Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quan ly MN MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC DINH DƯỠNG VÀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN NGA SƠN
= = = = = = *0* = = = = = =

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC DINH DƯỠNG VÀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
CHO TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA AN”

Người thực hiện
: Mai Thị Thúy
Chức vụ
: P. Hiệu trưởng
Đơn vị công tác
: Trường mầm non Nga An
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THANH HÓA, NĂM 2015
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1


Như chúng ta đã biết, trong công cuộc xây dựng đất nước nói chung và
xây dựng chiến lược con người nói riêng. Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến
sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Sự quan tâm đó đã được thể chế
hóa bằng các văn bản pháp luật, các chỉ thị, các qui định và các qui ước rất cụ
thể: Luật giáo dục năm 2005 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
khẳng định “ Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo là cấp học thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân. Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi”. Chính vì lẽ đó mà xã hội quan


tâm chăm sóc trẻ có một nhân cách tốt, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hồn nhiên, cơ
thể phát triển hài hòa cân đối. Trẻ khỏe mạnh và thông minh là niềm hạnh phúc
của gia đình là sự phồn vinh của đất nước. Muốn trẻ khỏe mạnh và thông minh
thì vấn đề dinh dưỡng phải hợp lý, chăm sóc - nuôi dưỡng phải có khoa học đây
là một việc làm không thể thiếu được, là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và
toàn xã hội..Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về thể
lực và trí tuệ. Thiếu dinh dưỡng trẻ sẽ trở thành một gánh nặng của mỗi gia đình
và của toàn xã hội, ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong tương lai của đất nước.
Vì vậy vấn đề chăm sóc- nuôi dưỡng trẻ ở trong trường mầm non là một vấn đề
hết sức quan trọng. Trường mầm non là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn
non nớt, chưa chủ động, ý thức được đầy đủ về giáo dục dinh dưỡng, mặc dù
nhà trường cũng như các giáo viên đã rất chú trọng đến bữa ăn cho trẻ, luôn đảm
bảo cung cấp đầy đủ năng lượng theo nhu cầu cơ thể trẻ. Công tác tuyên truyền
giáo dục các bậc cha mẹ đã được thực hiện tương đối có hiệu quả.Tuy nhiên
trong các bữa ăn ở trường có nhiều trẻ vẫn còn có cảm giác chán ăn, thích ăn
thức ăn này, không thích thức ăn kia. Mặt khác, một số giáo viên kiến thức về
dinh dưỡng,lồng ghép giáo dục dinh dưỡng và VSATTP còn hạn chế. Là một
quản lý chuyên môn về chăm sóc- nuôi dưỡng, tôi luôn chú trọng, quan tâm sâu
sắc đến công tác chăm sóc- nuôi dưỡng cho trẻ. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng đối với trách nhiệm của bản thân.
Muốn nâng cao chất lượng dinh dưỡng cho trẻ thì bộ phận nuôi dưỡng
phải được xây dựng theo khẩu phần thực đơn, các món ăn thường xuyên được
thay đổi, thực phẩm chế biến cần phải tươi, sống, rõ nguồn gốc, không có chất
bảo quản…để trẻ ăn ngon miệng, tăng sự tiêu hoá, hấp thu giúp trẻ phát triển tốt,
giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, phòng chống các bệnh dịch. Từ những quan
điểm trên và qua thực tế tìm hiểu thực trạng chất lượng giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm trường mầm non cho thấy trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của giáo viên dinh dưỡng còn nhiều hạn chế trong công tác chế biến
món ăn, lựa chọn thực phẩm, thực hiện công tác vệ sinh trong khi chế biến, việc
bảo quản thực phẩm, vệ sinh dụng cụ ăn uống trong bếp ăn bán trú nhà trường.

Đứng trước những vấn đề trên, bản thân tôi thực sự băn khoăn, trăn trở trong các
bữa ăn hàng ngày của trẻ, Làm sao để trẻ ăn không kiêng khem, trẻ ăn hết suất
của mình một cách ngon miêng, không cần thúc ép trẻ ăn. Do vậy tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng

2


và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non Nga An” làm sáng
kiến năm học: 2014 - 2015.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Dinh dưỡng là nhu cầu sống hàng ngày của con người, đặc biệt là trẻ em
cần dinh dưỡng để phát triển thể lực và trí tuệ, con người lớn lên cần dinh dưỡng
để duy trì sự sống và làm việc, hay nói cách khác dinh dưỡng quyết định sự tồn
tại và phát triển của cơ thể mà đặc trưng cơ bản của sự sống là sinh trưởng, phát
triển, sinh sản, cảm ứng, vận động, trao đổi chất và năng lượng. Khoa học dinh
dưỡng cho chúng ta biết: Thức ăn, các chất dinh dưỡng làm vật liệu xây dựng cơ
thể con người, các vật liệu này không phải thường xuyên được đổi mới và thay
thế thông qua quá trình hấp thụ và chuyển hóa các chất trong cơ thể. Ngược lại:
Khi cơ thể không được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ không thể phát
triển bình thường và đó là nguyên nhân gây ra bệnh tật như: Suy dinh dưỡng, còi
xương, thiếu máu do sắt,… thiếu sức đề kháng các bênh dịch. Theo nghiên cứu
của Viện dinh dưỡng thì ăn uống có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe trẻ. Trẻ
được nuôi dưỡng tốt, ăn uống đầy đủ thì da dẻ hồng hào, thịt chắc nịch và cân
nặng, chiều cao đảm bảo. Sự ăn uống không điều độ sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu
hóa của trẻ. Vì vậy muốn khỏe mạnh cần được ăn uống hợp lý và đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm. Do đó bữa ăn đối với con người rất quan trọng.
Bên cạnh đó căn bệnh béo phì ở trẻ có xu hướng gia tăng ở khu vực nông
thôn chúng ta, đây cũng là mối quan tâm của nhiều gia gia đình và nhà trường

nhất là lứa tuổi mầm non. Vì trẻ mầm non lúc này nhu cầu dinh dưỡng của trẻ
rất lớn, nếu chúng ta không có khẩu phần dinh dưỡng thích hợp thì dẫn đến trẻ
bị béo phì ở trẻ. Phải tuyên truyền và phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ
huynh về công tác chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng trẻ.
II. THỰC TRẠNG
1.Thuận lợi:
Nhà trường luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo sâu sát, mua
sắm một số đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho việc chế biến thực phẩm và nấu
ăn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Ban giám hiệu nhà trường lãnh đạo toàn diện, chú trọng công tác nâng cao
chất lượng nuôi dưỡng và đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng phù hợp từng độ tuổi
cho trẻ.
Bản thân, tôi được Ban giám hiệu phân công phụ trách chuyên môn chăm
sóc- nuôi dưỡng nên tôi không ngừng học hỏi, tìm tòi, chỉ đạo nhân viên chế
biến những món ăn giàu chất dinh dưỡng, phù hợp với từng độ tuổi.
Được sự ủng hộ của phụ huynh học sinh trong việc quan tâm, chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ và thường xuyên cung cấp thực phẩm sạch giàu chất dinh dưỡng.
Vậy nên tổ dinh dưỡng chúng tôi rất tiện lợi trong khâu hợp đồng lương thực,
thực phẩm tươi ngon đảm bảo chất lượng do chính cha mẹ các cháu làm ra.

