Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ TỪ 24 đến 36 THÁNG CÓ THÓI QUEN TỐT TRONG ĂN UỐNG Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA THỦY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.02 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
PHÒNG GD VÀ ĐẠO TẠO NGA SƠN (TRƯỜNG MẦM NON NGA THỦY)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ TỪ 24- 36
THÁNG CÓ THÓI QUEN TỐT TRONG ĂN UỐNG
Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA THỦY

Người thực hiện: Nghiêm Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Nga Thủy
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2015
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trẻ em hôm nay- Thế giới ngày mai. Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình,
là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được hưởng sự quan tâm, chăm sóc,
nuôi dưỡng và giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội. Để có một tương lai
tươi sáng thì ngay từ tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp hiện
đại và toàn diện về mọi mặt. Trong đó giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- Trẻ đến trường được tham gia các hoạt động. Qua đó trẻ được tiếp thu lĩnh
hội các kiến thức khoa học cơ bản từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó.
Nhằm hình thành và phát triển toàn diện về nhân cách ban đầu của trẻ và phát
triển bốn mặt lĩnh vực của nhà trẻ như: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm
và kĩ năng xã hội.


Mục tiêu giáo dục mầm non trong chiến lược phát triển giáo dục nhấn mạnh
đến chất lượng giáo dục toàn diện. Trong đó phát triển thể chất được đặt ra trong
mối quan hệ tổng thể với các mặt phát triển khác nhau: “Nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ dưới sáu tuổi để phát triển một cách toàn diện về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ.” Cơ thể trẻ đang phát triển rất nhanh về thể chất và
tinh thần, đặc biệt trong thời kì bào thai và 5 năm đầu của cuộc đời. Do vậy nhu
cầu dinh dưỡng của trẻ rất cao. Ở giai đoạn này cơ thể trẻ đang còn non yếu về
các chức năng bộ phận cơ thể, nhất là chức năng tiêu hóa là giai đoạn thích ứng
với môi trường, nhạy cảm với bệnh tật và cũng là giai đoạn tiền đề cho sức khỏe
và trí tuệ sau này, tác động trực tiếp vào sự phát triển toàn diện của trẻ. Việc
cung cấp không đầy đủ, không đúng khẩu phần dinh dưỡng sẽ làm cho trẻ dễ
mắc bệnh suy dinh dưỡng về cân nặng, chiều cao và cơ thể trẻ không phát triển
cân đối hài hòa.
Ở nước ta trong những năm gần đây, nhờ sự tăng trưởng của nền kinh tế, sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, trong đó sự nỗ lực phấn
đấu của ngành Giáo dục- Đào tạo đã cải thiện đáng kể chất lượng chăm sóc,
nuôi dạy trẻ, mà chăm sóc vệ sinh dinh dưỡng là khâu quan trọng. Đặc biệt sau
khi thực hiện chuyên đề “Nâng cao chất lượng dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm” bản thân đã nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy cho trẻ
những thói quen nề nếp trong ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng trong
2


quá trình nuôi dạy giáo dục trẻ ở trường. Vì sức khỏe là vốn quí giá nhất và có ý
nghĩa sống còn với con người. Đặc biệt đối với trẻ mầm non, trẻ có khỏe mạnh
phát triển cân đối thì mới phát triển trí tuệ và nhận thức. Cụ thể là trẻ 24- 36
tháng trẻ đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện dần. Cơ thể trẻ
non yếu làm sao trẻ có thói quen ăn uống tốt, hợp vệ sinh là một yêu cầu quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và thể chất của trẻ và lứa tuổi tiếp theo.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Như chúng ta đã biết “Ăn uống là một trong các bản năng quan trọng nhất
của con người và các loài động vật khác”. Ăn uống cần thiết cho sức khỏe của
con người. Nhờ các phát hiện của dinh dưỡng học, người ta biết trong các thức
ăn có chứa rất nhiều thành phần dinh dưỡng cần thiết đối với cơ thể con người
đó là protein, lopit, gluxit, vitamin, chất khoáng và nước…sự thiếu hụt một
trong các chất khoáng này có thể gây lên bệnh tật thậm chí chết người- “Ăn
uống là nhu cầu không thể thiếu với mỗi con người”. Bởi thế trong chế độ sinh
hoạt hàng ngày của trẻ mầm non không thể thiếu chương trình chăm sóc giáo
dục trẻ. Việc tổ chức chế độ ăn uống hợp lí có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
sự phát triển bình thường của một đứa trẻ, nó còn đảm bảo sự sống, sự phát triển
của các tế bào trong cơ thể trẻ…
Vì thế chẳng có một tế bào nào trong cơ thể dám từ chối thức ăn. Không
những thế thức ăn còn cung cấp những chất cần thiết để cơ thể lớn lên và phát
triển. Từ bào thai lớn lên thành em bé rồi thành người lớn, không thể trông cậy
gì khác ngoài thức ăn. Nói chung tất cả các cơ quan trong cơ thể đều nhờ đến
thức ăn để tồn tại và phát triển.
Để trẻ có cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng thì điều trước tiên của chúng ta
là thành lập cho trẻ phản xạ ăn uống có điều kiện, phụ thuộc vào sự ngon miệng
của trẻ, nghĩa là phụ thuộc vào sự hưng phấn của trung khu thần kinh ăn uống.
Nếu như ta cho trẻ ăn kẹo trước bữa ăn thì sự ngon miệng sẽ bị hạ thấp theo cơ
chế phản xạ. Như vậy muốn tạo cảm giác muốn ăn, ăn ngon miệng thì điều trước
tiên cần hình thành những thói quen ăn uống. Đặc biệt cần hình thành thói quen
ăn uống đúng giờ giấc, theo chế độ sinh hoạt một ngày ở trường mầm non. Khi
thói quen đã có thì chỉ cần đến giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hóa bắt đầu
3


