Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN án TIỄN sĩ xây DỰNG và PHÁT HUY sức MẠNH TỔNG hợp của nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân TRONG sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC VIỆT NAM xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.33 KB, 99 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong quá trình lãnh đạo tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
Đảng ta đã vận dụng thành công quy luật phat huy sức mạnh tổng hợp đánh bại
những đội quân viễn chinh của CNĐQ, thu được nhiều thắng lợi to lớn góp phần
làm phong phú kho tàng lý luận Mác- Lênin và lý luận quân sự Việt Nam.
Nhưng bước vào giai đoạn cả nước tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới của Đảng được bắt
đầu từ đại hội VI, đang đòi hỏi phải co sự tư duy lý luận mới về sức mạnh tổng
hợp sao cho phù hợp với yêu cầu baỏ vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh phát triển nền
kinh tế thị trường, mở cửa với nước ngoài, để vừa hợp tác quốc tế vừc kiên quyết
đấu tranh bảo vệ chế độ, bảo vệ vững chắn thành quả cách mạng.
Trên bình diện quốc tế hiện nay đang nẩy sinh nhiều trào lưu lý luận phản
Mác xít, cơ hội xét lại chủ nghĩa Mác-Lê nin trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lý
luận bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đặc biệt chúng đang lợi dụng sự
khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện nay để tuyên truyền “ngôi nhà
chung của thế giới”, ngụy biện cho lý luận “phi chính trị hoá quân đội”... Do đó,
luận án đưa ra góp phần nhỏ bé bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng.
Mặt khác sau hơn 10 năm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ củng cố
quốc phòng theo quan điểm sức mạnh tổng hợp, Đảng ta đã cùng toàn dân thu
được nhiều thắng lợi to lớn, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới ở
hai đầu đất nước, bảo vệ vững chắc tổ quốc. Sau đó đã thực hiện bước chuyển
hướng chiến lược.
Nhiệm vụ Quốc phòng, đưa Quốc phòng thời chiến về Quốc phòng hoạt
động trong thời bình; mở ra điều kiện mới, khả năng mới để không ngừng tăng
cường sức mạnh giữ nước, tăng cường tiềm lực Quốc phòng.
Tuy nhiên biên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn nhiều thiếu sót
và vướng mắc trong việc nhận thức Quốc phòng toàn dân, phân biệt Quốc phòng
với quân sự, với chiến tranh, và trong việc liên kết phối hợp hoạt động giữa các
ngành, các cấp, các địa phương theo một chiến lược Quốc phòng- an ninh thống


nhất. Vì thế tình trạng hoạt động chồng chéo, kém hiệu quả vẫn còn xảy ra... Theo


quan điểm sức mạnh tổng hợp những hiện tượng đó, là lực cản làm hạn chế đến
quá trình xây dựng sức mạnh tổng hợp cả Quốc phòng toàn dân.
Để góp phần làm sáng tỏ các vấn đề trên và bước đầu mạnh dạn tổng kết
đánh giá, rút ra những mạnh, yếu và kinh nghiệm lịch sử, làm sáng tỏ quan điểm sử
dụng sức mạnh tổng hợp của Đảng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và Quốc
phòng nói riêng. Đó là lý do khiến chúng tôi xây dựng đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo quan điểm sức mạnh tổng hợp đã
được Đảng ta đặt ra từ đại hội IV và là chủ trương nhất quán trong quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc được các Đại hội V, VI, VII tiếp tục khẳng định.
Nhưng nghiên cứu việc xây dựng và sử dụng sức mạnh tổng hợp của Quốc
phòng toàn dân bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN với tư cách là một công trình
khoa học, cụ thể hoá quan điểm của Đảng thì chưa có tác giả nào đề cập đến.
Bên cạnh đó có những vấn đề liên quan đến lý luận sức mạnh tổng hợp,
thuộc chuyên ngành Đảng cộng sản Việt Nam, Lịch sử đường lối quân sự của
Đảng đã được công bố của Phó giáo sư Đặng Kim Thành, bàn về “Nghệ thuật tạo
sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam”, “Vận dụng phương pháp Phát
huy sức mạnh vào quá trình cách mạng XHCN ở Việt Nam” và công trình khoa
học của Phó giáo sư Bùi Phan Kỳ, bàn về “Quá trình vận động phát triển đường lối
quân sự của Đảng ...”. Chúng tôi coi đó là những đóng góp quan trọng về lý luận
dùng để tham khảo và kế thừa vào luận án của mình.
Ngoài ra, Luận án được trình bày được trên những nguyên lý chủ nghĩa
Mác- Lênin bàn về chiến tranh và quân đội, bảo vệ Tổ quốc XHCN; và tư tưởng
quân sự của Hồ Chí Minh, cùng với các văn kiện, nghị quyết của Trung ương
Đảng, và Đảng uỷ quân sự Trung ương, các tài liệu nước ngoài liên quan đến Quốc
phòng…
3. Mục đích , nhiệm vụ của luận án.