3


2. Khó khăn:
Tuy nhiên, ngoài những thuận lợi trên thì tôi cũng gặp không ít khó khăn.
Bếp ăn chưa đạt chuẩn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đồ dùng phục vụ nấu
ăn còn hạn chế như: chưa có máy xay sinh tố, thiếu chõ đồ xôi, xoong to, bát,
thìa, xô, chậu, giá để bát đĩa,..
Điều kiện để nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn.
Cô nuôi đã được đào tạo nhưng mới có bằng Sơ cấp.

Giáo viên khi cho trẻ ăn chưa khích lệ giới thiệu món ăn trước khi trẻ ăn để
gây phấn khích cho trẻ trong khi ăn.
Trường thuộc khu vực nông thôn, các bậc phụ huynh trong trường đều xuất
phát từ nhà nông, nên điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, mức đóng góp
tiền ăn của các cháu chỉ mới 12. 000 đ/ cháu/ ngày.
Đầu năm học số trẻ suy dinh dưỡng cao do dịp nghỉ hè đa số các cháu mẫu
giáo nghỉ ở nhà, chế độ ăn ngủ không cân đối, không đúng giờ giấc…
* Kết quả của thực trạng.
Từ đầu năm học 2014-2015 Tôi đã thực nghiệm khảo sát, theo dõi số trẻ ăn
ở 9 nhóm lớp với tổng số cháu ăn là 258 cháu và được đánh giá theo các tiêu chí
sau:
STT
Tiêu chí đánh giá
Số trẻ
Tỷ lệ %
1

Số trẻ ăn ngon miệng, hết suất

212

82.2%

2

Số trẻ lười ăn thịt

47

18.6%


3

Số trẻ không ăn rau và hành

55

21.3%

4

Số trẻ không ăn hết suất của mình

49

20%

5

Số trẻ không thích chất tanh như: cá, tôm,..

57

22.1%

6

Số trẻ không thích ăn cháo

48


18.6%

Qua thực trạng trên thì lần khám sức khỏe ở đầu năm học tôi thấy tỷ lệ
suy dinh dưỡng ở trẻ còn quá cao so với yêu cầu.
Tổng cháu ăn: 258 cháu
Cân nặng
Chiều cao
Kênh bình thường Kênh SDD
Kênh bình thường Kênh thấp còi
Số trẻ
Tỉ lệ % Số trẻ
Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ %
Số trẻ
Tỉ lệ %
221
85.6
37
14.4
219
84.9
39
15.1
Vì vậy nên tôi đã có những biện pháp để nâng cao chất lượng bữa ăn cho
trẻ để đảm bảo sức khỏe và sự phát triển của trẻ.

4


III. GIẢI PHÁT VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Tăng cường công tác quản lý chỉ đạo và thực hiện nghiêm túc
chuyên đề “ Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn
thực phẩm” trong trường mầm non Nga An.
Thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh an
toàn thực phẩm, các công văn hướng dẫn nhiệm vụ của Phòng Giáo dục và Đào
tạo và của ngành học Mầm non về các hoạt động nuôi dưỡng và chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục trẻ. Làm tốt công tác phân công phân nhiệm, thực hiện có hiệu
quả việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ đề ra các chỉ tiêu cần đạt về số
lượng, chất lượng, nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Xây dựng kế hoạnh chỉ
đạo tốt các hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Vào đầu năm học tôi
đã tham mưu với đồng chí Hiệu trưởng nhà trường tổ chức họp Ban lãnh đạo
nhà trường và Ban đại diện cha mẹ trẻ thống nhất về chế độ ăn uống, xây dựng
thực đơn. Sau đó mời các nhà cung cấp thực phẩm ( Cá, tôm, cua, rau, thịt, gạo,
trứng, sữa gà, lươn..) về ký hợp đồng. Nguồn thực phẩm cung cấp phải đủ về số
lượng, đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả hợp lý theo thị
trường địa phương. Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất đồ dùng, thiết bị
cho việc tổ chức nuôi dưỡng và chăm sóc giáo dục trẻ. Đưa nội dung vệ sinh
dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm vào chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ mầm non, tăng cường giám sát công tác vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn
thực phẩm nói riêng.
Về chất lượng giáo dục: Chỉ đạo các lớp thực hiện đúng quy chế nuôi
dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ
huynh về công tác thực hiện chuyên đề. Đối với nhân viên nấu ăn phải kiểm tra
sức khỏe 2 lần/năm (6 tháng/1 lần). Trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ
phải đảm bảo vệ sinh cá nhân. Hàng ngày trước khi bếp hoạt động, nhà trường
có kế hoạch phân công cụ thể nhân viên nuôi dưỡng thay phiên nhau làm thông
thoáng phòng cho khí lưu thông, kiểm tra hệ thống điện, nước, chất đốt trước
khi hoạt động.
Thực hiện tốt các biện pháp phòng nhiễm bẩn vệ sinh an toàn thực phẩm,
vệ sinh nơi chế biến. Nhà bếp luôn luôn sạch sẽ, không để bụi bẩn, có đủ dụng

cụ cho nhà bếp chế biến và đồ dùng ăn uống cho trẻ. Ngoài ra trong nhà bếp có
bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm, 10 lời
khuyên dinh dưỡng hợp lý cho mọi người thực hiện. Phân công cụ thể ở các
khâu: Chế biến theo thực đơn, theo số lượng trẻ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và
hợp vệ sinh. Ngoài công tác vệ sinh hàng ngày, định kỳ hàng tháng phải tổng vệ
sinh xung quanh nhà bếp, vệ sinh bếp, dụng cụ nhà bếp, dụng cụ ăn uống nơi sơ
chế thực phẩm sống, khu chế biến thực phẩm chín... Nhà trường phối hợp cùng
với Công đoàn tổ chức trồng rau xanh cung cấp cho bếp ăn của trẻ, góp phần
cung cấp dinh dưỡng và cải thiện bữa ăn cho trẻ luôn đảm bảo vệ sinh và an toàn
thực phẩm.

5


( Hình ảnh: Giáo viên trường mầm non Nga An chăm sóc vườn rau sạch)

Tổ chức cho nhân viên nhà bếp thi “Chế biến món ăn” vào tháng 12/2014.

2. Chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng cho trẻ ở trường
mầm non Nga An.
2.1. Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn phù hợp với lứa tuổi và
tình hình thực tế cho trẻ ăn bán trú tại trường mầm non Nga An - Nga Sơn.
Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho trẻ là một việc làm mang tính
chất khoa học, nó nhằm mục đích sử dụng tiền ăn với chất lượng cao. Khi tiền
ăn được phân phối hợp lý sẽ tránh được sự chi tiêu không hợp lý, giảm tối đa sự
thâm thừa tiền trong ngày. Có thể ví việc xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn
6


như thiết kế một công trình, nguyên liệu càng dự trù kỹ bao nhiêu càng tốt cho

công trình và tránh được lãng phí bấy nhiêu, giúp cho người quản lý càng kiểm
soát dễ dàng chính xác. Việc xây dựng, thực đơn, tính khẩu phần ăn là một biện
pháp thể hiện tính hậu quả và tiết kiệm trong quản lý. Vì vậy, là một phó hiệu
trưởng phụ trách nuôi dưỡng tôi luôn tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực của
mình, đồng thời bồi dưỡng cho giáo viên nuôi dưỡng nắm chắc kiến thức
chuyên môn đặc biệt là cách xây dựng thực đơn, lựa chọn thực phẩm và cách
chế biến món ăn cho trẻ.
Xây dựng thực đơn và tính khẩu phần ăn cho các cháu trong nhà trường trở
thành việc làm quen thuộc có tính bắt buộc, Tham mưu với Hiệu trưởng để thực
hiện và tổ chức tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ phận trong tổ nuôi và với
các nhóm, lớp nhằm hỗ trợ cho việc xây dựng thực đơn, kiểm tra giám sát việc
thực hiện thực đơn và đảm bảo khẩu phần ăn của trẻ. Để có thực đơn đa dạng,
phong phú bộ phận nuôi dưỡng phải biết lựa chọn thực phẩm sẵn có ở địa
phương, thực phẩm theo mùa, không lặp lại thực đơn trong tuần, lựa chọn món
ăn bỗ dưỡng thích hợp với trẻ đảm bảo chất lượng tươi ngon. Tuy mức ăn của
trẻ do phụ huynh đóng góp mới chỉ 13.000đ nhưng tôi vận dụng khéo léo tỷ lệ
cho phép theo khuyến nghị cùa Bộ Y tế Viện dinh dưỡng. Năng lượng Calo cần
đạt theo mức tối thiểu: Nhà trẻ: 1180Kcalo/ngày; Mẫu giáo: 1470 Kcalo/ngày và
đảm bảo năng lượng khẩu phần ăn tại trường là 70% năng lượng Calo/ngày/trẻ
nhà trẻ = 826 Kcalo/ngày/trẻ đảm bảo năng lượng khẩu phần ăn tại trường là
60% năng lượng Calo/ngày/trẻ nhà trẻ = 882 Kcalo/ngày/trẻ. Cơ cấu năng
lượng đối với cháu nhà trẻ là: P: 12-15%; L: 35-40%; G: 45-53%. Cơ cấu năng
lượng đối với cháu mẫu giáo là: P: 12-15%; L: 20-30%; G: 55- 68%. Từ đó tôi
đã tính khẩu phần ăn áp dụng theo tình tự các bước sau:
Bước 1: Xác định năng lượng (N) Calo cần đạt cả ngày cho 1 trẻ.
Năng lượng calo cần đạt theo thông tư 17/2009/TT- BGD ( mức trung bình) nhà
trường Nga An xác định. Nhà trẻ : 1180 calo; Mẫu giáo: 1470 calo.
Bước 2: Xác định tỷ lệ % N Calo cần đạt tại trường cho 1 trẻ.
Tỷ lệ % này tuỳ từng trường lựa chọn có thể (50% hoặc 60%; 70% vv…)
Ví dụ: N đối với trường cần đạt tại trường 70%/trẻ/ngày cháu nhà trẻ,

60%/trẻ/ngày/ cháu mẫu giáo.
=> NT: 1180 x 70% = 826 Calo; MG: 1470 x 60% = 882 Calo/trẻ/ngày.
Trong đề tài này tôi lựa chọn năng lượng cần đạt tại trường
70%/ngày/trẻ.đối với cháu nhà trẻ. 60% /ngày/trẻ/ đối với các cháu mẫu giáo.
Bước 3: Xác định số gam do P; L; G cung cấp cho 1trẻ/ngày tại trường.
(Tỷ lệ % này tuỳ từng trường lựa chọn sao cho tổng P; L; G = 100%).
Trong đề tài này tôi lựa chọn P = 15%, L = 35%, G = 50%. Đối với cháu nhà
trẻ; P = 15%, L = 25%, G = 65%. Đối với cháu mẫu giáo.
Ví dụ:
- Nhà trẻ: P = 826 calo x 15% : 4 = 31 gam (g), (P chia cho "4" vì khi tiêu
hoá 100 gam P trong cơ thể thì cung cấp cho ta 4 Kcalo năng lượng);

7


L = 826 x 35% : 9 = 32g, G = 826 x 50% : 4 = 103.2g (L chia cho "9"; G chia
cho "4" cơ sở lý luận tương tự)
- Mẫu giáo: P = 882 calo x 15% : 4 = 33.07g, L = 882 x 25% : 9 = 24.5g,
G = 882 x 65% : 4 = 143.32g.
Trong quá trình nấu và tổ chức cho trẻ ăn hao hụt 10% vì vậy tổng số gam
do P; L; G cần đạt cho trẻ/ngày tại trường cụ thể như sau: => NT: Po = 31 gam;
Lo = 32 gam; Go = 103.9 gam. MG: Po = 33.07 gam; Lo = 24.5 gam; Go =
143.32 gam.
Bước 4: Xác định thực đơn ( món ăn trong ngày, tuần, mùa)
Lựa chọn thực phẩm theo thực đơn của trẻ NT và MG riêng. Tách thực
phẩm có nguồn gốc từ động vật và thực vật riêng để tính định lượng số gam do
Prôtêin, Lipít có nguồn gốc từ động vật và thực vật riêng sao cho đảm bảo số
gam giữa động vật và thực vật cân đối 50 - 50% theo qui định của ngành.
Bước 5: Tính định lượng khẩu phần ăn cho trẻ.
* Theo qui trình như việc cân đối 50% thành phần các chất dinh dưỡng do

P và L có nguồn gốc từ động vật và thực vật cung cấp sẽ rất khó khăn. Để dễ
dàng trong việc cân đối tôi tìm ra cách tính ngược lại qui trình đó là:
Sau khi xác định được khẩu phần ăn cho 1 trẻ nhà trẻ hoặc 1 trẻ mẫu
giáo/ngày rồi thì tuỳ thuộc số cháu ăn cả ngày đó/trường là bao nhiêu chúng ta
chỉ thực hiện nhân 1 trẻ với tổng số cháu ăn trong ngày sẽ được số lượng cụ thể
cho từng loại thực phẩm giúp cho người đi chợ hoặc người tiếp phẩm có số
lượng chính xác để tổ chức sơ chế và nấu ăn cho trẻ đảm bảo một cách tuyệt đối,
chống thất thoát, dư thừa hoặc chi âm tiền ăn của trẻ.
Ví dụ: Tính thực đơn tổng hợp theo ngày ( tờ đính kèm trang sau sáng
kiến)
* Như vậy: Với cách tính thực đơn tổng hợp theo ngày của trẻ nhà trẻ và
mẫu giáo sẽ đảm bảo định lượng kcalo trong ngày ở trường là: 826 kcalo đối với
cháu nhà trẻ và 882 Kcalo đối cháu mẫu giáo sẽ đảm bảo định lượng theo viện
dinh dưỡng qui định.
2.2. Hợp đồng, lựa chọn, chế biến thực phẩm an toàn đảm bảo vệ sinh.
* Hợp đồng thực phẩm:
Để đảm bảo các nguyên tắc Về vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngay từ đầu
năm học nhà trường đã lựa chọn các nhà cung cấp thực phẩm có nguồn gốc rõ
ràng đã được cấp giấy chứng nhận đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như: Nhà
cung cấp thịt, bún bánh, rau củ quả... Sau khi được ban giám hiệu, hội cha mẹ
phụ huynh thống nhất, nhà trường đã xin ý kiến chỉ đạo của UBND xã và thống
nhất cho kế hoạch chỉ đạo ký kết giữa hai bên.
- Bằng biên bản hợp đồng giữa hai bên: bên bán và bên mua.
Bên mua: phải có lãnh đạo địa phương, y tế xã và Ban giám hiệu nhà trường
cùng ký kết với nhau. Bên bán phải có địa chỉ rõ ràng, giấy chứng minh thư
nhân dân, nội dung cam kết, trách nhiệm của mối hai bên phải cụ thể chi tiết.
Ví du:
Bên A - Bên A phải luôn thông báo trước về số lượng và chất lượng sản
phẩm cho bên B trước 01 ngày để bên B chuẩn bị;
8