tiết dịch trước khi ăn. Khi đó trẻ có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ ngon
miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hóa nhanh hấp thụ tốt. Bên cạnh đó còn

phụ thuộc vào: Phòng ăn sạch sẽ, cách bố trí trên bàn ăn cũng là một yếu tố quan
trọng tạo cảm giác muốn ăn của cơ thể (Khi vào một phòng ăn thoáng mát, sạch
sẽ, được ngồi ăn trên bàn ghế sạch đẹp người ta sẽ có cảm giác muốn ăn và khi
ăn rất ngon miệng..). Ngoài ra các dụng cụ ăn uống như bát, đĩa, thìa sạch sẽ, vệ
sinh…cũng giúp ta ăn uống ngon miệng hơn…
Để giúp trẻ hứng thú trong bữa ăn, ăn ngon miệng, hết suất. Tôi đã suy nghĩ
“Phải làm sao để tạo cho trẻ lớp tôi có thói quen ăn uống tốt để đến giờ ăn là các
cháu có ý thức ăn tốt, hứng thú ăn và ăn ngon miệng” và tôi đã tìm hiểu nghiên
cứu thực hiện tốt chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo tài liệu “Hướng dẫn tổ
chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non nhà trẻ 3- 36 tháng tuổi” Nhà
xuất bản giáo dục 39-2010/CXB/78-11/GD. Học tập nghiên cứu thực hiện tốt
chuyên đề “Chăm sóc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm” xuất
bản 2009 và được chuyên đề vào hè năm học 2011- 2012. Để nắm bắt những
kiến thức trong việc chăm sóc bữa ăn dinh dưỡng cho trẻ và dạy trẻ biết thực
hiện tốt kĩ năng sống trong ăn uống. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi
của trẻ theo “Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/ 2009TT- BGD ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng GD và ĐT.
Nội dung chăm sóc đó là: Tập luyện nền nếp, thói quen tốt trong sinh hoạt; Làm
quen với một số việc tự phục vụ, giữ gìn sức khỏe; Nhận biết và tránh một số
nguy cơ không an toàn.
Ngoài ra tôi đã tìm tòi học hỏi một số tài liệu như: “Cơ sở khoa học của việc
nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ”. Từ việc nghiên cứu tài liệu liên hệ với thực tế của
trường lớp. Bản thân nắm được tầm quan trọng của việc tổ chức bữa ăn, rèn cho
trẻ có thói quen tốt trong ăn uống là nhiệm vụ hàng đầu của giáo viên nên tôi đi
sâu vào nghiên cứu đề tài.
II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI:
1. Thuận lợi:
- Trường nằm trên địa bàn xã Nga Thủy- huyện Nga Sơn. Là một trường
cận chuẩn đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia vào năm 2016. Có ngôi trường
khang trang, đủ phòng học, điều kiện về cơ sở vật chất, môi trường cho các cháu

học tập, sinh hoạt, ăn uống đảm bảo vệ sinh. Trường trang bị nhà bếp một chiều
4


rộng rãi, thoáng mát, lớp học có chỗ ăn thuận tiện cho cháu sinh hoạt. Trong ăn
uống trẻ đã tự xúc ăn, không bị rơi vãi ra ngoài. Có đồ chơi ngoài trời cho các
cháu vui chơi.
- Có đội ngũ cán bộ giáo viên năng động có kiến thức, tay nghề về kinh
nghiệm giảng dạy, chăm sóc trẻ. Bản thân được nhà trường phân công trực tiếp
chăm sóc trẻ 24- 36 tháng, có trình độ chuyên môn trên chuẩn, có kinh nghiệm
nuôi dạy trẻ. Bên cạnh đó được sự quan tâm, giúp đỡ từ Ban giám hiệu nhà
trường, chị em đồng nghiệp, sự ủng hộ của gia đình phụ huynh, đặc biệt là tình
cảm yêu quí của các bé dành cho tôi.
- Phụ huynh học sinh quan tâm và đã cho con em ra lớp đúng độ tuổi.
- Nhà trường đã phân trẻ theo đúng độ tuổi nên tạo điều kiện thuận lợi cho
giáo viên đứng lớp trong quá trình giảng dạy, chăm sóc.
2. Khó khăn:
- Về cơ sở vật chất trường đang còn thiếu một số phòng chức năng như
phòng thể chất, phòng âm nhạc, phòng y tế, phòng hiệu bộ, đồ chơi ngoài trời và
các trang thiết bị hiện đại.
- Giáo viên mặc dù đã rất sáng tạo trong dạy trẻ nhưng việc vận dụng các
ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế.
- Một số trẻ đi học chưa đúng độ tuổi, đến 24- 36 tháng mới ra nên nề nếp ăn
uống, vệ sinh còn kém, chưa có ý thức trong khi ăn, chưa có ý thức tự phục vụ
bản thân, chưa tự xúc ăn …
- Là vùng bãi ngang, một số gia đình khó khăn về kinh tế, phải đi làm ăn xa
để con với ông bà, nên đã không có điều kiện quan tâm đến việc ăn uống của
con cái. Dó đó một số trẻ còn biếng ăn, ngậm cơm, dùng tay bốc cơm, trẻ không
hứng thú trong bữa ăn, ăn không ngon miệng.
3. Thực trạng học sinh:

Với tầm quan trọng của việc rèn luyện cho trẻ 24- 36 tháng có thói quen tốt
trong ăn uống. Căn cứ vào cơ sở lí luận, năm học 2014- 2015 vào tháng 9 tôi
tiến hành cân đo khám sức khỏe đầu vào và khảo sát chất lượng ban đầu trên trẻ
được phản ánh như sau:

5


Nội dung khảo sát
Tổng Cân
số trẻ nặng

21

K
B
T
18

Tỉ lệ
%

K
S
D
D
3

86 14


Chiều
cao

Trẻ mắc
bệnh

Trẻ có
thói
quen vệ
sinh rửa
tay bằng

phòng
dưới vòi
nước
chảy
trước và
sau khi
ăn, sau
khi đi vệ
sinh.

