy đủ những đặc điểm của nền kinh tế nước ta, từ
đó đề ra kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát
triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế
mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát
triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang
kinh tế thị trường.
Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình HNKTQT với yêu cầu giữ vững an
ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của
quốc gia, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, đồng thời cảnh giác
với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ “DBHB” đối với
nước ta [9, tr.4-5].
1.1.3- Tiến trình và nội dung hội nhập kinh tế ASEAN của Việt Nam
1.1.3.1- Việt Nam hội nhập kinh tế ASEAN là bước đi tất yếu phù
hợp với xu thế vận động chung của thế giới và khu vực
Ngày nay, ASEAN đã trở thành một khu vực có vị thế chính trị, tiềm
năng kinh tế, nền văn hoá đầy bản sắc, có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế
lớn và các khu vực khác trên thế giới. Việt Nam hội nhập ASEAN, trước hết
về kinh tế là một quyết định đúng đắn, một sự kiện lịch sử quan trọng, phù
hợp với xu thế phát triển của thế giới, khu vực, đáp ứng nguyện vọng , lợi ích


14

của cả Việt Nam và ASEAN. Điều đó xuất phát từ các lý do chính sau đây:
Một là: Toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế đang là một xu thế khách
quan, bắt nguồn từ sự xã hội hoá sản xuất dưới tác động của cách mạng

khoa học - công nghệ hiện đại.
Ngay từ những năm 1970-1980, thế giới đã từng chứng kiến sự phát
triển mạnh mẽ của cách mạng KH-CN, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, cộng với sự gắn kết giữa các quốc gia về vấn đề năng lượng, lương
thực, dân số, bệnh tật, môi trường sinh thái… đã làm cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia và sự phát triển của tiểu khu vực, khu vực, toàn cầu
ngày càng có sự liên quan mật thiết với nhau.
Khái niệm TCH xuất hiện và phổ cập vào những thập niên gần đây.
Theo một số thông tin thì khái niệm "TCH" (globalisation) được George
Modelski lần đầu tiên nêu ra vào năm 1972 trong tác phẩm "Principle of the
world politis" khi nói tới vấn đề liên minh châu Âu lôi kéo các nước khác vào
một hệ thống thương mại toàn cầu.
Về mặt kinh tế, TCH là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế
vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực, lan toả ra phạm vi toàn
cầu, trong đó hàng hoá, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động... vận động thông
thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa tuyến,
vận hành theo các "luật chơi" chung được hình thành thông qua sự hợp tác,
đấu tranh giữa các thành viên của cộng đồng quốc tế. TCH kinh tế sẽ lôi cuốn
ngày càng nhiều nước, vùng lãnh thổ trên thế giới. Song sự tham gia hay hội
nhập của các nước vào quá trình đó đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, KH-CN, năng lực cạnh tranh, khả năng tiếp cận thị
trường, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước. Tuy vậy, đến nay trên thực tế
ở những mức độ khác nhau, nền kinh tế của tất cả các quốc gia đều đã trở


15

thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới thống nhất.
Cũng như bất kỳ hiện tượng kinh tế, chính trị- xã hội nào khác, TCH

kinh tế phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước, các lực lượng tham gia
quá trình đó. Trong thời kỳ CNTB còn thống trị toàn thế giới thì điều đương
nhiên là quá trình TCH chịu sự chi phối hoàn toàn của các tập đoàn tư bản.
Trong thời kỳ hệ thống XHCN thế giới tồn tại, quan hệ kinh tế quốc tế bị chi
phối bởi sự hợp tác và đấu tranh giữa hai nền kinh tế TBCN và XHCN. Từ
sau khi Liên Xô tan rã, CNXH bị xoá bỏ ở các nước Đông Âu, tương quan lực
lượng trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lượng cách mạng. Về
kinh tế, các nước công nghiệp phát triển chi phối nền kinh tế thế giới, từ sản
xuất đến vốn, công nghệ, thông tin, dịch vụ, giữ vai trò chủ chốt trong nhiều
tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, các luật
chơi có lợi cho họ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người nói tới tính chất
đế quốc của quá trình TCH đang diễn ra hiện nay. Chính vì thế, Đại hội lần
thứ IX đã vạch rõ: "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan; lôi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát
triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực" [25, tr. 64].
Với sự hiện diện đầy đủ của nó, TCH kinh tế là kết quả của một quá
trình phát triển tuần tự, trải qua nhiều giai đoạn, trong đó KVH như một nấc
thang. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế khu vực hay phương thức hội nhập
khu vực là hiện tượng liên quan đến một loạt các đặc trưng gần kề như
khoảng cách địa lý và kéo theo nó là chi phí vận tải, các mối quan hệ văn hoá,
lịch sử, ngôn ngữ cũng như những tương đồng về truyền thống, mức sống,
chính sách thương mại và cả hệ thống chính trị nữa. Xuất phát từ những đặc
trưng đó, cùng với sự tương đồng về lợi ích kinh tế thông qua những hiệp
định khu vực làm cho các tổ chức kinh tế khu vực nối nhau ra đời. Từ khoảng