- Nếu trường hợp bên A đã đặt hàng với bên B mà không lấy hàng vì một lý
do nào đấy thì phải thông báo lại kịp thời cho bên B. Nếu không bên A phải bồi
thường cho bên B 50% tổng giá trị số hàng mà bên A đã đặt.
Bên B - Cung cấp hàng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tươi sống,
nguồn gốc rõ ràng, phải được kiểm dịch Thú Y.
- Nếu trong điều kiện giá cả mặt hàng tăng đột biến thì bên B phải có sự
báo trước cho bên A và phải được sự chấp thuận của bên A. Thì số lượng hàng
nhập mới có giá trị thanh toán;
- Nếu hàng không đảm bảo mà xảy ra ngộ độc thực phẩm do nguyên liệu
thì bên B phải hoàn toàn chịu trách nhiệm;
- Khi giao nhập hàng cho bên A bên B phải có hoá đơn bán lẻ hoặc giấy
giao hàng ghi đúng số lượng hàng, giá cả và bên A kiểm tra trước khi nhập hàng
vào về chất lượng, quy cách.
Ngoài ra, để có thực phẩm tốt chúng ta phải lựa chọn những thực phẩm ở
hộ gia đình, bên cạnh đó chúng tôi khuyến khích cán bộ giáo viên, nhân viên
trong nhà trường trồng rau, củ quả cung cấp cho nhà trường, các cửa hàng tin
cậy có ký kết hợp đồng chặt chẽ để đảm bảo sức khỏe cho các cháu trong trường
mầm non.
* Lựa chọn thực phẩm:
Mặc dù nhà trường đã làm tốt công tác hợp đồng thực phẩm nhưng vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm hiện nay là vấn đề bức xúc nhất trong toàn xã hội do
thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, chưa có qui định trách nhiệm nghiêm ngặt nên thực
phẩm kém chất lượng hoặc có nhiều hoá chất vẫn còn tràn lan trên thị trường mà
mắt thường không thấy được, chỉ khi chế biến, hoặc xảy ra ngộ độc mới biết
được. Vì vậy, để giảm tối đa những trường hợp đáng tiếc xảy ra ngoài việc tổ
chức cho cán bộ giáo viên học các lớp chuyên đề do Phòng giáo dục tổ chức.
Tôi còn chỉ đạo giáo viên cần chú trọng vấn đề lựa chọn thực phẩm tươi ngon
bằng kinh nghiệm và qua quan sát bằng mắt thường. Đặc biệt là trong khi tiếp

nhận thực phẩm
Ví dụ:
- Lựa chọn các thịt gia súc, gia cầm như: Thịt gà, thịt lợn, thịt bò,…:
+ Đối với thịt lợn: chúng ta cần lựa chọn những chủ cửa hàng tin cậy, uy
tín, chọn thịt có mỡ mầu trắng tinh và thịt nạc có màu đỏ tươi hoặc không có
màu lạ khác, bề mặt của thịt phải khô không nhớt, độ đàn hồi cao, mùi thơm tự
nhiên, không có mùi hôi. Tránh mua phải những loại thịt mắc bệnh như: Tụ
huyết trùng, thịt có bì quá dầy,…
+ Đối với thịt gà: Ta chọn những cửa hàng uy tín, chọn thịt mền dẻo, thớ
thịt săn chắc, đầu sườn có màu trắng hồng, da thịt mỏng có màu vàng tự nhiên
không có nốt thâm tím ở ngoài da.
+ Đối với thịt bò: Ta nên chọn thịt có màu đỏ tươi, mỡ màu vàng nhạt,
thớ thịt nhỏ săn chắc, mềm dẻo có mùi thơm đặc trưng.
- Đối với các loại hải sản như: Tôm, cua, cá,…rất tốt cho con người
chúng ta và đặc biệt là trẻ thơ vì nó cung cấp can xi, chất đạm làm cho xương
của trẻ chắc khỏe hơn và không bị bệnh còi xương.
9


+ Đối với Tôm: Chúng ta nên chọn những con còn sống, mình của tôm
phải trắng trong khi sơ chế phải làm sạch, bóc vỏ, đầu. Đầu và râu tôm dùng để
nấu canh.
+ Đối với cá: Ta nên chọn những con cá bơi khoẻ, còn vẩy không bị chảy
sước. Khi sơ chế chúng ta chúng ta nên đập chết cá và đem rửa sạch, đánh vẩy
cho nồi luộc sau đó gỡ bỏ xương, sau đó phần đầu và phần xương dã nhỏ lọc lấy
nước nấu canh, nấu dấm.
Ngoài việc lựa chọn các thực phẩm cung cấp chất đạm chúng ta còn phải
lựa chọn những thực phẩm cung cấp chất Vitamin và các khoáng chất như: rau,
củ, quả.
+ Đối với rau: Chúng ta cần hợp đồng với các hộ gia đình chuyên trồng

rau, củ sạch: chọn rau, củ phải tươi ngon, không bị dập nát và úa vàng.
Chúng tôi còn tăng gia trồng rau tại trường để phục vụ nấu ăn cho trẻ bảo
đảm 100% vệ sinh an toàn thực phẩm.
+ Đối với hạt, quả: khi mua chúng ta cần phải loại bỏ thực phẩm mốc,
mọt. Nhất là khi chọn gạo, lạc, vừng, nên chọn những loại gạo ngon, không có
mẩy trấu, không có sạn, không có mọt, không có mùi hôi, không bị mốc,…
+ Đối với bún và bánh phở tươi: cần chọn nhà cung cấp có uy tín và tin
cậy, cam kết không có chất bảo quản, hàn the, bánh phở không có mùi chua,…
+ Đối với thực phẩm làm gia vị: như nước mắm, dầu,…khi mua chúng ta
nên chú ý đến hãng sản xuất có thương hiệu và thời hạn sử dụng của sản phẩm
để đảm bảo được an toàn.

