Tải bản đầy đủ (.doc) (176 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ đặc THÙ của NHỮNG CUỘC đấu TRANH hệ tư TƯỞNG ở nước TA HIỆN NAY và tác ĐỘNG của nó đến QUÂN đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.1 KB, 176 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nhân dân
ta tiếp tục diễn ra trong tình hình quốc tế đầy biến động, diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế ráo riết tấn công hòng thủ tiêu những thành quả
cách mạng của nhân dân, thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào
quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
Để đạt được mục đích trên, các thế lực thù địch thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” với những thủ đoạn vô cùng thâm độc.
Tư tưởng, lý luận được các thế lực thù địch coi là một mũi nhọn của cuộc tấn công.
Chúng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận chủ
nghĩa xã hội hiện thực và mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, xuyên tạc sự nghiệp đổi
mới đất nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đấu tranh
hệ tư tưởng ở nước ta đang diễn ra gay go, phức tạp, quyết liệt trở thành mặt trận nóng
bỏng và chiếm địa vị hàng đầu trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước
ta hiện nay. Cuộc đấu tranh đó tác động một cách sâu sắc đến quân đội.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục
và rèn luyện, là công cụ bạo lực sắc bén, đồng thời là lực lượng chính trị trung thành, tin
cậy của Đảng, của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam,
có chức năng cơ bản là vũ trang bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quân đội ta không chỉ là nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân mà còn
là một trụ cột trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Nhiệm vụ đó đòi hỏi quân đội phải được xây dựng vững mạnh toàn diện có chất lượng
tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại trước hết là vững mạnh về chính trị tư tưởng.
Vì vậy, nghiên cứu những đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay,
tác động của nó đến quân đội nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng vô sản của quân
đội trong tình hình hiện nay là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề


Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay cũng như công tác tư tưởng trong quân
đội là những vấn đề lớn và có tầm quan trọng đặc biệt nên đã có nhiều công trình nghiên
cứu như:
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời
đại ngày nay”, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1996; Viện Mác - Lênin: “Triết học và cuộc
đấu tranh ý thức hệ”, Nxb Thông tin lý luận, H. 1982; Nguyễn Đức Bình: “Bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng và bức
thiết” của đồng chí, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1994; Lê Khả Phiêu: “Mấy vấn đề công
tác lý luận tư tưởng trong quân đội”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 6/1994; “Tác
động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến nhận thức tư tưởng của cán bộ quân đội và
một số vấn đề đối với công tác tư tưởng tổ chức trong quân đội ta hiện nay”, Nxb Quân
đội nhân dân, H. 1996; chủ biên Giáo sư Trần Xuân Trường: “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Học viện Chính trị quân sự, 1995;
Giáo sư Lê Xuân Lựu: “Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin”,
Tạp chí Cộng sản 3/1992; chủ biên Thiếu tướng Phó giáo sư Nguyễn Anh Lân: “Chiến


lược “diễn biến hoà bình” của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế chống chủ
nghĩa xã hội và chống Việt Nam xã hội chủ nghĩa”,; Giáo sự Trần Xuân Trường: “Tương
lai dưới con mắt nhà tương lai học An vin Tô-phlơ”, Tạp chí Cộng sản số 7 + 8/1995;
Phó Giáo sư Lê Hồng Quang: “Đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính
trị - tư tưởng”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 5/1994; Phó Giáo sư Hồ Kiếm Việt:
“Mấy ý kiến về sắc thái cuộc đấu tranh chính trị - quân sự, số 1/1994; Phó Giáo sự Hoàng
Linh: “Chủ nghĩa nhân đạo trong học thuyết Mác”, Thông tin Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 1/1994; Phó tiến sĩ Lê Quang: “Suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội đổi mới phê
phán chủ nghĩa xét lại, hữu khuynh và giáo điều bảo thủ”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
tháng 6/1994.
Ngoài ra còn một số đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và nhiều bài viết trên các tạp chí
trong và ngoài quân đội.
Ở nước ngoài có nhiều công trình nghiên cứu về đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng đã

được dịch ra tiếng Việt và xuất bản thành sách như: Chủ nghĩa xét lại về triết học - nguồn
gốc, luận cứ và chức năng trong cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng. Nxb Sự
thật, H. 1983; “Chủ nghĩa chống cộng ngày nay”, Nxb Sự thật, H. 1983; “Hãy cảnh giác
cuộc đại chiến thế giới không có khói súng - Nghiên cứu về vấn đề chống diễn biến hoà
bình”, Nxb Khoa học xã hội Thiên tân, Tổng cục II Bộ Quốc phòng dịch và giới thiệu,
tháng 1/1994 và nhiều công trình khác.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc thù của cuộc đấu
tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay và sự tác động của nó đến quân đội.
3.Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án


Mục đích của luận án: Góp phần làm sáng tỏ một số nét đặc thù của cuộc đấu tranh hệ
tư tưởng ở nước ta hiện nay, sự tác động của nó đến quân đội và đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng vô sản của quân đội ta hiện nay.
Để thực hiện mục đích đó luận án có các nhiệm vụ:
- Phân tích bản chất, vai trò của hệ tư tưởng, đấu tranh hệ tư tưởng trong thời đại ngày
nay, bước đầu khái quát một số nét đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện
nay.
- Phân tích sự tác động của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay đến quân đội,
thực trạng về tư tưởng của quân đội và luận giải một số yêu cầu cơ bản có tính nguyên
tắc đối với việc củng cố vững chắc trận địa tư tưởng vô sản của quân đội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng vô sản
của quân đội trong giai đoạn mới.
Đấu tranh hệ tư tưởng là một lĩnh vực hết sức rộng lớn và phức tạp. Trong khuôn khổ
của luận án, tác giả chủ yếu tập trung trình bày cuộc đấu tranh hệ tư tưởng chính trị và sự
tác động tư tưởng của các thế lực thù địch đến quân đội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Luận án cũng dựa trên các văn kiện của Đảng, các tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo

Đảng và Nhà nước, đồng thời tham khảo các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học
trong và ngoài nước có liên quan tới các vấn đề được đề cập.