16

một chục năm nay các hiệp ước hội nhập khu vực vào năm 1990 còn chưa đến

25 mà nay đã lên tới hơn 100 [108, tr. 64].
TCH và KVH không có gì mâu thuẫn mà thực chất là hai mặt của cùng
một vấn đề: Nó củng cố lẫn nhau và cùng đi theo hướng hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, khuyến khích tính năng động, phát triển. Thực tế đã cho thấy,
tại Châu Á, TCH đã góp phần nâng cao mức tăng trưởng và trình độ phát triển
kinh tế, nuôi dưỡng hội nhập khu vực, đặc biệt với sự thúc đẩy của Nhật Bản.
Trái lại tại khu vực Mỹ La Tinh, các sáng kiến mới đây về hội nhập khu vực
được nghiên cứu, triển khai theo hướng tạo điều kiện hội nhập vào tiến trình
TCH và đáp ứng được những điều kiện cạnh tranh mới mà tiến trình TCH đặt
ra. Vì vậy, không lấy gì làm lạ TCH và KVH luôn song hành với nhau trong
hơn một chục năm qua mặc dù các mối quan hệ của chúng cực kỳ phức tạp.
Bên cạnh sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (World Trade
0nganization-WT0), là sự xuất hiện của các tổ khu vực: EU, NAFTA,
ASEAN, APEC…
Dưới góc độ chủ quyền quốc gia mặc dù quá trình TCH , KVH kinh tế
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế Tư bản xuyên quốc
gia chi phối, nên có nhiều mặt tiêu cực, đe dọa độc lập chủ quyền của các
nước đang phát triển. Song nó vẫn lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới, bởi
bên cạnh mặt tác động tiêu cực nó cũng có cả những tác động tích cực, tạo
điều kiện thuận lợi cho các nước mở rộng môi trường kinh doanh, khai thác
các nguồn lực về vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, công nghệ, thị trường của
thế giới, khu vực để phát triển sản xuất trong nước, cải thiện cơ cấu kinh tế,
đời sống của nhân dân. Hơn nữa, tham gia vào các quan hệ kinh tế khu vực,
toàn cầu, các nước nhất là những nước đang phát triển như Việt Nam có điều
kiện thực hiện sự đan cài lợi ích, tạo nên thế, lực mới trong bảo vệ nền kinh
tế độc lập tự chủ của mình, tăng thêm sự tin cậy của các đối tác, đồng thời