Trẻ có
thói
quen
ngồi
đúng qui
định (Kí
hiệu ghế
của trẻ)


Trẻ có
Trẻ ăn
thói
hết khẩu
quen tốt phần ăn
mời,
chào,
không
nói
chuyện,
ăn vừa
phải
trong khi
ăn uống,
biết giữ
vệ sinh
khi ăn
uống

Trẻ ăn
xong
biết cất
bát, thìa,
đúng nơi
qui định
và biết
lấy ca
cốc,
đúng kí

hiệu của
mình và
cất cốc
đúng nơi
qui định

K
B
T

K
T TB
C

T
K
M

Đ



Đ



Đ




Đ



Đ



18

3

2

19

16

5

16

5

17

4

16


5

17

4

86

14

10

90

76

24

76

24

81

19

76

24


81

19

Từ kết quả thực trạng sức khỏe của trẻ cũng như nề nếp thói quen nên tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng có thói
quen tốt trong ăn uống ở trường mầm non Nga Thủy”
III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Biện pháp 1: Rèn trẻ các thói quen, nề nếp vệ sinh và hành vi văn
minh trong ăn uống.
Trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ thì việc giáo dục vệ sinh cho trẻ là
một việc rất quan trọng. Nhưng điều quan trọng hơn là việc rèn những thói quen

6


nề nếp, vệ sinh hành vi văn minh cho trẻ là nhiệm vụ rất cần thiết giúp cho cơ
thể trẻ phát triển tốt, chống đỡ được các bệnh tật.
- Nếu trước đây các giáo viên mầm non phải rất vất vả làm tất cả công việc
chuẩn bị bữa ăn, nhắc nhở trẻ vệ sinh ăn uống, xúc cho trẻ ăn… thì giờ đây cô
tập cho trẻ thành các thói quen vệ sinh ăn uống tự phục vụ thường xuyên như
biết rửa tay dưới vòi nước sạch, biết rửa mặt sạch sẽ, đúng cách trước và sau khi
ăn, sau khi chơi đồ chơi và sau khi đi vệ sinh. Có các thói quen văn minh trong
ăn uống, tự xúc cơm ăn gọn gàng, ăn nhai kĩ, không đùa giỡn khi ăn, ho, ngáp,
hắt hơi biết lấy tay che miệng.
- Đối với trẻ 24- 36 tháng tôi đang phụ trách do các cháu chưa có thói quen
nề nếp, vệ sinh tốt nên trước hết là hàng ngày tôi dạy trẻ biết thực hiện các thao
tác vệ sinh như rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước chảy. Thói quen trong ăn
uống như: Chào mời trước khi ăn, không nói chuyện trong khi ăn, tự xúc ăn, ăn
vừa phải, nhai kĩ, không làm rơi vãi, biết nhặt cơm rơi và bỏ vào đĩa rồi lau tay.

Ăn xong biết cất bát thìa, ngồi ăn gọn gàng, không đùa giỡn nói chuyện trong
khi ăn. Ăn xong biết lau mặt đúng cách và thường xuyên cho trẻ thực hiện hàng
ngày, đúng giờ.
Ví dụ: a, Thói quen rửa tay dưới vòi nước chảy: Để hình thành được cho trẻ
thói quen rửa tay dưới vòi nước chảy thì hàng ngày vào trước bữa ăn tôi thường
đặt ra những câu hỏi trẻ: Trước khi ăn các con phải làm gì? “Rửa tay, rửa mặt
ạ”
Cô nhắc lại: “Đúng rồi các con ạ, phải rửa tay, rửa mặt trước khi ăn vì sau mỗi
buổi học và buổi chơi tay cầm vào đồ dùng, đồ chơi nên bị nhiễm vi khuẩn xong
lại bôi lên mặt, lên tay rất bẩn. Chính vì thế phải rửa tay, rửa mặt trước khi ăn
nếu không rất dễ bị nhiễm bệnh đấy các con ạ!
+ Cho trẻ thực hiện thao tác rửa tay theo 6 bước.
- Làm ướt bàn tay, lấy 3- 5ml dung dịch rửa tay hoặc chà bánh xà bông lên
lòng và mu bàn tay. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho xà bông dàn đều.
- Đặt lòng và các ngón của bàn tay này lên mu bàn tay kia và chà sạch mu
bàn tay và kẽ các ngón tay (từng bên).
- Đặt lòng bàn tay vào nhau, chà sạch lòng bàn tay và kẽ ngón tay.
- Móc hai bàn tay vào nhau và chà sạch khe các ngón tay.
- Dùng bàn tay này xoay và chà sạch các ngón tay bàn tay kia và ngược lại.
7


- Chụm đầu các ngón tay của bàn tay này và chà sạch đầu các ngón tay vào
lòng bàn tay kia và ngược lại. Rửa sạch tay dưới vòi nước, sau đó dùng
khăn mặt thấm khô tay. Thời gian vệ sinh tay tối thiểu cho cả quy trình là
30 giây.