Luận án vận dụng tổng hợp các phương pháp trong quá trình nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp lôgíc - lịch sử, phân tích và tổng hợp, kết hợp cái phổ biến và cái đặc thù.
5. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Góp phần làm sáng tỏ một số nét đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta
hiện nay.
- Bước đầu làm rõ sự tác động của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta đến quân đội
và những yêu cầu cơ bản có tính nguyên tắc củng cố vững chắc trận địa tư tưởng vô sản
của quân đội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính nguyên tắc, tương đối đồng bộ để củng cố
vững chắc trận địa tư tưởng vô sản của quân đội.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, phương pháp luận của cuộc đấu
tranh chống lại hệ tư tưởng đối lập ở nước ta hiện nay. Kết quả của luận án có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn khoa học như:
triết học Mác - Lênin, công tác Đảng - công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt
Nam… trong hệ thống nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương (8
tiết).
Chương I
HỆ TƯ TƯỞNG VÀ ĐẶC THÙ CỦA CUỘC ĐẤU TRANH HỆ TƯ TƯỞNG Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY


Đấu tranh hệ tư tưởng là một bộ phận hợp thành của đấu tranh giai cấp. Trong bất kỳ
một cuộc đấu tranh giai cấp nào, đấu tranh hệ tư tưởng đều là cuộc đấu tranh không

khoan nhượng, gay go và phức tạp. Ở nước ta hiện nay, cuộc đấu tranh hệ tư tưởng không
những hết sức gay go, phức tạp mà còn là một mặt trận nóng bỏng, chiếm vị trí hàng đầu
trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Làm rõ những nét đặc thù của cuộc
đấu tranh đó có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với công tác tư tưởng trong tình hình hiện
nay.
1.1. Hệ tư tưởng và thực chất của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong thời đại ngày
nay
1.1.1. Hệ tư tưởng và đặc trưng của đấu tranh hệ tư tưởng
Hệ tư tưởng (từ tiếng Hy lạp iδiα - tư tưởng, hình ảnh, khái niệm và λδγog - học
thuyết) là tổng hoà những tư tưởng, quan điểm dưới dạng một hệ thống lý luận phản ánh
hiện thực khách quan trên lập trường một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng là ý thức lý tính
trong đó biểu hiện một cách tập trung những lợi ích cơ bản, (chủ yếu là lợi ích kinh tế)
của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng bao gồm hệ thống quan điểm về: chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, thẩm mỹ, triết học…
Với tư cách là ý thức lý luận (cấp độ cao của ý thức xã hội), hệ tư tưởng phản ánh hiện
thực có tính khái quát, tự giác cao của các nhà tư tưởng bằng các công cụ khái niệm,
phạm trù, quy luật, học thuyết.
Với tư cách là sản phẩm ý thức của một tập đoàn, một giai cấp, hệ tư tưởng chứng
minh và bảo vệ lợi ích của tập đoàn xã hội, của giai cấp đó. Bởi vậy, hệ tư tưởng mang
tính giai cấp sâu sắc. Giai cấp vô sản và chính đảng của mình công khai tính giai cấp, tính
đảng của hệ tư tưởng vô sản. Trái lại, các nhà tư tưởng tư sản mưu toan che dấu, nguỵ


trang tính đảng, tính giai cấp của hệ tư tưởng. Họ trình bày nó như một hệ tư tưởng siêu
giai cấp. Lênin chỉ rõ: trong xã hội có đối kháng giai cấp, không có hệ tư tưởng phi giai
cấp hoặc siêu giai cấp. Người khẳng định: “Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được
lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những
lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào đó có tính đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội,
thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người ta lừa bịp và tự lừa
bịp mình về chính trị” (11).

Hệ tư tưởng khoa học là hệ tư tưởng phản ánh đúng đắn quy luật vận động biến đổi của
hiện thực khách quan, phản ánh đúng đắn nhu cầu, xu hướng phát triển của xã hội, tiến
bộ xã hội. Điều kiện xã hội tất yếu của sự phản ánh khách quan hiện thực trong hệ tư
tưởng của một giai cấp là sự thống nhất lợi ích của giai cấp này với những nhu cầu của
sự phát triển xã hội, tiến bộ xã hội. Ngoài ra, để có được một hệ tư tưởng thực sự khoa
học còn đòi hỏi trình độ trí tuệ và phương pháp tư duy khoa học của các nhà tư tưởng của
giai cấp đó. Thiếu một trong những yếu tố trên (lập trường giai cấp, trình độ trí tuệ,
phương pháp tư duy khoa học) thì không những không có được hệ tư tưởng khoa học mà
thậm chí còn phản khoa học.
Hệ tư tưởng không khoa học chính là hệ tư tưởng không phản ánh đúng đắn, chân thực
quy luật khách quan, có ý nghĩa không phản ánh đúng đắn quy luật vận động và phát
triển của hiện thực; thậm chí xuyên tạc hiện thực.
Nhằm chống lại hệ tư tưởng mác-xít-lê-nin-nít, phủ nhận nó (tức tước đi vũ khí tinh
thần của giai cấp vô sản trong đấu tranh thủ tiêu trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã
hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa), các học giả tư sản, mà một trong những tác giả tiêu
biểu là nhà xã hội học Mỹ Ben-lơ đã nêu lên thuyết “giải thể hệ tư tưởng”. Thuyết này


cho rằng khoa học là cái hoàn toàn đúng, là tổng số tri thức được chứng minh và có tính
chất khẳng định, còn ý thức hệ thì nặng về tính chất đánh giá và chuẩn mực hoá. Vì vậy,
hệ tư tưởng mang nặng tính chất chủ quan, sai lầm, xuyên tạc hiện thực nhằm phục vụ
cho một nhóm người nào đó để đạt được những mục đích chính trị nhất định. Đồng thời,
những người đề xuất thuyết này còn cho rằng, trong xã hội hiện đại nhờ những thành tựu
của khoa học và công nghệ phát triển cao, đời sống của những người lao động đã được
cải thiện, nhà nước tư sản là nhà nước phúc lợi chung quan tâm đến mọi người; vì vậy
giai cấp công nhân và những người lao động chỉ quan tâm đến đời sống của mình, họ thờ
ơ, xa lánh hệ tư tưởng, họ chấp nhận cuộc sống và trật tự xã hội tư bản. Với lý lẽ đó, họ
khẳng định thời đại ngày nay đang đem lại “sự tận cùng của hệ tư tưởng” (53).
Khoa học và hệ tư tưởng với tư cách là những hình thức nhận thức hiện thực khách
quan, đều bao hàm nhân tố chủ quan. Song, nếu vì lẽ đó lại cho rằng hệ tư tưởng mang

