Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ 3 ĐẾN 4 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.54 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN (TRƯỜNG MN NGA LĨNH)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO
TRẺ 3 - 4 TUỔI

Người thực hiện: Yên Thị Liễu
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường MN Nga Lĩnh
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2015
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em Mầm non là tương lai của đất nước. Đất nước có giàu mạnh, phồn
vinh là nhờ vào thế hệ trẻ. Chính vì vậy phải chăm sóc giáo dục trẻ thật tốt ngay
từ khi trẻ còn ở độ tuổi Mầm non để trẻ phát triển toàn diện nhân cách. Để làm
được điều đó, người giáo viên Mầm non ngoài việc hướng dẫn cho trẻ vui chơi,
cho ăn, cho ngủ, giáo dục trẻ trở thành những đứa trẻ lễ phép ngoan ngoãn thôi
chưa đủ, mà nhiêm vụ của người giáo viên còn phải chú trọng đến việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ. Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không
biết ứng phó trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân
trước nguy hiểm, chưa biết cách tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn... Có nhiều
nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng này, trong đó việc thiếu kỹ năng sống là
nguyên nhân sâu xa nhất. Vì vậy, cần thiết phải giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mầm non, Nhất là khi trẻ đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá
trị sống để phát triển nhân cách. Cần tạo điều kiện cho trẻ tập luyện thường xuyên


với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè, để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng
xử phù hợp với nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội ngay từ khi còn nhỏ. Góp phần
thực hiện được mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một; hình thành và phát triển ở trẻ em những chức
năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng sống
cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm
ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.
Đối với trẻ cung cấp kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi là giúp trẻ em biết
kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, thầy giáo, cô giáo; yêu quý anh,
chị, em, bạn bè; thật thà, mạnh dạn, tự tin và hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham
hiểu biết, thích đi học. Các kỹ năng sống được học tốt nhất thông qua các hoạt
động tích cực của trẻ như: trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước,
mô phỏng các hoạt động của người lớn, nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng
ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ.
Vai trò trách nhiệm của giáo viên phải cung cấp kiến thức, tạo điều kiện cho
trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá môi trường xung quanh dưới nhiều hình
thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương châm “học bằng
chơi, chơi mà học”. Chú trọng đổi mới tổ chức môi trường giáo dục nhằm kích
thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực khám phá, thử nghiệm và sáng tạo trong các
hoạt động một cách vui vẻ. Kết hợp hài hoà giữa giáo dục trẻ trong nhóm bạn với
giáo dục cá nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có phương pháp giáo dục
phù hợp. Tổ chức hợp lí các hình thức hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ và cả
2


lớp, phù hợp với độ tuổi của nhóm /lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và
hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, các gia đình thường chú trọng đến việc
học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng sống cho trẻ.

Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ không quan tâm đến
người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ trong
việc có tình huống bất ngờ xảy ra.
Với tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Năm
học 2014 - 2015 nhà trường tiếp tục phát động phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện hoc sinh tích cực” đưa lồng ghép giáo dục kỹ năng sống
vào các hoạt động. Qua quá trình cho trẻ trải nghiệm tôi thấy trẻ rất hứng thú, tích
cực tham gia mọi hoạt động. Nên tôi mạnh dạn tìm ra “Một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi”. Làm đề tài nghiên cứu trong suốt năm học
qua.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Như chúng ta biết về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao
tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình,
biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một
cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại
trường. Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường mầm non áp dụng phương
pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với
những người khác. Trong vòng vài năm gần đây, các nhà giáo dục trẻ tiền tiểu học
và các nhà nghiên cứu tâm lý đã tìm ra các trở ngại phát triển của trẻ, làm chậm
khả năng cũng như hạn chế tính tích cực ở trẻ. Một trong những trở ngại chính đó
là khả năng về kỹ năng sống.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học
thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách
hứng thú của trẻ trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng
với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện có
nội dung rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Đối với giáo viên mầm non thường tập trung lo lắng cho những trẻ mới đến
trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt,
không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể

tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, phải mất rất nhiều thời gian vào
đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non
như: biết hợp tác chia sẻ với cô, với bạn, tích cực tham gia các hoạt động học tập,
3


vui chơi, giáo dục trẻ có hành vi văn hóa trong giao tiếp, trong ăn uống và trong
các hoạt động hàng ngày. Một trong những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 3 – 4 tuổi tôi thường chú ý giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ những
kỹ năng đơn giản nhất mà trẻ chưa làm được đó là những kiến thức, kỹ năng trong
các hoạt động học tập, vui chơi, những nghi thức văn hóa trong giao tiếp và ăn
uống. Nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong thời đại công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít được quan tâm chú ý tới và ít người biết được
rằng: Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh của
con người. Vì thế, trẻ cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa
trong cuộc sống hàng ngày cho trẻ. Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ
nhằm giáo dục trẻ trở thành người thân thiện, có đầy đủ phẩm chất đạo đức tốt đẹp
của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ các văn bản chỉ thị 40/ 2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của
Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện-học sinh tích cực” giáo viên dạy đưa lồng ghép kỹ năng sống vào các hoạt
động. Theo (UNECO) kỹ năng sống gắn với bốn trụ cột của giáo dục đó là: Học
để biết; học làm người; học để sống với người khác; học để làm. Theo tổ chức y tế
thế giới (WHO) kỹ năng sống là khả năng có hành vi thích ứng và tích cực giúp cá
nhân có thể ứng xử hiệu quả trước và các nhu cầu thách thức của cuộc sống hàng
ngày. Ngành học mầm non chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ dưới nhiều
hình thức đưa lồng ghép các hoạt động là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể
chất, tình cảm trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ
Giáo dục rèn kỹ năng sống phải thực hiện đồng bộ 3 môi trường giáo dục:
Gia đình – nhà trường và xã hội. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là

dạy trẻ làm người, rèn luyện kỹ năng tự học, kỹ năng tư duy, kỹ năng ứng xử hợp
lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen kỹ năng làm việc sinh hoạt theo
nhóm… đã tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện mang tính tương
tác cao giữa giáo viên và học sinh, nhằm xây dựng vẻ đẹp tâm hồn, phẩm cách
con người, tăng sức đề kháng và năng lực hội nhập cho con trẻ ngay hôm nay và
tự tin vững bước trong tương lai.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Những thuận lợi:
Năm học 2014 - 2015 tôi được phân công đứng lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi thực
hiện theo chương trình mầm non mới trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ tôi đã
phát hiện ra những điểm nổi bật sau:
* Đối với trẻ:

4


Trẻ đã học qua lớp nhà trẻ nên đã có kiến thức và kỹ năng nhất định. Trẻ
mạnh dạn ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. Các cháu
có một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống và vệ sinh cá nhân.
* Đối với bản thân:
Tôi có vốn kiến thức cơ bản về vấn đề giáo dục kỹ năng sống để thực hiện
tốt việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
* Đối với nhà trường:
Là trường chuẩn Quốc gia, nên có đầy đủ cơ sở vật chất, các phương tiện
dạy học hiện đại phục vụ cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ và thực
hiện chuyên đề giáo dục kỹ năng sống đạt hiệu quả.
Giáo viên luôn được sự quan tâm của ban giám hiệu là chỉ đạo sát sao với
công tác chuyên môn. Luôn có sự đầu tư và bồi dưỡng cho chuyên môn.
Trường có khuôn viên thoáng mát, sạch sẽ có hệ thống cống rãnh hợp vệ
sinh, có nguồn nước sạch phục cho quá trình chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

Lớp tôi có đủ đồ dùng đồ chơi phục vụ quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ.
* Đối với phụ huynh:
Những năm gần đây, nhu cầu học kỹ năng sống, các chuẩn mực đạo đức
của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh đối
với việc giáo dục con em mình.
Phụ huynh luôn sát cánh cùng nhà trường cho nên công tác phối kết hợp giữ
gia đình trẻ và cô giáo đạt hiệu quả cao.
2. Những khó khăn:
* Đối với trẻ:
Trẻ lớp tôi đa số là con em nông thôn nên sự hiểu biết về kỹ năng sống còn
nhiều hạn chế. Bên cạnh đó có một số trẻ được bố mẹ và người thân cưng chiều
khiến vốn kỹ năng sống của trẻ chưa có.
* Đối với bản thân:
Là một giáo viên trẻ mới vào nghề nên bề dày kinh nghiệm chưa có nhiều.
Khả năng gây hứng thú cho trẻ vào các hoạt động, nhất là hoạt động giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ còn nhiều hạn chế.
Thường chỉ quan tâm đến việc truyền thụ kiến thức cho trẻ qua các giờ học
ít chú trọng đến việc rèn luyện kỹ năng sống.
* Đối với nhà trường:
Trường còn thiếu một số trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.
* Đối với phụ huynh:

5


Một số bậc phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến sức khoẻ của trẻ thậm chí
một số gia đình còn thiếu kỹ năng sống làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giáo
dục cho trẻ ở nhà trường.
3. Kết quả của thực trạng trên

Xuất phát từ thực tế trên tôi đã tiến hành khảo sát lần 1 trên tổng số 28 trẻ
trong lớp. Tôi đã lựa chọn 5 nội dung để khảo sát trẻ 3 tuổi trong nhóm kỹ năng
sống có thể dạy cho trẻ em lứa tuổi mầm non. Qua khảo sát chất lượng giáo dục
kỹ năng sống như sau:

TT
1
2

Nội dung khảo sát

Số
trẻ

T

Kết quả trên trẻ
Đạt
T
% K %
%
B
25 8 28,6 7
25
21,4 7
25
7
25



Y

%

Mạnh dạn tự tin
28
7
6 21,4
Kỹ năng hợp tác
28
6
8 28,6
Kỹ năng thích khám phá
3
28
8 28,6 6 21,4 6 21,4 8 28,6
học hỏi
4
Kỹ năng trong giao tiếp
28
5 17,8 6 21,4 8 28,6 9 32,2
Kỹ năng ứng xử có văn
5
hóa trong các hoạt động
28
5 17,8 5 17,8 6 21,4 12 43
hàng ngày
Qua bảng khảo sát cho thấy kết quả chung trên trẻ còn thấp: Trẻ đạt (TôtKhá) chưa cao, tỷ lệ trẻ chưa đạt còn nhiều. Từ thực trạng trên để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ tôi đã nghiên cứu tìm tòi sáng tạo và áp dụng các hình thức giáo
dục phù hợp giúp trẻ tiếp thu một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Từ đó giúp trẻ phát

triển một cách toàn diện hơn.
III. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Lựa chọn các nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp để dạy trẻ:
Việc lựa chọn các kỹ năng sống để giáo dục và cho trẻ tiếp xúc từ từ với
các kiến thức văn hoá trong suốt năm học là một việc làm rất quan trọng và cần
thiết. Điều đó, giúp trẻ rèn luyện các kỹ năng qua thực tế và học tốt khi có được
cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm
xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các
hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả
năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi mà đặc biệt là trẻ lên 3, giai đoạn “
khủng hoảng tâm lý”, thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước
khi tập trung vào hoạt động học ở các bậc học tiếp theo. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian
đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát,
6


tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các
kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung
trọng tâm để dạy trẻ. Vì vậy tôi đã tiến hành dạy trẻ các kỹ năng sau:
* Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là
phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là
ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng
sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Ví dụ: Tôi chia lớp thành 2 đội và tổ chức trò chơi “Kéo co” ở trò chơi này trẻ
thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ thắng tìm mọi cách động
viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên.

