Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 ĐẾN 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.55 MB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD& ĐT HUYỆN NGA SƠN
==========*0*===========

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC
PHẨM VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON NGA THÁI

Người thực hiện: Nguyễn Thị Liễu
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN Nga Thái
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HOÁ, NĂM 2015
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính
yêu của chúng ta đã nói “Non sông Việt Nam có được vẻ vang hay không, dân
tộc Việt Nam có được sánh vai với cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ vào việc học tập của các cháu”. Trẻ em là những mầm non tương lai của
đất nước, đất nước có giầu mạnh, phồn vinh là nhờ vào thế hệ trẻ.
Trong sự nghiệp giáo dục, bậc học mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, cũng giống như trồng cây muốn cho cây phát triển
khoẻ mạnh, xanh tốt thì phải chăm bón ngay từ khi cây nhú mầm. Thật vậy ở
tuổi thơ đặc biệt là lứa tuổi mầm non, lứa tuổi đang hình thành những phẩm


chất cá nhân, nếu được gia đình, cô giáo quan tâm chăm sóc, giáo dục tốt từ nhỏ
chắc chắn sẽ tạo luyện những trẻ đó khi trưởng thành sẽ hứa hẹn cho đời biết
bao tài năng sáng tạo, biết bao con ngoan trò giỏi và trở thành những công dân
tốt giúp ích cho đất nước.
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ, khả năng trình bày có lôgíc, có trình tự, chính xác và có hình ảnh nội
dung. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất
của giáo dục mầm non, ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học tập và vui chơi.
Ngôn ngữ có vai trò quyết định sự phát triển tâm lý của trẻ em. Bên cạnh đó
ngôn ngữ còn là phươg tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát
triển về đạo đức, tư duy nhận thức và chuẩn mực hành vi văn hoá. Đối với trẻ
mầm non nói chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng trẻ rất nhạy cảm với nghệ thuật
ngôn từ. Âm điệu hình tượng của các bài hát ru đồng dao dân ca đi vào tâm hồn
tuổi thơ, những câu chuyện cổ tích thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Khi trẻ được
tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ văn học qua các bài ca dao, đồng dao, các
câu chuyện kể, bài thơ qua giao tiếp hàng ngày ở trường mầm non... đã giúp trẻ
cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành
vi, trong cuộc sống. Từ đó giúp trẻ thêm yêu quê hương, yêu đất nước. Ngôn
ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về khám phá khoa học, thông qua
cử chỉ và lời nói của người lớn trẻ làm quen với các sự vật, hiện tượng có trong
môi trường xung quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, công dụng của các
sự vật cùng với từ tương ứng với nó. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các
câu chuyện trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà
nhập vào xã hội tốt hơn. Nó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển trí tuệ,
đạo đức, thẩm mỹ của trẻ.
Trẻ lên 5-6 tuổi là thời kì phát cảm ngôn ngữ. Ở thời kì này trẻ luôn tích
cực tham gia vào quá trình giao tiếp, trải nghiệm, khám phá. Trẻ nói nhiều và
thường xuyên tìm đến người lớn để thoả mãn nhu cầu nhận thức bằng giao tiếp,
vì vậy ở giai đoạn này số lượng từ tăng nhanh, và đa dạng đặc biệt là ở trẻ 5-6
tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, tính từ, các loại khác

như đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít. Bằng hình thức văn học mở ra cho trẻ cuộc
sống xã hội và thiên nhiên, các quan hệ qua lại của con người, những hình tượng

2


đó giúp trẻ nhận thức rõ ràng, chính xác của từ ngữ, làm tăng vốn từ, nói rõ
ràng, chính xác.
Như vậy, đối với trẻ độ tuổi này chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở
rộng các loại từ trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, thông qua làm quen
với văn học. Không những vậy văn học có vai trò tích cực trong việc hình thành
đạo đức cho trẻ, mỗi tác phẩm văn học đem đến cho trẻ tâm hồn phong phú giàu
tình thương chân thật, giúp cho trẻ biết được cái xấu, cái tốt, cái đẹp và làm theo
cái đẹp. Chính vì vậy mà văn học là chiếc cầu nối giúp cho trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách tốt nhất. Với tất cả những lý do trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học tại trường mầm
non Nga Thái” làm đề tài nghiên cứu cho mình với mong muốn góp phần nâng
cao chất lượng cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua làm quen với tác phẩm văn
học.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ là một quá trình từ thấp đến cao với các giai
đoạn mang những đặc trưng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phát triển vốn từ chịu ảnh
hưởng lớn vào việc tích cực hóa vốn từ, ngôn ngữ của trẻ đã trở nên được mở
rộng hơn, có trật tự hơn, khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu ngôn ngữ hoàn
cảnh của trẻ cũng đã phát triển, điều đó một phần cũng nhờ vào hoạt động cho
trẻ làm quen với các tác phẩm văn học.
Văn học là hoạt động rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện

phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để giúp trẻ nói năng lưu loát, diễn đạt
gãy gọn biết sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh giúp
trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy
nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu quý người
hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè,...Vì vậy việc nâng
cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học là vấn đề quan trọng
trong đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non.
Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc
cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô
giáo. Hoạt động làm quen với văn học này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm
nhận những giá trị nội dung, nghệ thuật phong phú trong tác phẩm, khơi gợi ở
trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn tượng về những hình tượng
nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện sự cảm nhận đó qua các
hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò
chơi đóng kịch góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ.
Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong giọng
kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ nhận ra ngôn
ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
3


Qua tác phẩn văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện
của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa bóng, từ
nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt. Khi cho trẻ làm quen với
tác phẩn văn học góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo
đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách”
kỹ năng đọc và kể tác phẩm văn học.
II. THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi.

- Được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của PGD huyện Nga Sơn, của ban
lãnh đạo của các cấp, ban nghành, đoàn thể địa phương, đặc biệt là BGH nhà
trường, tổ chuyên môn luôn chăm lo và thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, từ đó chất lượng trên cô và trẻ được nâng lên
góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục mầm non xã nhà.
- Đội ngũ giáo viên trẻ yêu nghề với trình độ chuẩn và trên chuẩn đạt
100%, luôn năng động sáng tạo chịu khó học hỏi để nâng cao trình độ chuyên
môn. Bản thân là một giáo viên trẻ nhưng tôi không ngừng học hỏi, tham khảo
tài liệu dự giờ đồng nghiệp để rút ra kinh nghiệm cho bản thân.
Bên cạnh đó có hội phụ huynh luôn sát cánh cùng với nhà trường cho nên
công tác phối kết hợp giữa gia đình trẻ và cô giáo đã đạt hiệu quả cao.
- Năm học 2014-2015 tôi được nhà trường phân công phụ trách trách lớp
5-6 tuổi với tổng số trẻ trong lớp là 32 học sinh, trong đó có 15 cháu gái và 17
cháu trai, là một giáo viên phụ trách đứng lớp nên tôi nắm vững được khả năng
tiếp thu của từng cháu.
2. Khó khăn.
Song nhìn chung mỗi cháu có một đặc điểm riêng mỗi cá tính khác nhau
nhưng có một điểm chung là đa số trẻ là dễ nhớ chóng quên. Vì thế để thực hiện
đề tài này tôi đã gặp không ít khó khăn cụ thể như sau:
+ Sự phát triển về ngôn ngữ của mỗi trẻ tuy cùng một lứa tuổi nhưng lại ở
mức độ khác nhau, trẻ còn nói ngọng, nói lắp, nói tiếng địa phương nhiều, Trẻ
chưa được học qua các lớp bé, nhỡ nên khi lên lớp lớn trẻ còn nhút nhát trong
mọi hoạt động.
+ Đa số trẻ trong lớp đều là con em gia đình có bố mẹ làm nông nghiệp,
đi làm ăn xa nên điều kiện kinh tế thấp nhận thức và hiểu biết của người dân còn
rất hạn chế.
- Khả năng ngôn ngữ của trẻ về tính lôgic của câu, biết sử dụng từ trong các
loại câu, ngôn ngữ nói chưa rõ rành mạch lạc, chính xác. Từ thực trạng trên để
công việc đạt hiệu quả tốt hơn, qua khảo sát chất lượng đầu năm tôi thấy kết quả
như sau:

3. Kết quả khảo sát thực trạng đầu năm ( Tháng 9/2014)

4


Tốt - Khá
ST %

Trung bình
Yếu
ST
%
ST %

TT

Nội dung

Tổng

1

Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp.
Trẻ trả lời được các câu hỏi
đàm thoại.
Trẻ thể hiện được cảm xúc của
mình với cô và các bạn.
Hiểu được một số từ đơn giản
gần gũi với trẻ .
Trẻ diễn đạt được câu, từ rõ

ràng mạch lạc, chính xác
không nói ngọng, nói lắp.

32

19

59

7

22

6

19

32

18

56

9

28

5

16


32

18

56

8

25

6

19

32

16

50

9

28

7

22

32


17

53

8

25

7

22

2
3
4
5

Với kết quả khảo sát chất lượng đầu năm cho thấy ngôn ngữ của trẻ 5-6
tuổi mà lớp tôi phụ trách có kết quả đạt được trên trẻ thấp trẻ chưa mạnh dạn
trong giao tiếp, tỷ lệ trẻ diễn đạt được mong muốn cũng như cảm xúc và hiểu
được một số từ đơn giản, diễn đạt câu từ còn hạn chế nên tôi đã mạnh dạn đưa ra
một số giải pháp, phát triển ngôn ngữ áp dụng vào thực tiễn đối với trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi thông qua tác phẩm văn học tại trường mầm non Nga Thái mà tôi chủ
nhiệm.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm về nội
dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua làm quen với tác
phẩm văn học.
Mặc dù chuyên đề cho trẻ “Phát triển ngôn ngữ ” đã dược triển khai và

tổ chức thực hiện trong nhiều năm qua, bản thân đã nắm được bản chất của
chuyên đề và vận dụng vào hoạt động giảng dạy. Nhưng trong quá trình thực
hiện tôi vẫn còn lúng túng, chưa tích cực sáng tạo vì thế trong năm học 2014 2015 Trường mầm non Nga Thái vẫn tiếp tục chỉ đạo thực hiện. Là một giáo
viên đứng lớp 5-6 tuổi để nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học cho trẻ ở lớp, tôi đã không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng để nắm chắc
nội dung, phương pháp, sáng tạo trong khi dạy trẻ. Tôi sử dụng bằng một số
hình thức như:
Tham gia học tập chuyên đề do Phòng giáo dục, trường mầm non tổ chức.
Tham gia các buổi hội thảo, các buổi dự giờ, thao giảng của các bạn đồng
nghiệp cũng như các trường trọng điểm trong huyện. Qua đó tôi cùng bạn bè
đồng nghiệp được tìm hiểu những kiến thức vô cùng bổ ích như:
+ Làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ mẫu giáo là gì? Mục tiêu giáo
dục cho trẻ mẫu giáo làm quen tác phẩm văn học là gì? Nội dung làm quen tác
phẩm văn học được tiến hành thông qua những hoạt động nào? Để giúp trẻ
hứng thú tham gia hoạt động với tác phẩm văn học bạn sẽ làm như thế nào?...
Ngoài ra tôi còn tự học tập, tự nghiên cứu qua các tài liệu, các tạp san, qua
mạng Internet về những kiến thức có liên quan như:
5


+ Phương pháp làm quen tác phẩm văn học cho trẻ mầm non.
+ Phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
+ Phương pháp kể chuyện sáng tạo.
Như vậy: Qua việc được tiếp thu các chuyên đề, dự các buổi hội thảo,
tham gia dự giờ thao giảng các đồng ngiệp, học hỏi trường bạn để kịp thời uốn
nắn bổ sung những hạn chế tồn tại của bản thân.
Từ đó giúp tôi nắm vững kiến thức một cách cơ bản trong việc cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học nói chung và đặc biệt là cho trẻ 5 - 6 tuổi tàm quen
với tác phẩm văn học.
2. Tạo môi trường văn học phong phú cho trẻ tham gia vào hoạt động

làm quen với tác phẩm văn học.
Để giúp trẻ cảm thụ tốt môn văn học thì việc tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc
với tác phẩm văn học phải thường xuyên vì vậy xây dựng môi trường văn học
trong và ngoài lớp học là điều tôi luôn chú trọng.
2.1. Xây dựng môi trường trong lớp học
Ngay đầu năm học, tôi đã vận động phụ huynh và trẻ cùng tham gia làm
đồ dùng, đồ chơi, trang trí lớp nhằm giúp trẻ lĩnh hội, khám phá, tìm tòi và phục
vụ cho quá trình học tập của trẻ. Chẳng hạn tôi vận động phụ huynh cùng may
các con rối, may các trang phục đóng kịch cùng với cô giáo để giúp trẻ có các
trang phục đóng kịch…Hay vận động phụ huynh mang sách, báo có các câu
chuyện, bài thơ phù hợp đối với trẻ để những lúc trẻ hoạt động ở góc sách, trẻ
mang ra xem hình ảnh để trẻ kể chuyện sáng tạo… Bên cạch đó, trong lớp tôi
luôn tận dụng diện tích phòng học xây dựng góc thư viện, góc kể chuyện cùng
bé yêu...chú ý bố trí, sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học tập
thoải mái cho trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Gia đình” tôi đã trang trí lớp bằng cách trang trí các
hình ảnh của các nhân vật trong các câu chuyện, bài thơ để giúp trẻ nhớ và khắc
sâu nội dung câu chuyện, bài thơ. Chẳng hạn ở khu vực: “Vườn cổ tích của bé”
Tôi vẽ hình ảnh cô Tấm đang từ trong quả thị bước ra thì bà cụ rình bắt được,
không cho vào quả thị nữa…và một hôm hoàng tử đi qua bà cụ mời hoàng tử ăn
trầu cánh phượng….( trong câu chuyện Tám Cám).
Hay với chủ đề “Thế giới thực vật”

( Hình ảnh: Xây dựng môi trường văn học trong lớp)

6


Tôi đặt tên cho góc là “Thư viện của các loài hoa” Bên trong góc này tôi
luôn tìm kiếm, sưu tầm, trưng bày các loại tranh truyện chữ to, thơ chữ to, các

bài ca dao, đồng dao, truyện kể sáng tạo, truyện cổ tích, truyện dân gian Việt
Nam và một số tranh ảnh, tạp chí khác phù hợp. Khi cho trẻ xem tranh tôi hướng
dẫn cho trẻ đọc từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, bản thân cũng tham gia đọc
sách cùng trẻ, tập cho trẻ kể chuyện theo tranh, giúp trẻ hiểu nội dung ý nghĩa
của chữ viết, rèn luyện khả năng quan sát, chú ý có chủ định của trẻ.
Để trẻ có thể lĩnh hội những kiến thức đã học hay thích khám phá những đề
tài mới tôi đã tạo cho trẻ một góc thư giãn nhỏ để trẻ có thể tự do xem tranh,
ảnh, theo các nội dung câu chuyện, nghe những bài thơ, bài hát mà tôi đã ghi
âm…qua đó trẻ cảm thấy hứng thú hơn khi tham gia các hoạt động.
2.2. Môi trường ngoài lớp học.
Bên cạnh đó môi trường ngoài lớp cũng được tôi quan tâm như: Tạo môi
trường văn học và chữ viết bằng cách tận dụng những khoảng tường trống để vẽ
các nhân vật có trong các câu chuyện, các bài thơ, ca dao, đồng dao, xây dựng
vường cổ tích, ... giúp trẻ cảm thấy gần gũi với các nhân vật hơn, biết yêu cái
tốt, học tập cái tốt, ghét cái xấu, lên án cái xấu... gợi mở cho trẻ cùng nhau kể
chuyện, đọc thơ.