Hình 1: Hình ảnh rửa tay, rửa mặt của các bé
b, Thói quen trong khi uống:
+ Tập cho trẻ các nề nếp thói quen, ý thức tự phục vụ, như trẻ biết lấy cốc

uống nước, đúng kí hiệu của mình. Khi lấy nước vặn vòi lấy đủ nước uống,
uống nước phải uống từ từ không làm đổ nước ra ngoài, không phun nước ra
cốc. Uống nước xong biết úp cốc lên giá đúng nơi qui định.

8


Hình 2: Hình ảnh trẻ uống nước và cất cốc đúng nơi qui định
c, Thói quen tự phục vụ:
Trong các giờ ăn khi ăn xong, trẻ biết mang bát, thìa của mình bỏ vào rổ bát, bỏ
nhẹ nhàng, không làm rơi bát, thìa ra ngoài. Qua đó tạo cho trẻ có ý thức tự phục
vụ, thích lao động.
d, Thói quen biết chào mời trước khi ăn
+ Vào giờ ăn cô giới thiệu món ăn, giá trị dinh dưỡng của từng món ăn, giáo
dục trẻ ăn hết suất, ăn ngon. Cô dạy trẻ nề nếp, hành vi văn minh trong ăn uống.
Ví dụ: Khi ăn biết mời cô, biết mời các bạn. Nhắc trẻ khi về nhà cũng mời
người lớn tuổi ăn cơm.
d, Thói quen tự xúc ăn: Trước khi ăn ngồi ăn ngay ngắn, không co chân lên
ghế, cầm thìa bằng tay phải, tay trái giữ bát tự xúc ăn gọn gàng, không làm đổ
vãi ra ngoài, khi rơi cơm biết dùng tay nhặt cơm bỏ vào bát đựng cơm rơi và
dùng khăn lau tay.
d, Thói quen không đùa giỡn trong khi ăn: Cô nhắc trẻ không đùa giỡn, nói
chuyện nhiều trong khi ăn, ăn từ tốn, nhai kĩ, ho, ngáp, hắt hơi biết lấy tay che
miệng…
Những nề nếp này được tôi nhắc nhở, rèn cho trẻ thường xuyên, hằng ngày,
để trở thành thói quen nề nếp ăn uống cho trẻ, không cần nhắc trẻ cũng thực hiện
tốt.Từ những công việc cụ thể trên tạo cho trẻ ý thức, kĩ năng sống, vệ sinh ăn
uống tốt, dẫn đến kết quả bữa ăn của trẻ cũng được nâng cao, trẻ hào hứng chào

9



đón bữa ăn đến và cảm thấy ăn ngon miệng với những món ăn trong ngày ở
trường cũng như ở nhà. Kết quả đạt được 21/ 21= 100 %.
2. Biện pháp 2: Xây dựng môi trường, tạo không khí, tâm trạng vui vẻ
cho trẻ ăn uống ngon miệng.
- Xây dựng môi trường, bố trí chỗ ăn cũng rất quan trọng trong việc tạo nề
nếp ăn uống ngon miệng cho trẻ. Trẻ ăn phải được ngồi ăn thoải mái, mát mẻ.
Vì thế góc ăn tôi chọn chỗ rộng rãi, trang trí tranh ảnh như ảnh các bé đang ăn
cơm, lọ hoa, rau, quả…

Hình 3: Hình ảnh môi trường lớp học
Khi kê bàn ăn các bàn cách nhau một khoảng trống để có lối đi, để trẻ dễ di
chuyển, đi lại…
+ Mỗi bàn ăn có 6 trẻ, trên mỗi bàn có một đĩa để thìa (6 cái), đĩa đựng khăn
ăn (6 cái) 2 bát nhỏ đựng thức ăn thừa.
+ Xếp ghế cho mỗi bàn ăn, mỗi bàn 6 ghế, hai bên mỗi bên hai cái và hai đầu
mỗi đầu một cái.

Hình 4: Hình ảnh tạo không khí giờ ăn
10


Cách tổ chức bữa ăn cho trẻ góp phần làm trẻ hứng thú, ngon miệng với bữa
ăn và dễ dàng ăn hết suất ở trường lớp. Điều mà giáo viên chúng ta cần phải làm
trong bữa ăn là tạo môi trường, không khí, tâm trạng ngon miệng cho trẻ như:
- Tạo không khí vui vẻ cho bữa ăn qua nét mặt, cử chỉ lời nói của cô khi
chăm sóc cho trẻ ăn.
Khi trẻ ngồi bàn chờ cô chia ăn thì cô cho trẻ đọc thơ, kể chuyện về giờ ăn,
về các chất dinh dưỡng cho trẻ hào hứng.