nặng tính chất chủ quan, sai lầm là không đúng. Vì hệ tư tưởng khoa học hay không khoa
học là tuỳ thuộc nội dung của hệ tư tưởng đó có phản ánh đúng quy luật khách quan hay
không. Thời đại ngày nay, thời đại còn đối kháng giai cấp thì không thể có sự hoà đồng,
hội nhập giữa các hệ tư tưởng. Đây là một ảo tưởng, đúng hơn, là sự lừa bịp của các học
giả tư sản nhằm phục vụ cho ý đồ chính trị của họ.
Hệ tư tưởng có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội. Vai trò của hệ tư tưởng của một
giai cấp do vai trò lịch sử của giai cấp đó quy định. Vai trò đó được thể hiện ở các chức
năng của hệ tư tưởng: chức năng cơ sở lý luận, định hướng cho hoạt động của một giai
cấp, tập đoàn xã hội, chức năng nhận thức; chức năng giáo dục; chức năng dự báo.
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích mang tính tích cực, chủ động, sáng
tạo do quy luật khách quan chi phối. Chính hệ tư tưởng là cơ sở lý luận, định hướng cho


hoạt động nhằm thực hiện lợi ích giai cấp, tập đoàn xã hội. Nó quy định mục đích,
phương châm, phương hướng, phương pháp, kế hoạch hoạt động của giai cấp, tập đoàn
xã hội. Nói về vai trò của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng Lênin chỉ rõ:
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”… “Chỉ Đảng
nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ
tiên phong” (8).
Sự lĩnh hội hệ tư tưởng cho phép con người có được sự hiểu biết đối với hiện thực
khách quan, hình thành nên quan điểm về thế giới (tự nhiên, xã hội và tư duy). Hệ tư
tưởng khoa học, cách mạng giúp con người có được quan điểm đúng đắn, sự hiểu biệt
đúng đắn về thế giới, có được mục đích, phương hướng hoạt động đúng đắn, phù hợp với
xu hướng phát triển của xã hội, của thế giới. Ngược lại, nếu lĩnh hội hệ tư tưởng phản
động, phản khoa học sẽ làm con người có những quan điểm, tri thức sai lệch và hình
thành nên mục đích hoạt động sai lầm, phải tiến bộ.
Sự lĩnh hội hệ thống quan điểm tư tưởng lý luận không làm cho con người hiểu biết về
hiện thực khách quan (tuy nhiên hiểu biết mức nào còn do hệ tư tưởng đó khoa học đến
mức nào, và khoa học hay không khoa học) mà còn hình thành ở con người nhân sinh
quan, niềm tin, lý tưởng; chỉ đạo thái độ hành vi của con người trong giải quyết các mối

quan hệ xã hội. Hệ tư tưởng khoa học, cách mạng sẽ hình thành ở con người thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng. Ngược lại, hệ tư tưởng phản động, phản khoa
học sẽ phát sinh thế giới quan, nhân sinh quan sai lầm, lệch lạc ở con người; làm cho con
người giải quyết các mối quan hệ xã hội một cách không đúng đắn, thậm chí phản tiến
bộ.


Hệ tư tưởng tiên tiến có tính vượt trước (còn gọi là tính tiên tiến), vì vậy bản thân nó có
chức năng dự báo. Với dự báo đó hình thành nên kế hoạch, chỉ tiêu hoạt động và động
viên ý chí của cả một giai cấp tập đoàn xã hội hoạt động, góp phần tạo nên tính chủ động
trong hoạt động của con người. Vì vậy, dự báo càng có tính khoa học cao thì hệ tư tưởng
đó càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội và ngược lại, dự báo có tính
khoa học thấp, thậm chí phản khoa học, càng ít có tác dụng hoặc tác dụng tiêu cực đối
với sự phát triển của xã hội.
Trong thời đại ngày nay có hai hệ tư tưởng đối lập nhau, đó là hệ tư tưởng tư sản và hệ
tư tưởng vô sản. Lênin viết: “Vấn đề đặt ra chỉ là thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một
hệ tư tưởng “thứ ba” nào cả; vả chăng, trong một xã hội bị những sự đối kháng giai cấp
chia sẻ thì không bao giờ có hệ tư tưởng ở ngoài hoặc trên các giai cấp”. Hệ tư tưởng tư
sản phản ánh địa vị và lợi ích ích kỷ của giai cấp tư sản, là công cụ biện minh và duy trì
sự bóc lột, nô dịch, thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản, và quần chúng
lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản là một học thuyết khoa
học mang tính cách mạng triệt để, phản ánh đúng đắn quy luật vận động khách quan của
lịch sử. Nó trang bị cho giai cấp vô sản và loài người tiến bộ một thế giới quan và
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới. Do đó nó có sức sống
mãnh liệt và giá trị bền vững.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã
thành công, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga thành
công đã có ảnh hưởng rộng lớn đến tiến trình lịch sử thế giới. Tiếp sau cách mạng tháng