17


mỗi nước còn tạo cho mình có được một vị trí xứng đáng để tránh phân biệt
đối xử và tận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế, khu vực để bảo vệ
lợi ích của mình.
Tuy nhiên, trong điều kiện TCH kinh tế thì chủ quyền quốc gia cũng
phải đối đầu với nhiều thách thức hơn. Đó là những thách thức được che đậy
đằng sau những chiếc áo choàng nhiều màu sắc hấp dẫn của lợi ích kinh tế,
của sự cám dỗ vật chất. Điều đáng quan tâm nữa là nước ta tham gia vào quá
trình TCH kinh tế trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển. Do vậy,
việc bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ gặp rất nhiều khó
khăn, chủ quyền quốc gia mà trước hết là chủ quyền kinh tế luôn bị đe dọa
bởi những mưu mô, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt của các đối tác. Như
vậy, TCH kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý, nó vừa tạo
ra những cơ hội lớn cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, cho sự
tiếp cận của chúng ta với nền văn minh công nghiệp của thế giới; đồng thời
nó cũng đặt ra nhiều thách thức đối với chúng ta cả về kinh tế, chính trị, văn
hoá, quốc phòng, an ninh.
Tóm lại, với sự phát triển của thế giới như ngày nay, TCH và KVH trên
tất cả các lĩnh vực theo các cung bậc, trên những ngả đường khác nhau là một
xu hướng tất yếu. Vì vậy mỗi quốc gia, không trừ quốc gia nào, dù lớn hay
nhỏ, phát triển hay đang phát triển muốn tồn tại và không bị cô lập phải nhận
thức rõ và chủ động đi vào trào lưu đó của thế giới hiện đại. Việt Nam không
thể nằm ngoài xu thế chung đó.
Hai là: Sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN về kinh tế là đáp ứng
nguyện vọng và lợi ích của cả Việt Nam và ASEAN.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á vốn đã có quan hệ mật thiết, gắn
bó với nhau từ lâu đời. Tuy nhiên, trong chiến tranh lạnh, Đông Nam Á bị
tách thành hai nhóm nước: các nước Đông Dương và các nước ASEAN. Hai


18


nhóm nước này phát triển theo hai con đường khác nhau và trở nên đối đầu
với nhau.
Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng KVH, TCH từng bước
thắng thế trên phạm vi toàn thế giới, do vậy trong phạm vi khu vực Đông
Nam Á xu hướng đối thoại đã từng bước thay cho đối đầu. Các nước ASEAN
từng bước khắc phục những khuyết tật của mình để đảm bảo tốc độ tăng
trưởng cao, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và công bằng xã
hội. Các nước Đông Dương, nhất là Việt Nam, Lào từng bước chuyển đổi nền
kinh tế từ hiện vật, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Cămpuchia từng bước giải quyết tốt hoà hợp dân tộc và cũng đang
trên con đường ổn định, phát triển kinh tế - xã hội.
Sự tồn tại và thành công của ASEAN trong những thập niên qua chính
là vì các thành viên của tổ chức này đã tìm thấy lợi ích quốc gia của mình
trong sự hội nhập khu vực. Sự đồng thuận về lợi ích đó là do bản thân
ASEAN được vận hành trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng về lợi ích của các
nước thành viên, thông qua cơ chế hoạt động mang tính nguyên tắc, đó là
"thương lượng" và "nhất trí".
Ngay từ đầu, những người sáng lập ra ASEAN đã có nhận thức tương
đối sâu sắc về sự cần thiết phải liên kết khu vực mới có thể khắc phục được
những khó khăn, hạn chế trong việc tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định để
cùng nhau phát triển. Chỉ có liên kết khu vực mới nâng cao được vị thế của
mình trong quan hệ với các đối tác kinh tế - chính trị và các nước lớn trên thế
giới. Từ nhận thức đó, nên ngay từ khi mới thành lập, các nước thành viên
trong tổ chức ASEAN đã thể hiện nguyện vọng kết nạp thêm các thành viên
mới nhằm mở rộng, nâng cao thế và lực của mình. Điều này được nêu rõ
trong tuyên bố Băng Cốc ngày 08 tháng 8 năm 1967: "Hiệp hội mở rộng cho
tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á tán thành tôn chỉ, nguyên tắc và