( Hình ảnh: Tranh vẽ tường bài thơ “ Mèo đi câu cá” )
Hay tôi đã tham mưu với nhà trường để xây dựng “ Vườn cổ tích” của bé
với các câu chuyện có trong chương trình như: Truyện Ông Gióng, Sự tích trầu
cau, Sự tích Quả dưa hấu…

7


( Hình ảnh : Môi trường cho trẻ làm quen với văn học ngoài lớp )
* Kết quả:
- Tôi đã tạo được môi trường phong phú được thể hiện qua góc sách
truyện, vườn cổ tích của bé, các mảng tường quanh lớp.
- 100% trẻ hứng thú với môi trường tôi và trẻ đã xây dựng.

- Ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng được
là nhờ vào việc tạo môi trường hoạt động tích cực.
3. Nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua đọc thơ,
kể chuyện diễn cảm, các trò chơi đóng kịch.
Đọc thơ, kể chuyện diễn cảm cho trẻ nghe là một trong những cách tốt nhất
để khuyến khích trẻ ham đọc sách, phát triển ngôn ngữ trí tưởng tượng và cách
sáng tạo ở trẻ. Trẻ mẫu giáo luôn thích tìm tòi khám phá về thế giới xung quanh
bằng đôi mắt ngạc nhiên, thích thú qua các tác phẩm văn học để giúp trẻ đến
cảm thụ các tác phẩm văn học đạt hiệu quả và làm thoả mãn nhu cầu ham hiểu
biết. Muốn nội dung của tác phẩm đến với trẻ làm rung động lòng trẻ, gây hứng
thú nghe hiểu cho trẻ thì cô giáo phải là người tìm ra thủ thuật đọc kể diễn cảm.
Trước tiên phải xác định loại tác phẩm văn học thơ hay truyện từ đó tìm hiểu nội
dung truyện thơ, luyện giọng điệu, biến giọng điệu của mình thành giọng điệu
của tác phẩm và kết hợp với cử chỉ, điệu bộ nét mặt.
Vậy làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động làm
quen văn học một cách tốt nhất? Thực hiện vấn đề này tôi đã tổ chức thực hiện
như sau:
3.1. Thông qua các bài thơ.
Đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khi nhu cầu về cái đẹp đang phát triển vì
vậy việc dạy thơ cho trẻ còn mang một ý nghĩa rất đặc biệt nó có tác động mạnh
mẽ về nhiều mặt đối với trẻ: Ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ...Vì vậy khi dạy thơ
ca cho trẻ tôi đã chú ý đến những nội dung sau:
Trước hết cần phải chọn bài thơ hay phù hợp với chủ đề, với cách cảm
nhận, cách nghĩ của từng độ tuổi, rồi đọc diễn cảm một cách tự nhiên, rõ vần,
nhịp điệu cho trẻ nghe, nhấn mạnh hình tượng trong các bài thơ nhằm giúp trẻ
cảm nhận vẻ đẹp ngôn ngữ từng bài thơ.
Chuẩn bị đầy đủ về giáo án, đồ dùng trực quan,... cũng như việc khai thác
8



những hình ảnh đẹp là vô cùng quan trọng vì qua đó sẽ giúp trẻ hoà mình vào
thiên nhiên, trẻ dễ cảm nhận được cảm xúc như đến với chính mình.
Ví dụ: Khi dạy trẻ bài Thơ :“Thăm nhà bà”
Tôi đã khai thác được hình ảnh đẹp trong bài thơ đó là “Đàn gà”, “Chú
lật đật, chạy nhanh nhanh”, “Kêu chiếp chiếp, gà mải miết, nhặt thóc vàng” để
làm toát lên trọng tâm của bài thơ.
Hay với bài “Dán hoa tặng mẹ” Thì nội dung chính chứa đựng ở đây là
món quà để tặng mẹ do chính mình làm ra và lòng biết ơn với cô giáo.
Bên cạnh đó thì việc xác định giọng đọc cũng rất cần thiết phải xác định
được giọng điệu của bài thơ, ngắt nhịp rõ ràng, biết nhấn giọng vào những từ
chứa đựng nội dung chính, có thể đọc to, đọc kéo dài ra một chút hay đọc lắng
xuống và điều đặc biệt quan trọng là cách phát âm đúng, các thanh (?) và các âm
đầu, các vần.
Ví dụ: Bài thơ: “Màu của quả”
“Quả hồng/ màu đỏ
Đu đủ /chín vàng
Quả bưởi/ mát xanh
Chùm nho/ tim tím
Với bài thơ: “Trăng ơi từ đâu đến” đây là bài thơ hay, có tác dụng luyện
âm cho trẻ. Cần hướng dẫn cho trẻ nhấn vào các câu, các từ mang hình ảnh so
sánh “Trăng hồng như quả chín”, “Trăng bay như quả bóng”, “Trăng tròn như
mắt cá”, biết đọc chậm rãi, biểu lộ sự băn khoăn, tự hỏi ở các câu: “Trăng ơi từ
đâu đến? Hay từ một sân chơi ...”
Ngoài những điều kiện trên thì khi đọc mẫu cô phải đọc diễn cảm, thể
hiện điệu bộ bài thơ, tạo được sự hứng thú của bài thơ.
Để trẻ tiếp nhận bài thơ một cách nhẹ nhàng thì việc thay đổi hình thức
cũng rất quan trọng đó là việc chuyển thể thơ ca thành bài hát quen thuộc:“Bài
hạt gạo làng ta”, bài “Quà 8/3” ... sẽ giúp trẻ tiếp nhận từ ngôn ngữ thơ ca sang
ngôn ngữ âm nhạc Đồng thời có thể thay đổi bằng hình thức ngâm thơ.
Qua các bài thơ cần giúp trẻ thấy được cái hay, cái đẹp, cái hay trong

tiếng nói của dân tộc bằng những vần điệu, nhạc điệu... khêu gợi được những
xúc cảm của trẻ đối với những người đã một nắng hai sương làm nên hạt gạo.
Trẻ có thể hình dung ra những cảnh như:“Những trưa tháng sáu/ Nước như ai
nấu/ chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy”. Sự cảm nhận ấy sẽ để
lại tâm hồn đứa trẻ một ấn tượng thật sâu đậm.
Thơ có đặc điểm riêng, ngôn ngữ làm thơ giàu hàm súc âm hưởng, vẻ đẹp
của bài thơ không chỉ do nhạc điệu, nhịp điệu mà còn do vần điệu nối các câu
thơ thành một bài thơ. Vì vậy cần trao dồi kỹ thuật đọc thơ thì mới có thể trình
bày tác phẩm thơ một cách diễn cảm. Một điều không thể thiếu được trong cách
đọc thơ diễn cảm đó là sự kết hợp giữa giọng đọc và cử chỉ điệu bộ, giúp trẻ tiếp
nhận tác phẩm một cách dễ dàng hơn. Để từ đó giúp trẻ phát triển từ ngữ được
tốt hơn.
9