Hình ảnh tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “Kéo co”

* Kỹ năng sống hợp tác: Ngoài việc rèn luyện cho trẻ có kỹ năng sống tự
tin. Tôi còn tích cực tổ chức trò chơi, dạy trẻ các câu chuyện, bài hát, qua đó rèn
luyện kỹ năng sống hợp tác như: giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là
một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ
biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Ví dụ: Trồng rau.
Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: gieo hạt, trồng
rau, nhổ cỏ, tưới nước …Trẻ sẽ học làm việc cùng nhau để tạo ra sản phẩm.

7


Hình ảnh trẻ cùng hợp tác với bạn bè để trồng và chăm sóc cây
* Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Tôi đã sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để gợi tính tò
mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các
hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường gợi suy nghĩ nhiều hơn là
những thứ có thể đoán trước được.
Ví dụ: Qua câu hỏi của trẻ thắc mắc nói với cô “ Cô ơi sao lâu quá con không
thấy mưa”, còn có trẻ nói “Cô ơi mỗi lần mình nghỉ hè trời lại mưa nhiều hả cô”
* Kỹ năng giao tiếp: Tôi dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng
của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình
trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối
với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết,
làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý
tưởng nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ
mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ.
Ngoài ra, ở trường mầm non tôi dạy trẻ văn hóa trong ăn uống qua đó dạy
trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước

khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn
uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không
gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi
ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, thìa, cốc… hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp,
Ngồi ngay ngắn, ăn hết suất, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh, không
nói chuyện riêng, khi ho phải lấy tay che miệng tránh làm bẳn thức ăn vào người
khác. Cứ như vậy tôi giáo dục trẻ các kỹ năng và hành vi văn hóa trong ăn uống.

8


Hình ảnh cô hướng dẫn trẻ các kỹ năng và hành vi văn hóa trong ăn uống
2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động các hoạt động và
ở mọi lúc mọi nơi.
2.1. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động có chủ định
Hoạt động có chủ định là hoạt động giúp trẻ lĩnh hội được nhiều kiến thức,
kỹ năng sống. Những kiến thức mà trẻ lĩnh hội được đều có hệ thống, từ đơn giản
đến phức tạp và mang tính logic cao. Giúp trẻ học các kỹ năng sống nhanh và
chính xác nhất. Vì vậy, tôi đã tiến hành lựa chọn các nội dung phù hợp để giáo
dục trẻ thông qua các hoạt động có chủ định.
Ví dụ: Đối với hoạt động LQVVH. Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện “ Cô bé
quàng khăn đỏ”. Ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ để trẻ hiểu nội dung, cử
chỉ, hành động của từng nhân vật trong câu chuyện. Tôi còn nhẹ nhàng giáo dục
trẻ phải nghe lời bố mẹ, đi đến nơi về đến chốn, không được la cà mải chơi dọc
đường mà gặp phải nguy hiểm giống như cô bé quàng khăn đỏ. Hay trong hoạt
động kể chuyện “Thỏ con không vâng lời mẹ” tôi cũng nhẹ nhàng giáo dục trẻ
không nghe lời rủ rê của bạn bè đi chơi xa,quên mất đường về nhà, rất dễ bị lạc.
Ví dụ: Với hoạt động khám phá khoa học “ Một số hiện tượng tự nhiên”.
Tôi cho trẻ khám phá trải nghiệm các hình ảnh về mưa, các hiện tượng tự nhiên,
sấm, chớp, sét. Tôi tạo tình huống để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, để giúp trẻ có

kiến thức ứng phó với mưa, các hiện tượng tự nhiên đúng cách để bảo vệ sức khỏe
như: Khi trời mưa các con phải làm gì? ( mặc áo mưa, đội mũ); Khi có sấm sét các
con phải như thế nào? ( không đứng dưới gốc cây to)…
Cứ như vậy thông qua các hoạt động có chủ định tôi cho trẻ quan sát trực
tiếp các hình ảnh sống động trên máy vi tính và khéo léo lồng các nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, thoải

9


mái, không gò ép, thụ động. Nhờ đó, trẻ khắc sâu kiến thức nhanh và chính xác
nhất.
2.2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động Góc:
Đối với trẻ mầm non, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường. Thông
qua hoạt động chơi, trẻ được đóng các vai khác nhau trong xã hội, trẻ đóng vai và
tái hiện lại những gì trẻ nhìn thấy trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và kinh
nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được trẻ thể hiện qua họat động vui chơi. Chính vì
vậy, tôi rất chú trọng đến việc tạo các tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách
giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ
đã có. Qua đó giúp trẻ phát triển các kỹ năng ý thức về bản thân, quan hệ xã hội,
giao tiếp, thực hiện công việc, ứng phó với những thay đổi và có nhiều cơ hội
được trải nghiệm.
Ví dụ: Ở góc chơi phân vai khi trẻ chơi trò chơi “Gia đình”, tôi đóng giả một
người lạ đến gõ cửa khi trẻ ở nhà một mình, thì trẻ biết nhắc nhau “Đừng mở
cửa,
phải đợi bố mẹ về đã”.
Tôi cho trẻ ở nhóm chơi gia đình cùng đi chợ và đưa ra tình huống: “Con bị
lạc bố mẹ ở chợ” thì trẻ biết ra nhờ cô bán hàng gọi điện thoại cho bố mẹ, cháu
đóng vai người bán hàng cũng nhắc trẻ: Cháu chờ ở đây với cô đợi bố mẹ đón. Tôi
đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng cô để cô dắt về với mẹ. Các

trẻ trong nhóm đã nhắc nhau: “Đừng đi, nếu không sẽ bị bắt cóc đấy”.
Với trò chơi “mặc áo cho búp bê” ở nhóm chơi “Gia đình” khi hướng dẫn cho
trẻ tôi giới thiệu lần lượt đặc điểm của quần, áo: mặt trái, mặt phải, mặt trước, mặt
sau. Hay khi mặc áo cũng lần lượt xỏ từng tay một và kéo hai vạt áo so bằng rồi
mới cài cúc. Sau khi được tôi hướng dẫn trẻ sẽ lĩnh hội được kiến thức và tự thực
hành.
Thông qua trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện của trẻ để có
những gợi mở kịp thời như: Các bác đừng thò đầu, thò tay ra ngoài khi xe đang
chạy nhé.
Với nhóm chơi “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ mà trẻ thể
hiện vai của mình:
Ví dụ: Khi nấu bắc nồi lên bếp ga phải đặt giữa bếp nếu không nồi sẽ dễ đổ và
xảy ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để không bị
bỏng.

