Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THƯƠNG MẠI SƠN VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.97 KB, 52 trang )

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái niệm vốn.

Các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn với góc độ hiện vật. Họ cho rằng, vốn là một
trong những yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh. Cách hiểu này phù hợp
với trình độ quản lý kinh tế còn sơ khai – giai đoạn kinh tế học mới xuất hiện và bắt đầu
phát triển.
Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần trong công
ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của công ty. Như
vậy, các nhà tài chính đã chú ý đến mặt tài chính của vốn, làm rõ được nguồn vốn cơ bản
của doanh nghiệp đồng thời cho các nhà đầu tư thấy được lợi ích của việc đầu tư, khuyến
khích họ tăng cường đầu tư vào mở rộng và phát triển sản xuất.
Theo David Begg, Standley Fischer, Rudige Darnbusch trong cuốn “Kinh tế học”: Vốn là
một loại hàng hoá nhưng được sử dụng tiếp tục vào quá trình sản xuất kinh doanh tiếp
theo. Có hai loại vốn là vốn hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các loại hàng
hoá đã sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ khác. Vốn tài chính là tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng... Đất đai không được coi là vốn.
Một số nhà kinh tế học khác cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí
để sản xuáat hàng hoá, dịch vụ như tài sản tài chính mà còn cả các kiến thức về kinh tế kỹ
thuật của doanh nghiệp đã tích luỹ được , trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ
điều hành cùng chất lượng đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín, lợi thế của
doanh nghiệp.
Một số quan điểm khác lại cho rằng vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư.
Nhưng theo khái niệm trong giáo trình Tài chính doanh nghiệp thì khái niệm về vốn được
chia thành hai phần: Tư bản (Capital) là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Vốn được quan
tâm đến khía cạnh giá trị nào đó của nó mà thôi. Bảng cân đối kế toán phản ánh tình hình
tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm . Vốn được nhà doanh nghiệp dùng để
đầu tư vào tài sản của mình. Nguồn vốn là những nguồn được huy động từ đâu. Tài sản


thể hiện quyết định đầu tư của nhà doanh nghiệp; Còn về bảng cân đối phản ánh tổng dự
trữ của bản thân doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp có dự trữ tiền để mua hàng hoá và
dịch vụ rồi sản xuất và chuyển hoá, dịch vụ đó thàng sản phẩm cuối cùng cho đến khi dự
trữ hàng hoá hoặc tiền thay đổi đó sẽ có một dòng tiền hay hàng hoá đi ra đó là hiện
tượng xuất quỹ, còn khi xuất hàng hoá ra thì doanh nghiệp sẽ thu về dòng tiền (phản ánh


nhập quỹ và biểu hiện cân đối của doanh nghiệp là ngân quỹ làm cân đối dòng tiền trong
doanh nghiệp).
Một số quan niệm về vốn ở trên tiếp cận dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, trong
những điều kiện lịch sử khác nhau. Vì vây, để đáp ứng đầy đủ yêu cầu về hạch toán và
quản lý vốn trong cơ chế thị trường hiện nay, có thể khái quát vốn là một phần thu nhập
quốc dân dưới dạng vật chất và tài sản chính được các cá nhân, tổ chức bỏ ra để tiến hành
kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận.
1.1.1.

Phân loại vốn.

a. Căn cứ theo nguồn hình thành vốn.
-Vốn chủ sở hữu:là số vốn góp do chủ sở hữu, các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này
không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả
lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do kinh doanh có lãi của doanh nghiệp đẽ được
chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp cho mình. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp,
vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức khác nhau. Thông thường nguồn vốn
này bao gồm vốn góp và lãi chưa phân phối.
- Vốn vay: là khoản vốn đầu tư ngoài vốn pháp định được hình thành từ nguồn đi vay, đi
chiếm dụng của các tổ chức, đơn vị cá nhân và sau một thời gian nhất định, doanh nghiệp
phải hoàn trả cho nguời cho vay cả lãi và gốc. Phần vốn này doanh nghiệp được sử dụng
với những điều kiện nhất định (như thời gian sử dụng, lãi suất, thế chấp...) nhưng không
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại là vốn vay ngắn hạn và vốn

vay dài hạn.
b. Căn cứ theo thời gian huy động vốn.
- Vốn thường xuyên: là nguồn vốn có tính chất ổn định và dái hạn mà doanh nghiệp có
thể sử dụng để đầu tư vao ftài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu
thường xuyên cần thiết cho hoạt động doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở
hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp.
- Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1 năm) mà doanh số có thể sử
dụng để đap sứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn và
các khoản chiếm dụng của bạn hàng.
c. Căn cứ theo công dụng kinh tế của vốn.


- Vốn cố định: là một bộ phận đầu tư ứng trước về tài sản cố định và tài sản đầu tư cơ bản,
mà đặc điểm luân chuyển từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn
thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định nhưng các đặc điểm của
tài sản cố định lại ảnh hưởng đến sự vận động và công tác quản lý cố định. Muốn quản lý
vốn cố định một cách hiệu quả thì phải quản lý sử dụng tài sản cố định một cách hữu
hiệu.
Vốn lưu động: là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo
cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn, thường xuyên luân chuyển trong quá trình
kinh doanh. Tài sản lưu động tồn tại dưới dạng dự trữ sản xuất (nguyên vật liệu, bán
thành phẩm, công cụ, dụng cụ... ) sản phẩm đang trong quá trình sản xuất (sản phẩm dở
dang), thành phẩm, chi phí tiêu thụ, tiền mặt... trong giai đoạn lưu thông. Trong bảng cân
đối tài sản của doanh nghiệp thì tài sản lưu động chủ yếu được thể hiện ở các bộ phận là
tiền mặt, các chứng khoán có thanh khoản cao, các khoản phải thu và dự trữ tồn kho.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thường chiếm
từ 25% đến 50% tổng giá trị tài sản của chúng. Vì vậy, quản lý và sử dụng vốn lưu động