Mười, loài người đã đạt được những thành tựu vĩ đại, đặc biệt sau chiến công vang đội
tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, hệ thống xã hội chủ nghĩa ra đời và lớn mạnh. Chủ nghĩa
Mác - Lênin đã mở rộng ảnh hưởng, ăn sâu bám chắc vào trái tim khối óc hằng trăm triệu
con người trên thế giới. Những thành tựu đã đạt được, những ảnh hưởng rộng lớn của chủ
nghĩa xã hội là một thực tế lịch sử không ai bác bỏ được, chứng minh cho vai trò to lớn
và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói về vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin, đồng chí M.A.Xuxlốp nguyên uỷ viên Bộ Chính trị của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã viết: “Với mức độ ảnh hưởng lớn đến tâm trí con người,
đến hoạt động xã hội của họ, chủ nghĩa Mác - Lênin đã vượt lên tất cả các học thuyết
chính trị xã hội mà loài người đã biết đến… Sức mạnh của sự tác động về mặt tư tưởng
và chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin đến hàng triệu người trong tất cả các nước là ở
chỗ học thuyết này đúng, học thuyết này thể hiện một cách khoa học những lợi ích cơ bản
của tuyệt đại đa số những người lao động trên thế giới” (112).
Lịch sử cách mạng Việt Nam cũng chứng tỏ điều đó. Trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn thử thách
nghiệt ngã, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đến thắng lợi to lớn như ngày nay.
Trong những năm gần đây do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau,
trong đó đặc biệt là do sự xa rời những nguyên lý phổ biến, căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin cùng với những sai lầm về công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ, làm cho chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã.
Lợi dụng cơ hội “ngàn năm có một” này, chủ nghĩa đế quốc (đứng đầu là đế quốc Mỹ) và
các thế lực phản động quốc tế ra sức công kích, bôi nhọ, phủ nhận chủ nghĩa Mác -


Lênin. Họ lớn tiếng tuyên bố “chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết không tưởng, lỗi
thời, đã bị lịch sử vượt qua”, “sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội”, thậm chí Brêdinxki một chuyên gia chống cộng khét tiếng trong cuốn “Thất bại lớn” đã viết: “Chủ nghĩa
cộng sản sẽ được nhớ lại như một sai lầm kỳ lạ nhất về chính trị và trí tuệ của thế kỷ XX”
(39) v.v.. Điều đó không có gì lạ, lịch sử phong trào công nhân và cộng sản quốc tế đã
chứng tỏ, trong những thời điểm khó khăn phức tạp, thậm chí những thất bại tạm thời của
phong trào cách mạng, bao giờ cũng là cơ hội để chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội

xét lại ra sức công kích, thoá mạ. Hơn nữa điều đó còn chứng tỏ một điều, dù các thế lực
thù địch ra sức kêu gào “giải thể hệ tư tưởng”, “sự tận cùng của hệ tư tưởng”, chính là lúc
chúng đã và đang lo sợ vai trò to lớn và sức sống mãnh liệt, trường tồn của hệ tư tưởng
vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ không “chết” như các thế lực thù địch mong muốn.
Ngay như Đê-ri-đa, một nhà triết học có tiếng tăm ở Pháp (mặc dù chưa lúc nào là người
mác xít) trong một tác phẩm gần đây cũng cho rằng: sẽ không có tương lai nếu không có
Mác, rằng: Mác là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI (37).
Đấu tranh hệ tư tưởng là một trong những hình thức của đấu tranh giai cấp, là cuộc đấu
tranh giữa một bên là hệ tư tưởng của giai cấp tiến bộ cách mạng và một bên là hệ tư
tưởng của giai cấp lỗi thời đại biểu cho phương thức sản xuất lỗi thời lạc hậu trong những
giai đoạn lịch sử nhất định.
Đấu tranh hệ tư tưởng gồm có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Có sự kết hợp giữa phê phán, phủ định hệ tư tưởng đối lập và khẳng định, truyền bá
mở rộng phạm vi ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp mình.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, các thành viên của xã hội không mang tư tưởng của
giai cấp này thì mang theo tư tưởng của giai cấp khác. Hơn nữa, hệ tư tưởng có vai trò to


lớn (như đã phân tích ở trên) đối với việc củng cố, bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai
cấp. Vì vậy, mỗi giai cấp khi tiến hành đấu tranh hệ tư tưởng đều nhằm làm tan rã hệ tư
tưởng đối lập, ngăn chặn sự tác động ảnh hưởng của hệ tư tưởng đối lập và làm cho hệ tư
tưởng của giai cấp mình chiếm lĩnh trái tim, khối óc của mọi thành viên trong xã hội hay
chiếm địa vị thống trị về phương diện tinh thần, tư tưởng của xã hội. Để thực hiện mục
tiêu này trong cuộc đấu tranh hệ tư tưởng, các giai cấp vừa sử dụng mọi thủ đoạn phê
phán, phủ định hệ tư tưởng đối lập, vừa khẳng định hệ tư tưởng của giai cấp mình và
truyền bá mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội.
Thực tế đã chứng tỏ trong cuộc đấu tranh giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giai cấp tư
sản đã không từ bất kỳ thủ đoạn bỉ ổi nào kể cả xuyên tạc, vu cáo, đổi trắng thay đen để
phê phán, bôi nhọ, phủ định hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và ra sức biện luận cho sự
“đúng đắn”, “hợp lý” của hệ tư tưởng tư sản, sử dụng mọi phương tiện, công cụ bằng

nhiều “kênh” khác nhau, nhiều hình thức truyền bá hệ tư tưởng tư sản, gieo rắc lối sống
tư sản vào các nước xã hội chủ nghĩa và các dân tộc đang đấu tranh cho tiến bộ xã hội
trên thế giới. Trông chờ sự “thay đổi” hay “biết điều” của giai cấp tư sản là một sự ngây
thơ về chính trị hay như Lênin đã nói đó là sự tự lừa dối mình và bị người khác lừa dối về
chính trị.
- Đấu tranh hệ tư tưởng đan xen, thâm nhập với các hình thức khác của đấu tranh giai
cấp như đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế trong đó đấu tranh hệ tư tưởng giữ vai trò
quan trọng đặc biệt, là “màn giáo đầu” cho các cuộc cải biến xã hội.
Các hình thức đấu tranh giai cấp có vai trò riêng của nó ảnh hưởng, tác động lẫn nhau,
trong đó đấu tranh chính trị là hình thức có ý nghĩa quyết định vì: “vấn đề chính quyền
nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng” (12). Tuy nhiên, để đấu tranh