( Hình ảnh: Giao nhận thực phẩm từ nhà cung cấp)
Từ đó mà chúng ta thấy được tầm quan trọng của việc lựa chọn thực
phẩm đảm bảo vệ sinh và phù hợp với các cháu mầm non. Nếu chúng ta lựa
10


chọn những thực phẩm không đảm bảo vệ sinh, tươi ngon thì bữa ăn của trẻ
không mang lại giá trị dinh dưỡng cao và ăn không ngon miệng.
* Cách chế biến thực phẩm:
Để giúp cho nhân viên bếp chế biến các món ăn cho trẻ phù hợp với từng độ tuổi
đảm bảo cho quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng để nuôi sống cơ thể, ở đây
việc chế biến các món ăn cho trẻ Mầm non, đòi hỏi cô nuôi phải hiểu rõ nhu cầu
dinh dưỡng của từng độ tuổi để có thể đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ
một cách phù hợp, giúp trẻ phát triển thể chất tốt nhất thì nhu cầu của trẻ là:
Cần xây dựng thực đơn thường xuyên phối hợp các loại thực phẩm với
nhau để cung cấp đủ các chất dinh dưỡng cho trẻ, đồng thời kết hợp các thực
phẩm gây hứng thú cho trẻ, trẻ nhìn thấy hấp dẫn, đẹp mắt, trẻ sẽ rất thích ăn.
Với trách nhiệm là P. Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn nuôi dưỡng tôi

luôn nhắc nhở chị em trong tổ nuôi luôn coi trọng công tác chế biến món ăn cho
trẻ sao cho phù hợp với trẻ. Khi chế biến các thực phẩm như rau, củ, quả chúng
tôi phải thái như hình hạt lựu để trẻ dễ ăn.
Khi chế biến chúng ta cần chú ý thực phẩm gần chín thì chúng ta mới
được cho gia vị, nếu cho sớm thì mất tác dụng của muối I ốt, nếu thực phẩm mà
để chín quá cũng không tốt sẽ mất hết các Vitamin chứa trong rau, củ, quả, thức
ăn chín quá cũng dễ có mùi nồng làm cho trẻ khó ăn, dẫn đến trẻ ăn không ngon
miệng và hết suất, chất dinh dưỡng trong thức ăn giảm. Các thực phẩm rau, củ,
quả trước khi nấu chúng ta xào sẽ làm cho rau, củ, quả mềm ra giúp trẻ dễ ăn
hơn.

(Hình ảnh: Hội thảo về nội dung GDDD và VSATTP ở trường mầm non)
Với thực phẩm là thịt tôi chỉ đạo chế biến ra nhiều món ăn khác nhau như:
thịt đúc trứng, thịt rim tôm, thịt xào cà chua, giá đỗ, thịt xào miến,…
11


Ví dụ: Bữa trưa:
-

Cơm
Thịt đúc trứng
Muối lạc
Canh khoai tây, cà rốt nấu thịt

Bữa chiều:
- Bánh bao
- Sữa đậu nành.
+ Để chế biến được món: Cơm, Thịt đúc trứng thì tôi cần sử dụng nguyên
liệu sau: Thịt lợn, trứng vịt, nấm hương, mộc nhĩ, dầu thực vật, bột canh, nước

mắm, hạt nêm,…
Trước khi bắt tay vào chế biến ta đem các thực phẩm đó rửa sạch rồi sơ
chế: thịt thái miếng nhỏ và bỏ vào máy xay- xay nhỏ rồi tẩm ướt gia vị.
Trứng đập bỏ vỏ và trộn thịt với trứng.
Nấm hương, mộc nhĩ đem ngâm nước ấm rồi rửa sạch, xay nhỏ bỏ vào
thịt trứng rồi khuấy đều.
Lấy chảo bắt lên bếp đun nóng cháo đổ dầu vào đun sôi rồi đổ thịt trứng
và rán, khi nhìn thấy bề mặt trứng vàng thì ta lật mặt bên kia và rán vàng là ra
Để món ăn thêm phần hấp dẫn và để dễ ăn Tôi đã chế biến thêm nước sốt
để rưới lên mặt của thịt trứng giúp trẻ ăn ngon miệng và dễ ăn.
+ Với món khoai tây, cà rốt nấu thịt. Tôi chọn các thực phẩm sau: Thịt
lợn, khoai tây, cà rốt, cà chua,…
Ta đem những thực phẩm đã lựa chọn rửa sạch và sơ chế: thịt thái nhỏ
đem xay, khoai tây, cà rốt thái hạt lựu với kích thước khoảng 1cm rồi đem tẩm
ướt gia vị rồi cho vào xoong xào cho khoại và cà rốt mềm và ngấm gia vị.
Cà chua thái nhỏ và đổ dầu vào đun lên mầu rồi thôi.
Tiếp theo đun nước sôi sau đó khuấy thịt đã xay vào xoong và đun đến
khi sôi, đỏ cà chua và khoai tây, cà rốt vào nồi thịt đã đun cho đến khi thực
phẩm chín, nêm gia vị cho vừa rồi bỏ hành, mùi tàu vào rồi bắc ra.
- Bánh bao: Với món bánh bao thì tôi cần những nguyên liệu sau: Thịt
lợn, miến, nấm hương, bột mỳ, trứng cút,…Giống như các món ăn trên đầu tên
tôi đem các thực phẩm rửa sạch, nấm hương,mộc nhĩ, miến rửa sạch đem ngâm
rồi thái hoặc xay nhỏ. Trứng cút rửa sạch rồi cho vào nồi luộc bỏ vỏ.
Tôi trộn bột mỳ với một chút bột nở, dầu, đường đều lên sau cho nước
vào và nhào đều đến khi thấy bột mềm dẻo không dính tay là được sau đó cho
vào ủ khoảng 1-2 giờ là được.
Bỏ thịt, miến, nấm hương, mọc nhĩ vào xào cho chín và ngấm gia vị cho
hành, mùi tàu và bắt ra.
Lấy bột ra chia nhỏ sau đó dàn đều bột ra cho thịt, miến, nấm hương, mọc
nhĩ, trứng cút vào và xoáy miệng vào là tôi đã được một cái bánh bao rồi.

Để bánh bao ăn ngon và không bị khô tôi đã cho trẻ uống thêm cốc sữa
đậu nành để giúp trẻ ăn ngon, dễ ăn và lại rất tốt cho sức khoẻ.

12


Chế biến món ăn ngon miệng rồi chưa đủ, để giúp trẻ hôm nào cũng thích
thú với giờ ăn, ăn ngon miệng và hết suất thì tôi đã chỉ đạo nhân viên nhà bếp
thường xuyên thay đổi cách chế biến món ăn sao cho phù hợp với trẻ, tạo cảm
giác ngon miệng khi ăn.
Sau đây là các món ăn mà tổ nuôi dưỡng thường xuyên chế biến cho các
cháu tại trường mầm non nga An và tuyên truyền cho các bậc phụ huynh chế
biến cho trẻ ăn ở nhà như:
1. Món: Súp tôm bí đỏ món ăn ngon hấp dẫn giàu chất dinh dưỡng và
tốt cho hệ niễm dịch của trẻ mầm non.
* Nguyên liệu:
- Tôm sú tươi: 300g
- Hành tây: 2 miếng
- Bí đỏ: 400g
- Nước dùng gà: 300ml
- Bơ phê: 1 miếng
- Lá thơm: 1 cái
- Sữa tươi không đường: 250ml
- Ngò rí: 3 cây
- Dầu, hạt nêm, tiêu, kem tươi, hạt tiêu
* Cách làm:
Tôm bỏ vẻ, để lại 3 con nguyên, còn lại đập dập băm nhỏ, ướp với ½ muỗm
hạt nêm và một ít tiêu ngò sửa sạch, cắt nhỏ.
Phi thơm một miếng hành ướp với lá thơm, cho bí vào bơ rồi cho nước
dùng vào nấu đến khi bí mềm, cho 3 con tôm vào nấu chín, vớt lá thơm và tôm