hợp lý có ảnh hưởng rất quan trọng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh
nghiệp, trong đó có công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.2. Vốn lưu động và doanh nghiệp.
1.2.1.Khái niệm, đặc điểm VLĐ của doanh nghiệp.
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tài sản cố định còn phải
có tài sản lưu động tùy thoe loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của tài sản lưu động khác
nhau. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp sản xuất tài sản lưu động được cấu thành hai bộ
phận là tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất, bao gồm:
+ Nguyên liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, …là những vật tư dự trữ để đảm bảo cho sản
xuất được liên tục.
+ Những sản phẩm dở dang, bán thành phẩm … là những sản phẩm đang trong quá trình
sản xuất.


- Tài sản lưu động lưu thông, bao gồm: những TSLĐ nằm trong quá trình lưu thông của
doanh nghiệp như: Thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán
- Tài sản lưu động sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn luân chuyển, luôn thế chỗ cho nhau,
vận động không ngừng giúp cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục và thuận lợi.
Chính vì thế, doanh nghiệp luôn cần có một số lượng TSLĐ nhất định. Nguồn vốn tài trợ
cho loại tài sản này được gọi là VLĐ. Từ đó ta thấy, VLĐ là số vốn ứng ra để hình thành
nên các TSLĐ nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện
thường xuyên, liên tục. VLĐ luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu
hồi toàn bộ, hoàn thành một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
-Đối với doanh nghiệp sản xuất, VLĐ vận động theo sơ đồ sau:
T – H – H’ – T’
Tức là, VLĐ từ hình thái ban đầu là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản
phẩm dở dang, thành phẩm hàng hóa, khi kết thúc quá trình tiêu thụ lại trở về hình thái ban
đầu là tiền.
-


Đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thương mại, quá trình vận động của VLĐ theo

trình tự sau:
T – H – T’
Tức là, VLĐ từ hình thái vốn bằng tiền chuyển hóa sang hình thái hàng hóa và cuối
cùng chuyển về hình thái tiền. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra
liên tục không ngừng nên sự tuần hoàn của VLĐ cũng diễn ra có tính chất chu kỳ tạo thành
sự chu chuyển của VLĐ.
Vốn lưu động bị chi phối bởi các đặc điểm của TSLĐ nên nó mang những đặc điểm:
-

Vốn lưu động trong quá trình chu chuyển luôn thay đổi hình thái biểu hiện.

Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn bộ
sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
-


-

Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh.

-

Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.

Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ tiền vốn đầu tư vào
các hình thái khác nhau của VLĐ, khiến cho các hình thái có được mức tồn tại hợp lý và
động bộ với nhau. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho chuyển hóa hình thái của vốn trong quá

trình luân chuyển được thuận lợi, góp phần tăng tốc độ luân chuyển VLĐ, tăng hiệu suất sử
dụng VLĐ và ngược lại.
Vốn lưu động còn là công cụ phản ánh, đánh giá quá trình vận động của vật tư.
Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn phản ánh sự vận động của vật tư. Số VLĐ nhiều
hay ít là phản ánh số lượng vật tư, hàng hóa dự trữ sử dụng ở các khâu nhiều hay ít. VLĐ
luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng sử dụng kiết kiệm hay không . Thời
gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lý hay không. Bởi vậy, thông qua tình hình
luân chuyển VLĐ có thể kiểm tra, đánh giá một cách kịp thời đối với các mặt mua sắm, dự
trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
1.2.2.Phân loại VLĐ.
1.2.2.1. Phân loại theo hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn thì VLĐ
được chia thành 2 loại:


Vốn bằng tiền và các khoản phải thu

+ Vốn bằng tiền gồm: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và tiền đang chuyển. Tiền là
một loại tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ dàng chuyển đổi thành các
loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Do vậy, trong hoạt động SXKD đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
cần phải một lượng tiền cần thiết nhất định.
+ Các khoản phải thu: Chủ yếu là các khoản phải thu từ khách hàng thể hiện ở số tiền mà
các khách hang nợ doanh nghiệp phát sinh trong quá trình bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới
hình thức bán trước trả sau. Ngoài ra, với một số trường hợp còn có thể phải ứng tiền trước
mua hàng cho người cung cấp, từ đó hình thành nên khoản tạm ứng.




Vốn về HTK (hàng tồn kho)


Trong doanh nghiệp sản xuất vốn vật tư hàng hóa gồm: Vốn về vật tư dự trữ, vốn sản
phẩm dở dang, vốn thành phẩm. Các loại này được gọi chung là vốn về HTK. Theo cách
phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, đánh giá mức tồn kho dự trữ và KNTT
của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Dựa vào vai trò của VLĐ đối với quá trình SXKD


VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất: là số vốn cần thiết bao gồm giá trị các loại

vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
+ Vốn về NVL chính là các loại vật tư dự trữ dùng trong sản xuất khi tham gia vào quá
trình sản xuất để tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hoá.
+Vật liệu phụ là các loại vật tư dự trữ dùng trong sản xuất góp phần hoàn thành sản phẩm
chứ nó không hợp thành thực thể chủ yếu của sản phẩm,
+Vốn về nhiên liệu là các loại nhiên liệu dự trữ có giá trị dùng trong sản xuất chế tạo sản
phẩm.
+Vốn phụ tùng thay thế bao gồm giá trị các loại phụ tùng dùng để thay thế mỗi khi sửa
chữa TSCĐ..
+Vốn công cụ dụng cụ là giá trị các tư liệu lao động có giá trị thấp thời gian sử dụng ngắn,
không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ


Vốn trong khâu sản xuất: là số vốn cần thiết để từ khi đưa vật tư dự trữ vào

sản xuất cho đến khi tạo ra sản phẩm, bao gồm:
+ Vốn sản phẩm dở dang: là giá trị những sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất xây
dựng hoặc đang nằm trên dây chuyền chờ sản xuất chế biến tiếp.
+Vốn bán thành phẩm: là giá trị các sản phẩm dở dang đã hoàn thành một trong nhiều giai
đoạn chế biến nhất định nhưng chưa thành phẩm.