chính trị có kết quả lại phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của đấu tranh hệ tư tưởng. Bởi
chính hệ tư tưởng là cơ sở lý luận cho hoạt động thực hiện và bảo vệ lợi ích giai cấp, chỉ
đạo hoạt động của giai cấp, cổ vũ và huy động nhiệt tình cách mạng của quần chúng.
Thực tế của cách mạng tư sản và cách mạng vô sản đều chứng tỏ điều đó. Thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã chứng tỏ vai trò cuộc đấu tranh của chủ nghĩa
Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. Giai cấp
vô sản Nga, đại biểu là Đảng Bôn sê vích Nga, đứng đầu là Lênin vĩ đại đã tiến hành một
cuộc đấu tranh không mệt mỏi chống hệ tư tưởng tư sản bao gồm cả chủ nghĩa chống
cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại và mọi trào lưu, khuynh hướng tư tưởng tư sản; đồng thời
ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác trong giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng, phát
triển nó trong điều kiện lịch sử mới. Chính đó là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi của
cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
Thực tế của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng đã
cho thấy vai trò tiên quyết đó còn thể hiện cả trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản nào, nhà nước xã hội chủ nghĩa nào không kiên quyết,
chủ động, tích cực đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, vạch trần bản chất phản khoa
học, phản động của nó, những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực chống cộng

sản, chống chủ nghĩa xã hội; đồng thời không kiện định chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ và
phát triển nó trong điều kiện mới của lịch sử và không chăm lo củng cố trận địa tư tưởng
vô sản thực sự vững chắc, thì cách mạng nước đó gặp những tổn thất khôn lường, thậm
chí sụp đổ.
Vai trò quan trọng chiếm vị trí hàng đầu của đấu tranh hệ tư tưởng hiển nhiên đến nỗi
ngay cả những chuyên gia chống cộng khét tiếng như Ních xơn, Brêdinxki (trên lập


trường của giai cấp giai cấp bóc lột) cũng nhận thấy và kiên quyết, triệt để thực hiện để
chống chủ nghĩa xã hội, chống phong trào cách mạng thế giới. Trong cuốn “1999 - chiến
thắng không cần chiến tranh” Ních-xơn viết: “Chúng ta cạnh tranh với Liên Xô trên lĩnh
vực quân sự, kinh tế và chính trị nhưng mấu chốt cuộc cạnh tranh Xô-Mỹ lại là tư tưởng”
và y nhấn mạnh: “Cuối cùng cái có tác dụng đối với lịch sử là tư tưởng mà không phải vũ
khí”, “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp ước và mậu dịch, ngoại viện và các quan hệ
văn hoá sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta bị thất bại trên mặt trận tư tưởng” (76).
- Là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt, không điều hoà, không khoan nhượng.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng là cuộc đấu tranh để bảo vệ và thực hiện lợi
ích giai cấp, chủ yếu là lợi ích kinh tế. Sự đối kháng về địa vị, lợi ích kinh tế là không thể
điều hoà khoan nhượng. Mâu thuẫn này được phản ánh trên lĩnh vực tư tưởng là sự đối
kháng về phương diện hệ tư tưởng. Vì vậy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng,
(nhất là cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản) là không điều hoà,
không khoan nhượng, gay go, quyết liệt và phức tạp.
Thực tế lịch sử đã cho thấy, chủ nghĩa chống cộng với tính cách là sự phản ứng của bọn
tư sản và bọn quý tộc phong kiến nhằm chống lại việc giai cấp vô sản xây dựng hệ tư
tưởng giai cấp mình, đã xuất hiện từ trước khi học thuyết khoa học của chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản được hình thành. Giữa thế kỷ XIX, ngay sau khi C.Mác - Ph.
Ăngghen thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” thì chủ nghĩa cộng sản đã nhận được
sự căm thù sâu sắc và sự tấn công dữ dội của các thế lực thù địch, “đã bị truy nã bởi Giáo
hoàng và Nga hoàng, Mét-téc-níc và Ghi-đô, những kẻ cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát
Đức”… Về sau, cùng với sự lớn lên của phong trào công nhân và sự lan truyền chủ nghĩa



xã hội khoa học thì tỷ trọng của chủ nghĩa chống cộng trong hệ tư tưởng tư sản cũng tăng
lên.
Trong nửa sau thế kỷ XIX (nhất là những thập kỷ cuối), khi chủ nghĩa tư bản bước vào
một thời kỳ ổn định, nhiều Đảng cộng sản và công nhân thế giới đã không còn đứng vững
trên lập trường khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác để nhận thức đúng đắn bản
chất của các hiện tượng mới diễn ra trong xã hội tư bản. Từ thời đó, chủ nghĩa cơ hội xét
lại - một trào lưu tư tưởng chính trị thù địch với chủ nghĩa Mác (xuyên tạc, từ bỏ một
phần hay toàn bộ chủ nghĩa Mác, từ bỏ hoạt động cách mạng thực tiễn, từ bỏ nguyên tắc
tổ chức của Đảng kiểu mới, theo đuổi những ý tưởng lý luận và chính trị của giai cấp tư
sản) đã ra đời. Cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản vốn đã
quyết liệt, phức tạp, từ đây càng trở lên phức tạp và quyết liệt khi các thế lực thù địch
triệt để lợi dụng và liên minh với bọn cơ hội xét lại chống chủ nghĩa Mác - Lênin, chống
chủ nghĩa xã hội và chống các Đảng cộng sản.
Khi chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động quốc tế liên minh với các phần tử cơ hội xét lại triệt để tận dụng thời cơ
“ngàn vàng” này đã ra sức tấn công chủ nghĩa xã hội. Một mặt, chúng ra sức xuyên tạc,
bôi nhọ bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, cho đó là “xã hội độc tài”, “phản dân chủ
không có nhân quyền”, “vô đạo lý”, “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời bị lịch sử vượt
qua” (!) Chúng phủ nhận những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận
chuyên chính vô sản và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản… Mặt khác, chúng ra sức
tuyên truyền những giá trị tư sản, quan điểm tự do, dân chủ, nhân quyền tư sản, tuyên
truyền chủ nghĩa đa nguyên, dùng viện trợ kinh tế gây sức ép về chính trị, gây chia rẽ, bè
phái trong nội bộ Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa, lôi kéo các nước xã hội


chủ nghĩa đi theo con đường xã hội dân chủ - “con đường thứ ba”, thực chất là con đường
tư bản chủ nghĩa. Quá trình sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu đã chứng tỏ điều đó.