Ví dụ: Cô cho trẻ hát bài “Mời bạn ăn” của tác giả Phạm Tuyên trước khi
trẻ ăn cơm.
“Mời bạn ăn, ăn cho chóng lớn
Mời bạn uống, uống nước mịn da
Thịt và rau, trứng đậu cá tôm
Mình cùng ăn, nhất định sẽ lớn nhanh
Được đi thi bé khỏe, bé ngoan.
Qua bài hát trẻ hứng thú vào bữa ăn, trẻ biết ăn uống để cơ thể khỏe mạnh,
thông minh và học giỏi.
- Giới thiệu món ăn hấp dẫn và cách giới thiệu cũng thay đổi thường xuyên
để tạo sự mới mẻ của món ăn trẻ chờ đón được ăn.
Ví dụ: Các con nhìn xem hôm nay mình ăn món gì? Đúng rồi, hôm nay lớp
mình ăn cá thu chiên sốt cà chua và canh súp, nhìn màu canh đẹp không? Tuần
sau cũng món này cô lại giới thiệu cách khác. “Các con có ngửi thấy mùi gì
thơm không? Đố các con món gì? À đó là món cá sốt cà chua và canh gì có
nhiều loại củ quả và màu sắc đẹp vậy? Nghe nói ngon quá, nào mình xúc ănThế các con có thấy ngon không? Các món ăn con ăn rất ngon và bổ vì có nhiều
chất dinh dưỡng như đạm, bột đường, béo, vitamin…
- Đối với trẻ chưa chú ý ăn và trẻ biếng ăn cô động viên, khuyến khích trẻ
bằng nhiều hình thức:
Ví dụ: Thấy trẻ ngồi nhìn bát cơm không muốn ăn cô nói: “Các em thức ăn
hỏi mình các em ngon không vậy? Nào mình cùng xúc ăn đi rồi nói với mấy em
thức ăn là các em ngon lắm…”.

11


Hình 5: Hình ảnh bữa trưa của các bé
Qua những câu nói của cô trẻ cảm thấy hào hứng, thích ăn không còn cảm
giác chán ăn nữa. Từ đó cô tuyên dương trẻ kịp thời, đúng lúc, đồng thời lồng
ghép, giải thích, nhắc nhở cho trẻ hình thành ý thức tự chăm sóc bản thân, cố

gắng ăn hết khẩu phần, giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống, vệ sinh môi
trường…
3. Biện pháp 3: Rèn thói quen ăn uống có giờ giấc, ăn uống đúng vị trí,
số lượng, sắp xếp hợp lí số bữa ăn mỗi ngày.
Muốn tạo cảm giác ăn uống ngon miệng ở trẻ tốt thì không gì khác hơn là cô
giáo, phụ huynh, cần rèn cho trẻ thói quen ăn uống có giờ giấc tức là chúng ta
cần hình thành cho trẻ phản xạ có điều kiện ăn uống về thời gian. Đó là thực
hiện đúng chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ “Giờ nào việc nấy” không được
làm xáo trộn giờ giấc ăn uống của trẻ. Khi phản xạ có điều kiện ăn uống được
thành lập một các bền vững thì chỉ đến giờ ăn quen thuộc các cơ quan tiêu hóa
bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó ta có cảm giác muốn ăn và khi được ăn sẽ
ăn ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hóa nhanh.
Bên cạnh đó tôi còn phối hợp các cô giáo trong tổ nuôi chế biến món ăn,
khẩu phần ăn hợp lí, cân đối giữa thành phần dinh dưỡng phù hợp với khả năng
tiêu hóa, khẩu vị của trẻ. Ngoài ra tôi còn phối hợp với phụ huynh để có những
ngày nghỉ ở nhà phụ huynh cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có như vậy quá
trình rèn luyện của trẻ không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Từ đó giúp trẻ có
thói quen ăn uống, cảm giác ăn ngon miệng trong bữa ăn, ăn hết xuất đạt kết quả
tốt.

12


- Để biện pháp này có hiệu quả tôi đã phối hợp với giáo viên trong lớp
nghiêm túc thực hiện tốt chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ (không cắt xén thay
đổi tùy tiện). Thực hiện đúng thời gian theo qui định.
- Đúng 10h là trẻ và cô chuẩn bị giờ ăn, đi làm vệ sinh trước khi ăn cùng với
trẻ.
- Đúng 10h 20 phút là trẻ được ăn cơm trưa, trẻ ra bàn ngồi ngay ngắn và
cùng xúc cơm ăn cùng các bạn.

Kết quả đạt được của thói quen này là: 21/ 21= 100%.
4. Biện pháp 4: Dạy trẻ có thói quen tự xúc ăn tập sử dụng thìa để nâng
cao hứng thú ăn cho trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng rất thích tập làm người lớn được ngồi ăn cơm
cùng với gia đình, có bát thìa riêng để ăn, trẻ sẽ luôn tay sử dụng thìa để xúc
cơm nhưng trẻ xúc cơm còn rơi vãi nhiều. Tuy nhiên một số phụ huynh sợ con
bẩn nên không cho trẻ dùng bát thìa hoặc tự xúc ăn. Như vậy vô tình đã kìm
hãm ăn uống của trẻ, đồng thời trẻ phụ thuộc không tự lập xúc cơm ăn. Chính
điều đó đã làm một số trẻ khi đến lớp không chủ động cầm thìa để xúc cơm ăn
hoặc khi xúc trẻ cầm thìa bằng tay trái và làm rơi vãi cơm ra ngoài.
- Tôi đã kết hợp với giáo viên trong nhóm lớp kiên trì hướng dẫn dạy trẻ có thói
quen tự xúc ăn. Khi cho trẻ ăn tôi xới cho trẻ một ít ăn trước, ăn hết lại xới thêm
để không đổ vãi và thêm lòng tin ăn uống cho trẻ. Không ép trước ăn để tránh
sinh ra bực bội mà trẻ chán ăn.
Ví dụ: Khi trẻ không muốn tự xúc ăn, cô động viên nhẹ nhàng. Cô nói các con
cầm thìa bằng tay phải xúc cơm thật khéo. Như vậy tay các con mới dẻo như
diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được đi biểu diễn ở nhiều nơi.
Kết quả đạt được của thói quen này là: 21/ 21= 100%.