Chọn đề tài này chúng tôi nhằm nghiên cứu một số vấn đề xung quanh việc
Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa các yếu tố, các lực lượng, các hình thức đấu
tranh nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của Quốc phòng toàn dân và sử dụng sức
mạnh đó vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc hơn 10 năm qua; từ đó rút ra những kinh
nghiệm bước đầu và liên hệ với tình hình Quốc phòng- an ninh hiện nay.


Để làm rõ mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
1)Trình bày tóm tắt nội dung sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam,
vấn đề có tính quy luật đã được kiểm chứng trong lịch sử tiến hành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân; trong đó nêu lên một số tư tưởng quân sự của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh về sức mạnh quốc phòng.
2) Phân tích nội dung khái niệm sức mạnh tổng hợp của quốc phòng toàn
dân và quá trình Đảng ta chỉ đạo tổ chức thực hiện thắng lợi trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc (1975- 1991). Khẳng định những thắng lợi, phát hiện những thiếu sót,
khuyết, nhược điểm, rút ra kinh nghiệm bước đầu qua hơn mười năm cả nước làm
nhiệm vụ và bảo vệ Tổ quốc.
4.
Phạm vi giới hạn của luận án.
*- Về thời gian: Chúng tôi lựa chọn thời điểm từ 1975- 1991, tức là thời kỳ
chuyển giai đoạn từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng XHCN
để khảo sát quá trình phát huy sức mạnh tổng hợp của Quốc phòng toàn dân trong
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng đề ra là xây dựng thành công và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
*- Về nội dung: Quốc phòng vốn là một chủ đề lớn, nội hàm rộng bao gồm
toàn bộ hoạt động của Nhà nước và toàn dân nhằm bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy luận ná
chỉ tập trung làm sáng tỏ quá trình Đảng ta giai quyết mối liên hệ giữa các yếu toó,
các lực lượng, các hình thức đấu tranh theo quy luật hợp lực để tạo nên sức mạnh
tổng hợp của quốc phòng toàn dân, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó đi
sâu nghiên cứu vai trò vị trí một vàI yếu tố chủ đạo như chính trị, kinh tế, quân sự.

5.
Những điểm mới về khoa học của luận án.
1)Lần đầu tiên luận án đi sâu nghiên cứu sức mạnh tổng hợp của nền quốc
phòng toàn dân theo một hệ thống cấu trúc, mối liên hệ biện chứng giữa các yếu tố
trong cấu trúc, cơ chế hoạt động để phát huy tính đồng bộ của các yếu tố tạo nên
sức mạnh tổng hợp và quá trình phát huy trong thực tiễn chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN (1975- 1991)
2). Chứng minh quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của Đảng là vấn đề
có tính quy luật để giành thắng lợi trong cách mạng Việt Nam nói chung và Quốc
phòng nói riêng, đã được kiểm nghiệm trong hơn 10 năm qua tiến hành nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc. Từ đó khẳng định những thắng lợi và phát thiện các khuyết điểm,