1.1.2. Thực chất của đấu tranh hệ tư tưởng trong thời đại ngày nay
Cuộc đấu tranh hết sức gay go, phức tạp, một mất một còn, giữa hệ tư tưởng vô sản và
hệ tư tưởng tư sản trở nên quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc, là thực chất của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong thời đại ngày nay.
Trong vài thập kỷ qua, loài người đã chứng kiến những biến đổi lớn lao của thời đại.
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã đưa lại một bước
phát triển mới về chất của lực lượng sản xuất xã hội, mở rộng quá trình phân công lao
động, giao lưu quốc tế, làm cho sự phát triển bên trong của mỗi nước gắn bó chặt chẽ với
sự phát triển của toàn thế giới. Thế giới ngày nay, một mặt, đang hình thành một chỉnh
thể kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau và đang cùng đứng trước những vấn đề chung có
tính chất toàn cầu cấp bách như: vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái, vấn đề bùng nổ
dân số, vấn đề tài nguyên cạn kiệt, vấn đề bệnh tật hiểm nghèo v.v.. Mặt khác, lại là một
thế giới đầy mâu thuẫn đối kháng, đối lập giữa các giai cấp, dân tộc, tôn giáo… giữa các
thể chế chính trị xã hội, các hệ ý thức tư tưởng. Thế giới vẫn phân cực giữa hai chế độ xã
hội khác nhau, giữa giàu và nghèo, giữa bóc lột, bị bóc lột và không hề có sự hội tụ, sự
tan biến và sự hoà nhập các chế độ, các giai cấp, các hệ tư tưởng như các nhà tư tưởng tư
sản tuyên truyền và một số người khác tung hứng.
Như vậy, ngày nay thế giới là một chỉnh thể vừa thống nhất, vừa đối lập, vừa hoà hoãn,
hợp tác, vừa đấu tranh. Cho nên đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng
(trong đó đặc biệt là đấu tranh hệ tư tưởng), lối sống và cả đấu tranh quân sự… là hệ quả


tất yếu của thực trạng thế giới ngày nay. Cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra quyết liệt trong phạm vi từng nước và trên toàn thế
giới (69).
Sự tồn tại những lợi ích chung của loài người như đấu tranh cho hoà bình, quan hệ kinh
tế, tham gia phân công lao động, hợp tác quốc tế… không hề triệt tiêu lợi ích của từng
giai cấp, lợi ích của từng quốc gia dân tộc. Lợi ích chung của loài người vẫn luôn luôn
được nhìn nhận từ lợi ích và lập trường quan điểm giai cấp của giai cấp khác nhau chứ
không bao giờ thoát ly lập trường, quan điểm, lợi ích giai cấp hay từ một lập trường trung

gian nào cả. Sự sắp xếp thứ bậc ưu tiên một cách siêu hình, xa rời quan điểm lập trường
của giai cấp vô sản đã bị trả giá nặng nề.
Sự khủng hoảng nghiêm trọng của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái
trào; cán cân so sánh lực lượng bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới. Trong khi đó,
do tận dụng những thành tựu của khoa học cộng nghệ, cải tiến quản lý, tăng năng suất lao
động, chủ nghĩa tư bản vẫn còn phát triển và tương đối ổn định. Không ít học giả tư sản
và thế lực cơ hội, xét lại cho rằng “nội dung thời đại đã thay đổi”. Đó là luận điệu lừa bịp,
thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn”. Đảng ta khẳng định: “Bản chất của thời đại không hề
thay đổi, loài người vẫn ở trong quá trình quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại” (71). Những mâu thuẫn cơ bản của thời
đại đã xuất hiện từ sau cách mạng tháng Mười không những không hề mất đi mà đến nay
vẫn tồn tại và ngày càng gay gắt (tuy có những biểu hiện mới). Đó là: mâu thuẫn những
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa (ngày nay mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các


nước chậm phát triển bị lệ thuộc) với chủ nghĩa đế quốc, mâu thuẫn giữa các nước tư bản
với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm kinh tế chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa
các tập đoàn tư bản liên, xuyên quốc gia. Những mâu thuẫn cơ bản này liên quan nhau,
tác động lẫn nhau, trong đó mâu thuẫn cơ bản nhất vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa hai lực lượng đại biểu cho hai con đường phát
triển trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Từ những căn cứ trên cho thấy, cuộc đấu tranh giai cấp mà chủ yếu và xuyên suốt là
đấu tranh giữa giai cấp vô sản và quần chúng lao động với giai cấp tư sản, giữa hệ tư
tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản là một tất yếu khách quan trong thời đại ngày nay.
Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ngày nay diễn ra trong những điều kiện lịch sử mới:
- Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, đặc biệt là sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, làm tương quan lực lượng bất lợi cho
phong trào cách mạng thế giới tạo nên một sự chấn động lớn về tư tưởng cho nhân dân

các nước xã hội chủ nghĩa (trong đó có nước ta).
Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa là sự kiện trung tâm và nổi bật nhất của thế kỷ
XX. Sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa
học kỹ thuật, quốc phòng, sự ưu việt của lối sống xã hội chủ nghĩa đã từng cổ vũ nhân
loại tiến bộ hướng tới lý tưởng và niềm tin cộng sản chủ nghĩa, cổ vũ hàng trăm triệu con
người trên hành tinh này đấu tranh cho tự do, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Với sự
giúp đỡ to lớn có hiệu quả về nhiều mặt của các nước xã hội chủ nghĩa (trước hết và chủ
yếu là Liên bang Xô viết) đối với các Đảng cộng sản và nhân dân các dân tộc bị áp bức
trên thế giới: phong trào giải phóng dân tộc phát triển chưa từng thấy trong lịch sử. Hàng
chục nước ở khắp các châu lục đã thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, giành