3.2. Thông qua thể loại truyện kể.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thể loại truyện kể không như cách
đọc chuyện bình thường chỉ dùng giọng điệu của mình thành giọng điệu của tác
phẩm mà phải cần giúp trẻ nghe, cảm nhận như có sự hiện hữu của các nhân vật
trong truyện biến nhân vật trong truyện thành hình ảnh sống động có cá tính.
Ví dụ: Truyện “Tấm cám” cô phải thể hiện được ngữ điệu, giọng điệu của
các nhân vật: Giọng của Cám giả dối, hơi cao hơn bình thường, giọng của Tấm
nhẹ nhàng, hiền lành, giọng của Bụt nhẹ nhàng, trầm ấm, giọng của mẹ Cám
đanh đá, đay nghiến, mỉa mai, giọng của bà cụ khi gọi quả thị chậm, nhỏ.
Lúc này không còn là giọng của cô nữa mà chính là giọng của các nhân vật.
Qua đó trẻ sẽ cảm nhận được ngay tính cách của nhân vật và nội dung câu
truyện sẽ được làm sáng tỏ .
Vì vậy tôi luôn phải là người tìm hiểu truyện, tìm ra tính cách của nhân vật
để hòa mình vào nhân vật đó, cuốn mình vào câu truyện để truyền đạt đến trẻ
nội dung câu truyện.

Để kể diễn cảm một câu truyện hay đọc diễn cảm một bài thơ không nhất
thiết phải thuộc từng chữ như trong sách truyện hoặc thơ mà cần phải thể hiện
như cuộc đối thoại giữa nhân vật này với nhân vật khác, nhiều khi lại trở về là
người dẫn truyện, nhưng luôn phải lấy cốt truyện, nội dung truyện làm trọng
tâm. Để làm được điều đó tôi cần có phương pháp kể chuyện hấp dẫn và sáng
tạo để lôi cuốn trẻ, kết hợp với cử chỉ điệu bộ một cách phù hợp.
Ví dụ: Kể chuyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” Ngoài những lúc dùng
hình ảnh (tranh truyện) Tôi còn dùng tay của mình làm điệu bộ, ngoài ánh mắt,
gương mặt giao lưu với trẻ tôi dùng tay gõ xuống bàn khi gõ cửa gọi thỏ…
Như vậy đọc kể diễn cảm có thể nói là sự hòa trộn giọng đọc, cử chỉ điệu
bộ, nét mặt, ánh mắt của mình với tác phẩm mà tôi sẽ truyền đạt đến trẻ
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học có một điều tôi thấy rất quan trọng đó là lời nói của cô giáo. Trẻ ở độ tuổi
mầm non chưa biết đọc do đó trẻ cảm thụ các tác phẩm văn học trong lúc nghe
cô giáo đọc, kể các tác phẩm đó. Để trẻ hiểu được nội dung tác phẩm, hình thành
kỹ năng về lời nói của câu, ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc và nhìn thấy được các
hình tượng, các khung cảnh, các tình tiết và biết cách đánh giá đúng đắn tác
phẩm thì cô giáo phải có một nghệ thuật đọc kể diễn cảm. Đọc kể diễn cảm giúp
trẻ trình bày tác phẩm văn học một cách diễn cảm, từ đấy trẻ tự hiểu được tình
tiết truyện, đánh giá đúng nhân vật.
Nếu chỉ đọc và kể diễn cảm chưa đủ mà còn phải biết dùng thủ thuật đọc kể
diễn cảm thì mới đem đến thành công trong giờ học. Khi thể hiện tác phẩm phải
ngắt nghỉ đúng, sử dụng âm thanh đúng, nói đúng ngữ pháp. Tôi luôn tìm tòi
sách báo thường xuyên để nâng cao thủ thuật đọc lên cao nhằm tạo cho trẻ sự
hứng thú, cảm nhận tác phẩm và hiểu tác phẩm sâu sắc và chú ý lắng nghe .
Ví dụ: Truyện “Ai đáng khen nhiều hơn”
- Giọng của Thỏ mẹ nhẹ nhàng buồn rầu ; Giọng của Thỏ anh chậm rãi;
Giọng Thỏ em nhanh nhảu; Giọng của Nhím dễ thương; Giọng Gà Mơ hiền từ...
10



Ngoài việc nắm vững phương pháp đọc kể diễn cảm tôi thấy người giáo
viên còn phải rèn luyện cho mình để có một giọng nói truyền cảm, hấp dẫn
người nghe. Để làm được điều đó trước khi tổ chức hoạt động dạy thơ, truyện
cho trẻ tôi tự đọc to tác phẩm nhiều lần, cố gắng thể hiện đúng nhịp điệu, ngữ
điệu của bài thơ, câu chuyện. Tất cả những ngữ điệu muôn vẻ và sắc thái trầm
bổng phong phú của giọng đọc, giọng kể cùng với lời giải thích đúng lúc, đúng
chỗ và dễ hiểu giúp cho trẻ học được kỹ năng phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
Ví dụ: Khi kể truyện “Cây tre trăm đốt”
Tôi phải xác định được giọng của từng nhân vật như: Giọng anh nông dân
trầm hơi cao ở đoạn trừng trị lão nhà giàu. Giọng lão nhà giàu lúc trầm lúc cao
biểu hiện sự mánh khóe lừa lọc. Giọng ông tiên vang vọng, trầm ấm. Qua đó sẽ
giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ kể truyện và khắc sâu lời nói của từng nhân vật và
xác định được sắc thái biểu cảm của nhân vật qua cử chỉ, ánh mắt điệu bộ thể
hiện của giáo viên khi vào vai các nhân vật.
Hay để giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại có hệ thống các sự việc
diễn ra trong câu truyện “Ba cô gái” tôi đã sử dụng các dạng câu hỏi phù hợp
từng đối tượng trẻ. Với trẻ yếu, trung bình có thể đặt câu hỏi:
+ Các con vừa nghe cô kể câu truyện gì? Trong câu truyện bà mẹ sinh
được bao nhiêu cô con gái? Bà mẹ thương các cô con gái như thế nào? Vì sao
Chị Hai bị Sóc biến thành nhện? Vì sao Chị Cả bị Sóc biến thành rùa? Khi nghe
báo tin mẹ bị ốm, Chị Út làm gì?...
Với những trẻ khá hơn tôi đã nâng cao mức độ, sử dụng nhiều câu hỏi mở
nhằm giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo.
+ Bà mẹ nhờ Sóc mang thư, theo con có cách nào khác báo tin cho các
con của bà không? Khi bà ốm thì bà mong muốn điều gì? Chị Cả và Chị Hai đã
trả lời như thế nào mà làm Sóc con dận giữ Biến thành nhệ và rùa? So với Chị
Cả và Chị Hai chị Út có đức tính gì tốt?
Ngoài ra tôi còn sử dụng các câu hỏi đòi hỏi trẻ phải sử dụng nhiều mẫu
câu để trả lời như: Hành động nào con biết Chị Út rất thương mẹ? Trong 3

người con, con thích chị nào nhất? Vì sao? con có thể thay đoạn kết câu chuyện
như thế nào? Con có thể đặt tên khác cho câu chuyện là gì?.
Từ khâu xác định giọng kể, chuẩn bị đồ dùng trực quan, giáo án.. đến hệ
thống câu hỏi đàm thoại đến hình thức tạo hứng thú bằng các cách khác nhau:
Hội thi, trò chuyện, câu đố…với những hình ảnh đẹp, ngộ nghĩnh sáng tạo ứng
dụng vào công nghệ thông tin để trẻ hoà nhập vào hoá thân vào trong các tác
phẩm truyện kể. Với những hình ảnh sinh động hấp dẫn kèm theo giọng kể rõ
ràng mạch lạc của giáo viên sẽ giúp trẻ chăm chú xem, lắng nghe, trẻ sẽ chủ
động nắm bắt được nội dung câu chuyện. Làm tốt các hình thức này chắc chắn
trẻ sẽ giúp trẻ cảm thụ truyện một cách tích cực hơn, trẻ nhớ nội dung câu
chuyện lâu hơn và khi cho trẻ đóng kịch trẻ sẽ tái tạo tính cách của nhân vật tự
nhiên hơn.Và đặc biệt khi trẻ trả lời các câu hỏi sẽ giúp cho ngôn ngữ của trẻ
phát triển hơn.