+Vốn chi phí trả trước: Là những khoản chi phí đã chi ra trong kỳ nhưng có tác dụng cho
nhiều kỳ sản xuất tiếp theo vì vậy mà chưa tính hết chi phí vào một kỳ và sẽ được phân bổ
dần vào chi phí cho các kỳ tiếp theo.


Vốn trong khâu lưu thông: là số vốn cần thiết kể từ khi thành phẩm nhập kho

cho đến khi tiêu thụ hết sản phẩm thu được tiền bán hàng như:
+ Vốn thành phẩm: là biểu hiện bằng tiền của số sản phẩm hoàn thành nhập kho và đang
chuyển bị cho việc tiêu thụ sản phẩm.
+ Vốn bằng tiền: bao gồm các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng ….
+ Vốn trong khâu thanh toán: đó là những khoản phải thu, khoản tạm ứng phát sinh trong quá
trình mua bán vật tư hàng hoá và thanh toán nội bộ.
+ Vốn về các khoản đầu tư ngắn hạn và các khoản thế chấp, ký quỹ ngắn hạn.
Cách phân loại này giúp cho ta thấy được vai trò và sự phân bổ của VLĐ trong từng
khâu trong quá trình sản xuất, từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn hợp lý và đem lại
hiệu quả cao nhất.
1.2.3.Nhu cầu VLĐ và các phương pháp xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
1.2.3.1.Nhu cầu VLĐ.
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục tạo thành chu
kỳ kinh doanh. Chu kỳ kinh doanh của một doanh nghiệp là thời gian trung bình cần thiết
để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư, sản xuất ra sản phẩm và bán được sản phẩm, thu
tiền bán hàng. Gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn mua sắm và dự trữ vật tư: Trong giai đoạn này, doanh nghiệp có thể bỏ tiền ra
để trả tiền cho vật tư, thiết bị doanh nghiệp mua sắm hoặc cũng có thể mua trước trả sau,
tức là các nhà cung ứng vật tư đã cung cấp cho doanh nghiệp một khoản tín dụng thương
mại để tài trợ nhu cầu VLĐ.



1.

Giai đoạn sản xuất: Trong giai đoạn này, doanh nghiệp dùng các vật tư đã mua sắm

từ giai đoạn trước để chuyển hóa qua các hình thái sản phẩm dở dang. Lúc này doanh
nghiệp cũng phải ứng ra một lượng VLĐ nhất đinh.
2.

Giai đoạn bán sản phẩm và thu tiền bán hàng: Sau khi có được thành phẩm từ giai

đoạn sản phẩm, doanh nghiệp bắt đầu thực hiện việc bán hàng. Trường hợp doanh nghiệp
bán hàng thu tiền ngay thì doanh nghiệp sẽ có được một khoản tiền để bổ sung vào VLĐ để
tiếp tục đầu tư vào hoạt động SXKD. Trường hợp doanh nghiệp bán hàng không thu tiền
ngay tức là cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trả sau, cho tới lúc doanh nghiệp thu
được tiền thì mới thu hồi được số vốn ứng ra.
Chính các giai đoạn trong chu kỳ kinh doanh đã tạo ra nhu cầu VLĐ của doanh
nghiệp. Nhu cầu VLĐ là số vốn tiền tệ cần thiết doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra để hình
thành một lượng dự trữ HTK và khoản cho khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoản tín
dụng của nhà cung cấp và các khoản nợ phải trả khác có tính chát khu kỳ (tiền lương phải
trả, tiền thuế phải nộp…). Xác định nhu cầu VLĐ theo công thức sau:
Khoản phải
Nhu cầu
Mức dự
=
+ thu từ khách VLĐ
trữ HTK
hàng

Khoản phải trả nhà cung cấp
và các khoản phải trả khác

có tính chu kỳ

Số VLĐ doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra tùy thuộc vào nhu cầu VLĐ lớn hay nhỏ
trong từng thời kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý VLĐ, một vấn đề quan trọng là phải
xác định được nhu cầu VLĐ cần thiết tương ứng với một qui mô và điều kiện kinh doanh
nhất định.
Nhu cầu VLĐ thường xuyên ở mức cần thiết thấp nhất đảm bảo cho quá trình sản
xuất của doanh nghiệp được tiến hành bình thường liên tục. Do vậy xác định đúng đắn nhu
cầu VLĐ thường xuyên cần thiết là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh
nghiệp.