10


Hình ảnh trẻ chơi trò chơi nấu ăn
Ví dụ: Sau khi trẻ chơi xong, trẻ để đồ chơi bừa bãi, tôi hỏi trẻ “Con đã cất đồ
chơi chưa?”. “Con nhìn xem các bạn đang làm gì?”, “Con cùng cất đồ chơi với
các bạn nhé”. Dần dần tạo cho trẻ có kỹ năng sắp xếp đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp,
đúng nơi quy định.

Hình ảnh trẻ chơi ở góc xây dựng
Như vậy, bằng việc thực hiện các trò chơi ở các góc chơi tôi đều nhẹ nhàng
giáo dục trẻ các kỹ năng sống đơn giản qua việc tái hiện, mô phỏng các hoạt động
của người lớn, tạo ra “xã hội thu nhỏ” để trẻ được thực hành trải nghiệm và lĩnh
hội kiến thức cũng như rèn các kỹ năng sống khi tham gia vào các chơi.
2.3. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động ngoài trời:

Dạy trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ bản thân, tôi thường tổ chức cho trẻ
trải nghiệm qua các hoạt động quan sát có mục đích.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Bản Thân” tôi tổ chức cho trẻ quan sát: Trang phục bạn
gái.
11


- Chơi vận động: Tìm bạn thân
- Chơi tự do:
+ Chăm sóc rau
+ Vẽ cơ thể bé bằng phấn
+ Xếp hình cơ thể bé bằng hột hạt, vở ngao, hến
Qua hoạt động quan sát có mục đích trẻ được cung cấp kiến thức về trang
phục của bạn gái, bạn trai. Giáo dục trẻ nhận biết phân biệt những điểm khác biệt
về giới tính và trang phục phù hợp của bạn trai, bạn gái. Giaups trẻ có những kỹ
năng cơ bản về phân biệt giái tính của bản thân mình giống và khác với bạn.
Dạy trẻ nhận biết, thể hiện cảm xúc, kiềm chế, chờ đến lượt, chia sẻ, đồng
cảm. Tôi thường tổ chức cho trẻ chơi hoạt động theo nhóm cá nhân trong hoạt
động chơi tự do và chơi vận động:
Ví dụ: Trong hoạt động chơi tự do ngoài trời khi nhiều trẻ cùng chơi cầu trượt tôi
giáo dục trẻ biết chờ đến lượt mình không nên chen lấn, xô đẩy bạn hoặc nhường
nhịn cho các bạn nhỏ tuổi hơn.

Hình ảnh trẻ hoạt động ngoài trời
Để thực hiện giáo dục “kĩ năng thay đổi hành vi” có hiệu quả tôi đã tạo cơ
hội cho trẻ được trải nghiệm, tạo cơ hội để trẻ cùng chơi với các bạn trong lớp,
cùng nhau cất đồ chơi. Tôi tận dụng các tình huống trong hoạt động hàng ngày để
dạy trẻ.
Ví dụ: Sau khi trẻ chơi xong, trẻ để đồ chơi bừa bãi, tôi hỏi trẻ “Con đã cất
đồ chơi chưa?” “Con nhìn xem các bạn đang làm gì?”, “Con cùng cất đồ chơi với

các bạn nhé”. Dần dần tạo cho trẻ có kỹ năng sắp xếp đồ chơi gọn gàng, ngăn nắp.

12


Hình ảnh trẻ chơi ở góc xây dựng
2.4. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Không chỉ trong hoạt động học, hoạt động vui chơi. Tôi còn tiến hành cho
trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động như: Giờ đón trả trẻ;
Hoạt động tự chọn và hoạt động tích hợp lồng ghép vào các môn học khác.
* Ở hoạt động đón - trả trẻ
Trong thời gian này trẻ chưa thực sự bước vào hoạt động học nên tâm lý rất
thoải mái, cởi mở, không căng thẳng... Do đó tôi đã tiến hành trò chuyện với trẻ
những nội dung về chủ đề trẻ đang thực hiện.
Ví dụ: Ở chủ đề “Bản thân”
Khi đón trẻ vào lớp tôi nhắc nhở và định hướng trẻ cất đồ dùng cá nhân gọn
gàng đúng nơi quy định, cất dép lên giá, treo ba lô, mũ lên tủ và cây treo đồ. Đây
cũng là lúc mà tôi rèn cho trẻ kỹ năng sống gọn gàng ngăn nắp. Đồng thời giáo
dục trẻ ứng xử giao tiếp có văn hóa, chào hỏi lễ phép với cô giáo, bố mẹ, biết thưa
gửi, gọi dạ, bảo vâng, biết nhận lỗi khi mình mắc lỗi.
Việc cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống ở mọi lúc mọi nơi giúp trẻ được rèn
luyện các kỹ năng sống một các thuần thục hơn bên cạnh đó thì trẻ có thêm hiểu
biết về thế giới xung quanh trẻ một cách sâu rộng hơn. Nhờ đó khi bước vào giờ
học trẻ đã được rèn luyện kỹ năng tự tin để tham gia trả lời câu hỏi một cách sôi
nổi và hứng thú hơn. Trẻ được hoạt động một cách tích cực và tự tin hơn, mạnh
dạn nói lên suy nghĩ và hiểu biết của mình...tạo không khí thoải mái cho giờ học.
Và như vậy giờ học trở thành cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ chứ không mang tính
áp đặt, gò bó. Nhờ đó mà giờ học mang lại kết quả cao hơn.
* Ở hoạt động ăn – ngủ
- Trong giờ ăn: Tôi thường tạo ra các tình huống để giáo dục trẻ các nghi thức