11


Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với câu chuyện: “Cáo thỏ và gà trống” Tôi
đã xây dựng đoạn VideoClip có nội dung câu chuyện, kèm nhạc đệm tạo sự
hứng thú của trẻ tích cực tham gia vào hoạt động.
3.3. Thông qua trò chơi đóng kịch.
Đóng kịch là hình thức hoạt động chơi đặc biệt và độc lập thực sự của trẻ
nhằm phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể. Qua hoạt động này, trẻ
truyền đạt lại nội dung câu chuyện và làm sống lại tâm trạng, hành động và ngôn
ngữ hội thoại của các nhân vật đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá
các nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý
nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên tục của câu chuyện, điều này góp phần
đẩy mạnh sự phát triển tư duy và khả năng cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở
trẻ.
Trước hết, để có một vở kịch cho trẻ đóng tôi chuyển thể tác phẩm văn học

sang thành kịch. Tôi đã lựa chọn những tác phẩm văn học có nội dung tư tưởng
sáng rõ để chuyển thể thành những kịch bản trò chơi đóng vai ngắn gọn. Nội
dung cốt truyện phát triển mạch lạc, nhân vật giàu màu sắc thẩm mỹ và tính
cách, hành động, ngôn ngữ rõ ràng.
Để giúp trẻ hiểu nội dung câu chuyện, nắm vững cốt truyện theo vai, nhớ
tên nhân vật, tính cách và hình dung ra dáng điệu, nét mặt, hành động của từng
nhân vật thì tôi đã cùng trẻ đọc diễn cảm kịch bản và trò chơi về các nhân vật
trong kịch bản để trẻ đưa ra ý kiến nhận xét của mình. Từ đó giúp trẻ có những
biểu tượng đúng đắn hơn về hình tượng trong tác phẩm văn học hiểu được tính
cách các nhân vật, tư tưởng tác phẩm và xác định được thái độ của mình đối với
các nhân vật. Trong quá trình trao đổi với trẻ về tác phẩm, tôi đã đưa ra các câu
hỏi giúp trẻ hiểu sâu hơn về diễn biến hành động của các nhân vật.
Ví dụ: Trong truyện “Chú Dê đen” tôi đưa ra các câu hỏi như:
- Tại sao Chó Sói lại có thể to tiếng quát nạt Dê Trắng như thế ?
- Thái độ của Dê Đen trước con Sói hung ác ấy có giống Dê Trắng không?
Tại sao?
- Vở kịch này đã gợi lên cho chúng ta điều gì?
Khi trao đổi với trẻ về kịch bản, tôi gợi ý trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của các
nhân vật và phẩm chất, tính cách nhân vật. Trẻ tưởng tượng ra vẻ ngoài của các
nhân vật, khung cảnh của hành động và nhanh chóng có những ấn tượng như đã
xem kịch, trẻ như nhìn thấy được toàn bộ cảnh trong kịch, như thấy mình được
diễn.
Sau khi được đọc và phân tích nội dung kịch bản cùng cô, trẻ hiểu được nội
dung kịch bản và nắm rõ tính cách nhân vật thì tôi để trẻ tự nhận vai diễn. Tuy
nhiên để trẻ có thể nhận được vai phù hợp hơn với khả năng và tính cách của
mình thì tôi luôn giúp trẻ hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của tất cả các vai
trong vở kịch. Điều cốt lõi tôi luôn tạo cho trẻ sự thoải mái khi nhận vai và trẻ sẽ
cảm thấy hứng thú với vai diễn đó. Như vậy trẻ mới thực sự tích cực luyện tập
và có nhiều cảm xúc để diễn tốt, diễn sáng tạo hơn.


12


Ví dụ: Đối với những cháu có tính bạo dạn, cá tính thì tôi gợi ý cho cháu
nhận những vai có tính cách mạnh mẽ như Sói, Cáo, Dê Đen... còn những cháu
nhút nhát, hiền dịu hơn thì tôi thường gợi ý cho cháu nhận những vai phù hợp
với tính cách của cháu như vai Thỏ, Bác Gấu, Dê con, Dê mẹ, Dê Trắng...
Trong quá trình trẻ học lời thoại, tôi không bắt trẻ học thuộc từng câu, từng
chữ giống cô mà tôi luôn khuyến khích trẻ tự sáng tạo. Trẻ có thể thêm, bớt từ,
những câu cảm thán, nhấn giọng tùy vào cảm xúc riêng mà trẻ có được trước
hoàn cảnh đó miễn sao không làm sai lệch nội dung cơ bản của tác phẩm đồng
thời tôi gợi ý hướng dẫn trẻ thể hiện sắc thái tình cảm của các nhân vật qua ngữ
điệu giọng nói, nét mặt.
Khi trẻ nhập vai, để giúp trẻ tưởng tượng sáng tạo tốt hơn, tôi có thể cho trẻ
xem thêm một số tranh minh họa thể hiện nét mặt, dáng vẻ của nhân vật trong
tác phẩm và phân tích nội dung bức tranh đó cho trẻ hiểu.
Ví dụ: Khi đóng kịch “Ai đáng khen nhiều hơn” tôi phân vai cho cháu đóng
nhân vật: Thỏ mẹ, thỏ anh, thỏ em, gà mơ, sóc.
* Kết quả: Thông qua việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học thì ngôn
ngữ của trẻ phát triển tốt hơn, vốn từ của trẻ tăng lên, trẻ mạnh dạn hơn, tự tin
hơn. Thể hiện được sắc thái biểu cảm khi giao tiếp.
4. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
Ngoài các giờ hoạt động có chủ định tôi còn dành thời gian phát triển
ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày với bài sắp học,
ôn bài cũ, kể chuyện theo tranh…
* Trong giờ đón trẻ.
Trong giờ đón trẻ tôi mở các loại băng đĩa về các bài thơ phù hợp với nội
dung trong chương trình cho trẻ nghe, hay yêu cầu trẻ đọc, kể lại tác phẩm mà
cô đã cho trẻ làm quen trong chủ đề.
Hay vào mỗi buổi sáng đón trẻ, tôi nhắc các cháu chào tạm biệt bố, mẹ