ra xay nhuyễn bí hoặc tán mịn.
Phi thơm 1 miếng hành tây băm cho tôm vào xào sơ, trút ra đĩa.
Cho bí đã nghiềm và nước dùng vào nồi sôi, cho tôm vào, nêm ½ muỗm hạt
nêm, thêm sữa, bơ phê và kem tươi vào nêm vị vừa ăn.
Múc súp ra tô, trang trí với tôm luộc, thêm ngò cắt nhỏ và cho bé ăn nóng
với món ăn hấp dẫn này sẽ giúp bé ăn ngon miệng hơn.
2. Món: Chè đậu xanh nha đam giải nhiệt ngày nắng:
* Nguyên liệu: Để nấu chè đậu xanh nha đam cần chuẩn bị những nguyên
liệu sau đây:
- 300g nha đam
- 100g đậu xanh cả vỏ
- 200g đường kính
- Một chút muối
- 1 quả chanh
* Cách làm:
-Đậu xanh đem vo sạch rồi ngâm với nước ấm khoảng 1 giờ cho nở.
- Nha đam sửa sạch, cắt thành tầng từng miếng có chiều rộng chừng 1cm,
gọt bỏ hết sạch phần vỏ xanh và cắt thành hình hạt lựu kích thước khoảng 1cmx
0,5cm.
- Trong một tô, hòa nước cốt chanh với 1 lít nước lã, thả phần nha đam đã
cắt vào. Ngâm chừng 1 giờ.
- Nha đam sau khi ngâm xà sạch dưới vòi nước chảy mạnh sao cho nha
đam không còn nhớt nữa. sau đó để ráo nước.
13


- Ướp nha đam với 100g đường kính.
- Đậu xanh sau khi nở, cho vào nồi thêm 0.5 lít nước, thêm chút muối, ninh
nhừ. Đậu xanh đã nhừ, đổ phần đường còn lại vào khuấy đều cho đường tan hết.
- Trút phần nha đam đã ướp đường vào nồi chè đậu xanh.

- Hòa tan bột sắn dây với chút nước, sau đó từ từ đổ vào nồi chè đậu xanh
nha đam cho chè có độ sánh. Đợi sôi lại rồi tắt bếp, để nguội. Chè ăn kèm đá
bào hoặc ướp lạnh trước khi ăn.
Với món chè đậu xanh nha đam ngọt mát, khi ăn một miếng nha đam giòn
giòn, sựt sựt và mát lạnh rất dễ chịu!
3. Món: Món ngon cho bé ngày mưa: Canh bò hầm rau củ
Trong những ngày se lạnh, không gì tuyệt vời bằng bổ xung món ngon cho
bé, để bé thưởng thức, vừa thơm ngon, vừa rất dinh dưỡng.
* Nguyên liệu:
-500g thịt bò thăn ngon, 1 khúc xương ống bò để làm ngọt thịt
- Rau củ: 1 củ cà rốt, 1 củ khoai tây, 1 trái cà chua, 5 quả đậu bắp, rau húng
tây, hành lá. Tất cả rau củ đều rửa sạch, gọt vỏ, thái nhỏ.
- Gia vị: muối, dầu ăn, hạt tiêu
* Cách chế biến:
- Cà chua và đậu bắp rửa sạch, chần sơ qua nước sôi khoảng 30 giây cho
đậu bắp mềm sơ, cà chua bóc được lớp vỏ bên ngoài. Múc hỗn hợp để ra riêng.
- Cà chua và khoai tây thái nhỏ hạt lựu, vừa miệng ăn của trẻ, hành tây thái
mỏng.
- Thịt bò cắt thành những miếng vuông, nhỏ.
- Xào sơ qua thịt và xương với dầu ô liu cùng một số gia vị rồi đổ nước vào
đun sôi.
- Đợi khi nước sôi, vớt bọt thừa ra khỏi. Đây là bước quan trọng để canh
thịt hầm: món ngon cho bé được ngon hơn, nước trong hơn.
- Đậy nắp nồi lại, hầm kỹ khoảng 2 giờ đến khi thịt chín nhừ
- Cho hành tây vào phi với dầu ô liu ở chảo khác cho thơm rôi đưa cà chua,
cà rốt, khoai tây vào đảo cùng đến khi cà rốt và khoai tây hơi mềm.
- Khi nước dùng hầm thịt đã nhừ, cho các nguyên liệu vừa xào vào nồi,
nêm nếm gia vị, rau húng tây đun nhỏ lửa khoảng 30 phút nữa.
- Tắt lửa, cho đậu bắp vào nồi, nêm nếm hạt tiêu lần cuối.
- Múc thức ăn ra tô.

Qua các công đoạn chế biến khá công phu và mất thời gian nhưng nóm ăn
này mẹ và cô có thể có thêm món ngon cho bé là canh bò hầm rau củ, bổ xung
đầy đủ dưỡng chất giúp tăng đề kháng cho trẻ tốt nhất. Món canh giàu kẽm.
Vitamin không chỉ giúp trẻ ăn ngon miệng, còn có tác dụng phòng bệnh trong
những ngày lạnh rất hiệu quả.
14


4. Món: Canh cua mồng tơi
* Nguyên liệu:
- Cua đồng: 500g
- Rau mồng tơi: 2 bó
- Hành củ, hạt nêm, mỳ chính
* Cách làm: Rau mồng tơi lặt lấy lá non, bỏ cọng, rửa sạch, xắt ngắn.
Gỡ gạch cua bỏ vào chén, chuẩn bị hành tím bào.
Chuẩn bị 1lít nước, bỏ cua vào khuấy cho tan, lược bỏ xác cua.
Bắc lên bếp nấu lửa nhỏ, nước sôi cua sẽ nổi lên trên, vớt cua ra bỏ vào tô. Cho
mướp và rau mồng tơi vào, nước sôi, nêm cho vừa ăn.
Bắc chảo nóng, phi hành cho thơm, bỏ gạch cua vào xào.
Khi múc canh ra tô, để cua lên trên rồi thêm gạch cua đã xào vào.

* Kết quả: Qua việc chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc nâng cao chất
lượng dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm đã giúp cán bộ giáo viên chủ
động xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình, giáo viên nuôi dưỡng biết cách
xây dựng thực đơn, tính khẩu phần ăn, biết lựa chọn thức phẩm và biết cách chế
biến các món ăn phù hợp với trẻ ở trường mầm non, giúp trẻ ăn ngon miệng, ăn
hết suất, các cháu tăng cân, cháu khỏe mạnh, da dẻ hồng hào.
3. Chỉ đạo giáo viên lồng nghép, tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn phẩm cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày
15



