MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với cách tiếp cận nào, con người và vũ khí cũng luôn luôn là hai yếu tố cơ bản
tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội và sức mạnh quân sự quốc gia, cơ sở để
giành thắng lợi trong chiến tranh. Vì thế, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa con người và vũ khí là một vấn đề lý luận và thực tiễnquan trọng của quá trình
xây dựng quân đội và sức mạnh quân sự quốc gia.
Trong thế giới ngày nay, xu thế hoà bình, hợp tác phát triển đan xen với đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc quyết liệt, tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang vẫn tồn tại với tính chất ngày càng
phức tạp. Khoa học công nghệ, trong đó có Khoa học công nghệ quân sự ngày càng
phát triển mạnh mẽ, dẫn tới sự ra đời vũ khí công nghệ cao, làm thay đổi nhiều quan
niệm về cách thức chuẩn bị và tiến hành chiến tranh truyền thống. Cuộc chiến tranh
xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao do Mỹ và đồng minh tiến hành ở I-rắc (1991),
ở Nam Tư (1999) và ở Áp-ga-ni-xtan (từ tháng 11 năm 2001) đã và đang đặt ra
những vấn đề rất cấp thiết trong lý luận về mối quan hệ giữa con người và vũ khí.
Kết cục của tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột nói trên đã để lại những nhận
thức và những cách lý giải khác nhau, thậm chí đối lập nhau, của các nhà nghiên
cứu quân sự. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong các trường
hợp đó sẽ có tác động không nhỏ tới sự thành bại của các cuộc chiến tranh bảo vệ
nền độc lập của các dân tộc trong tương lai.
Việc Mỹ một lần nữa ngang nhiên tuyên bố tiến công xâm lược I-rắc, đồng thời,
tăng cường chạy đua vũ trang, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nhiều
quốc gia, đưa quân vào một số nước trên thế giới, đã làm cho việc chuẩn bị đất nước
ta sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công xâm lược hằng vũ khí công nghệ cao đã trở
thành nhu cầu trực tiếp. Do vậy, một mặt cần quán triệt sâu sắc, tạo nên sự nhất trí
trong nhân dân và quân đội đối với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng ta về mối quan hệ giữa con người và vũ khí; mặt khác
cần khắc phục tư tưởng, quan điểm cường điệu vũ khí công nghệ cao, tâm lý lo sợ,
bi quan trước sức mạnh của kẻ thù. Đồng thời, phải không ngừng hoàn thiện các giải
pháp nhằm phát huy vai trò quyết định của con người sử dụng hiệu quả các loại vũ
khí hiện có để bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống cuộc tiến
công bằng vũ khí công nghệ cao. Chúng ta cần sử dụng nhiều hình thức, phương
pháp để phát huy truyền thống nghệ thuật quân sự "lấy thô sơ, kém hiện đại thắng
hiện đại", "lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn"; phát huy sức mạnh tổng hợp của
quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; xây dựng, củng cố và phát triển lòng tin
của cán bộ, chiến sĩ, nhân dân vào vũ khí trang bị hiện có, tin vào sự tất thắng của
sức mạnh con người và vũ khí Việt Nam trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa chống cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
Đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc hiện nay đòi hỏi phải được
nghiên cứu hệ thống, sâu sắc, có tính khoa học và cách mạng, góp phần nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân và dân ta, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và vũ
khí. Ở Liên Xô (cũ) có tác phẩm "Những vấn đề phương pháp luận của lý luận và
thực tiễn quân sự" (nhiều tác giả). Ở Việt Nam có luận án PTS của Phạm Thanh Sơn
về "Mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay", H. 1994; "Chiến tranh trong thời đại hiện nay và việc
chuẩn bị tinh thần cho quân đội trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa" do Đại tá PGS. TS Lê Văn Quang chủ biên, H. 2000; "Xây dựng chính
trị - tinh thần của nhân dân và quan đội ta sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công hoả
lực bằng vũ khí công nghệ cao của Mỹ đối với Việt Nam" do Đại tá, TS Nguyễn
Vĩnh Thắng chủ biên, H.2001. Ngoài các công trình nghiên cứu chuyên sâu còn có:
"Vũ khí công nghệ cao và một số biện pháp phòng chống", Thông tin chuyên đề của
Trung tâm Thông tin khoa học - công nghệ - môi trường Bộ Quốc phòng, tháng
l0/1999; "Chiến tranh Cô-xô-vô nhìn từ góc độ quân sự", Thông tin chuyên san của
Trung tâm Thông tin khoa học - công nghệ - môi trường, Bộ Quốc phòng tháng
11/1999... đều nhằm giới thiệu và đưa ra những nhận xét bước đầu về cuộc chiến
tranh Cô-xô-vô (1999). Trên tạp chí Khoa học quân sự số 1 (19) tháng 1/2001 có bài
viết của Võ Văn Bá về "Mối quan hệ giữa công nghệ và việc tiến hành chiến tranh".
Những công trình của các tác giả Việt Nam chủ yếu nghiên cứu bản chất, vai trò
của mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong sức mạnh chiến đấu của quân đội
nhân dân Việt Nam hoặc nội dung, biện pháp xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần
cho quân đội và nhân dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Tuy vậy, chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản và trực
tiếp về mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của Iuận án:
Nghiên cứu làm rõ thực chất mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống cuộc tiến công bằng vũ khí
công nghệ cao, đề xuất yêu cầu và các giải pháp cơ bản nhằm giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa con người và vũ khí nếu cuộc chiến tranh đó xảy ra.