19

mục đích nói trên tham gia" (phụ lục 2).
Hơn nữa, khi tham gia vào các diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực, thế
giới, các nước ASEAN đã nhận thấy những hạn chế của mình, ASEAN không
có thế mạnh và tiềm lực kinh tế lớn như các cường quốc Mỹ, Nhật Bản,
Trung Quốc. Chẳng hạn, theo số liệu thống kê năm 1992, về dân số ASEAN
có 334,4 triệu người chiếm 16% trong tổng số 2,09 tỷ người của các nước
APEC. GNP của ASEAN là 335,3 tỷ USD chiếm khoảng hơn 2% tổng số
GNP của APEC. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người của ASEAN chưa
bằng 1/5 mức trung bình của APEC [66, tr.141-142]. Do vậy, để tăng thêm
sức mạnh về kinh tế, chính trị cho tổ chức mình, đối phó với những thách
thức bên ngoài, các nước ASEAN mong muốn mở rộng tổ chức này, trong đó
sự tham gia của Việt Nam có tầm quan trọng đặc biệt.
Việt Nam với hơn 80 triệu dân sẽ là một thị trường rộng lớn đầy tiềm
năng, có vị trí địa lý gần gũi và rất thuận lợi về giao thông với các nước
ASEAN. Về kinh tế, Việt Nam là một thị trường đầu tư hấp dẫn, có nhiều
tiềm năng chưa được khai thác, tài nguyên phong phú, sức lao động dồi dào
và tiền công lao động thấp… Về chính trị, xét cả về lịch sử và hiện tại, Việt
Nam là một quốc gia rất ổn định. Xung đột về sắc tộc, tôn giáo, phe phái
chính trị đã từ lâu không xảy ra, hiện nay Việt Nam được xếp vào danh sách
những quốc gia hàng đầu trên thế giới có môi trường chính trị - xã hội ổn
định. Đây là yếu tố có ý nghĩa quan trọng bảo đảm sự yên tâm cho các nhà
đầu tư ASEAN vào Việt Nam.
Xuất phát từ những lợi ích đó mà Việt Nam hội nhập ASEAN đã được
các nước thành viên của tổ chức này và dư luận quốc tế, nhất là các nước lớn
như Mỹ, Nhật, Nga, Trung Quốc hoan nghênh ủng hộ tích cực và coi đây là
sự kiện quan trọng góp phần tăng cường thế và lực cho tổ chức này.
Về phần mình, Việt Nam coi việc đẩy mạnh HNKT vào ASEAN là một



20

mục tiêu quan trọng cả về chính trị và kinh tế. Về chính trị, ASEAN là những
nước láng giềng của Việt Nam. Nếu quan hệ hợp tác tốt, chắc chắn ASEAN
sẽ góp phần đáng kể vào việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để Việt
Nam phát triển kinh tế. Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều nhận thức
được rằng, chỉ có trong môi trường hoà bình, ổn định mới có điều kiện để xây
dựng kinh tế và phát triển ASEAN thành khu vực phồn vinh, thịnh vượng.
Trước đây, sự bảo đảm an ninh chủ yếu dựa trên cơ sở sức mạnh của từng
nước hoặc của từng loại nước theo chế độ chính trị - xã hội. Trong điều
kiện đó, các nước và từng nhóm nước phải dựa vào sự "che chở" của các
nước lớn trong hệ thống chính trị - xã hội của mình như các nước ASEAN
dựa vào Mỹ và phương Tây còn Việt Nam thì dựa vào hệ thống XHCN mà
chủ yếu là Liên Xô.
Khi trật tự thế giới thay đổi, chuyển từ hai cực sang đa cực, cuộc chạy
đua về kinh tế giữa các khối kinh tế và các nước trở nên quyết liệt thì chỗ dựa
đó mất dần ý nghĩa. Sự bảo đảm an ninh của mỗi nước và của khu vực lúc này
chủ yếu dựa trên cơ sở tìm kiếm sự trùng hợp về lợi ích quốc gia dân tộc mà
các nước trong từng khu vực thực hiện sự hợp tác kinh tế và đảm bảo an ninh
của khu vực mình. An ninh của mỗi quốc gia gắn liền và phụ thuộc vào an
ninh chung của khu vực.
Nhận thức sâu sắc điều đó, Việt Nam hội nhập ASEAN cũng là để bảo
vệ hoà bình và phát triển kinh tế của đất nước. Chỉ có trên cơ sở một môi
trường hoà bình, ổn định thì Việt Nam mới có thể tập trung sức lực của cả
nước vào xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế. Ngược lại, chỉ khi có một nền kinh tế phát triển bền vững,
chính trị và xã hội ổn định, quan hệ quốc tế mở rộng, thì mới đảm bảo được
hoà bình và ổn định. Nguyện vọng từ ngàn xưa của dân tộc ta là được sống
trong môi trường hoà bình và ổn định, quan hệ thân thiện với tất cả các dân