bằng một bài thơ “Lời chào buổi sáng”
Ngoài ra, trong giờ đón trẻ, tôi trao đổi với phụ huynh về các phương pháp
dạy truyện, thơ cho trẻ như khi dạy bài thơ: “Mèo đi câu cá” của chủ đề thế
giới động vật, tôi đánh máy in bài thơ rồi gửi cho phụ huynh, hướng dẫn phụ
huynh dậy đọc thơ như: Phụ huynh đọc mẫu cho trẻ nghe 2- 3 lần, sau khi đọc
xong giảng nội dung cho trẻ nghe, rồi tập cho trẻ đọc theo mình từng câu, từng
đoạn. Đọc xong, có thể hỏi trẻ tên bài thơ, tên tác giả, hỏi theo nội dung bài
thơ…để giúp trẻ nhanh nhớ tác phẩm, nhớ tên tác giả, nhớ nội dung tác phẩm.
*Trong giờ hoạt động góc.
Để tạo hứng thú cho trẻ tôi cho trẻ đọc bài thơ phù hợp với nội dung
chương trình và đàm thoại với trẻ về buổi chơi.
Trong giờ hoạt động góc mở của chủ đề: “Thế giới động vật”. Tôi cho trẻ chơi
với lô tô các con vật sống trong rừng. Yêu cầu trẻ lấy ba lô- tô động vật thích ăn
cà rốt. Trẻ lấy các chú thỏ, từ các chú thỏ, tôi yêu cầu trẻ kể chuyện sáng tạo về
các chú thỏ. Trẻ có thể kể sáng tạo theo ý của mình như: “Ngày xửa ngày xưa,
trong một khu rừng nọ có ba anh em nhà thỏ sống với nhau, cha mẹ Thỏ mất
13


sớm. Thỏ anh thì rất là ích kỷ, không thương hai chú em…” Sau khi trẻ kể sáng
tạo theo ý của mình xong tôi gợi ý để trẻ nghĩ ra tên truyện phù hợp với nội
dung câu chuyện, trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện trẻ vừa kể.
* Hoạt động ngoài trời.
Với hoạt động ngoài trời việc lồng ghép cho trẻ làm quen tác phẩm văn học
càng gây được hứng thú nhiều hơn cho trẻ thông qua hoạt động quan sát và
thông qua trò chơi. Khi cho trẻ quan sát một đối tượng nào đó tôi cho trẻ đọc
một bài thơ và đi đến nơi quan sát.
Ví dụ: Trong chủ đề “Thế giới thực vật ” khi cho trẻ quan sát cây bắp cải
tôi cho trẻ đọc bài thơ “Cây bắp cải ” rồi đàm thoại trẻ.
Hay ở chủ đề “Thế giới động vật” khi cho trẻ quan sát con gà đang ấp

tôi có thể cho trẻ đọc bài thơ “Mười quả trứng tròn”. Tôi đã cho trẻ quan sát
Đoạn Videoclip hình ảnh.
Như trong bài thơ “Gà nở” Tôi đã dùng những hình ảnh thật về quả
trứng đang nở và sử dụng trong bài như: Cho trẻ quan sát gà mẹ đang ôm ấp và
bảo vệ những chú gà con xinh xắn, sau đó đàm thoại với trẻ về nội dung bài thơ.

( Hình ảnh: Minh hoạ bài thơ “Gà nở” )
Khi tổ chức chơi trò chơi cho trẻ thì các bài đồng dao trong dân gian là tác
phẩm văn học dễ lôi cuốn trẻ với các câu từ gần gũi dễ hiểu, ngắn gọn và vui
tươi. Vì vậy trò chơi dân gian là trò chơi mà tôi hay tổ chức cho trẻ chơi.
Ví dụ: Trò chơi “Lộn cầu vồng” “Dung dăng dung dẻ” “Nu na nu nống”
* Giờ ăn trưa: Trong giờ ăn trưa để giúp trẻ ăn ngon miệng và cũng là cho trẻ
tiếp xúc thêm với tác phẩm văn học tôi đọc cho trẻ nghe các bài thơ, câu chuyện
ca dao, đồng dao vui tươi nhộn nhịp nói về các thực phẩm và giáo dục trẻ trong
bữa ăn.
Ví dụ: Ở chủ đề: “Thế giới thực vật ” tôi cho trẻ đọc bài ca dao: “Lúa
ngô là cô đậu nành”
Khi giáo dục trẻ phải biết giữ gìn vệ sinh sạch rẽ ăn chín uống sôi tôi đọc
bài thơ “bé ơi”.
*Giờ ngủ trưa: Để giúp trẻ đi vào giấc ngủ nhẹ nhàng hơn và có tinh thần
thoải mái từ các bài thơ, bài ca dao được các nghệ sĩ ngâm và ru có nội dung

14


phù hợp với lứa tuổi tôi sưu tầm trên mạng trên thông tin đại chúng tôi làm
thành đĩa CD và mở nhỏ cho trẻ nghe khi trẻ bắt đầu đi ngủ.
*Giờ trả trẻ: Kết thúc một hoạt động trong ngày thì giờ trả trẻ là hoạt
động giúp trẻ có được một tâm thế thoải mái trước khi ra về vì vậy các tác phẩm
văn học là yếu tố phù hợp nhất để cung cấp cho trẻ. Ở thời gian này tôi đã sưu

tầm các loại đĩa CD về các câu chuyện cổ tích và mở cho trẻ xem. Tùy vào từng
chủ đề mà tôi lựa chọn nội dung câu chuyện cho phù hợp .
5. Sử dụng đồ dùng trực quan sinh động khi cho trẻ làm quen với văn
học để kích thích trẻ phát triển từ.
Với trẻ mầm non thì việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động để kích
thích việc phát triển từ cho trẻ, sử dụng đồ dùng trực quan là yếu tố không thể
thiếu trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, nó xuất phát từ đặc điểm
nhận thức của trẻ, từ tư duy trực quan cụ thể đến tư duy trừu tượng, từ cảm tính
đến lý tính và khả năng chú ý của trẻ thiếu bền vững dễ phân tán, chóng chán,
mệt mỏi. Sử dụng đồ dùng trực quan sẽ khắc sâu tác phẩm một cách dễ dàng. Đồ
dùng trực quan phong phú có thể là tranh ảnh, các con rối, mô hình minh họa có
từ và phù hợp mới gây hứng thú cho trẻ và khơi dậy những rung cảm thẩm mỹ ở
trẻ. Tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.
5.1. Sử dụng nghệ thuật múa rối.
Việc sử dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo điều
kiện cho trẻ tiếp cận với nghệ thuật múa rối.
- Với truyện “Bác gấu đen và hai chú thỏ” tôi sử dụng mô hình sân khấu
là một ngôi nhà có các cây xanh, nhân vật trong truyện được cách điệu hoá, thỏ
gấu mặc quần áo, đi bằng hai chân… Khi tôi dạy, tôi điều khiển con rối bằng ba
ngón tay: Ngón cái, trỏ, giữa sao cho những cử chỉ phù hợp với lời thoại trong
truyện... Nhờ vào việc sử dụng nghệ thuật rối trong hoạt động học mà số trẻ có
khả năng cảm thụ tác phẩm văn học đạt hiệu quả cao, đa số trẻ nhớ được nội
dung câu truyện, lời thoại của các nhân vật trong truyện và qua đó trẻ biết nhận
xét đánh giá tính cách của nhân vật trong truyện như ai là người xấu? Ai là
người tốt?. Từ đó tạo cho trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc và vốn từ được tốt
hơn.
5.2. Ứng dụng công nghệ thông tin.
- Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt khi cho trẻ hoạt động làm quen với tác
phẩm văn học, dù là thơ hay truyện. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên tôi
phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của

trẻ. Trước đây tôi và các đồng nghiệp thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ
dùng chính trong hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Song với
hình thức mới hiện nay, thời đại ứng dụng công nghệ thông tin nên tôi đã biết
ứng dụng để vào bài giảng mang lại kết quả rất cao.
Ví dụ: Câu chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ” tôi đã xây dựng đoạn phim
hoạt hình về nội dung câu chuyện đó tôi trình chiếu cho trẻ xem. Ngoài ra tôi
còn làm đoạn phim về các con vật kết hợp với nhạc đệm rất hứng thú làm cho
trẻ dễ nhớ nội dung truyện và thấy được nét đặc trưng của các nhân vật.
15


(Hình ảnh: Về đoạn phim “Cô bé quàng khăn đỏ”)
- Với bài thơ “Màu của quả” tôi đã chụp các loại quả có trong bài thơ và in
vào đĩa VCD. Sau đó tôi trình chiếu cho trẻ xem trước khi cho trẻ đọc bài thơ
“Màu của quả”. Tôi mở cho trẻ xem vào hoạt động chiều, hoạt động đón - trả
trẻ để trẻ được củng cố ôn luyện và đọc lại bài thơ, trẻ thuộc và nhớ nội dung bài
thơ rất nhanh. Qua đó cũng phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.