Xác định nhu cầu vốn lưu thông là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp tổ chức tốt các
nguồn vốn, đảm bảo nhu cầu vốn một cách kịp thời đầy đủ cho hoạt động sản xuất. Nếu
xác định nhu cầu vốn quá cao, doanh nghiệp sẽ không khai thác được khả năng tiềm tàng
của mình về vốn, không khuyến khích doanh nghiệp tìm những biện pháp để cải tiến hoạt
động kinh doanh này nên tình trạng đầu tư thừa ứ đọng về vốn, sử dụng tăng phí vật tư dự
trữ, thành phẩm tồn đọng trong kho phát sinh những chi phí không cần thiết, làm tăng giá
thành, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu VLĐ quá thấp sẽ gây nên tình trạng
thiếu vốn giả tạo, gây căng thẳng về vốn, tốc độ sản xuất bị ngừng trệ do thiếu vốn, doanh
nghiệp thiếu vốn sẽ phải đi vay đột xuất với những điều kiện nặng nề về lãi suất do đó làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Quan trọng hơn doanh nghiệp thiếu vốn sẽ không thực
hiện được các hợp đồng kinh tế đã ký kết, không có KNTT, từ đó mất uy tín trong quan hệ
mua bán, không giữ được khách hàng.
Xác định đúng nhu cầu VLĐ là căn cứ để kiểm tra tình hình VLĐ của doanh nghiệp
trong` quá trình SXKD và tạo cơ sở cho việc luân chuyển VLĐ được thuận lợi. Mặt khác,
xác định đúng nhu cầu VLĐ còn là một trong những căn cứ để xác lập mọi quan hệ tài
chính giữa doanh nghiệp với ngân hàng trong việc cập nhập VLĐ không phải là khi doanh
nghiệp mới được thành lập. Tuy nhiên nhu cầu VLĐ không phải là cố định mà thường có

sự biến động do nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: quy mô kinh doanh của doanh
nghiệp, sự biến động của giá cả hàng hoá, trình độ tổ chức quản lý vốn…
Để xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết, doanh nghiệp có thể sử dụng các
phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mình.
1.2.3.2 Các phương pháp xác định VLĐ của doanh nghiệp:
Phương pháp trực tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp: Căn cứ
vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lượng VLĐ doanh nghiệp phải ứng ra để xác định
nhu cầu VLĐ thường xuyên, xác định theo quy trình sau:


B1: Xác định nhu cầu vốn để dự trữ HTK cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
B2: Xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng.
B3: Xác định khoản phải trả cho nhà cung cấp.
B4: Tổng hợp xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
+)Ưu điểm: Xác định được nhu cầu cụ thể của từng loại vốn trong từng khâu kinh doanh.
Do đó tạo điều kiện tốt cho việc quản ý, sử dụng vốn theo từng loại trong từng khâu sử
dụng.
+) Nhược điểm: Khi doanh nghiệp sử dụng nhiều loại vật tư thì sẽ phức tạp trong việc
xác định.
Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp: Là
phương pháp dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn, theo 2 trường hợp
sau:
TH1: Dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành để xác
định nhu cầu vốn cho doanh nghiệp mình. Để xác định nhu cầu VLĐ phải dựa vào doanh
thu được rút từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành và quy mô
kinh doanh dự kiến của doanh nghiệp mình để tính ra nhu cầu VLĐ cần thiết.
TH2: Dựa vào tình hình thực tế sử dụng VLĐ ở thời kỳ vừa qua của doanh nghiệp để xác
định nhu cầu chuẩn về VLĐ cho các thời kỳ tiếp theo theo các bước sau:
B1: Xác định số dư bình quân các khoản hợp thành nhu cầu VLĐ trong năm báo cáo, chú

ý loại trừ số liệu không hợp lý.
B2: Xác định tỷ lệ các khoản trên so với DTT trong năm báo cáo, từ đó xác định tỷ lệ
nhu cầu VLĐ so với DTT.
B3: Xác định nhu cầu VLĐ cho kỳ kế hoạch.


+)Ưu điểm: Phương pháp này tính toán đơn giản, không mất nhiều thời gian.
+)Nhược điểm: Độ chính xác của kết quả tính toán này bị hạn chế.
1.2.4.Nguồn hình thành VLĐ của doanh nghiệp.
1.2.4.1.Phân loại nguồn VLĐ.
 Theo quan hệ sở hữu về vốn:

+ Vốn chủ sở hữu : Là số VLĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp,doanh nghiệp có
đầy đủ các quyền chiếm hữu,sử dụng, chi phối và định đoạt. Tùy theo các loại hình doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau VCSH (vốn chủ sở hữu) có nội dung cụ
thể riêng như: vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ
ra, vốn góp cổ phần trong công ty cổ phần, vốn tự bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp…..
+ Nợ phải trả: là các khoản VLĐ được hình thành từ vốn vay của các ngân hàng thương
mại hoặc các tổ chức tài chính khác,vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ
khách hàng chưa thanh toán, doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng trong một thời hạn nhất
định.
 Theo thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia nguồn VLĐ thành hai loại:

+ Nguồn VLĐ thường xuyên: Là nguồn có tính chất ổn định dùng tài trợ hay hình thành
TSLĐ thường xuyên cần thiết.
Nguồn VLĐ thường
xuyên

Tổng
=


nguồn

vốn

thường xuyên của -

TSNH

doanh nghiệp

Hoặc
Nguồn VLĐ thường
xuyên

TSNH
=

(TSLĐ)

Nợ ngắn hạn


+ Nguồn VLĐ tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn dưới một năm chủ yếu để
đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời về VLĐ, bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng, vay
các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
1.2.4.2.Các mô hình tài trợ VLĐ.
+) Mô hình tài trợ thứ nhất: Toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo
bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn
tạm thời.