13


Hình 6: Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ tự xúc ăn
5. Biện pháp 5: Rèn thói quen ăn uống đủ chất, đủ lượng thức ăn, ăn hết
suất.
Để đảm bảo cho trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng, cần cho trẻ biết các nhóm thực
phầm cần thiết trong bữa ăn. Biết các thực phẩm trong món ăn, bữa ăn trẻ
thường được ăn để biết được giá trị của các loại thức ăn . Qua đó giáo dục cho
trẻ ăn đầy đủ các chất đạm, đường, béo, vitamin, nước, muối khoáng thì sẽ tăng
cường thêm calo cho cơ thể. Giáo dục các chất trên có nhiều ở trong các thực

phẩm như: gạo, khoai, thịt, trứng, sữa, rau, biết cần phải ăn những thực phẩm
tươi sạch mới tốt cho sức khỏe.
Để đạt được mục tiêu trên hằng ngày thông qua các chủ đề học (Gia đình,
Động vật, Thực vật…) và qua những giờ học dinh dưỡng, giờ chơi góc tôi đã
dạy cho trẻ hiểu được các nhóm thực phẩm nấu ăn hằng ngày. Trẻ biết được “Bé
cần gì để lớn lên và khỏe mạnh”. Biết được cần được ăn uống để sống để phát
triển, để làm việc, học tập, vui chơi. Khi đã hiểu biết về thông tin dinh dưỡng trẻ
biết ăn uống, vệ sinh, ăn đầy đủ chất, ăn nhiều loại thức ăn, không kén chọn thức
ăn, ăn hết suất.
Ví dụ: Cô cho trẻ xem những hình ảnh quá trình lớn lên của bé (bé mới đẻ, bé
mới biết ngồi, bé biết đi, bé lớn…) trò chuyện với trẻ về những thức ăn của bé.
Nhờ được chăm sóc , ăn uống đầy đủ các chất mà bé lớn lên khỏe mạnh. Cô cho
trẻ xem các hình ảnh lớn lên của bé cho trẻ gọi tên thực phẩm cần cho bé, tên
nhóm thực phẩm.

14


Sữa

Bột

Cháo

Cơm

Hình 7: Quá trình lớn lên của bé
Muốn cho trẻ thông minh, chóng lớn, cần giáo dục trẻ ăn hết suất của mình,
ăn đủ chất, đủ lượng thì mới khỏe mạnh, thông minh, học giỏi, sau này tương lai
sẽ tốt đẹp. Hằng ngày trong các bữa ăn tôi luôn chú ý giáo dục dinh dưỡng cho

trẻ.
Ví dụ1: Trong giờ ăn trưa, trước khi ăn cô giáo giới thiệu cùng trẻ các món ăn,
trẻ sẽ được ăn các món ăn hôm nay, sau đó giới thiệu giá trị dinh dưỡng của
các món ăn đó: Hôm nay cô cho các con ăn món ăn thịt sốt cà chua, trong thịt
có rất nhiều đạm và protein, lipit, giúp cơ thể các con phát triển, thông minh,
nhanh lớn, trong cà chua có nhiều vitamin A rất tốt cho mắt, ăn vào các con có
làn da hồng hào, mắt sáng long lanh, rất đẹp đấy. Và hôm nay các con còn
được ăn món canh rau cải nấu với thịt có nhiều vitamin A, C và nhiều đạm giúp
các con chóng lớn và bài tiết tốt. Vậy các con phải ăn hết suất của mình, ăn tất
cả thức ăn trong bát của mình thì cơ thể mới khỏe mạnh và thông minh đấy.
Ví dụ 2: Có một cháu hầu như ăn canh là cháu chỉ ăn mỗi nước không, không
ăn rau. Vì vậy hằng ngày tôi đã gần gũi và động viên cháu. Lấy một bạn ngồi
15


bên cạnh để nói cho cháu biết vì sao mắt bạn sáng, da bạn trắng hồng hào, tóc
bạn mượt là vì hằng ngày bạn ăn canh, ăn nhiều rau vì trong rau có rất nhiều
vitamin và muối khoáng. Cho nên da bạn trắng, mắt sáng, tóc dài, mượt. Từ đó
cháu hứng thú ăn canh và rau.
Bên cạnh việc giáo dục dinh dưỡng thì trong các bữa ăn tôi cũng luôn chú ý
quan sát để biết trẻ nào ăn chậm, ngậm cơm, rồi xếp trẻ ngồi cạnh các bạn ăn
nhanh, ăn giỏi, có tinh thần ăn uống, trẻ sẽ ăn uống vui theo nhờ các bạn nhắc
nhở, động viên cùng thi ăn với nhau. Không nên cho trẻ biếng ăn ngồi chung
bàn, nhìn bạn ăn uể oải, trẻ cũng chẳng muốn ăn. Tuy nhiên những trẻ ăn chậm
tôi cho trẻ ngồi một vài bàn gần nhau để cô dễ quan sát nhắc nhở. Không để cho
trẻ ngồi rải rác hết các bàn. Thức ăn tôi lấy cho bạn ăn chậm vừa phải, ăn hết rồi
lấy tiếp, không để thức ăn chảy vữa, mất ngon. Thông qua các hoạt động giáo
dục về các chất dinh dưỡng đã tạo điều kiện cho trẻ hiểu được lợi ích của các
chất dinh dưỡng, điều cần thiết phải ăn uống đủ chất, hợp vệ sinh, tạo cho trẻ sự
hứng thú khi ăn, trẻ đã biết ăn hết các loại thực phẩm, ăn hết khẩu phần ăn nên