rút ra kinh nghiệm bước đầu; góp phần gải quyết vấn đề đang vướng mắc hiện
nay: nếu chiến tranh xảy ra trong tình trạng nề kinh tế đất nước chưa thoát khỏi
khủng hoảng, cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo , nguồn viện trợ về quốc phòng của
các nước XHCN Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô không còn nữa; nếu phải đối phó
với kiểu chiến tranh hiện đại hơn nhiều so với thời kỳ chiến tranh chống Mỹ…thì
chúng ta sẽ làm gì, làm như thế nào để bảo vệ được Tổ quốc?
6.
Cơ sở phương pháp.
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận quân sự.
Phương pháp chủ đạo được sử dụng từ đầu đến cuối luận án là
phương pháp lịch sử kết hợp với lôgíc.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, phương pháp
thống kê quân sự.
7.
ý nghĩa khoa học của luận án.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu ,
giảng dạy ở các Học viện, Trường sỹ quan, Đại học trong và ngoài quân

đội.
8.
Kết cấu luận án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận của danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
3 chương với 9 tiết.
CHƯƠNG I
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VÀ HỒ CHỦ TỊCH VỀ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT HUY SỨC MẠNH TỔNG HỢP TRONG CÁCH
MẠNG VIỆT NAM VÀ TRONG QUỐC PHÒNG
1. Một số vấn đề lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin nói về sức mạnh trong
cách mạng xã hội và cách mạng vô sản
Dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ: quy luật vận động, phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội luôn luôn là kết quả
hợp thành của nhiều nhân tố, nhiều lực lượng có mối liên hệ quy định và tác động


lẫn nhau trong một cơ cấu thống nhất, nhất định. Đồng thời giữa các sự vật riêng lẻ
cũng không bao giờ tồn tại biệt lập mà luôn vận động phát triển trong sự liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau; trong đó sự liên hệ bản chất bên trong bao giừo cũng quyết
định tiến trình phát triển của nó, các mối liên hệ bên ngoài có vai trò tác dụng quan
trọng…
Sự tác động lẫn nhau giữa các nhân tố các lực lượng trong một cơ cấu nhất
định đều diễn ra theo quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập; sự thống nhất ấy là
hạt nhân của phép biện chứng về sự liên hệ phổ biến và cũng là hạt nhân tạo nên
sức mạnh tổng hợp làm nên sự biến đổi về chất trong thế giới vật chất.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi đời sống xã hội con người vận động phát triển
không ngừng như một quá trình lịch sử tự nhiên, chịu sự tác động của nhiều yếu tố,
lực lượng và xu hướng khác nhau, vừa thống nhất vừa đối lập nhau, đan xen lẫn
nhau… Những xu hướng này tác động với nhau bao giờ cũng dẫn tới việc tạo

thành xu hướng tổng hợp chi phối lại chúng về cơ bản và chủ yếu quyết định chiều
hướng phát triển chung của sự vật. Như Ănghen đã khái quát và gọi đó là quy luật
bình hành lực. Ông cho rằng: Đối với quá trình vận động cách mạng xã hội bao
gồm rất nhiều lực vốn không đồng nhất, thậm chí có mâu thuẫn chống đối nhau
nhất định, nhưng lại có sự tác động lấn nhau theo một hướng nhất định tạo thành
một hợp lực. Hợp lực này chi phối lại các lực khác và quy định chiều hướng phát
triển tạo nên biến đổi mạng tính cách mạng trong lịch sử.
Trong lĩnh vực cách mạng xã hội, bản thân quy luật hợp lực cũng như các
quy luật khác không có mục đích tự thân, không hoạt động một cách tự phát mù
quáng mà phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, sự vận động
cách mạng với tính cách là một quá trình phát triển cao của tiến bộ xã hội, tức cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì nó là một quá trình vận động tự giác của con người giác
ngộ nắm được quy luật, làm chủ được vân mệnh và tiến trình lịch sử của mình, đòi
hỏi không những phải phát phát hiện được đầy đủ các nhân tố, các điều kiện, các
lực lượng, các xu hướng tạo thành sức mạnh tổng hợp quy định sự phát triển của