Trong năm học 2014- 2015 tôi đã chỉ đạo 100% giáo viên chủ động xây
dựng kế hoạch lồng ghép các nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực
phẩm vào các chủ đề. Các thời điểm hoạt động trong ngày một cách nhẹ nhàng
linh hoạt, sáng tạo để giáo dục trẻ mà không làm ảnh hưởng đến nôi dung chính
cần chuyển tải đến trẻ.
* Lồng ghép vào các hoạt động học: Có một số hoạt động dễ dàng lồng ghép nội
dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhưng cũng có hoạt động
lồng ghép có cảm giác bị gò bó, lủng củng. Do vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên không nhất
thiết hoạt động nào cũng phải lồng ghép, tích hợp mà phải có sự lựa chọn cả về đề tài,
nội dung cũng như ở thời điểm nào là thích hợp. Vì thế tôi đã gợi ý cho giáo viên tổ
chức thực hiện cho từng lĩnh vực, từng hoạt động.
Ví dụ: Thông qua hoạt động Khám phá khoa học: Chủ đề về “Thế giới thực
vật” Đề tài: Tìm hiểu một số loại rau, củ, quả ( Lớp MG 5 - 6 tuổi )
Để cho hoạt động thêm phong phú và hấp dẫn tôi đã chỉ đạo giáo viên cho trẻ
đóng trong vai các loại rau, củ, quả, để tự giới thiệu về mình.
Tôi là “ Rau muống ” tôi mang trong mình rất nhiều chất vitamin và muối khoáng
các bạn có thể chế biến tôi thành nhiều món khác nhau : Xào. Luộc, nấu canh . ăn lẫu rất
là ngon tôi luôn hết mình phục vụ các bạn.
Hay: Với đề tài: Làm quen với một số con vật nuôi trong gia đình. Chủ đề “ Thế
giới động vật” Ngoài việc cung cấp những kiến thức cơ bản về tên gọi, đặc điểm, màu
sắc, ý nghĩa của chúng đối với sự phát triển của cơ thể con người để giúp trẻ củng cố
kiến thức và phân biệt được đâu là các nhóm thực phẩm tôi đã chỉ đạo giáo viên tổ chức
dưới dạng trò chơi “Vận chuyển thực phẩm về kho”
Chia các cháu ra nhiều nhóm, mỗi nhóm sẻ vận chuyển thực phẩm về kho theo
yêu cầu của cô.
Nhóm 1 : Vận chuyển thực phẩm giàu chất đạm.
Nhóm 2 : Vận chuyển thực phẩm giàu chất béo.
Nhóm 3 : Vận chuyển thực phẩm giàu chất vitamin và muối khoáng.


16


* Lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm vào hoạt động vui chơi.
Trong quá trình ở góc phân vai, tôi đã hướng dẫn giáo viên tạo tình hướng cho trẻ
được trao đổi, giao tiếp nhiều với nhau để chọn thực phẩm, chọn món để chế biến thực
phẩm từ các loại thực phẩm nào ? Các loại thực phẩm đó thuộc nhóm nào ? Quy trình
chế biến thực phẩm ra sao?
Ví dụ: Thay vì sửa các hành vi cho trẻ trong bữa ăn bằng câu nói “ Không được
bốc bằng tay” Trong khi chơi cô nói “ Bác gấu đang bị ho phải đi bệnh viện đấy, các
con có biết vì sao không, vì bác ăn cơm không xúc bằng thìa mà dùng tay để bốc thức
ăn đấy. Để không phải vào bệnh viện chúng ta phải giữ gìn sạch sẻ khi ăn cơm không
được dùng tay bốc mà cầm thìa để xúc cơm”
Đối với lớp 5 tuổi khi trẻ chơi trò chơi “ Bác cấp dưỡng ” Ta có thể thực hiện
bằng cách cùng đàm thoại với trẻ .
Bác bếp trưởng ơi ! Hôm nay các bác cho chúng tôi ăn những món ăn gì vậy ?
Những món ăn này được chế biến từ những loại thực phẩm nào ? Các loại thực phẩm
này cung cấp cho cơ thể mình những chất dinh dưỡng gì ?
Dần dần cháu thành thạo trong việc chọn mua thực phẩm, chọn món ăn, cách pha
chế, chế biến một số món ăn đơn giản và cũng nói được các nhóm thuộc thực phẩm
giàu chất gì. Tùy theo từng độ tuổi mà giáo viên lựa chọn phương pháp tổ chức cho phù
hợp. Đối với mẫu giáo bé việc tập làm cho trẻ cách pha chế sữa pha chế nước chanh thật
là khó nên trong quá trình chơi giáo viên phải hướng dẫn trẻ cùng tham gia chơi với trẻ.
Mặt khác để cho nội dung giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh ATTP được lồng ghép
vào hoạt động vui chơi có hiệu quả tôi đã chỉ đạo giáo viên các lớp mẫu giáo lồng ghép
bổ sung thêm đồ dùng đồ chơi phù liệu mới lạ phù hợp với chủ điểm của nhóm lớp
mình phụ trách.
Ví dụ: Bổ sung các loại rau, củ, quả, cho chủ đề thực vật ngoài ra còn sưu tầm

tranh ảnh mô hình bổ sung những con giống con rối làm bằng các nguyên vật liệu khác
về :Thế giới động vật” phù hợp để trải nghiệm.
*Thông qua bữa ăn :
Trẻ ăn uống cùng nhau là cơ hội thuận lợi để dạy trẻ hành vi văn minh, lịch sự
trong ăn uống hoặc ứng xử trong nhóm. Giáo viên có thể tạo nhiều tình huống trong bữa
ăn để trẻ biết mời cô, mời các bạn trước khi ăn cách sử dụng dụng cụ ăn uống. Nhận
biết thực phẩm trong ăn uống ăn phải từ tốn, không nhặt thức ăn rơi . Bên cạnh đó giới
thiệu các món ăn là một phương pháp hữu hiệu để chuyển tải nội dung giáo dục dinh
dưỡng đến với trẻ . Để có hiều quả cao tôi hướng dẫn cho giáo viên gợi ý đặt câu hỏi
đàm thoại với trẻ mọi thời điểm phù hợp.
Nội dung về vệ sinh ăn uống : Giáo viên nên trò chuyện trao đổi với trẻ về trước
bữa ăn. Hàng ngày trước khi ăn chúng ta phải làm gì? (rửa tay) Vì sao phải rửa tay ?
Trong khi ăn các con có được nói chuyện riêng không ? Vì sao ?
Ví dụ : Đàm thoại trước bữa ăn :
Các con đoán xem hôm nay lớp mình ăn món gì ? Món này được chế biến thực
phẩm nào ? Con hãy kể món ăn nào con thích ? Món này được chế biến từ thực phẩm
gì ? Các thực phẩm đó thuộc nhóm cung cấp chất gì ?
17


Cô giáo phải bám vào kinh nghiệm trẻ ở lớp mình để đặt ra câu hỏi cho phù hợp,
không nhất thiết ngày nào cũng hỏi theo trình tự như trên, cô có thể chọn một trong hai
thời điểm khác để giáo dục.