Nhiệm vụ của luận án:
- Luận giải mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh và những đặc
điểm của nó trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống
cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
- Phân tích sự tác động của cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao đến mối
quan hệ giữa con người và vũ khí và những yêu cầu mới đối với việc giải quyết mối
quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa chống cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ
khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nhằm đánh thắng
cuộc tiến công bằng vũ khí công nghệ cao.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến tranh, quân
đội, về mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh.
Luận án kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước về các cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và các
cuộc chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao trong thời gian gần đây, đồng thời xử lý
số liệu điều tra và khảo sát của tác giả luận án.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận án còn vận dụng các phương pháp phân tích hệ thống, điều tra
xã hội học và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Bước đầu nêu ra những đặc điểm cơ bản của mối quan hệ giữa con người và vũ
khí trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống cuộc tiến
công bằng vũ khí công nghệ cao.
- Đề xuất một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa con người và vũ khí
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đánh thắng cuộc tiến
công bùng vũ khí công nghệ cao.
6 . Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Góp phần khẳng định tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; đồng thời góp phần nhận thức
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu khoa học, giảng
dạy, học tập những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa con người và vũ khí
trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, ba chương (7 tiết), kết luận, danh mục công trình
khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục.
Chương 1
THỰC CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ KHÍ TRONG
CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CHỐNG CUỘC TIẾN CÔNG BẰNG VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO
1.1 Mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh và những nét
mới của nó trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao
1.1.1. Khái niệm về mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh
Chiến tranh là một hiện tượng xã hội - chính trị có nhiều mối quan hệ phức hợp,
trong đó mối quan hệ giữa con người và vũ khí là một trong các mối quan hệ cơ bản.
Có nhiều cách khái quát về mối quan hệ này. Theo chúng tôi, mối quan hệ giữa con
người và vũ khí trong chiến tranh cần được tiếp cận từ sự thống nhất, tương tác
giữa con người với vũ khí nhằm tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù, bảo vệ lợi ích
của một giai cấp, nhà nước, dân tộc nhất định.
Con người trong mối quan hệ với vũ khí trước hết là những cá nhân hiện thực,
những thực thể xã hội sinh động thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, giữa
nhân tố vật chất và nhân tố tinh thần cùng toàn bộ hoạt động và ý nghĩa của các hoạt
động ấy. Trong chiến tranh, con người tác động vào vũ khí bằng tất cả phẩm chất,
năng lực, sở trường và sở đoản vốn có của yếu tố người trong mối quan hệ với yếu
tố vũ khí. Con người trong mối quan hệ với vũ khí còn là những tập thể quân sự
gồm các thành viên quan hệ với nhau theo một cơ chế tổ chức quân sự nhất định,
nhằm tạo nên sự thống nhất về nhận thức và hành động trong quá trình sử dụng vũ
khí để đạt được mục đích hoạt động của cả tập thể. Song, dù là cá nhân hay tập thể
với những cách thực thực hiện chức năng nhiệm vụ khác nhau, thì toàn bộ hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người trong mối quan hệ với vũ khí đều
hướng vào việc sử dụng và nâng cao hiệu quả chiến đấu của vũ khí. Mặt khác, con
người trong mối quan hệ với vũ khí trong chiến tranh không chỉ là con người của
LLVT, mà còn là một bộ phận dân cư sử dụng vũ khí trực tiếp chiến đấu hoặc phục
vụ chiến đấu, tùy theo tính chất, đặc điểm của chiến tranh.
Với quan niệm trên đây, khái niệm con người trong mối quan hệ với vũ khí có nội
dung không hoàn toàn đồng nhất với phạm trù nhân tố con người và phạm trù nhân
tố chủ quan - những phạm trù mà hiện nay đang có nhiều cách quan niệm khác
nhau. Theo ý kiến của các nhà khoa học, "nhân tố con người chỉ là đặc trưng xã hội
trong yếu tố người" [62, tr. 31], còn nhân tố chủ quan phản ánh khía cạnh hoạt động
của chủ thể nhằm tác động vào hoàn cảnh khách quan để biến đổi nó"[27, tr.555].
Rõ ràng, quan hệ giữa con người và nhân tố con người là quan hệ giữa sự vật với
bản chất của sự vật; còn quan hệ giữa con người và nhân tố chủ quan là quan hệ
giữa hệ thống và yếu tố, giữa chỉnh thể và bộ phận. Vì thế, phải có quan điểm toàn
diện khi xem xét vai trò của con người trong mối quan hệ với vũ khí, không nên
tuyệt đối hóa vai trò năng động chủ quan của họ, mặc dù phát huy vai trò năng động
chủ quan, tính tích cực sáng tạo của chủ thể là mục đích cao nhất của việc nghiên
cứu sự tương tác khách quan - chủ quan trong mối quan hệ giữa con người và vũ
khí.