- Lợi ích của áp dụng mô hình này là:
+ Giúp doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh toán, mức độ an toàn cao hơn.
+ Giảm bớt được chi phí trong sử dụng vốn.
- Hạn chế trong sử dụng mô hình này:
+ Chưa tạo ra linh hoạt trong việc tổ chức sử dụng vốn.
Trong thực tế, có khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tiêu thụ, doanh nghiệp phải tạm
thời giảm bớt quy mô kinh doanh, nhưng vẫn phải duy trì một lượng vốn thường xuyên
khá lớn.
+) Mô hình tài trợ thứ 2: Toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên và một phần của TSLĐ
tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, và một phần của TSLĐ tạm thời
còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Sử dụng mô hình này, KNTT (khả năng thanh toán) và độ an toàn ở mức cao, tuy
nhiên, doanh nghiệp phải sử dụng nhiều khoản vay dài hạn và trung hạn nên doanh
nghiệp phải trả chi phí nhiều hơn cho việc sử dụng vốn, sự linh hoạt không có.
+) Mô hình tài trợ thứ 3: Toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được đảm
bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, còn lại phần TSLĐ thường xuyên và toàn bộ TSLĐ
tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.


Về lợi thế, mô hình này chi phí sử dụng vốn thấp hơn nhiều vì sử dụng nguồn vay
ngắn hạn, việc sử dụng vốn cũng linh hoạt hơn nhiều. Nhưng khi áp dụng mô hình này
doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro trong thanh toán tăng lên, tài chính không đảm bảo
nguyên tắc cân bằng.
1.3. Hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
1.3.1.Khái niệm hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng VLĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những biện pháp quản
lý hợp lý về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất cũng như quản lý toàn bộ các hoạt động khác của
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, thúc đẩy doanh nghiệp tăng trưởng và phát
triển.
VLĐ giữ một vai trò quan trọng trong tổng VKD, do đặc điểm VLĐ phát sinh và vận

động hàng ngày thậm chí hàng giờ trong SXKD nên nó luôn được ưu tiên so với VCĐ
Hiệu quả sử dụng VLĐ là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình khai
thác sử dụng VLĐ vào hoạt động SXKD với lượng VLĐ mà doanh nghiệp bỏ ra.
Để đảm bảo cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất diễn ra một cách liên tục thì doanh
nghiệp cũng cần phải có đủ một lượng VLĐ phù hợp để duy trì hoạt động đó.
Một doanh nghiệp sử dụng VLĐ có hiệu quả thì lượng vốn ứ đọng trong mỗi khâu là
thấp nhất, đồng thời giảm được chi phí sử dụng vốn, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Hơn nữa sự chu chuyển của nguồn vốn nhanh hơn làm tăng lợi nhuận và doanh
thu của công ty.
Hiệu quả sử dụng vốn tốt thì nhu cầu vốn sẽ giảm, điều nay có nghĩa là các nguồn tài
trợ cũng giảm công ty sẽ tiết kiệm được khoản chi phí sử dụng vốn nhưng quan trong hơn
là quá trình kinh doanh được liên tục duy trì năng lực hoạt động cũng như khả năng thu
lợi nhuận trong năm.
Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn tốt có hiệu quả thì vòng quay vốn sẽ tăng lên, đây là


điều kiện để công ty tăng doanh thu, tăng lợi nhuận
1.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp.
1.3.2.1.Tốc độ luân chuyển VLĐ.
VLĐ luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng VLĐ của doanh nghiệp càng
cao và ngược lại. Tốc độ luân chuyển VLĐ của doanh nghiệp được đánh giá bằng hai chỉ
tiêu là số lần luân chuyển (số vòng quay) và kỳ luân chuyển vốn.
Số lần luân chuyển VLĐ phản ánh số vòng quay vốn được thực hiện trong một kỳ,
thường là một năm.
Công thức:

Trong đó:
L: là số lần luân chuyển VLĐ trong kỳ.
M: là tổng mức luân chuyển VLĐ trong kỳ.
: là VLĐ bình quân trong kỳ (được xác định bằng phương pháp bình quân số học)

Kỳ luân chuyển VLĐ phản ánh số ngày bình quân cần thiết để thực hiện một vòng
quay của VLĐ, hay độ dài thời gian một vòng quay của VLĐ trong kỳ.
Công thức:

Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển VLĐ

.


N: Số ngày trong kỳ được tính chẵn một năm là 360 ngày, một quý là 90 ngày, một
tháng là 30 ngày.
M: là tổng mức luân chuyển VLĐ trong kỳ.
: là VLĐ bình quân trong kỳ (được xác định bằng phương pháp bình quân số học)
Vòng quay VLĐ càng nhanh thì kỳ luân chuyển VLĐ càng được rút ngắn và chứng
tỏ VLĐ càng được sử dụng có hiệu quả.
Việc tăng vòng quay VLĐ có ý nghĩa kinh tế rất lớn có thể giúp doanh nghiệp giảm
được VLĐ cần thiết, tiết kiệm được VLĐ.
1.3.2.2 Mức tiết kiệm VLĐ do tăng tốc độ luân chuyển vốn:
Chỉ tiêu này phản ánh số VLĐ có thể tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển
VLĐ ở kỳ này so với kỳ trước.
Công thức:

Trong đó:
Vtk: số VLĐ tiết kiệm nếu mang giá trị âm, hay phải tăng lên nếu mang giá trị
dương.
M1: Tổng mức luân chuyển VLĐ kỳ so sánh (kỳ kế hoạch).
L0, L1: Số lần luân chuyển VLĐ kỳ so sánh, kỳ gốc.
K0, K1: Kỳ luân chuyển vốn lưu kỳ so sánh, kỳ gốc.
1.3.2.3 Hàm lượng VLĐ :

Là số VLĐ cần có để đạt được một đồng DTT về tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu này
phản ánh để có một đồng DTT (doanh thu thuần) về bán hàng cần bao nhiêu VLĐ.