đa số trẻ phát triển khỏe mạnh, cân dối và thông minh.
Kết quả đạt được của thói quen này là: 21/ 21= 100%.
6. Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh rèn luyện nề nếp thói quen nâng
cao chất lượng bữa ăn, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
Để thực hiện tốt các biện pháp rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ 24-36
tháng. Ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã tham mưu với lãnh đạo nhà trường, tổ
nuôi dưỡng thay đổi thực đơn ăn và chế biến các món ăn phù hợp với độ tuổi
của trẻ.
- Việc phối kết hợp trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ là quan
trọng. Vì vậy để đạt được kết quả cao tôi đã xây xây dựng kế hoạch phối hợp
với phụ huynh thống nhất nội dung cùng chăm sóc con em mình theo khoa học.
Tránh tình trạng cô dạy thế này, mẹ dạy thế kia.
- Ngay từ đầu năm học tôi đã thành lập hội cha mẹ học sinh để tuyên truyền
về chế độ sinh hoạt một ngày, chế độ giờ giấc ăn uống ở trường lớp cho cha mẹ
học sinh nắm. Dạy cho con em mình thực hiện ở nhà ăn uống đúng giờ như ở
trường. Trẻ có thói quen tốt trong ăn uống, ăn ngon miệng, hết xuất không kén
chọn, bỏ thừa.
16


- Xây dựng kế hoạch về nội dung nề nếp, thói quen, qua đó tổ chức hội cha
mẹ có biện pháp thực hiện. Bầu ra hội trưởng hội phụ huynh của lớp, mỗi năm
học họp phụ huynh ba lần vào đầu năm học, giữa, cuối năm.
Bên cạnh đó giáo viên tuyên truyền những kiến thức, nội dung chăm sóc,
nuôi dưỡng giáo dục trẻ theo khoa học ở bảng tuyên truyền trước cửa lớp…

Hình 9: Hình ảnh góc tuyên truyền lớp
Để trẻ có thói quen ăn uống, ăn ngon miệng trong bữa ăn tôi còn vận động
phụ huynh chú ý tuyệt đối không cho trẻ ăn gì trước giờ ăn như: bánh kẹo, uống
nước ngọt…Vì những trẻ thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu

cảm giác đói không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hóa cứ ở trạng thái làm việc
không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hóa rối loạn.
- Tuyên truyền vận động phụ huynh dành nhiều thời gian để chăm sóc trẻ,
cùng tham gia rèn nề nếp tại gia đình không cho trẻ ăn quà vặt.
- Theo thực tế lớp tôi đầu năm học các cháu thường hay mang quà bánh đến
lớp, phần lớn là kẹo, bim bim, bánh ngọt…Đến giờ ăn ở lớp trẻ ăn rất ít phần
lớn ngậm cơm, bỏ xuất. Nắm được tình hình này tôi đã trao đổi với phụ huynh,
vận động phụ huynh phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ, tôi yêu cầu phụ huynh
không cho con mang quà vào lớp, cô giáo tìm hình thức khác nhau để dỗ trẻ

17


như: Trò chuyện, chơi cùng trẻ như một người bạn, gần gũi trao đổi để đáp ứng
nhu cầu chơi mà học của trẻ.
Trao đổi trực tiếp với phụ huynh trong giờ đón, trả trẻ về vấn đề sức khỏe, ăn
uống của các cháu khi có thay đổi, để cha mẹ các cháu biết chú ý nhắc nhở hay
chăm sóc cháu thêm…Bên cạnh đó cha mẹ, ông bà tạo điều kiện cho con được
rèn luyện thêm các thói quen hành vi tốt trong ăn uống thêm ở nhà. Giáo viên và
gia đình cùng nhau giúp rèn trẻ có phản xạ ăn uống tốt thật bền vững. Giúp trẻ
ăn uống ngon miệng, ăn hết xuất để trẻ có sức khỏe tốt.
Kết quả đạt được của thói quen này là: 21/ 21= 100%.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Sau một năm học tôi thực hiện những biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen
tốt, giáo dục kĩ năng sống, hành vi văn minh trong ăn uống cho trẻ. Có những
thói quen ăn uống tốt giúp cho trẻ ăn ngon miệng, hết xuất các bữa ăn ở lớp. Sau
một thời gian thực hiện đến nay tôi đã được một số kết quả đối với trẻ như sau:

Nội dung khảo sát
Tổng Cân


Chiều

Trẻ

Trẻ có

Trẻ có

Trẻ có

Trẻ ăn

số trẻ nặng

cao

mắc

thói

thói

thói

hết khẩu xong

bệnh

quen vệ


quen

quen tốt

phần ăn

sinh rửa

ngồi

mời,

bát, thìa,

tay bằng đúng

chào,

đúng



qui

không

nơi qui

phòng


định

nói

định và

dưới vòi (Kí

chuyện,

biết lấy

nước

hiệu

ăn vừa

ca cốc,

chảy

ghế của phải

trước và trẻ)

trong

Trẻ ăn

biết cất

đúng kí
hiệu của
18


sau khi

khi ăn

mình và

ăn, sau

uống,

cất cốc

khi đi vệ

biết giữ

đúng

sinh.