Vũ khí là những “phương tiện kỹ thuật hoặc tổ hợp các phương tiện kỹ thuật
dùng tiêu diệt đối phương trong đấu tranh vũ trang”, [76, tr. 920-921]. Về phương
diện kinh tế - kỹ thuật, vũ khí là sản phẩm của một nền kinh tế - xã hội nhất định,
phản ánh khả năng lao động sáng tạo, trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình
độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Do vậy, tiềm lực kinh tế của đất nước càng
lớn, trình độ KHCN càng cao thì khả năng cung cấp vũ khí càng tốt hơn về cả số
lượng, chủng loại và trình độ tinh xảo. Điều đó được khái quát trong nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phụ thuộc của bạo lực vào kinh tế, như
Ph.Ăng ghen khẳng định: “Không có gì phụ thuộc vào kinh tế nhiều hơn quân đội
và hạm đội”[1, tr. 235] và V.I.Lênin cho “đó là một chân lý mà ai cũng biết”[40,tr.
55]. Về phương diện chính trị - xã hội, vũ khí thể hiện mối quan hệ giữa người và
người trong xã hội có giai cấp đối kháng, là kết tinh sự phát triển những công cụ đặc
biệt của các giai cấp nhằm giành, giữ quyền thống trị xã hội của mình. Nhu cầu lợi
ích của các giai cấp là cơ sở xác định đối tượng địch mà vũ khí cần hướng tới tiêu
diệt trong chiến tranh.
Như vậy, vũ khí trong chiến tranh cần được nhìn nhận như sự thống nhất giữa các
phương diện kinh tế - kỹ thuật và chính trị - xã hội đã đề cập trên đây.
Trong đó, phương diện chính trị - xã hội giữ vai trò cơ bản, quyết định phương
hướng, quy mô, trình độ của các hoạt động sản xuất sử dụng vũ khí. Đồng thời,
phương diện kinh tế - kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng với tư cách cơ sở vật chất
của phương diện chính trị - xã hội. Hơn nữa, vũ khí trong chiến tranh là phương tiện
kỹ thuật, nhưng không phải tất cả phương tiện kỹ thuật sử dụng trong chiến tranh
mà chỉ những phương tiện nào có khả năng và được con người sử dụng một cách
chuyên biệt để tiêu diệt đối phương mới được coi là vũ khí. Điều đó làm cho khái
niệm vũ khí vừa xác định, vừa không xác định. Là khái niệm xác định khi nó được
phân biệt với các công cụ không chuyên biệt khác, chẳng hạn như “công cụ tinh
thần” - một phương tiện rất lợi hại - được con người sử dụng trong chiến tranh. Là
khái niệm không xác định, vì ngoài vũ khí chuyên dùng, còn có các phương tiện vật
chất mà trong những tình huống cụ thể có thể nhất thời được sử dụng với tư cách vũ
khí.
Các nhân tố cơ bản con người và vũ khí liên kết, tương tác với nhau theo một một
phương thức kết hợp xác định hình thành nên mối quan hệ giữa con người và vũ khí
trong chiến tranh.
Có nhiều cách tiếp cận đối với phương thức kết hợp con người và vũ khí. Theo
nghĩa rộng, phương thức kết hợp con người và vũ khí có nội dung cơ bản tương hợp
với phương thức tác chiến “bao gồm cả hình thức quy mô tác chiến trận chiến đấu,
đợt tác chiến, chiến dịch chiến cuộc...”[9, tr. 119] và tổng thể các cách thức, thủ
đoạn biện pháp sử dụng con người, vũ khí để đánh địch. Tuy nhiên, nói tới phương
thức tác chiến chủ yếu là đề cập đến tổng thể các hình thức, quy mô, cách thức, biện
pháp sử dụng con người, vũ khí trong sự kết hợp theo một phương thức nào đó để
đánh địch phù hợp với những nguyên tắc tác chiến nhất định; còn nói đến phương
thức kết hợp con người và vũ khí chủ yếu là đề cập đến tổng thể các hình thức, cách
thức biện pháp để tạo ra những điều kiện và động lực nhằm duy trì, gia tăng sự liên
kết, tương tác giữa con người và vũ khí, từ đó phát huy cao nhất sức mạnh của
chúng trong chiến tranh.
Sự ra đời, vận động, biến đổi của phương thức tác chiến cũng như phương thức
kết hợp con người và vũ khí phụ thuộc có tính quyết định vào số lượng, chất lượng
con người, vũ khí. Sự biến đổi của số lượng, chất lượng con người, vũ khí đến một
mức độ nào đó buộc phương thức tác chiến phải thay đổi theo. Song đến lượt nói
phương thức tác chiến cũng tác động trở lại rất lớn đến số lượng, chất lượng con
người, vũ khí. Phương thức tác chiến phù hợp sẽ thúc đẩy số lượng, chất lượng con
người, vũ khí phát triển, theo đó kết quả đấu tranh vũ trang được củng cố, tăng
cường và ngược lại. Xét dưới góc độ phương pháp luận, đây là sự phù hợp trong sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, giữa xu hướng có tính ổn định tương
đối của phương thức tác chiến với xu hướng thường xuyên biến đổi của số lượng,
chất lượng con người, vũ khí trong chiến tranh, và do đó, với phương thức kết hợp
con người và vũ khí. Sự phù hợp luôn có xu hướng bị phá vỡ, và bản thân nó cũng
là quá trình thường xuyên vận động biện chứng từ phù hợp đến không phù hợp và
đến phù hợp cao hơn.