Công thức:
Trong đó:

Sn: DTT bán hàng trong kỳ.

1.3.2.4 Một số chỉ tiêu khác.
+ Về hàng tồn kho
Hệ số vòng quay HTK.
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng quay HTK luân chuyển trong kì. Số vòng quay HTK
càng cao thì càng hiệu quả.

Hệ số vòng quay
HTK

Giá vốn hàng bán
=

Số dư bình quân hàng tồn kho trong kỳ

Trong đó:
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì giá vốn hàng bán tính theo giá thành sản xuất
của sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ còn đối với doanh nghiệp thương mại thì tính
theo trị giá vốn của hàng xuất bán.
Số dư bình quân của vật tư hàng hoá tồn kho trong kỳ: phản ánh giá trị bình quân
giữa hai thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ của khoản vật tư hàng hoá gồm: vật tư dự trữ sản
xuất, vốn sản phẩm dở dang và vốn về hàng hoá thành phẩm chờ tiêu thụ...

Cùng với chỉ số này ta có chỉ tiêu sau với ý nghĩa tương tự:
Số ngày một vòng quay HTK: Phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay HTK.
Công thức:


Số ngày trong kì

Số ngày một vòng
quay hàng tồn kho

= Số vòng quay hàng
tồn kho

+ Về các khoản phải thu :
Số vòng quay
các khoản phải

Doanh thu có thuế

=

Số dư bình quân các khoản phải thu trong kỳ

thu

Các khoản phải thu chủ yếu là giá trị các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ mà
khách hàng còn nợ doanh nghiệp, ngoài ra còn bao gồm các khoản trả trước cho người
bán, các khoản phải thu trong nội bộ doanh nghiệp và các khoản phải thu khác.
Hệ số này phản ánh tốc độ thu hồi các khoản công nợ của doanh nghiệp trong kỳ
là nhanh hay chậm.

+ Kỳ thu tiền bình quân
Kì thu tiền trung bình phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu.
Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kì thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại.
Kỳ thu tiền bình quân

Số dư bình quân các khoản phải thu x360
=

Doanh thu thuần

Hệ số này phản ánh khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh nghiệp nhanh
hay chậm, kỳ thu tiền càng ngắn thì khả năng thu hồi vốn trong thanh toán của doanh
nghiệp càng nhanh.
+ Các hệ số thanh toán:
Hệ số KNTT hiện thời:
Hệ số KNTT ngắn hạn

=

TSNH
Nợ ngắn hạn


Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải cho các
khoản nợ ngắn hạn hay là mức độ đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp. Hệ số này mà cao thì sẽ cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc sẵn
sàng thanh toán cho các khoản nợ đến hạn.
Hệ số KNTT nhanh:
Hệ số KNTT nhanh


=

Tổng TSLĐ – HTK
Nợ ngắn hạn

Hệ số KNTT tức thời:
Hệ số KNTT tức thời

=

Tiền + Các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn

Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá hiệu quả tổ chức và sử dụng
VLĐ của doanh nghiệp. Từ những chỉ tiêu tài chính này giúp cho các nhà quản trị tài
chính đánh giá đúng đắn tình hình tài chính của kỳ trước từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý VLĐ ở kỳ tiếp theo.
Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì có các hệ số tài chính khác nhau, thậm chí ở
một doanh nghiệp ở các thời điểm khác nhau cũng có hệ số tài chính khác nhau. Do đó
người ta coi hệ số tài chính là những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
1.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
1.3.3.1. Các nhân tố khách quan
Doanh nghiệp là một thực thể sống trong nền kinh tế, nó luôn tồn tại và phát triển
dưới sự tác động của môi trường xung quanh và luôn tìm cách thích nghi với những quy
luật trong môi trường đó, chính vì vậy mà mỗi nhà quản lý, mỗi chủ doanh nghiệp phải đề
ra những biện pháp, chính sách, kế hoạch SXKD phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp
để khắc phục những điểm yếu và phát huy thế mạnh của mình.



- Các nhân tố trong môi trường tự nhiên kinh tế:
Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định quy mô của VLĐ, nó tác động trực
tiếp đến SXKD của doanh nghiệp. Nếu một môi trường tự nhiên thuận lợi thì doanh
nghiệp không cần dự trữ hoặc dự trữ vừa đủ để sản xuất, như vậy có thể làm giảm chi phí
và tăng lợi nhuận, ngược lại trong môi trường không thuận lợi thì doanh nghiệp phải tăng
dự trữ sẽ làm tăng rủi ro cho HTK.
Trong nền kinh tế có lạm phát cao, sức mua của đồng tiền giảm dẫn đến sự gia tăng
của vật tư hàng hoá thì VLĐ sẽ giảm dần theo tốc độ trượt giá của đồng tiền. Ngược lại
trong điều kiện giảm phát của nền kinh tế tức là nhu cầu về hàng hoá giảm, sản phẩm
công ty sản xuất ra không bán được cùng với thời gian hàng hoá không giữ được nguyên
giá trị, doanh nghiệp sẽ phải chịu bán lỗ để thu hồi vốn và không đạt được hiệu quả sử
dụng VLĐ.
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Khoa học kỹ thuật khi được ứng dụng vào SXKD nó
có thể tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá với cùng một đơn vị thời gian và giảm được
nhiều chi phí sản xuất làm hạ giá thành sản phẩm và làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp
lên mức tối đa. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải áp dụng triệt để tiến bộ khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường về giá cả và chất
lượng. Ngược lại doanh nghiệp nào không tận dụng được điều đó thì đồng nghĩa với việc
tự làm mất tính canh tranh và tự đào thải ra khỏi nền kinh tế.
-