vệ sinh

nơi qui


khi ăn

định

uống

21

Tỉ lệ %

K KSD K KTC TB
BT D BT

T
K
M

Đ



Đ



Đ




Đ



Đ



21

0

21

0

0

21

21

0

21

0

21


0

21

0

21

0

10
0

0

100

0

0

100

100

0

100

0


100

0

100

0

100

0

Qua bảng thống kê so với ban đầu trẻ có nề nếp thói quen, hành vi ăn uống văn
minh hứng thú trong giờ ăn, ăn ngon miệng hết xuất và hiệu qủa bữa ăn của các
cháu được nâng cao lên 100/ %.
Sức khỏe của trẻ so với đầu năm đạt 100/ % sức khỏe tốt, giảm được thấp
còi và nhẹ cân. Đa số trẻ phát triển cả chiều cao và cân nặng. Các cháu khỏe
mạnh nhanh nhẹn, mạnh dạn và hứng thú tham gia các hoạt động, trò chơi vận
động ở lớp.
* Đối với cô:
- Bản thân tôi nắm vững và hiểu rõ các tổ chức bữa ăn, rèn luyện cho trẻ có
thói quen ăn uống tốt là một nội dung quan trọng trong quá trình chăm sóc giáo
dục trẻ. Nó có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển thể chất của trẻ.
- Đến nay bản thân tôi đã có những kinh nghiệm mới trong việc tổ chức rèn
luyện thói quen tốt trong ăn uống trẻ ăn ngon miệng hết xuất…Tôi biết cách
hướng dẫn lồng ghép giáo dục dinh dưỡng cho trẻ linh hoạt hơn vào các hoạt

19



động theo chủ đề, hằng ngày tạo thói quen tốt trong các bữa ăn của trẻ đem lại
hiệu quả cao.
* Đối với cha mẹ học sinh:
- Cha mẹ của các cháu thấy được mỗi ngày con mình ngoan hơn, có nề nếp
trong ăn uống, bố mẹ, ông bà rất thích và tự hào con mình khỏe mạnh, thông
minh, biết tự ăn uống và có thói quen vệ sinh tốt…
C. KẾT LUẬN:
Qua một thời gian tìm tòi, nghiên cứu các biện pháp thích hợp, lớp tôi đã có
một kết quả thật tốt. Có được kết quả như vậy đó là sự nỗ lực phấn đấu của bản
thân tôi kết hợp với đồng nghiệp, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn sát
cánh cùng tôi chỉnh sửa những biện pháp, hình thức sao cho phù hợp với khả
năng nhận thức của trẻ. Để có được kết quả như vậy tôi đã rút ra những kinh
nghiệm sau:
1. Trước hết giáo viên phải hiểu rõ việc tạo cho trẻ có thói quen tốt trong ăn
uống là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình tổ chức bữa ăn cho trẻ. Vì vậy
giáo viên luôn phải học hỏi nắm bắt kiến thức ăn uống để từ đó vận dụng các
biện pháp tổ chức bữa ăn, rèn luyện tạo cho trẻ có thói quen nề nếp trong giờ ăn
để tạo thành các phản xạ có điều kiện cho trẻ.
2. Yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công việc của mình, luôn kiên trì, tìm tòi
nghiên cứu các phương pháp, hình thức dạy trẻ phù hợp, có kết quả cao.
3. Luôn tạo môi trường ăn uống tốt, biết tạo tình huống dẫn dắt đến các món
ăn, hấp dẫn tùy vào từng hoàn cảnh, để chào đón các cháu vào bữa ăn góp phần
rất lớn cho trẻ có thói quen tốt trong bữa ăn.
4. Mọi lúc, mọi nơi luôn tổ chức lồng ghép giáo dục, nề nếp, thói quen vệ sinh,
hành vi văn minh trong ăn uống, giáo dục dinh dưỡng, các thực phẩm bằng
nhiều hình thức trò chơi, bài tập và các hoạt động trong ngày cho trẻ. Tạo cho
trẻ có ý thức giữ gìn nề nếp, thói quen, hành vi tốt trong ăn uống, tạo cho trẻ
cảm giác thích ăn, ăn nhiều các món ăn khác nhau và ăn ngon miệng.


20


5. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình để gia đình nắm
bắt được những kiến thưc về dinh dưỡng, tổ chức bữa ăn cho trẻ, tạo cho trẻ có
thói quen ăn uống, vệ sinh tốt, ăn uống đúng giờ. Hình thành ở trẻ phản xạ ăn
uống có điều kiện tốt, lúc nào trẻ cũng có cảm giác ăn ngon miệng, ăn hết suất.
Với một số biện pháp giúp trẻ rèn luyện thói quen tốt trong ăn uống như trên
bản thân tôi đã có một phần kinh nghiệm đưa vào thực hiện và mang lại hiệu quả
thiết thực trong việc nâng cao chất lượng bữa ăn, phòng chống suy dinh dưỡng
cũng như chất lượng chăm sóc của đội ngũ giáo viên. Chúng tôi tiếp tục duy trì
và phát triển để không ngừng nâng cao chất lương chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
ngày một tốt hơn.
* Ý kiến đề xuất:
Trên đây là “Một số biện pháp giúp trẻ 24- 36 tháng có thói quen tốt trong ăn
uống ở trường mầm non Nga Thủy”. Bản thân tôi rút ra từ thực tế chăm sóc, rèn
nề nếp ăn uống cho trẻ, dù đã cố gắng, với tâm huyết của mình nhưng do khả
năng có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi không tránh khỏi thiếu sót, hạn
chế, rất mong được sự góp ý, chỉ đạo của lãnh đạo ngành giáo dục, của bạn bè
đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 01 tháng 04 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
mình viết, không sao chép của ai!
Người viết sáng kiến

Nghiêm Thị Duyên


21


22



×