Có nhiều phạm vi và cấp độ phù hợp khác nhau của phương thức tác chiến với
phương thức kết hợp con người và vũ khí - lý luận và thực tiễn đã chỉ rõ: ngoài
phạm vi và cấp độ chung, sự phù hợp giữa phương thức tác chiến với phương thức
kết hợp con người và vũ khí còn được thể hiện một cách độc lập tương đối ở các cấp
độ chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Có thể có phương thức tác chiến chiến lược
phù hợp, nhưng phương thức tác chiến chiến dịch, chiến thuật lại không phù hợp và
ngược lại. Ngoài ra, một phương thức tác chiến được coi là phù hợp với phương
thức kết hợp con người và vũ khí còn phải được xem xét trong mối quan hệ với môi
trường tác chiến, với điều kiện địa hình, thời tiết, thủy văn và tình hình so sánh lực
lượng. Vì thế, mức độ phù hợp của phương thức tác chiến phụ thuộc rất lớn vào khả
năng của con người nhận thức và khắc phục những khó khăn, bất cập của cả điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan thường xuyên, liên tục tác động tới phương
thức tác chiến. Nói cách khác, hạt nhân của phương thức kết hợp con người và vũ
khí vẫn chính là con người.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy, mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong
chiến tranh là sự thống nhất, tương tác giữa chủ thể điều khiển là con người với
phương tiện bị điều khiển là vũ khí trong một phương thức kết hợp phù hợp với một
phương thức tác chiến nhất định.
Như vậy con người vừa là một thành tố tham gia mối quan hệ giữa con người và
vũ khí vừa là chủ thể sáng tạo của mối quan hệ ấy. Cho nên, tiếp cận bản chất mối
quan hệ con người và vũ khí trong chiến tranh theo quan điểm mác-xít phải đứng
vững trên điểm xuất phát là con người, và cái đích cuối cùng của sự nghiên cứu
cũng chính là nâng cao vai trò chủ thể của con người. Bởi vì xét đến cùng, vai trò
chủ thể của con người đối với vũ khí có cơ sở lý luận và thực tiễn từ vai trò chủ thể
của con người đối với tự nhiên, xã hội và bản thân mình, đối với toàn bộ tiến trình
của lịch sử nhân loại, như triết học Mác đã khẳng định: Con người sáng tạo ra công
cụ và sử dụng công cụ ấy để sáng tạo ra đời sống xã hội. Trong sức mạnh chiến đấu
của LLVT, con người không chỉ đơn thuần là một yếu tố tạo nên sức mạnh chiến
đấu, mà còn là trung tâm điều khiển sự vận động, phát triển và phát huy tiềm lực của
các yếu tố khác, kể cả sự tác động của môi trường bên ngoài tới sức mạnh chiến
đấu. Hơn nữa, con người là trung tâm gắn kết, tiếp nối sự tác động lẫn nhau của các
yếu tố hợp thành sức mạnh chiến đấu của LLVT.
Không chỉ đóng vai trò chủ thể sáng tạo ra vũ khí, mà trong chiến tranh, vai trò
chủ thể của con người đối với vũ khí còn được thể hiện trên rất nhiều nội dung.
Trước hết, con người điều khiển, định hướng, kiểm soát mọi quá trình sử dụng vũ
khí như một quá trình thống nhất giữa mặt kỹ thuật - quân sự và mặt chính trị - xã
hội, ở góc độ kỹ thuật - quân sự, trình độ, tính chất của quá trình điều khiển, sử dụng
vũ khí trong chiến tranh phụ thuộc trực tiếp vào trình độ KHCN, nên mỗi trình độ
KHCN sẽ có phương thức điều khiển vũ khí riêng. Về mặt xã hội, điều khiển vũ khí
thực chất là quá trình định hướng việc sử dụng vũ khí cho mục đích chiến thắng kẻ
thù, là mặt thể hiện tập trung nhất vai trò của con người đối với vũ khí trong chiến
tranh. Như vậy, nếu như về mặt kỹ thuật, việc điều khiển trực tiếp vũ khí ngày càng
được chuyển giao cho các phương tiện kỹ thuật và vai trò con người ngày càng trở
nên gián tiếp, thì về mặt chính trị - xã hội, chỉ có con người mới xác định được mục
đích sử dụng vũ khí mà không thể có bất cứ một phương tiện kỹ thuật nào thay thế
được.
Vai trò của con người đối với vũ khí trong chiến tranh còn được thể hiện như một
trung tâm điều phối, tiếp nhận, xử lý các Thông tin, hình thành mối liên hệ giữa vũ
khí với các yếu tố khác, duy trì sự cân bằng, ổn định của sức mạnh chiến đấu, tạo
môi trường thuận lợi thúc đẩy vũ khí phát triển. Điều đó khẳng định một trong
những nội dung quan trọng nhất thể hiện vai trò của con người đối với vũ khí là con
người quyết định hiệu quả thực tế của vũ khí. Trước hết, môi trường sử dụng vũ khí
trong chiến tranh là môi trường nguy hiểm, mang tính đối kháng quyết liệt. Đối
tượng mà vũ khí hướng tới huỷ diệt là con người và các phương tiện kỹ thuật của
đối phương. Tất nhiên, đối phương cũng luôn luôn sẵn sàng tìm mọi cách phòng
tránh, đánh trả, làm giảm thiểu, thậm chí triệt tiêu sức mạnh của vũ khí. Đó là đặc
điểm lớn nhất, chi phối hiệu quả sử dụng vũ khí trong chiến tranh. Thứ hai, môi
trường sử dụng vũ khí trong chiến tranh là tổng hoà sự tương tác bên trong và những
tác động bên ngoài khá đặc biệt mà kết cục của chiến tranh trực tiếp phụ thuộc vào
đó. Hơn nữa, các yếu tố bảo đảm, phụ trợ duy trì hoạt động của vũ khí như thiết bị
bảo dưỡng, phụ tùng thay thế thường ở trạng thái không đầy đủ hoặc hoàn toàn
không có. Thứ ba, khó khăn, phức tạp vốn có của môi trường quân sự như điều kiện
địa hình, thời tiết cùng những khó khăn do đối phương tạo ra trở thành thách thức
tổng hợp, làm tăng sự cản trở việc sử dụng vũ khí trong chiến tranh.