21

tộc trong cộng đồng quốc tế, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Ngày nay cũng vậy,
cả dân tộc ta đang phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam XHCN, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh và sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển.
Về kinh tế, các nước ASEAN có điểm xuất phát gần giống Việt Nam,
đã vươn lên thành những nước có nền kinh tế phát triển nhất ở khu vực hiện
nay. Hội nhập vào ASEAN sẽ giúp Việt Nam tận dụng được các nguồn ngoại
lực để nhanh chóng đuổi kịp và hoà nhập vào nhịp điệu phát triển chung của
các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, ASEAN là một tổ chức khu vực duy
nhất trên thế giới đã có mối quan hệ chặt chẽ và cơ chế đối thoại thường
xuyên với nhiều nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, Ôtxtrâylia, Nga,
Trung Quốc, Hàn Quốc...Vì vậy, hội nhập ASEAN sẽ giúp Việt Nam đẩy
mạnh hợp tác với các nước công nghiệp phát triển, tạo điều kiện cho đất nước
tận dụng các nguồn lực ngoài khu vực để đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội
và củng cố quốc phòng- an ninh .
Tựu chung lại, Việt Nam hội nhập ASEAN về kinh tế là phù hợp với
xu thế liên kết kinh tế quốc tế, khu vực, đáp ứng lợi ích không chỉ của Việt
Nam mà còn của cả ASEAN. Đó còn là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược
về kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh đối với cả Việt Nam và ASEAN.
1.1.3.2- Tiến trình hội nhập kinh tế ASEAN của Việt Nam
Chủ truơng mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam
Á và tiến trình HNKT của Việt Nam vào ASEAN là phù hợp với tiến trình
chung của khu vực và thế giới. Tiến trình đó được thể hiện thông qua các
thời kỳ sau:
* Thời kỳ từ năm 1967 đến năm 1991. Đây là thời kỳ quan hệ Việt

Nam - ASEAN từng bước chuyển từ đối đầu sang đối thoại, quan hệ kinh tế


22

Việt Nam - ASEAN được thiết lập thông qua các hiệp định song phương.
Trong 5 năm đầu kể từ khi ASEAN ra đời, quan hệ Việt Nam -ASEAN
ở trong tình trạng đối đầu, một số nước thành viên ASEAN có những dính líu
đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương do Mỹ tiến hành. Vì vậy, trong những
năm này quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN chưa có gì đáng kể. Tuy nhiên,
với việc đưa ra tuyên bố thành lập khu vực hoà bình, tự do và trung lập ở
Đông Nam Á (gọi tắt làZOPFAN) năm 1971 đã làm cho chính sách đối ngoại
của ASEAN với các nước lớn, với Việt Nam và Đông Dương có sự thay đổi.
Chấm dứt việc các nước ASEAN ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt
Nam và mở ra tiền đề cho việc xúc tiến quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với
các nước ASEAN. Đó là việc một số nướcASEAN như Philippin, Malaysia,
Singapo bắt đầu thăm dò khả năng phát triển quan hệ với Việt Nam cả về kinh
tế và ngoại giao. Về phía mình, Việt Nam cũng đã tỏ thái độ thân thiện, thiết
lập cơ quan đại diện, Tổng công ty xuất nhập khẩu ở Singapo, điều chỉnh thái
độ với Philippin.
Đến đầu năm 1973, sau khi hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở
Việt Nam được ký kết, xu thế hoà bình, trung lập ở khu vực phát triển, các
nước ASEAN có những cử chỉ thân thiện hơn với Việt Nam, đồng thời Việt
Nam cũng đã cố gắng mở rộng quan hệ song phương với các nước. Đặc biệt,
kể từ khi Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm tháng 7 năm 1976, khẳng định
mong muốn và thực hiện nguyên tắc cơ bản trong quan hệ với các nước Đông
Nam Á trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, cùng tồn tại trong hoà bình đã tạo ra môi trường thuận lợi
cho quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Vì vậy, trong hai năm 1977 và 1978 giữa Việt Nam và các nước ASEAN đã

ký được nhiều hiệp định hợp tác kinh tế song phương trên các lĩnh vực
thương mại, khoa học-kỹ thuật, hàng không, hàng hải.