văn hóa trong ăn uống và giao tiếp như: phải ăn hết xuất, khi ăn không nói chuyện
13


riêng, khi ho, hắt hơi phải lấy tay che miệng, ăn chậm, nhai kỹ, không ăn miếng
to, ăn vội vàng, phải giữ gìn vệ sinh chung trong ăn uống, không làm cơm rơi vãi.
Trước khi ăn phải mời cô, mời bạn và mọi người xung quanh. Khi ăn xong phải
cất bát, thìa, ghế đúng nơi quy định, uống nước súc miệng và lau miệng sạch sẽ.
- Trong giờ ngủ: Tôi cho trẻ làm vệ sinh cá nhân sau đó trẻ tự lấy gối, đi ngủ
đúng giờ, không nói chuyện, khi ngủ dậy biết cất gối, đồ dùng cá nhân gọn gàng.
Tóm lại, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua hoạt động các hoạt động và ở
mọi lúc mọi nơi đã đạt được kết quả rất tốt. Trẻ có ý thức tự giác thực hiện các kỹ
năng lao động tự phục vụ, sống gọn gàng ngăn nắp, vệ sinh sạch sẽ đúng nơi quy
định, thực hiện giờ nào viêc ấy, biết nhường nhịn bạn, vui chơi đoàn kết…
3. Tích cực tạo điều kiện để trẻ được trải nghiệm trong thực tế tạo cơ
hội cho trẻ rèn luyện kỹ năng sống qua các tình huống.
Trước đây khi giáo dục kỹ năng sống và dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ
không an toàn và cách phòng tránh thì tôi thường giáo dục trẻ với những lời dặn
dò nhắc nhở đơn giản nên kết quả không cao, trẻ không được thực hành trải
nghiệm. Vì vậy, trong năm học này, tôi nghiên cứu lựa chọn những tình huống
bất trắc thường xảy ra đưa ra những tình huống cụ thể để dạy trẻ có kỹ năng ứng
biến khi gặp tình huống khó khăn, biết cách suy nghĩ và giải quyết.
Từ những kiến thức về giáo dục kỹ năng sống đã được tôi cung cấp ở trên,
tôi luôn suy nghĩ tìm ra các tình huống tạo điều kiện để trẻ được thực hành trải
nghiệm trong thực tế như:
Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Bản thân”. Trước đây thông qua câu chuyện
“Chú vịt xám” hoặc nội dung bài hát “Đàn Vịt con” tôi chỉ dùng lời giáo dục trẻ:
+ “Khi đi chợ hoặc đến những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không
được chạy lung tung để khỏi bị lạc”.
Tôi chưa đưa ra tình huống dạy trẻ “Nếu chẳng may bị lạc trẻ sẽ phải xử lý như

thế nào?”.
Với cách giáo dục như vậy tôi thấy kết quả đạt trên trẻ chưa đạt hiệu quả.
Trẻ ghi nhớ một cách thụ động, và thường chóng quên. Và điều cốt yếu trẻ không
hiểu cốt
lõi của vấn đề là tại sao không nên làm như vậy và nếu xảy ra thì phải làm thế
nào. Do đó ngoài việc giáo dục như vậy vào giờ hoạt động chiều, tôi đã đưa ra
tình huống:
+ “Khi bé đi chợ cùng mẹ mà bị lạc, bé sẽ làm gì?
Tôi đã cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ đưa ra một cách giải quyết của riêng trẻ.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, cho trẻ suy nghĩ và trả lời theo ý kiến của mình, gợi mở
cho trẻ bằng các câu hỏi :
14


+ Theo con làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, tôi giúp trẻ rút ra
phương án tối ưu nhất:
+ “Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy
đứng yên tại chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé. Tuyệt đối không đi
theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ. Vì có thể đó sẽ là kẻ xấu
lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé”.
Với tình hình phức tạp trong xã hội hiện nay, nhiều tình huống bất trắc có
thể xảy ra đối với trẻ như bị bắt cóc, xâm hại...Tôi đã đưa ra những tình huống để
dạy trẻ như:
+ “Nếu có người không quen biết cho bé quà bé nên làm như thế nào?”
Ở tình huống này, với đặc điểm của lứa tuổi lên 3 là trẻ rất thích khi được cho quà
và sẽ không biết tại sao không được nhận. Khi trẻ thảo luận, tôi đưa ra những giả
thiết, những tình huống xấu:
+ “Nếu đó là kẻ xấu thì sẽ rất nguy hiểm cho bé”.
Tôi phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết đó là:
+ “Tuyệt đối không nhận quà, ăn bánh kẹo của người lạ vì có thể bị người

xấu tẩm thuốc mê và trúng mưu của kẻ xấu. Khi gặp trường hợp này bé nên nói
“Cháu cám ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Với chủ đề “Gia đình”, ngoài việc giáo dục trẻ nhận biết và tránh những đồ
dùng nguy hiểm như bàn là, phích nước, bếp đang đun. Tôi đưa tình huống trẻ biết
tránh những mối nguy hiểm khác như:
+ “Nếu con đang ở nhà một mình, có người đến gọi mở cửa con sẽ làm gì?”
Tôi cho trẻ nói suy nghĩ, cách giải quyết của mình. Trong khi thảo luận với trẻ tôi
gợi mở: cũng có trường hợp kẻ xấu có thể gây hại cho bé hoặc lấy trộm đồ của
gia đình lại chính là người thu tiền điện, hoặc chính là người quen biết với bố mẹ
bé để giúp trẻ suy đoán tìm cách giải quyết. Sau đó tôi giúp trẻ rút ra phương án
tối ưu nhất trong trường hợp này:
+ “Tuyệt đối không mở cửa, kể cả đó có thể là người quen của bố mẹ,
người thu tiền điện, hẹn họ nhắn lại gì hoặc tối đến gặp bố mẹ”.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng cũng
cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra. Tôi đã
đưa tình huống:
+ “Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm thế nào?” Qua
tình huống này tôi dạy trẻ:
+ “Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước hết bé phải chạy xa chỗ cháy.
Hãy hét to để báo với người nhà và những người xung quanh có thể nghe thấy.
Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng xóm”.
15