Chính vì vậy, hiệu quả thực tế của vũ khí trong chiến tranh không chỉ phụ thuộc
vào tính năng kỹ, chiến thuật của vũ khí mà chủ yếu phụ thuộc vào việc con người
khắc phục khó khăn, vượt qua những nguy cơ, thách thức. Đó không chỉ là tài nghệ
của người chiến sĩ trực tiếp sử dụng vũ khí, mà còn là tiềm lực của cả quốc gia, dân
tộc, là trí tuệ và tài năng của các chính khách, các nhà khoa học, và cả những công
nhân tham gia quá trình nghiên cứu, sản xuất, cải tiến vũ khí. Nói khác đi hiệu quả
thực tế của vũ khí phụ thuộc vào kết quả cuộc đấu tranh giữa các bên tham chiến
nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa hoạt động nhằm duy trì, nâng cao hiệu quả việc sử
dụng vũ khí với hoạt động chống lại việc duy trì đó nhằm vô hiệu hóa vũ khí. Đây là
sự đối kháng quyết liệt và vô cùng khấc nghiệt, tuân theo đúng quy luật mạnh được,
yếu thua, và sự phân định thắng bại, hơn thua, mạnh yếu chỉ trong gang tấc. Vì thế,
mọi hoạt động nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả thực tế của vũ khí trong chiến
tranh luôn luôn là cuộc đấu tranh căng thẳng cả về trí lực và thể lực cả về kỹ thuật,
chiến thuật, chiến dịch và chiến lược.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thế kỷ XX đã để lại những bài học vô
cùng quí báu về phát huy sức mạnh của con người Việt Nam trong sử dụng vũ khí
thô sơ, kém hiện đại đánh thắng vũ khí hiện đại của địch. Thực tiễn lịch sử cho thấy
kẻ địch xâm lược nước ta đều sử dụng những vũ khí hiện đại nhất (trừ vũ khí hạt
nhân) kết hợp với những phương thức tác chiến và cách bố trí lực lượng luôn tính
đến sự an toàn về con người và vũ khí của chúng. Hàng ngàn nhà bác học, chuyên
gia quân sự hàng đầu thế giới thường xuyên được huy động để nghiên cứu cải tiến
các loại vũ khí. Để đánh bại vũ khí hiện đại cùng những thủ đoạn xảo quyệt và tàn
bạo của địch, dân tộc ta không những dũng cảm, kiên cường, mà còn thông minh,
sáng tạo, từng bước chế tạo và cải tiến vũ khí, đồng thời tạo nên những phương thức
độc đáo kết hợp giữa con người và vũ khí, phù hợp với con người, vũ khí và môi
trường tác chiến của Việt Nam.
Chúng ta đã tạo ra phương thức kết hợp giữa con người Việt Nam với vũ khí ở
nhiều trình độ khác nhau, từ thô sơ, tương đối hiện đại tới hiện đại; thực hiện kết
hợp giữa con người và vũ khí ở nhiều quy mô và không gian khác nhau. Con người
và vũ khí được kết hợp trong các trận đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn; kết hợp ở
trên bộ, trên biển và trên không; ở cả rừng núi, đồng bằng và thành thị; ở tiền tuyến,
hậu phương của ta và cả trong vùng tạm chiếm, hậu phương của địch. Hình thức kết
hợp đa dạng, nội dung kết hợp phong phú đã giúp chúng ta huy động được mọi lực
lượng của toàn dân tộc với tất cả các phương tiện VKTBKT của đất nước, thực hiện
chiến lược tiến công, làm cho địch ở đâu cũng bị đánh, đến đâu cũng bị diệt, luôn
luôn lâm vào thế bị động và buộc phải chấp nhận thất bại hoàn toàn.
Đặc biệt, sự kết hợp chặt chẽ giữa con người Việt Nam với VKTBKT ở nhiều
trình độ khác nhau là một sáng tạo lớn, tạo nên khả năng mới, chất lượng mới của
mối quan hệ. Thứ nhất, trong một đội hình tác chiến, sự kết hợp đó cho phép huy
động được lực lượng chiến đấu đông đảo, bao gồm : dân quân du kích, bộ đội địa
phương, bộ đội chủ lực để hình thành một thế trận liên hoàn, hiểm hóc, vừa có chiều
rộng vừa có chiều sâu; có khả năng đánh địch ở mọi hướng, mọi tầm...; vừa có khả
năng phòng ngự kiên cường, vừa bảo đảm hiệu quả cơ động tiến công địch, tạo nên
lưới lửa vô hình luôn bủa vây quân thù. Thứ hai, việc sáng tạo phương thức kết hợp
vũ khí thô sơ “có nguyên lý hoạt động và cấu tạo đơn giản, thường được chế tạo
bằng các phương pháp thủ công, tận dụng những nguyên liệu sẵn có, khai thác dễ
dàng”[76, tr. 927] với những con người có bản lĩnh chính trị vững vàng, được trang
bị kiến thức KHCN hiện đại sẽ đem lại sức mạnh mới, hiệu quả to lớn đủ khả năng
đánh bại cuộc tiến công bằng VKTBKT hiện đại của CNĐQ. Trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ(1964- 1972), chúng ta đã dùng dụng cụ
phá bom mìn thông thường và thô sơ gồm khung dây phóng từ đơn giản, kéo tôn,
thép và vật kim khí để kích nổ 8287/12664 quả bom, mìn địch thả ở các cửa sông và
vùng ven biển, chiếm 65,4% số bom mìn được tháo gỡ trong đó có mìn từ trường -
vũ khí hiện đại kết tinh của những thành tựu KHCN cao của Mỹ lúc bấy giờ [4, tr.