( Hình ảnh: Chụp minh hoạ cho bài thơ “ Màu của quả” )
16


Ví dụ: Cũng với tiết thơ: “Hoa Cúc vàng” Tôi xây dựng chương trình papol
có hình ảnh bông hoa cúc vàng, trên mỗi bông hoa cúc có các chữ số từ 1- 5.
Mỗi bông hoa có một số và mỗi số tương ứng với một câu hỏi theo trình tự nội
dung bài thơ. Trẻ ở các đội sẽ cử đại diện lên chọn bông hoa số bằng cách kích
chuột vào số đó. Sau khi trẻ chọn xong bông hoa sẽ nở ra một câu hỏi, cô giáo sẽ
đọc và yêu cầu trẻ phải trả lời theo nội dung của câu hỏi cô vừa đọc.

5.3. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua trò chơi đóng kịch

Hoạt động đóng kịch giúp trẻ truyền đạt lại nội dung câu truyện, làm sống
lại tâm trạng, hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện, đồng
thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện. Khi đóng
kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, nắm được tính liên
tục của câu truyện, điều này góp phần đẩy mạnh sự phát triển vốn từ và ngôn
ngữ mạch lạc, logic ở trẻ và tư duy, trẻ cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc.
Nhằm giúp trẻ phân biệt được giọng điệu lời nói của các nhân vật. Qua đó trẻ
khắc hoạ được tính cách nhân vật. Để trẻ nhớ được ngôn ngữ, lời thoại của các
nhân vật trong truyện để đóng kịch thì trước hết cho trẻ nhắc lại lời thoại của
nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo tổ hoặc nhóm.
Trò chơi đóng kịch thực sự giúp trẻ cảm nhận tác phẩm văn học một cách
sâu sắc, tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, thực hành về lời nói giọng kể của
mình cho phù hợp với nhân vật trong câu chuyện và để đạt được điều đó thì việc
trang trí sân khấu và hoá trang cho trẻ rất quan trọng, với câu truyện “Dê con
nhanh trí” tôi làm sân khấu có màn che, rồi trang trí cảnh phù hợp với câu
truyện. Bên cạnh việc làm mô hình sân khấu thì việc hoá trang cho trẻ đóng kịch
cũng rất cần thiết. Với nhân vật “Dê con nhanh trí” tôi cho trẻ mặc mặt nạ hình
dê con, sói, dê mẹ, bao tay, giầy hình chân dê mẹ, dê con, sói và áo quần màu
sắc khác nhau phù hợp với tính cách của từng nhân vật.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ đóng kịch tác phẩm “Chú dê đen”, tôi mặc
17


trang phục có màu sắc phù hợp với dê đen, dê trắng và sói…

( Hình ảnh: Trẻ đóng kịch Chú dê đen )
* Kết quả: Như vậy thông qua biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan đã
giúp 100% trẻ lớp tôi hứng thú tham gia trong các hoạt động, đặc biệt là thông
qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
6. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hệ thống câu hỏi đàm thoại.

Đàm thọai là một quá trình hỏi và đáp, trao đổi giữa cô và trẻ, trong đó cô
giữ vai trò chủ đạo giúp trẻ hiểu sâu và nhớ lại tác phẩm văn học. Câu hỏi đàm
thoại giúp trẻ tìm hiểu kỹ bản chất của sự vật hiện tượng xung quanh. Phát triển
ngôn ngữ, giúp trẻ nghe hiểu nghĩa của từng loại câu hỏi, câu trả lời của người
khác với câu hỏi trong đời thường, do đó tôi cần chuẩn bị các câu hỏi trước trò
chuyện, đàm thoại cùng với trẻ. Câu hỏi được chuẩn bị trước giúp tôi chủ động
hỏi trẻ, đưa ra những câu hỏi chính xác và dễ hiểu đối với trẻ. Trong quá trình
trò chuyện, đàm thoại, chúng ta nên sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau.
6.1. Dạng câu hỏi nhận biết
Giúp trẻ tái tạo nội dung truyện, nhớ lại một cách có hệ thống các việc diễn
ra. Loại câu hỏi này dùng cho những trẻ yếu và trung bình trong lớp.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với câu chuyện “Ba cô gái”, ở chủ đề gia đình,
tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi đàm thoại theo các dạng sau: Các con vừa nghe
cô kể chuyện gì? Trong câu chuyện cô vừa kể, bà mẹ sinh được bao nhiêu cô
con gái? Khi bà mẹ bị ốm, bà nhờ ai mang thư đến cho các con?
Ngoài ra tôi còn dùng dạng câu hỏi nhận biết nâng cao để buộc trẻ phải tư
duy suy nghĩ. Vì sao cô Hai lại bị Sóc biến thành nhện, còn cô chị Cả lại bị biến
thành Rùa?
6.2. Dạng câu hỏi vận dụng kinh nghiệm
Trẻ vận dụng khả năng hiểu biết của mình để trả lời nhằm giúp trẻ phát
triển trí tưởng tượng và sự sáng tạo của mình. Loại câu hỏi này tôi thường dùng
18


cho những trẻ khá hơn trong lớp.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Theo các con, ngoài Sóc ra thì còn cách nào để
bà mẹ báo tin cho các con mình biết? Khi bà mẹ bị ốm thì bà mong muốn điều
gì? Vì sao Sóc lại giận dữ biến chị Cả thành con rùa?
Bên cạnh đó tôi dùng dạng câu hỏi vận dụng kinh nghiệm nâng cao để giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ và kích thích tư duy trẻ phát triển.