23

Xu hướng phát triển trong quan hệ Việt Nam- ASEAN đang trên đà tốt
đẹp thì bị gián đoạn bởi sự cố Cămpuchia. Trong gần chục năm trời, vấn đề
"Cămpuchia" đã làm cho Việt Nam , ASEAN trở lại tình trạng đối đầu căng
thẳng, quan hệ Việt Nam với ASEAN trên hầu hết các phương diện kinh tế,
chính trị, ngoại giao gặp nhiều khó khăn trở ngại và xấu đi nhiều. Đứng trước
tình hình đó, với mong muốn về một khu vực Đông Nam Á hoà bình, ổn định
và hợp tác, trong suốt từ những năm 1980 đến 1985 Việt Nam đã liên tục đưa
ra các đề nghị để giải quyết vấn đề "Cămpuchia" và về hoà bình, hợp tác ở
Đông Nam Á. Cuối cùng những cố gắng đó của Việt Nam cũng được chấp
nhận và kết quả là tại hội nghị AMM tháng 2 năm 1985 các nước ASEAN đã
nhất trí cử Inđônêsia làm đại diện đối thoại với các nước Đông Dương, khẳng
định xu thế đối thoại giữa hai nhóm nước.
Tại Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, về mặt đối ngoại, Việt Nam thực hiện chủ trương đối
ngoại đa phương hoá, đang dạng hoá. Đồng thời tuyên bố rút hết quân đội của
mình khỏi Cămpuchia vào tháng 9 năm 1989. Trở ngại lớn nhất trong quan hệ
Việt Nam-ASEAN từng bước được gỡ bỏ, vấn đề "Cămpuchia" dần đi vào
giải pháp hoà bình, quan hệ song phương Việt Nam với các nước ASEAN lại
tiếp tục phát triển. Các nước ASEAN cũng bắt đầu thể hiện thiện chí, mong
muốn có sự hội nhập của Việt Nam, Lào, Cămpuchia.
Quan hệ Việt Nam - ASEAN thực sự có những chuyển biến tích cực và
chấm dứt giai đoạn đối đầu, mở ra thời kỳ mới, hợp tác để phát triển từ khi
hiệp định Pari về Cămpuchia được ký kết vào tháng 10 năm 1991. Có thể nói,
Mặc dù phải trải qua những bước thăng trầm trong quan hệ giữa hai bên,

nhưng đây là thời kỳ đặt nền móng cho các quan hệ kinh tế sau này của Việt
Nam với ASEAN. Tuy nhiên do giữa Việt Nam và ASEAN còn chưa hiểu
biết đầy đủ về nhau, còn những cản trở bởi sự khác biệt về thể chế chính trị,


24

nên đến thời điểm này hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEAN vẫn mới chỉ dừng
lại ở các quan hệ song phương chứ chưa có quan hệ trực tiếp với tổ chức
ASEAN.
* Thời kỳ từ năm 1992 đến nay.
Sau khi vấn đề Cămpuchia được giải quyết, không khí hội nhập trong
khu vực những năm đầu của thập kỷ 90 thực sự trở nên sôi động. Sự kiện
chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự hội
nhập của Việt Nam vào khu vực là Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam
(năm 1991). Đại hội tiếp tục khẳng định chủ trương thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, đồng thời nhấn mạnh việc phát
triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình
Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Nhờ đó,
quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành
quả to lớn.
Đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam chính thức tham gia hiệp ước Ba Li
và trở thành quan sát viên của ASEAN, quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN
thực sự phát triển mạnh mẽ cả trong quan hệ song phương và đa phương,
đánh dấu sự mở đầu một thời kỳ mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam ASEAN. Bằng chứng là buôn bán, đầu tư, trao đổi đều tăng. Thương mại
Việt Nam - ASEAN từ 107 triệu USD năm 1985 tăng lên 1,73 tỷ USD năm
1992; tốc độ đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam tăng nhanh trong
năm 1992 và 1993, nếu như năm 1990 đầu tư của các nước ASEAN vào Việt
Nam là 35 triệu USD, thì năm 1993 là 1.139,8 triệu USD tăng 32,6 lần.
Cũng trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 1992 đến năm 1994 đã có

khoảng trên 40 hiệp định song phương, đa phương giữa Việt Nam và các
thành viên ASEAN được ký kết [48, tr.16].
Tại diễn đàn khu vực (ARF) tháng 7 năm 1994, Bộ Trưởng Ngoại giao