568].
Việc kết hợp phương thức tác động trực tiếp, thủ công với phương thức tác động
gián tiếp, thông qua hệ thống khí tài trong mối quan hệ giữa con người và vũ khí là
một sáng tạo đặc sắc, một thành công lớn trong giải quyết mối quan hệ giữa con
người và vũ khí của chúng ta; điều đó đã gia tăng khả năng sống còn và hiệu quả
chiến đấu của các VKTBKT hiện đại trong điều kiện tác chiến khó khăn nhưng phải
chống lại các vũ khí hiện đại hơn của kẻ thù. Bởi vì, sự ra đời của thế hệ vũ khí sau
luôn luôn là sự phủ định biện chứng thế hệ vũ khí trước nó. Mục đích của việc sản
xuất các loại vũ khí mới của địch luôn hướng tới tiêu diệt hoặc loại bỏ những tính
năng, tác dụng nổi trội mà vũ khí của chúng ta đang có. Cho nên, khi chúng ta sử
dụng các biện pháp thủ công, trực tiếp để điều khiển vũ khí hiện đại là đã loại bỏ
được sự chống phá của địch, tăng độ an toàn, tính chủ động cho ta, đẩy địch vào thế
bất ngờ, bị động. Trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), khi địch sử dụng nhiễu
dày đặc, để phát hiện B52 từ xa, bộ đội ra- đa đã sử dụng các vọng quan sát mắt để
hỗ trợ các trạm ra-đa; bộ đội tên lửa đã “kết hợp khí tài quang học (Π-100) với khí
tài điện tử để đánh địch trong nhiễu nặng” [49, tr.125]... Chính những sáng tạo đặc
sắc đó đã nhân bội sức mạnh của con người, vũ khí Việt Nam lên một tấm cao mới,
chiến thắng mọi sức mạnh bạo tàn của CNĐQ. Đúng như lời nhận xét của một chính
khách cao cấp Mỹ: “Nếu dân tộc các ngài chỉ anh hùng thôi thì vũ khí Mỹ chúng tôi
có thể đè bẹp, nhưng vì các ngài thông minh quá. Dũng cảm và thông minh đã làm
cho sức một thành mười, mười thành một trăm”[23, tr. 9].
Rõ ràng là, vũ khí chỉ được sử dụng với hiệu quả cao khi nằm trong tay những
con người sung mãn về thể chất và tinh thần, về trí tuệ và mưu lược. Và ngược lại,
hiệu quả của vũ khí sẽ bị hạn chế, thậm chí phản tác dụng nếu những con người sử
dụng nó yếu đuối, hèn kém cả về tư duy và hoạt động, bản lĩnh và tài năng, ý chí và
nghị lực. Thực tiễn của các cuộc chiến tranh gần đây như ở Trung Đông đã chứng
minh rằng, nếu vũ khí ở trong tay những con người hèn nhát nhu nhược thiếu thông
minh sáng tạo thì nhất định hiệu lực của vũ khí sẽ suy giảm, thất bại là khó tránh
khỏi.
Xét đến cùng, con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng vũ khí. Song, trong chiến
tranh, vũ khí tác động trở lại rất lớn đến con người. Trước hết, vũ khí là phương tiện
vật chất chủ yếu nhất để đấu tranh vũ trang, để tiến hành hoạt động quân sự. Không
có vũ khí, con người không thể tiêu diệt được kẻ thù, không thể tự bảo vệ được
mình. V.I.Lê nin chỉ rõ: “Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất
cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt nếu họ không được vũ trang đầy đủ” [39, tr.
497]. Mặt khác, con người, với tư cách là nhân tố trung tâm điều khiển, xử lý, liên
kết, duy trì các mối liên hệ trong sức mạnh chiến đấu, cũng chỉ có thể điều khiển,
định hướng, kiểm soát được vũ khí trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nó,
đặc biệt là nhận thức về vai trò tác động trở lại của vũ khí đối với chính con người.
Sự tác động của vũ khí đối với con người trong chiến tranh biểu hiện trên nhiều
góc độ khác nhau. Vũ khí trở thành một trong những tiền đề khách quan cơ bản để
xác lập phương thức tư duy và hành động chiến đấu của con người. Số lượng, chất
lượng của vũ khí là căn cứ của tư duy lý luận chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và
các hoạt động chiến đấu, bồi kỹ thuật quân sự bao giờ cũng là cơ sở của nghệ thuật
quân sự. Việc hoạch định phương thức tiến hành chiến tranh, xác định nội dung và
hình thức của chiến dịch, của một trận chiến đấu đều có cơ sở khách quan từ thực
trạng số lượng, chất lượng và xu thế vận động, biến đổi của VKTBKT. Vũ khí
không chỉ tác động đến nhận thức và hoạt động tổng hợp của con người trong chiến
tranh, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái tinh thần của nhân dân và quân đội.