được độc lập dân tộc, trong đó có nhiều nước tuyên bố theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đây thực sự là sự kiện nổi bật thứ hai của thế kỷ XX. Sự lớn mạnh của hệ thống xã hội
chủ nghĩa đã tạo điều kiện và cổ vũ to lớn cho phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa đòi các quyền dân sinh dân
chủ, đòi cải thiện đời sống v.v.. Sự lớn mạnh của phong trào này buộc giai cấp tư sản,
nhà nước tư sản phải có những điều chỉnh nhất định trong chính sách của chúng.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hệ thống xã
hội chủ nghĩa tan rã đã tác động một cách sâu sắc, to lớn đến tiến trình cách mạng thế
giới.
Trước hết làm cho chủ nghĩa xã hội không còn là đối trọng (cả kinh tế, chính trị, quân
sự) đối với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội mất đi không chỉ với tư cách là hệ thống
mà mất đi những lực lượng to lớn, trụ cột; trong khi đó chủ nghĩa tư bản lại thâu nạp vào
một lực lượng cả kinh tế, chính trị, quân sự khổng lồ. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế
quốc Mỹ có được ưu thế đặc biệt thuận lợi hơn bao giờ hết để thực hiện mục tiêu chiến
lược nhất quán là tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, đưa các dân tộc trên thế giới đi theo quỹ đạo
của Mỹ. Trong lời nói đầu về “Chiến lược an ninh quốc gia” tháng 8/1991. Tổng thống
Mỹ Bu-sơ viết: “Chúng ta có trong tay một khả năng đặc biệt mà ít thế hệ có được để xây
dựng một hệ thống quốc tế mới phù hợp với ý tưởng giá trị của chúng ta khi những mẫu

hình cũ sụp đổ chung quanh ta” (49). Sau sự kiện Liên Xô, Mỹ công khai và ngạo mạn
tuyên bố lãnh đạo thế giới. Sau khi không còn đối trọng, thế cân bằng quân sự chiến lược
bị phá vỡ, ưu thế quân sự nghiêng về phía Mỹ. Trong điều kiện đó, chủ nghĩa đế quốc,
đứng đầu là đế quốc Mỹ, đã tận dụng tối đa ưu thế quân sự, lợi dụng triệt để vai trò của
liên hiệp quốc, chi phối liên hiệp quốc can thiệp trực tiếp vào các nước xã hội chủ nghĩa


còn lại cũng như trong phong trào giải phóng dân tộc, âm mưu thủ tiêu định hướng xã hội
chủ nghĩa mà nhiều nước đã lựa chọn.
Thứ hai, sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã ảnh
hưởng lớn lao, tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước còn
lại cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại không còn sụ liên kết về kinh tế, chính trị và quân sự; trong khi đó chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế lợi dụng triệt để cơ hội hiếm có này đẩy
mạnh cuộc chiến tranh trên lĩnh vực ý thức hệ, ra sức xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội
hiện thực, vu cáo Đảng cộng sản, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyên truyền quan
điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân lao động ở các nước này dao động, suy giảm niềm tin, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, thậm chí không ít kẻ đầu hàng về phương diện tư tưởng.
Thứ ba, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tác động
sâu sắc đến phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các
nước tư bản chủ nghĩa và các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội trên toàn thế giới, làm suy giảm niềm tin và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vào con đường
xã hội chủ nghĩa và Đảng cộng sản, làm nhiều Đảng cộng sản rệu rã về tư tưởng và tổ
chức, thậm chí có Đảng cộng sản tuyên bố ngừng hoạt động (Đảng Cộng sản Ôxtrâylia)
(59).
- Trong vài thập kỷ gần đây, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại bùng nổ
với tốc độ phi thường; chủ nghĩa tư bản nhờ ứng dụng nhanh và có hiệu quả những thành
tựu đó, đã tạo ra sự phát triển vượt bậc về lực lượng sản xuất. Dựa trên cơ sở đó, chủ
nghĩa tư bản cũng đã thực hiện được những điều chỉnh, biến đổi đáng kể về quan hệ sản



xuất và các quan hệ xã hội khác, về cơ cấu giai cấp xã hội, đời sống của người lao động
được cải thiện ở mức độ nhất định. Ví dụ, các nước tư bản phát triển đã sản xuất ra một
khối lượng của cải vật chất khổng lồ mà trước đây hàng thế kỷ cũng không làm được.
Theo số liệu của Viện Kinh tế thế giới thuộc Trung tâm khoa học xã hội nhân văn Quốc
gia: Thu nhập quốc dân GDP năm 1995 của 7 nước G7 (tính theo tỷ đô la: Anh: 1054 tỷ,
Đức: 1619 tỷ, Nhật: 2662 tỷ, Ca-na-đa: 619 tỷ, Pháp: 1147 tỷ, I-ta-li-a: 1045 tỷ, Mỹ:
6738 tỷ) (106).
Đây được coi là “căn cứ” mà chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội xét lại dùng để
chống chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ nghĩa xã hội và hô hào các dân tộc trên thế giới
đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ hết lời tán dương chủ nghĩa tư bản, cho rằng xã
hội tư bản là xã hội ưu việt tốt đẹp nhất, xã hội “dân chủ”, “thịnh vượng”, thậm chí họ
còn cho đó là xã hội xã hội chủ nghĩa mà “Mác đã từng mơ tưởng”. Họ khoét sâu những
hạn chế, khiếm khuyết của chủ nghĩa xã hội trong khi đó lại lờ đi những ung nhọt, khuyết
tật của chủ nghĩa tư bản. Với luận điệu này, trong bối cảnh quốc tế hiện nay gây tác hại
không nhỏ đối với nhân dân lao động trên thế giới, kẻ cả cán bộ đảng viên trong các nước
xã hội chủ nghĩa, nhất là trong tầng lớp thanh niên, sinh viên và giới trí thức, văn nghệ sĩ.
- Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình” nhằm thủ tiêu các nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động là không hề thay đổi. Trước điều kiện mới của lịch sử và từ thất bại của chiến
lược dùng sức mạnh quân sự là chủ yếu, chúng đã thay đổi chiến lược này bằng chiến
lược “diễn biến hoà bình” nhằm thực hiện mưu đồ “chiến thắng không cần chiến tranh”.
Đây là một chiến lược tuy vẫn dựa vào sức mạnh và không loại bỏ dùng sức mạnh vũ