25

Việt Nam đã tham dự, tại cuộc họp này ASEAN đã mời Việt Nam tham gia
các chương trình, dự án của ASEAN trên lĩnh vực KH-CN, môi trường, y tế,
văn hoá - thông tin, du lịch. Tiếp đó, tháng 9/1994 Việt Nam được mời dự Hội
nghị Bộ Trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26.
Ngày 28-7-1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
ASEAN và ngay sau đó Việt Nam tuyên bố gia nhập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế từ ngày 1-11996 và hoàn thành vào năm 2006. Đây là sự kiện quan trọng, mở ra một
trang mới trong quan hệ kinh tế Việt Nam với các nước láng giềng Đông Nam Á.
Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam đã, đang
hội nhập vào các hoạt động hợp tác kinh tế trong khuôn khổ ASEAN. Phòng
thương mại và công nghiệp Việt Nam đã gia nhập phòng thương mại và công
nghiệp ASEAN, Việt Nam cũng đã tham dự các hội nghị kinh tế, các chương
trình hợp tác kinh tế, các hiệp định về đầu tư, công nghệ, nông - lâm - ngư
nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông dưới các hình thức, cấp độ
đa dạng phong phú.
1.1.3.3- Nội dung hội nhập kinh tế Việt Nam - ASEAN
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN, mối quan hệ
hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với ASEAN từng bước được mở rộng, Việt
Nam có điều kiện thuận lợi hơn để hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế khu
vực, thế giới. Với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam có quyền lợi
và nghĩa vụ tham gia xây dựng, thực hiện các chương trình liên kết kinh tế tập
thể, song phương theo qui chế hợp tác mà hiệp hội đề ra. Trong đó tập trung
chủ yếu vào các nội dung sau:

Một là: Tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA, được quyết định thành lập


26

tháng 01 năm 1992 tại Hội nghị cấp cao lần thứ IV của các nước ASEAN họp
ở Singapo thông qua việc ký kết hiệp định về chương trình thuế quan ưu đãi
có hiệu lực chung (CEPT).
Mục tiêu kinh tế mà AFTA đặt ra nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập
của nền kinh tế các nước thành viên vào một thị trường ASEAN thống nhất
là: thực hiện tự do hoá thương mại thông qua việc xoá bỏ hoàn toàn các rào
cản thuế quan và phi thuế quan đối với việc lưu chuyển của hầu hết các loại
hàng hoá trong nội bộ khu vực. Đồng thời, bằng việc tạo dựng thị trường
thống nhất trong khu vực và hấp dẫn để thu hút đầu tư trực tiếp vào ASEAN.
Nội dung thực chất của CEPT là từng bước cắt giảm thuế quan cho
hàng hoá có xuất xứ từ ASEAN, trao đổi trong nội bộ khu vực xuống còn 0-5%
và cuối cùng là 0%. Với mục đích và nội dung trên các nhà lãnh đạo ASEAN
tại Hội nghị cấp cao ASEAN IV đã quyết định một lộ trình như sau: Các nước
thành viên sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan trong vòng 15 năm
xuống tới 0-5%. Bắt đầu từ ngày 01-01-1993 và hoàn thành vào ngày 01-012008. Sau đó, tại Hội nghị cấp cao ASEAN V vào năm 1995 đã quyết định
đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc rút ngắn
thời hạn hoàn thành lịch trình cắt giảm xuống còn 10 năm, tức thời hạn hoàn
thành sẽ là 1-1-2003. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN VI diễn ra ở Hà Nội
(1998) đã quyết định thời hạn hoàn thành AFTA cuả sáu nước thành viên cũ
gồm Inđônêsia, Malaysia, Philipin, Xingapo, Thái Lan, Brunây là năm 2002;
Việt Nam là năm 2006; Lào và Myanma là năm 2008.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển của đất nước và những kiến nghị của
các nhà nghiên cứu đưa ra, uỷ ban thường vụ của quốc hội xác định các
nguyên tắc làm cơ sở cho việc xây dựng lịch trình cắt giảm thuế quan theo qui

định của CEPT ở nước ta như sau: Không gây ảnh hưởng tới nguồn thu ngân
sách; Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước; Tạo điều kiện khuyến khích


×