Nhận thức, đánh giá đúng về số lượng, chất lượng, tìm đúng điểm mạnh, điểm yếu
của vũ khí là cơ sở để hình thành, phát triển lý tưởng, quyết tâm chiến đấu, điều
chỉnh biên chế tổ chức, phát triển KHNTQS, đồng thời là cơ sở để con người chủ
động lựa chọn, cải tạo môi trường tác chiến, là cơ sở đánh giá so sánh lực lượng
địch ta... Có ưu thế về số lượng, chất lượng vũ khí sẽ giúp con người vững tin hơn,
phấn khởi, kiên quyết, mạnh dạn hơn trong chiến đấu. Ngược lại, số lượng vũ khí
không đầy đủ, chất lượng thấp sẽ là những lực cản trong tổ chức lực lượng, bố trí
đội hình và xác định các giải pháp chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, làm cho
tâm lý, tinh thần chiến đấu sút kém.
Như vậy, xuất phát từ nhu cầu tiêu diệt địch, bảo vệ mình, giành được thắng lợi
trong chiến tranh, con người không ngừng cải tiến, đổi mới VKTBKT. Và chính sự
cải tiến, đổi mới đó đã làm cho vai trò của VKTBKT đối với con người tăng lên.
Cho nên, vai trò của vũ khí đối với con người tỉ lệ thuận với sự hoàn thiện về tính
năng tác dụng và sự phát triển về số lượng của nó; trong đó những bước phát triển
đột phá của vũ khí về nguyên lý cấu tạo, vận hành, theo đó là sự đột biến về khả
năng cơ động, độ chính xác, phạm vi hoạt động... có tác động vô cùng to lớn tới con
người, tới phương thức kết hợp giữa con người và vũ khí. Những bước phát triển đó
không chỉ trực tiếp tác động mạnh mẽ buộc phẩm chất, năng lực chiến đấu của
người cầm súng phát triển, mà còn dẫn tới những cuộc cách mạng toàn diện trong
lĩnh vực quân sự, từ xây dựng tổ chức quân đội , phương thức chuẩn bị và tiến hành
chiến tranh, KHNTQS.
Vai trò của con người đối với vũ khí không chỉ phụ thuộc vào những chỉ số sinh
học về thể chất, tâm lý, trí tuệ của mỗi cá nhân mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử xã hội. Trong đó cái cơ bản, quyết định nhất là bản chất chế độ kinh tế- xã hội và
tính chất xã hội của chiến tranh, vì đó là những yếu tố gắn liền với lợi ích cơ bản,
chi phối mục đích, động cơ, lý tưởng sử dụng vũ khí của con người. Do vậy, mỗi
một cuộc cách mạng xã hội thắng lợi cũng đồng thời là một bước nhảy vọt về vai trò
của con người đối với vũ khí. Bước nhảy vọt đó phụ thuộc vào mức độ giải phóng
con người của từng cuộc cách mạng cụ thể. Điều này có thể thấy rất rõ đối với cuộc
cách mạng vô sản. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin, bằng thế giới
quan, phương pháp luận khoa học đã dự đoán một cách đúng đắn rằng, với khả năng
giải phóng con người ở mức cao nhất, triệt để nhất, cách mạng vô sản sau khi giành
được thắng lợi sẽ giúp giai cấp vô sản có một phương thức tiến hành chiến tranh ưu
việt hơn hẳn giai cấp tư sản. Thực tiễn của cuộc nội chiến cách mạng ở nước Nga
xô-viết ( 1918 - 1922) diễn ra sau Cách mạng Tháng Mười (1917) cũng như cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta diễn ra sau Cách mạng
Tháng Tám (1945) đã chứng minh điều đó.
1.1.2. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự vận động của mối quan hệ con
người và vũ khí trong chiến tranh
Như mọi sự vật, hiện tượng khác mối quan hệ giữa con người và vũ khí cũng
luôn luôn vận động, phát triển. Sự vận động đó khởi đầu từ nhu cầu của con người
dẫn đến sự phát triển, hoàn thiện của VKTBKT. Và từ sự phát triển của VKTBKT
lại làm bộc lộ sự hạn chế, bất cập về phẩm chất, năng lực của con người, buộc con
người phải hoàn thiện phẩm, chất năng lực chiến đấu của mình. Sự phát triển của
hai nhân tố này tới một giới hạn nhất định sẽ mâu thuẫn với phương thức kết hợp
giữa con người và vũ khí về phương thức tác chiến hiện có. Sự vận động của mâu
thuẫn đó chính là nguồn gốc, động lực của sự phát triển của mối quan hệ giữa con
người và vũ khí trong chiến tranh.
Tuy nhiên, sự vận động, phát triển của mối quan hệ giữa con người và vũ khí
không chỉ phụ thuộc vào mâu thuẫn ấy, mà còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác.