Từ những tình huống cụ thể trong cuộc sống mà rất dễ xảy ra đối với trẻ,
bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của
mình đã có để tìm cách giải quyết vấn đề. Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương
án tối ưu nhất, đó cũng chính là kinh nghiệm mà ta cần dạy trẻ. Thông qua hoạt
động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy lôgic, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và

giúp trẻ có thêm kinh nghiệm trong cuộc sống.
4. Sưu tầm các bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục kỹ năng sống
ngoài chương trình để tạo môi trường giáo dục kỹ năng sống phong phú cho
trẻ.
Trước đây thông qua nội dung các bài thơ, câu chuyện, có nội dung giáo
dục kỹ năng sống. Song trên thực tế, trong chương trình số lượng bài hát, bài thơ,
câu chuyện có nội dung đó còn hạn chế.
Xuất phát từ đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là rất thích nghe kể chuyện.
Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì
vậy tôi đã sưu tầm một số câu chuyện lồng vào đó các tình huống để giáo dục trẻ.
Giúp trẻ tiếp nhận một cách hứng thú, tự nguyện.
Trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, có rất nhiều tình huống bất trắc
trẻ rất dễ gặp, tuy nhiên chúng ta ít khi đưa vào dạy trẻ. Với nền kinh tế phát triển
như hiện nay, nhiều gia đình sử dụng ô tô là phương tiện đi lại của gia đình hàng
ngày. Song việc chấp hành luật an toàn giao thông khi đi ô tô và xe máy đối với
trẻ thường các bậc phụ huynh vẫn còn coi nhẹ chưa được thực hiện nghiêm túc.
Với chủ đề “Giao thông” tôi đưa tình huống và giáo dục cho trẻ qua các
câu chuyện sưu tầm. Tôi trình chiếu cho trẻ xem các hình ảnh không an toàn, các
hành vi đúng, sai khi tham gia giao thông. Tôi nhấn mạnh vào những tình huống
không an toàn trong mỗi câu chuyện như sau:
“MỘT CHUYẾN VỀ QUÊ”
Nội dung câu chuyện kể về bạn nhỏ khi ngồi trên ôt ô để về quê chơi, bạn
ấy đã tháo dây bảo hiểm ra khỏi người. Khi gặp sự cố, xe phanh gấp khiến cho
bạn ấy bị ngã nhào về phía trước. Từ đó trở đi, mỗi khi đi ô tô bạn ấy luôn nhớ
cài dây bảo hiểm để đảm bảo an toàn giao thông.
CHUYỆN: “CHIẾC MŨ BẢO HIỂM”
Chuyện kể về bạn Hải khi được mẹ đưa đến trường đã quên mũ bảo hiểm, nhưng
Hải nhất định không cho mẹ quay về lấy. Thế rồi Hải và mẹ đã bị ngã xe, rất may
không xảy ra hậu quả nghiêm trọng.Mẹ ân hận xin lỗi chú công an và nói với
Hải:

- Mẹ con mình lần sau dù có vội hay muộn đến mấy cũng phải nhớ đội mũ bảo
hiểm con nhỉ!

16


Hình ảnh mẹ hướng dẫn bé đội mũ bảo hiểm trước khi đi xe máy
Sau khi cho trẻ nghe chuyện và trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện,
tôi thấy có nhiều cháu cũng nhận là thường xuyên không đội mũ bảo hiểm khi đi
xe máy đi học. Sau đó, nhiều bậc phụ huynh đã chia sẻ với cô giáo: Bản thân phụ
huynh cũng ít khi nhớ cho con đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy đến trường, bởi
một phần vướng, một phần công an thường không phạt trường hợp này nên các
phụ huynh cũng hay bỏ qua. Nhưng bây giờ, các con đòi đội mũ bảo hiểm khi đi
học. Tôi thấy rằng, qua câu chuyện trẻ đã nhận thức được sự cần thiết của việc đội
mũ bảo hiểm khi đi xe. Biết được nếu không thực hiện tốt thì có thể xảy ra rủi ro
như thế nào. Từ đó tạo cho trẻ ý thức chấp hành luật giao thông từ bé.
Với chủ đề “Bản thân” tôi đưa tình huống và giáo dục cho trẻ qua câu
chuyện :
“ Ổ KHOÁ”
Chuyện kể về bạn Kiên được mẹ đưa đến nhà người quen chơi. Khi vào nhà vệ
sinh để rửa tay bạn Kiên đã tò mò vặn chốt cửa. Cửa chốt Kiên không sao mở
được… Kiên sợ quá khóc oà lên… Cuối cùng bác Luyến phải thuê thợ cắt kính
vào cắt để có thể thò tay vào mở khoá cửa… Khi Kiên đã bình tĩnh, mẹ ôn tồn giải
thích và nhắc nhở. Lần sau, đi đâu con không được nghịch khoá như thế nữa nhé,
khoá mỗi nhà có cách sử dụng khác nhau.
Với câu chuyện này tôi giáo dục trẻ: Khi vào nhà vệ sinh tự ý mở và chốt
khoá cửa.
Bên cạnh đó tôi còn đưa ra những tình huống khác đối với trẻ như:
Không tự ý xả nước ở vòi vì dễ xảy ra bỏng khi sử dụng bình nóng lạnh .
Khi tắm bồn: Chờ người lớn xả nước và giúp vào bồn.