( Hình ảnh: Tổ chức giờ ăn cho trẻ )
* Kết quả :
- 100% giáo viên đã lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các lĩnh vực như khám
phá khoa học và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Thể hiện rõ hoạt động vui chơi của trẻ chính là hoạt động “ Bé tập làm nội trợ “
trẻ thể hiện một cách nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao. Giáo viên dạy trẻ biết sử dụng

thành thạo các đồ dùng, dụng cụ như : Dao, thớt, muỗng. Biết làm một số món ăn dơn
giản thông thường.
- 100% các cháu nắm được kiến thức về 4 nhóm thực phẩm. Biết giữ gìn vệ sinh
văn minh trong ăn uống.
- 9/9 lớp có góc tuyên truyền về giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm.
4. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, bổ sung cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ công tác nâng cao chất lượng dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục nhằm xây dựng bảo bổ sung cơ sở
vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác nâng cao chất lượng dinh dưỡng và
vệ sinh an toàn thực phẩm: Ngay từ đầu năm học tôi đã xây dựng kế hoạch tham
mưu với hiệu trưởng, phối kết hợp với các ban ngành đoàn thể trong xã, các bậc
phụ huynh, các nhà hảo tâm, tuyên truyền rộng rãi về chủ trương xã hội hóa giáo
dục. Để họ nhận thức được xã hội hóa giáo dục vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ
của mọi người.
Từ đó chủ động tiến hành nội dung hoạt động xã hội hóa giáo dục, biết
tận dụng vai trò của của người cán bộ quản lý, biến Nghị quyết của hội đồng
thành thực tế trong giáo dục mầm non của xã nhà.
18


Ví dụ: Ngay sau kỳ nghỉ hè của năm học 2013 – 2014 tôi chỉ đạo giáo
viên kiểm kê cơ sở vật chất, các trang thiết bị phục vụ bán trú qua đó để nắm bắt
được những gì còn thiếu cần bổ sung, những gì cần mua mới,… sau đó làm tờ
trình đề nghị UBND xã hỗ trợ mua sắm sửa chữa. Xác định rõ đâu là phần huy
động của địa phương, đâu là phần huy động từ phụ huynh…
Đối với những xã có điều kiện thì phần lớn UBND xã đầu tư mua sắm
toàn bộ cơ sở vật chất, các trang thiết bị tuy nhiên đối với trường mầm non Nga
An chúng tôi UBND xã chỉ hỗ trợ phần nào còn lại hầu như phụ huynh phải

đóng góp hoặc nhờ nguồn từ các nhà hảo tâm.
Mặt khác đa dạng hóa, chú trọng đến hiệu quả nuôi dưỡng chăm sóc giáo
dục trẻ tại trường mầm non. Đối với các bậc phụ huynh thì phải nhận thức thấy
rõ việc ăn uống là một nhu cầu cấp bách hàng ngày của trẻ, ăn uống theo đúng
yêu cầu dinh dưỡng thì thể lực, trí tuệ phát triển tốt giúp gia đình đạt được ước
mơ con cái khoẻ mạnh, thông minh, học giỏi. Tổ chức tuyên truyền cho phụ
huynh nhận thức, thực hiện 10 lời khuyên dinh dưỡng hợp lý, cách phòng chống
suy dinh dưỡng cho trẻ cho các bậc cha mẹ trong việc chăm sóc nuôi dưỡng.
Trong năm học 2014- 2015 tôi đã cùng với Ban giám hiệu phối hợp với hội cha
mẹ học sinh có kế hoạch mua sắm thêm 1 chảo chống dinh, 2 xoong 50 lít, 1
chõ đồ xôi, 2 chậu nhôm to,10 chậu nhỏ, 10 xô đựng nước, 1 nồi cơm điện, 100
cái bát 70 cái thìa, 30 cái đĩa, mua thêm 3 giá để bát, mua thêm 1 máy bơm
nước, mua máy xay sinh tố, sửa chữa máy xay thịt, xây thêm 1 bể nước mưa,,
khoan thêm 1 giếng nước ngọt phục vụ cho việc chế biến thực phẩm đảm bảo
cho việc nuôi dưỡng chăm sóc nuôi dưỡng các cháu hàng ngày, hàng tháng có
kiểm kê đánh giá chất lượng đồ dùng thiết bị nhà bếp có đảm bảo an toàn, đảm
bảo vệ sinh trong các khâu chế biến hay không, có đánh giá khen thưởng kịp
thời. Với tổng số tiền là 33.750.000đ.

(Hình ảnh: Phòng chia ăn của trường mầm non Nga An)
19


III. KIỂM NGHIỆM:

Thông qua các biện pháp giúp trẻ mầm non của trường mầm non Nga An
ăn ngon miệng đến tháng 4 năm 2015 tôi đã có kết quả khảo sát như sau:
STT

1

2
3
4
5
6

TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

SỐ TRẺ ĐẠT

TỶ LỆ %

248
246
244
254
243
254

96.1
95.3
94.6
98.4
94.2
98.4

Số trẻ ăn ngon miệng, hết suất
Số trẻ thích ăn thịt
Số trẻ không ăn rau và hành
Số trẻ ăn hết suất của mình

Số trẻ thích chất tanh như: cá, tôm,..
Số trẻ thích ăn cháo

Qua kết quả trên trên thì lần khám sức khỏe lần 3 của năm học 2014- 2015
tôi thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ giảm đáng kể đạt với yêu cầu.
Tổng cháu ăn: 258 cháu
Cân nặng
Kênh bình
Kênh suy dinh
thường
dưỡng
Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ
Tỉ lệ %
240
93
18
7

chiều cao
Kênh bình thường
Số trẻ
236

Tỉ lệ %
91.5

Kênh thấp còi
Số trẻ
22


Tỉ lệ %
8.5

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN:

Qua nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi và trải nghiệm thực tế đã chỉ ra một số biện
pháp quản lý, chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dinh dưỡng ở trường mầm non
Nga An. Là nhờ có sự chỉ đạo nghiêm khắc của Đồng chí Hiệu trưởng, sự ủng
hộ của các bậc phụ huynh cùng với sự nhiệt tình năng động của tất cả cán bộ
giáo viên trong nhà trường và sự nổ lực của bản thân, lòng yêu nghề, hay tìm tòi
cách chế biến các món ăn, kết hợp các biện pháp như trình bày ở trên. Tôi đã chỉ
đạo nhân viên trong tổ làm việc tinh thần trách nhiệm cao đã hoàn thành tốt
công việc nuôi dưỡng của mình cũng như tiêu chí của trường đề ra đó là thực
hiện “ bếp 5 tốt” như: (Quản lý tốt- Tổ chức bếp ăn tốt- Vệ sinh tốt- Kỹ thuật
chế biến món ăn tốt- Cải tiến thực đơn theo mùa tốt)
Luôn có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Ban giám hiệu với cô nuôi và giáo
viên đứng lớp.
Muốn làm tốt công việc trên có kết quả như mong muốn, trước hết phải
chuẩn bị đầy đủ như: Làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh, xây dựng
thực đơn, tính khẩu phần ăn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, kỷ thuật chế
biến món ăn. Các món ăn thường xuyên thay đổi để trẻ ăn ngon miệng, tăng sự

20


tiêu hoá, hấp thu, giúp trẻ phát triển tốt, góp phần giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng ở
trẻ.
II. ĐỀ XUẤT:


Để giúp trường Mầm non Nga An thực hiện tốt hơn nữa công tác chăm
sóc- nuôi dưỡng- giáo dục trẻ. Tôi đề nghị với các cơ quan có thẩm quyền nhanh
chóng hoàn thành xây dựng trường chuẩn Quốc gia vào năm học 2015- 2016.
Trên đây là một số biện pháp “ Nâng cao chất lượng dinh dưỡng cho trẻ
ở trường mầm non Nga An”. Trong quá trình thực hiện đề tài không thể tránh
khỏi những khiếm khuyết rất mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học ngành
để sáng kiến của tôi được thực hiện có hiệu quả tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 10 tháng 04 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Bùi Thị Anh

Mai Thị Thúy

21



×