Những nhân tố thường xuyên tác động tới con người, vũ khí, và phương thức kết
hợp chúng từ đó chi phối sự vận động, phát triển của mối quan hệ giữa con người và
vũ khí. Vì thế, việc nghiên cứu những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự vận động,
phát triển của mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh có ý nghĩa rất
lớn trong quá trình nhận thức và vận dụng nhằm xử lý đúng đắn và phát huy tốt nhất
tính ưu việt của nó trong chiến tranh .
Trong chiến tranh số lượng, chất lượng của con người, vũ khí cũng như phương
thức kết hợp giữa con người và vũ khí bị quy định trước hết bởi sức mạnh quân sự
quốc gia, bao gồm tổng thể các lực lượng vật chất và tinh thần của một nước và khả
năng huy động những lực lượng ấy vào thực hiện mục đích của chiến tranh. Mỗi
tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, KHCN... của sức mạnh quân sự quốc gia tác
động tới mối quan hệ giữa con người và vũ khí theo những con đường khác nhau,
nhưng tất cả đều phải thông qua sự lãnh đạo của giai cấp thống trị với tư cách là
trung tâm điều khiển, tổ chức, huy động, sử dụng mọi tiềm lực của đất nước trong
chiến tranh, là trung tâm xử lý các tác động từ bên ngoài vào mối quan hệ giữa con
người và vũ khí. Mặt khác, sự vận động, biến đổi, phát triển của tất cả các tiềm lực
và toàn bộ khả năng huy động tiềm lực ở trạng thái tiềm năng thành sức mạnh hiện
thực trong chiến tranh suy đến cùng phụ thuộc vào mục đích tiến hành chiến tranh.
Mối quan hệ giữa con người và vũ khí còn chịu sự tác động của môi trường hoạt
động quân sự của quốc gia trong chiến tranh, trong đó so sánh lực lượng giữa các
bên tham chiến, điều kiện địa hình, khí hậu, thủy văn và kết cấu hạ tầng của nền
kinh tế - xã hội là những nhân tố có tác động mạnh nhất.
Do đó, có thể coi mục đích tiến hành chiến tranh; sự lãnh đạo của giai cấp thống
trị; tiềm lực KHCN quân sự; so sánh lực lượng giữa các bên tham chiến và môi
trường tác chiến là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự tương tác giữa con
người và vũ khí trong chiến tranh.
Mục đích tiến hành chiến tranh của các giai cấp, các nhà nước, các dân tộc là
nhân tố cơ bản trước hết tác động đến mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong
chiến tranh. Hơn thế, có thể coi mục đích tiến hành chiến tranh đóng vai trò hạt
nhân của toàn bộ hệ thống các nhân tố quy định tính chất mối quan hệ giữa con
người và vũ khí. Bởi vì, trước khi tiến hành chiến tranh, mỗi giai cấp, mỗi nhà nước
đều xác định mục đích tiến hành chiến tranh, với tư cách là hình ảnh một kết quả
được hình dung trước của chiến tranh mà toàn bộ hoạt động của giai cấp, nhà nước
hướng tới nhằm biến nó thành hiện thực. Mục đích tiến hành chiến tranh phản ánh
những điều kiện khách quan nhất định, trong đó cái bản chất nhất chính là lợi ích cơ
bản, lâu dài, có ý nghĩa sống còn của giai cấp, nhà nước, dân tộc. Vì thế mục đích
tiến hành chiến tranh không phải là động thái tư tưởng mang tính tự phát, nhất thời
mà là động lực cơ bản thường xuyên thúc đẩy mọi hoạt động của các giai cấp trong
cả thời bình và thời chiến, trong đó có hoạt động nhằm giải quyết mối quan hệ giữa
con người và vũ khí. Với ý nghĩa này, mục đích tiến hành chiến tranh như “một quy
luật”, “quyết định phương thức hành động” của các bên tham chiến và “bắt ý chí của
họ phải phục tùng nó”[42, tr. 267].
Mục đích tiến hành chiến tranh tác động đến mối quan hệ giữa con người và vũ
khí chủ yếu được thể hiện dưới hai hình thức. Thứ nhất, mục đích tiến hành chiến
tranh là động lực thúc đẩy chính chủ thể đã sinh ra nó, tức là giai cấp thống trị, phải
nhận thức và xử lý đúng về mối quan hệ giữa con người và vũ khí. Thứ hai, mục
đích tiến hành chiến tranh của giai cấp, nhà nước khi được chuyển hoá thành mục
đích của cả quốc gia, dân tộc sẽ là nhân tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy toàn thể
quần chúng nhân dân tham gia chiến tranh, từ đó làm chuyển hoá vai trò của con
người và vũ khí trong chiến tranh. Cho nên, khả năng tác động của mục đích tiến
hành chiến tranh đến mối quan hệ giữa con người và vũ khí trong chiến tranh phụ
thuộc trực tiếp vào tính chất xã hội của cuộc chiến tranh, cũng như hiệu quả các hoạt
động tuyên truyền, giáo dục trong quân đội và nhân dân về mục đích đó. Song, tính
chất tiến bộ hay phản động của mục đích tiến hành chiến tranh bao giờ cũng ảnh
hưởng lớn nhất đến sự tương tác giữa con người và vũ khí trong chiến tranh.
Mục đích tiến hành chiến tranh tiến bộ luôn luôn phù hợp với quy luật phát triển
tất yếu của lịch sử, với xu thế của thời đại và với nguyện vọng chính đáng của nhân
dân lao động. Cho nên, nó không chỉ đáp ứng lợi ích của những người lãnh đạo