17


Không tự ý xả nước và trèo vào đề phòng nước quá nhiều sẽ nguy hiểm, không
nằm bồn tắm quá lâu …
Ngoài những câu chuyện kể trên tôi còn sưu tầm các bài thơ: “Khách đến
nhà”, “Dạ vâng”, “Nhận quà”, “Chào hỏi”, “Biết lỗi”, “Lời cô bé nhớ”. Đây là
những bài thơ có nội dung giáo dục trẻ kỹ năng trong giao tiếp ứng xử với mọi
người đó là: Biết chào khi có khách đến nhà, lễ phép với người lớn, khi nhận được
quà biết nói cảm ơn và biết nói “xin lỗi” khi mắc lỗi. Hay bài thơ “Nhặt lá rụng”
có nội dung giáo dục trẻ kỹ năng sống sạch sẽ, gọn gàng.
5. Giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức cho trẻ tham
gia vào các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong lớp, trong nhà
trừơng.
Nội dung phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, trong đó có nội dung: Nhà trường, nhóm lớp cần tổ chức các hoạt động
văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự
giác của trẻ. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích
cực khác phù hợp với lứa tuổi. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế
hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia
chủ động, tự giác của trẻ như sau.
- Năm học 2014 - 2015, khi xây dựng kế hoạch chuyên môn tôi đã lồng
ghép các trò chơi dân gian như: “Nu na nu nống”, “Kéo cưa lừa xẻ”, “Mèo
đuổi chuột”…vào kế hoạch cho trẻ chơi vào giờ hoạt động chiều hay hoạt động
ngoài trời. Qua đó rèn luyện kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống tự tin, khả năng
nhận thức của trẻ cũng được phát triển.
- Tháng 9/2014: Tổ chức cho trẻ thi góc chơi “Khám phá khoa học” theo
chủ đề “Bản thân”, Tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác
quan, những trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ, bổ sung đồ chơi và
phân lịch cho trẻ chơi các trò chơi “Ném bóng vào rổ”, chơi “Cắp cua”.

- Tháng 11/2014: Tổ chức các hoạt động tạo hình vào chiều thứ sáu tuần 2
và tuần 4 của tháng có sự tham gia trực tiếp của cha mẹ trẻ cùng hoạt động với trẻ
sắp đặt đồ dùng ăn uống, bày bữa tiệc liên hoan mừng ngày tết của cô giáo qua đó
rèn luyện cho trẻ kỹ năng sử dụng các đồ dùng ăn uống, dạy trẻ những nghi thức
văn hoá trong ăn uống.
- Tháng 1, tháng 2/2015 Trẻ được tham gia hội thi “Bé khỏe – Bé khéo
tay”, cấp lớp và cấp trường qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác với
các thành viên trong đội để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát triển
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
- Tháng 2/2015: Trẻ được tham gia hội diễn văn nghệ mừng xuân với chủ
đề “Trang phục dân gian”.
18


Tôi thực hiện kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ bằng việc trang bị
cho mỗi trẻ có một biểu tượng đánh giá riêng nhằm giúp tôi quan sát ghi chép
hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi
chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá
cuối mỗi giai đoạn phát triển của trẻ theo từng độ tuổi. Cũng từ biện pháp này, tôi
sẽ có điều kiện lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để
thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục từng trẻ vì trẻ con rất khác nhau và giúp
trẻ hình thành các kỹ năng sống.
6. Phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh trong việc giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ ở gia đình.
Đây là một giải pháp vô cùng quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần lôi cuốn
sự quan tâm của các bậc phụ huynh để họ cùng tham gia phối hợp dạy kỹ năng
sống cho trẻ, mà còn tạo cơ hội để các bậc phụ huynh hiểu được công tác chăm
sóc giáo dục trẻ vất vả như thế nào. Từ đó thực hiện tốt lượng thông tin hai chiều
để phối kết hợp chặt chẽ hơn bằng nhiều hình thức như:
- Tăng cường công tác tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ

con, phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự vệ,
nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì sẽ vững vàng
vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được chứng minh rõ
ràng từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ biết cách tự
bảo vệ bản thân.
Tôi tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho
rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của cô
giáo và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm
19


giải quyết các vấn đề quan trọng, hoặc thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi
chơi với nhau.
- Trò chuyện, trao đổi với các bậc phụ huynh, thông qua giờ đón trả trẻ
hàng ngày để họ hiểu được trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa
trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ
dùng một cách chính xác và thuần thục khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải
thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là
cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh
của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
- Thông qua các buổi họp phụ huynh theo định kỳ. Bản thân tôi phối hợp
một cách chặt chẽ và hợp lý với cha mẹ trẻ để họ tham gia tình nguyện vào quá
trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với
giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt
động trong ngày; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải
học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống.
Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh thức sự tự ý
thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực
và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.