trang nhưng đưa đấu tranh chính trị tư tưởng lên mặt trận hàng đầu. Chiến lược này nhằm
làm sụp đổ chủ nghĩa xã hội từ bên trong như là một “sự tự sát” của chế độ đó.
Để thực hiện mưu đồ đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã sử

dụng nhiều hình thức, thủ đoạn có sự tính toán kỹ lưỡng đầy nham hiểm, tập trung lực
lượng cả con người, tài chính, vật chất kỹ thuật, có sự phối hợp giữa các tổ chức. Với
từng nước xã hội chủ nghĩa, chúng có những đối sách cụ thể cho phù hợp với đặc điểm
kinh tế, xã hội, con người của từng nước và ngay trong một nước ở các thời điểm khác
nhau chúng không ngừng thực hiện những kế sách khác nhau cho phù hợp với tình hình,
nhằm đạt cho kỳ được mục tiêu đã xác định.
Tuy nhiên, cũng có thể chỉ ra những nội dung và thủ đoạn cơ bản của chiến lược “diễn
biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc đối với các nước xã hội chủ nghĩa là: xuyên tạc, vu
cáo, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội hiện thực và vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản, truyền bá quan điểm giá trị tư sản, đạo đức lối sống tư sản, quan điểm tự
do, dân chủ, nhân quyền tư sản vào trong các tầng lớp nhân dân ở các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại; gây kích động trong nhân dân chống đối chế độ; lôi kéo tạo lập các thế lực
thân đế quốc, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, gây bè phái, phe nhóm trong Đảng
cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo dựng ngọn cờ, bồi dưỡng “các nhà lãnh đạo
tương lai”.
Lợi dụng các nước xã hội chủ nghĩa mở cửa và thực hiện kinh tế thÞ trêng theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, các thế lực thù địch dùng viện trợ kinh tế gây sức ép về
chính trị đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; mặt khác, chúng thông qua
đầu tư hợp tác, liên doanh liên kết âm mưu đẩy kinh tế tư nhân phát triển áp đảo kinh tế
quốc doanh và tập thể, hướng kinh tế phát triển theo kinh tế thÞ trêng tự do, làm cho kinh


tế phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, từng bước làm thay đổi, chuyển hoá về
chính trị. Đồng thời, chúng còn lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc nhằm làm mất ổn
định, tạo mâu thuẫn trong cộng đồng xã hội; tuyên truyền quan điểm “phi chính trị hoá”
lực lượng quân đội, an ninh, nhằm làm vô hiệu hoá lực lượng vũ trang (55).
Chính những điều kiện mới trên đây đã làm cho cuộc đấu tranh hệ tư tưởng trong thời
đại ngày nay diễn ra hết sức gay go, phức tạp quyết liệt, đang trở thành quan trọng hàng
đầu trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Những luận điểm phủ nhận hệ tư
tưởng, phủ nhận đấu tranh hệ tư tưởng là hoàn toàn thiếu căn cứ lý luận và thực tiễn,

phản khoa học và phản động về chính trị.
1. 2. Một số nét đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay
1.2.1.Cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay diễn ra trong điều kiện một
nước quá độ “gián tiếp” lên chủ nghĩa xã hội, đang tiến hành sự nghiệp đổi mới và
mở cửa với những vận hội mới, đồng thời có nhiều nguy cơ nghiêm trọng.
Trước hết, cuộc đấu tranh đó diễn ra trong điều kiện đất nước có hoà bình, tập
trung xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng kẻ thù (đã thua ta trong chiến tranh) mưu đồ
chiến thắng ta trong hoà bình.
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn. Mục tiêu đó phù hợp với quy luật tiến hoá của thời đại, của xã hội
Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của biết bao thế hệ người Việt Nam. Thực hiện
sự nghiệp đó, nhân dân ta đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ mưu đồ
thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của Mỹ.


Chúng chủ trương sẽ chiến thắng chúng ta trong hoà bình. Năm 1975, ngay sau khi nhân
dân ta vừa giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Kít-xinhgiơ nói: “Những người cộng sản Việt Nam đã thắng trong thời chiến nhưng họ sẽ thua
trong thời bình” (40).
Tổng thống Mỹ Bu Sơ ngày 28/9/1991 cho rằng: “Hầu hết 45 năm qua, trọng điểm số
một của chúng ta là ngăn chặn ý thức cộng sản. Đến nay chúng ta mới đối phó với thách
thức đó một cách thành công. Nhưng Đông Á - Thái Bình Dương vẫn là xứ sở của những
xã hội phát triển mạnh mẽ nhất về kinh tế và chính trị. Ở đây lại vẫn còn một số chế độ
cộng sản cuối cùng và những điểm nóng khu vực chiến lược như Bắc Triều Tiên,
Campuchia và lãnh thổ tranh chấp chưa được giải quyết. Trong mọi trường hợp phức tạp
này, khi kỷ nguyên của Liên Xô đang giảm xuống, Mỹ cần có lực lượng mới ở Việt Nam,
Campuchia, Bắc Triều Tiên” (66).
Ngày 12/1/1992 Ních-xơn nói: “Trong lúc chào mừng thất bại của ý thức cộng sản
chúng ta phải cam kết chấm dứt ách áp bức của Hà Nội đối với những người Việt Nam đã
từng chiến đấu quả cảm với chúng ta” (66).

Đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế đã xác định Việt Nam là một trọng điểm
của chiến lược “diễn biến hoà bình” và hy vọng với chiến lược này họ sẽ thủ tiêu chế độ
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trước năm 2000. Ba chiến lược chủ yếu để thực hiện chiến
lược chúng ấy là:
- Chiến lược chi phối đầu tư: Qua đầu tư vào ngành nào, cho ai, mức độ như thế nào
nhằm vực kinh tế tư nhân, từng bước chi phối những ngành kinh tế then chốt, làm chuyển
hướng nền kinh tế theo hướng kinh tế tư bản chủ nghĩa, làm cơ sở để chuyển hoá chế độ
chính trị. Cũng qua chính sách đầu tư mà chia rẽ nội bộ đất nước ta giữa Trung ương và


×