Chính sách kinh tế vĩ mô:
Hệ thống pháp luật chính sách của nhà nước sẽ tác động đến toàn bộ nền kinh tế,
chẳng hạn chính sách về thuế, chính sách giá trị gia tăng, chính sách cho vay có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh
nghiệp, nó còn ảnh hưởng và tác động đến kế hoạch chiến lược lâu dài của doanh nghiệp
như: mua sắm, nhập khẩu, dự trữ NVL…
Những nhân tố khác: ngoài những yếu tố nêu trên, hiệu quả hoạt động của doanh



nghiệp và cụ thể là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác như: Tác động của tỷ giá, tác động của yếu tự nhiên và môi trường, những
biến động của yếu tố đầu vào như: số lượng, giá cả máy móc thiết bị , NVL…những biến
động của yếu đầu ra như: khủng hoảng thừa, giảm đột ngột nhu cầu, sự mất uy tín của sản
phẩm cùng loại..
1.3.3.2. Các nhân tố chủ quan
Doanh nghiệp ngoài chịu sự tác động của các nhân tố khách quan còn phải chịu sự
tác động của các nhân tố chủ quan, bao gồm các nhân tố sau:
- Xác định nhu cầu VLĐ: nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu VLĐ quá cao sẽ
không khuyến khích doanh nghiệp khai thác các khả năng tiềm tàng, tìm mọi biện pháp cải
tiến hoạt động SXKD để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, gây ứ đọng vật tư, vốn chậm luân
chuyển và phát sinh chi phí không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm, nếu xác định nhu cầu
VLĐ quá thấp sẽ làm doanh nghiệp thiếu vốn, sản xuất không liên tục gây hại do ngừng sản
xuất không có KNTT và thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng.
- Phân bổ vốn không hợp lý giữa các khâu là khâu mua sắm, dự trữ NVL, sản
xuất và tiêu thụ. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa ba khâu, đáp ứng cho công đoạn kế
tiếp được thuận lợi, liên tục thì mới đảm bảo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp lãng phí vốn trong quá trình mua sắm thì sẽ thì sẽ thiếu vốn bổ xung cho
các khâu tiếp theo, nhưng nếu đầu vào không đủ sẽ gây gián đoạn sản xuất và thiếu sản
phẩm tiêu thụ.
- Mua sắm vật tư hàng hoá không đảm bảo chất lượng, không phù hợp với quá
trình sản xuất, sản phẩm làm ra sẽ không tiêu thụ được, nếu muốn tiêu thụ được thì doanh
nghiệp phải hạ giá như vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Tổ chức thanh toán không tốt, công ty bán chịu cho khách hàng đây là hiện tượng
rất phổ biến và là nguyên nhân gây ra ứ đọng nợ, vòng quay vốn chậm. và hiệu quả sử
dụng VLĐ không cao.


- Khai thác nguồn vốn không hợp lý: để bù đắp sự thiếu hụt nhiều doanh nghiệp

chưa biết khai thác tận dụng từ những nguồn có thể chiếm dụng, những nguồn tài trợ ngắn
hạn mà lại đi vay các tổ chức kinh tế các ngân hàng thương mại với lãi suất cao. Hơn nữa
các khoan vay này chủ yếu là các khoản nợ ngắn hạn áp lực phải thanh toán nhanh đúng
thời hạn và khi đúng hạn thì doanh nghiệp không có khả năng chi trả khiến cho doanh
nghiệp mất khả năng tự chủ về tài chính, tác động xấu đến hiệu quả sử dụng VLĐ của
công ty
- Do trình độ quản lý: Trình độ quản lý của doanh nghiệp là yếu kém dẫn đến thất
thoát vật tư hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gây
ra tình trạng sử dụng lãng phí VLĐ. Công tác bảo quản sản phẩm không tốt làm cho hàng
hoá bị hao hụt, mất mát nên hiệu quả sử dụng vốn thấp.
- Kinh doanh thua lỗ kéo dài làm cho VLĐ bị thâm hụt sau mỗi chu kỳ kinh doanh,
điều này ảnh hưởng trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp
Trên đây là những nhân tố chủ yếu có tác động tới hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh
nghiệp. Dựa trên các nhân tố tác động, doanh nghiệp cần nghiên cứu, xem xét kĩ lưỡng
ảnh hưởng của chúng từ đó tìm ra đường lối đúng đắn trong việc huy động và sử dụng
VLĐ.

1.3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh
nghiệp.
Dựa trên các phân tích trên đây về VLĐ, hiệu quả sử dụng VLĐ, cũng như các
nhân tố ảnh hưởng, có thể đưa ra một vài giải pháp sau đây.
Một là, xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Xác định đúng đắn
nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết là một biện pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Hơn nữa trong điều kiện các doanh nghiệp chuyển sang


thực hiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, mọi nhu cầu về vốn lưu động cho
sản xuất họ đều phải tự tài trợ thi điều này có ý nghĩa quan trọng và thể hiện trên các mặt
sau:
Tránh được tình trạng ứ đọng vốn giúp sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm.