- Bên cạnh việc trao đổi với phụ huynh về các kỹ năng cần rèn luyện cho trẻ
như: Kỹ năng tự tin, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thích khám phá học hỏi, kỹ năng
giao tiếp. Tôi đã phô tô các câu chuyện có nội dung giáo dục kỹ năng sống và
phát cho 28 phụ huynh. Phụ huynh đã ủng hộ kinh phí mua sắm 10 bộ trang phục
hát múa các bài dân ca, kinh phí tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể, các hội
thi, các ngày hội ngày lễ. Tổng kinh phí phụ huynh ủng hộ trên 9 triệu đồng.
IV. KẾT QUẢ KIỂM NGHIỆM
Bằng những biện pháp và hình thức trên, kết quả giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ lớp tôi có những chuyển biến đáng kể.
Tổng số trẻ: 28.
Tôi cũng tiến hành khảo sát lần 2 trên trẻ kết quả như sau:
Kết quả trên trẻ
Số
Đạt

TT Nội dung khảo sát
T
trẻ
T
% K %
% Y %
B
1 Mạnh dạn tự tin
28 18 64,4 7
25
3 10,6 0
0
2 Kỹ năng hợp tác
28 17 57,1 8 28,6 4 14,3 0
0

Kỹ năng thích khám
3
28 14 50 8 28,6 5 17,7 1 3,7
phá học hỏi
20


4
5

Kỹ năng trong giao
tiếp
Kỹ năng ứng xử có
văn hóa trong các
hoạt động hàng ngày

28

15 53,6

7

25

5

17,7

1


3,7

28

14

9

32

4

14,3

1

3,7

50

Qua bảng khảo sát lần 2 cho thấy sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ, kết quả chung trên trẻ tăng lên rõ rệt: Trẻ đạt (Tốt - Khá) tăng
cao, (Trung bình) giảm và chiếm tỷ lệ ít; Đặc biệt trẻ chưa đạt chiếm ất ít. Điều
này cho thấy kết quả rất khả quan trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu ở các tỷ lệ đạt khá cao. Cho thấy việc cô giáo và
phụ huynh đóng vai trò rất quan trọng giúp trẻ lĩnh hội được nhiều hiểu biết của
mình về kỹ năng sống. Từ đó góp phần quan trọng trong việc giáo dục cho trẻ có
kiến thức vũng vàng về kỹ năng sống là góp phần tạo ra một lớp người mới có sự
hiểu biết đầy đủ, tạo ra nguồn nhân lực khỏe mạnh cho đất nước làm cho xã hội
ngày càng phát triển.

Từ kết quả trên bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ 3 - 4 tuổi ở trường mầm non.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I/ KẾT LUẬN
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách
xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ,
đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong
tương lai. Gần một năm nghiên cứu và tìm tòi sau đó áp dụng các biện pháp vào
việc chăm sóc giáo dục trẻ 3 - 4 tuổi về kỹ năng sống, để đạt được kết quả tốt
không phải là dễ. Chính vì vậy trong các hoạt động ngoài việc truyền thụ kiến
thức cơ bản của từng môn tôi khéo léo lồng ghép, kết hợp giáo dục kỹ năng sống
sao cho phù hợp, nhẹ nhàng, thoải mái. Ngoài các hoạt động có chủ định ra tôi
cũng khéo léo lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động khác, từ
đó trẻ sẽ lĩnh hội một cách nhanh chóng và thoải mái, không gò ép.
- Trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tôi đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ
phát huy khả năng của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và có ý thức
cao giá trị của bản thân. Đây là hình thức giáo dục hiện đại và hiệu quả giúp trẻ
phát triển tốt khả năng tư duy, nâng cao sự tự tin trong cuộc sống.
Tôi đã trang bị cho mình vốn kiến thức về tâm lý lứa tuổi lên 3, kỹ năng sống, kỹ
năng giáo dục chủ động. Bên cạnh đó tôi cũng đã khen ngợi, động viên trẻ kịp
21


thời khi trẻ thể hiệnnhững kỹ năng sống tích cực, điều đó khiến cho trẻ thường
xuyên lặp lại những kỹ năng tốt đó.
- Bản thân tôi luôn tự học hỏi đồng nghiệp, tìm tòi những biện pháp hay trong tài
liệu sau đó áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Luôn tìm tình huống, nội dung có liên quan về giáo dục kỹ năng sống. Giới thiệu
góc học tập và trao đổi với phụ huynh.

- Tôi luôn kết hợp giữa gia đình và nhà trường để giúp trẻ tiếp cận và lĩnh hội
những kiến thức cơ bản về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm một cách tốt
hơn.
- Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng
các biện pháp như: Làm gương, trải nghiệm, trò chơi, trò chuyện, đàm thoại...
- Học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, nghiên cứu tài liệu để từ đó rút
cho mình những bài học hay nhất góp phần vào việc chăm sóc và giáo dục trẻ đạt
kết quả cao.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình tôi giảng dạy
nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ. Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh khỏi
phần thiếu sót và hạn chế. Những vấn đề đó nếu được cấp trên, các đồng chí, đồng
nghiệp đóng góp ý kiến xây dựng, tôi sẽ khắc phục trong quá trình chăm sóc và
giáo dục trẻ nói chung và giáo dục kỹ năng sống nói riêng trong những năm học
tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
II/ ĐỀ XUẤT.
Khi thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” nên cần tạo điều kiện cho trẻ tham gia các hoạt động trong nhà
trường một cách chủ động, được bộc lộ quan điểm, rèn luyện các kỹ năng và hình
thành quan hệ tốt trong giao tiếp với cô và bạn bè, thông qua các hoạt động tổ
chức những hoạt động như lễ hội (vào dịp lễ, tết), liên hoan văn nghệ, trò chơi dân
gian, xây dựng hoạt động bản thân, phương pháp làm việc nhóm… Từ phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trường Mầm non
Nga Lĩnh đã hướng đến: xây dựng một môi trường sư phạm thực sự lành mạnh,
cũng chính vì vậy tôi đề xuất các cấp cần quan tâm hơn về cơ sở vật chất xây
dựng trường khang trang xanh - sạch - đẹp nhằm tạo ấn tượng đẹp để phụ huynh
yên tâm đưa con em đến trường.
Trân trọng cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng
đơn vị


Nga Lĩnh, ngày 09 tháng 4 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm không sao chép của
người khác.
22


Người viết sáng kiến kinh nghiệm

Yên Thị Tương
Yên Thị Liễu

23



×