6.3. Dạng câu hỏi giải thích và phỏng đoán suy luận
Đây là dạng câu hỏi đòi hỏi trẻ phải tận dụng nhiều mẫu câu để trả lời.
Dạng câu hỏi này giúp trẻ tăng vốn từ, phát triển trí tưởng tượng phong phú và
kích thích tư duy của trẻ phát triển. Loại câu hỏi này thường dùng cho những
cháu giỏi trong lớp.
Ví dụ: Chuyện “Ba cô gái” Tôi hỏi trẻ: Hành động nào cho con biết cô út
thật lòng thương mẹ? Nếu cô út không về thăm mẹ thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Theo con cô út sẽ làm gì khi thấy hai chị mình bị biến thành rùa và nhện?
Ngoài những dạng câu hỏi trên, tôi còn sử dụng loại câu hỏi giải thích và
phỏng đoán suy luận nâng cao. Đây là những câu hỏi khó có tính thu hút trẻ và
đòi hỏi trẻ phải có khả năng phỏng đoán, suy luận cao.
Tôi đưa ra những câu hỏi giúp trẻ suy nghĩ về nội dung tư tưởng của tác
phẩm bằng cách tôi hướng trẻ suy nghĩ vào nhân vật chính, phát hiện ra những
phẩm chất của nhân vật, đưa ra nhận xét về hình tượng nhân vật và xác định thái
độ của mình đối với các nhân vật.
Tôi đặt ra các câu hỏi: Các con thấy Tích Chu là người như thế nào? (trong
truyện “Tích Chu”) Các con có nhận xét gì về người anh và người em? (Trong
truyện “Hai anh em”)…Con thích nhân vật nào nhất trong câu chuyện “Cáo,
Thỏ và Gà Trống?” Vì sao con lại thích nhân vật đó?
Để giúp trẻ hiểu sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm, tôi thường đặt câu
hỏi để tạo cơ hội cho trẻ tự bày tỏ thái độ của mình đối với nhân vật. Trẻ tự đặt
mình vào hoàn cảnh của nhân vật để tìm ra cách giải quyết.
* Kết quả: Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các hệ thống câu hỏi
đàm thoại sẽ giúp cho tất cả trẻ trong lớp đều tham gia tích cực sôi nổi.
7. Phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc kể chuyện, đọc thơ cho
trẻ nghe ở gia đình giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Phối hợp với phụ huynh là một giải pháp vô cùng quan trọng, lôi cuốn sự
quan tâm của các bậc phụ huynh để họ cùng tham gia thực hiện như mua sắm
đầy đủ 100% đồ dùng học tập cho trẻ, đặc biệt là đồ dùng phục vụ cho hoạt
động làm quen với tác phẩm văn học nói riêng và các hoạt động nói chung, tạo

cơ hội để các bậc phụ huynh hiểu được công tác chăm sóc giáo dục trẻ dù vất vả
như thế nào. Từ đó thực hiện tốt lượng thông tin hai chiều để phối kết hợp chặt
chẽ bằng nhiều hình thức như:
- Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức và tầm quan
trọng của trẻ làm quen với tác phẩm văn học nhằm phát triển hiểu biết và ngôn
ngữ của trẻ. Trò chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua hoạt động

19


đón trả trẻ hàng ngày để họ nắm bắt được tình hình sức khoẻ, khả năng nhận
thức của trẻ.
- Bồi dưỡng cho trẻ kết hợp với các bậc phụ huynh thông qua các bài thơ,
truyện tạo điều kiện cho trẻ có khả năng phát triển ngôn ngữ và nhận thức riêng
của trẻ và những tình huống kích thích trẻ để trẻ được mạnh dạn, tự tin, tích cực
trong hoạt động.
- Trong chương trình học ở các chủ đề tôi in ấn các bài thơ, câu truyện treo
ở góc trao đổi phụ huynh và gửi về nhà cho phụ huynh nhờ phụ huynh về dạy trẻ
- Tổ chức họp phụ huynh theo định kỳ để thông báo tình hình học tập và
sức khỏe của trẻ.
VI. KIỂM NGHIỆM.

Bằng những biện pháp trên tôi đã áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp
mình. Qua các giờ học tôi thấy các cháu rất hứng thú, ngôn ngữ của trẻ đã phát
triển rất tốt thông qua cho trẻ làm quen với văn học, thích nghe kể chuyện, thích
được kể chuyện và đọc thơ. Thông qua đó mà việc phát triển ngôn ngữ đạt hiệu
quả cao:
* Kết quả khảo sát cuối năm ( tháng 4 năm 2015 ):
Khá giỏi Trung bình Chưa đạt
T

Nội dung
Tổng
T
ST % ST
%
ST %
1 Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp.
32
23 72
9
28
0
0
Trẻ trả lời được các câu hỏi
2
32
22 69
9
28
1
3
đàm thoại.
Trẻ thể hiện được cảm xúc của
3
32
19 59 11
35
2
6
mình với cô và các bạn.

Hiểu được một số từ đơn giản
4
32
20 63 12
37
0
0
gần gũi với trẻ .
Trẻ diễn đạt được câu, từ rõ
5 ràng mạch lạc, chính xác 32
20 63 12
37
0
0
không nói ngọng, nói lắp.
Như vậy qua việc áp dụng các biện pháp tích cực nêu trên ta thấy kết quả
đạt được trên trẻ cao hơn hẳn so với việc thực hiên theo phương pháp cũ. Tỉ lệ
trẻ đạt khá, giỏi tăng, tỉ lệ trung bình giảm và đặc biệt trẻ yếu kém giảm rõ rệt.
Đặc biệt nổi bật lên có hơn 60% số trẻ trong số các trẻ đạt loại khá giỏi có khả
năng phát triển ngôn ngữ rất tốt hiểu được lời nói của mọi người, tự tin khi giao
tiếp với người lớn biết trả lời các câu hỏi đủ câu, biết kể lại các câu chuyện đã
được nghe. Vốn từ phong phú và đa dạng của trẻ đó là niềm vui, niềm động viên
lớn đối với tôi, giúp tôi càng thêm yêu nghề mến trẻ và hoàn thành tốt nhiệm vụ
dạy dỗ các cháu.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:
Muốn giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua cho tẻ làm quen với
văn học tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
20



- Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp giáo dục
phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến trẻ cá
biệt, luôn tạo ra niềm tin, sự hứng thú cho trẻ.
- Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học
cụ thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất.
- Trước khi thực hiện một đề tài phải chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan,
thuộc bài soạn cũng như gợi mở kiến thức cho trẻ. Thông qua các hoạt động ở
mọi lúc, mọi nơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình thực hiện tôi đã đúc rút lên một số kinh nghiệm sau: Để
phát triển ngôn ngữ tốt cho trẻ thì nhiệm vụ của người giáo viên là: Tạo môi
trường giao lưu ngôn ngữ tự do, thoải mái. Tạo cơ hội cho trẻ nghe âm thanh
khác nhau từ môi trường xung quanh. Chú ý lắng nghe trẻ nói, giúp đỡ, khích lệ
động viên, thu hút trẻ trò chuyện với giáo viên, với các bạn và với những người
khác. Hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn học phù hợp với khả năng của
trẻ. Tổ chức cho trẻ hoạt động kết hợp với lời nói trong các trò chơi, bài hát,
đóng kịch. Tôn trọng khuyến khích sự sáng tạo của trẻ khi sử dụng câu, từ.
- Quan sát, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của từng trẻ để lên kế hoạch
phù hợp với khả năng của trẻ trong lớp. Phát hiện sớm những trẻ có khó khăn về
ngôn ngữ, từ đó có biện pháp thích hợp để giúp đỡ trẻ. Thống nhất phương pháp
dạy giữa giáo viên trong lớp. Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc chăm
sóc giáo dục trẻ.
II. ĐỀ XUẤT:

- Nhà trường cần tham mưa tốt với địa phương và phụ huynh để bổ sung
thêm về cơ sở vật chất, trang thết bị phục vụ việc dạy và học cho các lớp.
- Duy trì tổ chức các hoạt động thao giảng, các hội thi giáo viên giỏi bộ
môn, làm thêm đồ dùng đồ chơi bé khéo tay ở các lớp.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được đi tham quan các trường điển hình để
học hỏi kinh nghiệm

Trên đây là kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc nâng cao chất lượng phát
triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi tại trường mầm non Nga Thái mà lớp tôi phụ
trách. Trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học, các
cấp và bạn bè đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn, nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Trịnh Thị Oanh

Nga Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của tôi viết trên, không sao chép
của người khác.

Nguyễn Thị Liễu
21


22



×