Không gây nên căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn kinh doanh.
Khi xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp cũng cần thấy rằng vốn lưu
động của doanh nghiệp là một đại lượng không cố định và chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố như:
- Quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ
- Sự biến động giá cả của các loại vật tư hàng hóa mà doanh nghiệp sử dụng
- Chính sách chế độ về lao động và tiền lương đối với người lao động trong doanh
nghiệp.
- Trình độ tổ chức quản lý sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong quá trình dự
trữ, sản xuất tiêu thụ sản phẩm.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, giảm thấp tương đối nhu cầu vốn
lưu động không cần thiết thì các doanh nghiệp cần tìm biện pháp phù hợp tác động đến
các nhân tố ảnh hưởng trên sao cho có hiệu quả nhất
Để xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp có thể sử dụng các phương pháp
khác nhau. Tùy theo điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình phương
pháp thích hợp. Một số phương pháp chủ yếu được sử dụng là:
- Phương pháp ước tính nhu cầu vốn lưu động bằng tỷ lệ phần trăm trên doanh
thu:
Đây là một phương pháp dự đoàn nhu cầu vốn lưu động tương đối đơn giản và dễ
làm. Phương này được tiến hành qua 3 bước cơ bản sau:


Bước 1: Chọn các khoản mục vốn lưu động chịu sự tác động trực tiếp và có quan hệ
chặt chẽ với doanh thu rồi tính tỷ lệ % của các khoản mục đó so với doanh thu thực hiện
được trong năm báo cáo.
Bước 2: Dùng tỷ lệ % đó để ước tính nhu cầu vốn lưu động sản xuất kinh doanh cho
năm kế hoạch trên cơ sở doanh thu dự kiến năm kế hoạch.
Bước 3: Dự định huy động nguồn trang trải nhu cầu tăng vốn sản xuất kinh doanh trên
cơ sở kết quả kinh doanh năm kế hoạch.
Hai là, quản trị tốt tình hình công nợ và KNTT. Trên góc độ là khách hàng với các

khoản đi chiếm dụng vốn của các tổ chức khác, doanh nghiệp phải đảm bảo thực hiện
đúng cam kết cũng như tiến hành trả nợ đúng hạn, đảm bảo uy tín và giữ vững các quan
hệ với khách hàng. Trên góc độ là chủ nợ, doanh nghiệp phải kết hợp chính sách tín
dụng, uy tín của bạn hàng với tình hình thực tế tại doanh nghiệp, đảm bảo cân đối khoản
phải trả với khoản phải thu. Để làm tốt công tác này, đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện
phân loại nợ, theo dõi chi tiết các số dư nợ của từng khách hàng, đôn đốc khách hàng
thanh toán đúng hạn. Để đề phòng rủi ro doanh nghiệp nên mua bảo hiểm và lập quỹ dữ
trữ dự phòng tài chính một cách hợp lý.
Hai là, quản lý có hiệu quả và giảm thiểu chi phí HTK. Dự trữ HTK trong doanh
nghiệp với mức hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng HTK hay thiếu hụt gây ra gián đoạn.
Ngoài ra cần tính toán chính xác chu kỳ HTK, kết hợp với chi phí lưu trữ và đặc điểm
kinh doanh của doanh nghiệp để sắp xếp và có những điều chỉnh kịp thời, hợp lý, tiết
kiệm và hiệu quả. Đồng thời doanh nghiệp cũng có thể thực hiện phòng ngừa rủi ro thông
qua lập dự phòng giảm giá HTK, mua bảo hiểm hàng hoá.
Đó là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế các doanh nghiệp có điều kiện riêng, môi trường
kinh doanh riêng cũng như lĩnh vực hoạt động riêng biệt. Vấn đề này đặt ra cho công tác
quản lý phải thật sự linh hoạt và sáng tạo thì mới có thể giúp doanh nghiệp đạt được mục


tiêu đã đặt ra là sử dụng VLĐ hiệu quả, qua đó góp phần nâng cao nguồn lợi nhuận thu
được.

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VLĐ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THƯƠNG MẠI SƠN VIỆT
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần đầu tư xây dựng thương mại Sơn Việt
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần đầu tư xây dựng thương mại
Sơn Việt
Tên công ty viết bằng tiếng việt: Công ty cổ phần đầu tư xây dựng thương mại Sơn Việt



Tên công ty viết bằng tiếng nước ngoài: SON VIET TRADING CONSTRUCTION
INVESTMENT JOINT STOCK COMPANY
Vốn điều lệ : 8.500.000.000 đ
Mệnh giá cổ phiếu : 10.000 đồng
Số cổ phần đã đăng ký mua : 850.000 cổ phần
Trụ sở chính : Số nhà 1, ngách 20, đường Nguyễn Chí Thanh, phường Láng Hạ, Quận
Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Giấy chứng nhận ĐKKD : Số 0102982732 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội
cấp ngày 20 tháng 10 năm 2008
Điện thoại : 043.773.8021
Fax: 043.773.8021
E-mail :
- Với sự giúp đỡ của UBND thành phố Hà Nội và Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố
Hà Nội, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng thương mại Sơn Việt được thành lập theo Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0102982732 được ký ngày 20 tháng 10 năm 2008 Người đại diện theo pháp luật của công ty là Phạm Gia Định - Chức vụ: Giám đốc của
công ty cổ phần đầu tư xây dựng thương mại Sơn Việt
- Năm 2008, khi công ty mới được thành lập và đi vào hoạt động, do nguồn vốn
kinh doanh còn hạn chế, công ty phải thuê địa điểm hoạt động và quy mô nhỏ, số lượng
công nhân viên còn ít.
- Do sự năng động, sáng tạo và nắm bắt đúng cơ hội kinh doanh, Ban giám đốc công
ty đã quyết định đầu tư và mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo công ăn
việc làm cho hàng trăm lao động.
- Do xác định đúng hướng phát triển, công ty đã không ngừng đẩy mạnh sự phát
triển cùng xã hội, sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường, và trải qua nhiều khó khăn để tự
khẳng định mình hoà nhập với nền kinh tế thị trường nhằm mang lại lợi ích tốt cho công
ty...vì vậy mà lĩnh vực hoạt động của công ty ngày càng được mở rộng và gây dựng được



×