nó, mà còn có thể tạo ra những nhân tố, điều kiện và lực lượng đang còn tồn tại
dưói dạng tiềm năng để biến thành khả năng hiện thực thúc đẩy sự phát triển nhanh
hơn. Từ đó đIều khiển, hướng tất cả mọi hoạt động theo một hướng xác định, nhằm
phát huy sức mạnh cùng chiều, gạt bỏ những lực cản, tạo thành một tổng hợp lực
của quá trình cách mạng là điều hết sức cần thiết và hoàn toàn có thể làm được.
Lênin đã coi những công việc đó là trách nhiệm của giai cấp công nhân mà trực
tiếp là Đảng Cộng sản: “ Trong điều kiện nhất định, có thể và và cần phải kết hợp
những cái đối lập sao cho thu được một bản giao hưởng chứ không phải một khúc
hỗn tạp” (2, tr.23).
Cách mạng XHCN tháng mười Nga – 1917 thành công là kết quả tổng hợp
của hàng loạt các yếu tố, các lực lượng và các xu hướng, tư tưởng, vừa thống nhất
vừa mâu thuẫn nhau trong hoàn cảnh lịch sử nước Nga dưới sự kiểm soát của giai
câps tư sản nắm chính quyền.

Để giải quyết những mâu thuẫn xã hội, Đảng Bônsêvích Nga đứng đầu là
Lênin đã chủ trương tiến hành cuộc cách mạng XHCN, trước hết là đánh đổ giai
cấp tư sản và địa chủ phong kiến giành chính quyền về tay nhân đân, thiết lập
chuyên chính vô sản, sau đó dùng chuyên chính vô sản để tiến hành giai đoạn tiếp
theo là xây dựng CNXH. Để đi đến mục đích của mình, Đảng bônsêvích Nga và
Lênin đã lựa chọn phướng pháp cách mạng bạo lực tổng hợp của quần chúng: dựa
vào lực lượng chính là công nhân, nông dân và binh lính giác ngộ cách mạng làm
nòng cốt cho khởi nghĩa vũ trang, kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực
lượng quân sự và hình thức đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh quân sự và sự
nổi dạy của binh lính, tạo thành sức mạnh to lớn của cách mạng bạo lực khởi nghĩa
vũ trang giành chính quyền nhanh chóng trong điều kiện tình thế, thời cơ cho phép.
Với đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng thích hợp nhằm
đưa đát nước thoát khỏi ách thống trị của giai cấp tư sản trong và ngoài nước cấu
kết với giai cấp địa chủ phong kiến thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân,
thiết lập chính quyền mới của dân, do dân, vì dân, tiến hành xây dựng CNXH. Do
đó đã làm thức tỉnh hàng chục triệu quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng bônsvích Nga tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn, và chính nó đã gạt bỏ mọi xu hướng


cải lương hoả hiệp, những hành động chống phá của bọn mensêvích và các tổ chức
phản động trong và ngoài nước, mở đường cho cách mạng đi tới thắng lợi.
Rõ ràng cách mạng XHCN tháng mười Nga (1917) là một cuộc cách mạng
vô sản điển hình tuân theo quy luật sức mạnh tổng hợp, diễn ra dưới hình thức khởi
nghĩa vũ trang.
Sau này được Chủ Tịch Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo điều
kiện hoàn cảnh cách mạng Việt Nam.
2. Những quan điểm cơ bản của Đảng và Hồ Chủ Tịch về xây dựng và
phát huy sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam.
*- Đặc điểm cách mạng Việt Nam quy định sử dụng sức mạnh tổng hợp.
Tiến hành cách mạng ở một nước thuộc địa nửa khong kiến, trong đó chủ
nghĩa đế quốc cấu kết chặt chẽ với giai cấp phong kiến thống trị, áp bức bóc lột

nhân dân ta hết sức nặng nề. Chúng không những cướp mất quyền độc lập tư do
của dân tộc ta mà còn thủ tiêu tất cả mọi quyền daan sinh, dân chủ, ngay cả những
quyền sơ đẳng nhất. Kẻ thù dùng cả một bộ máy thống trị bạo lực phản cách mạng
từ trên xuống dưới, sẵn sàng khủng bố đàn áp các cuộc đấu tranh nổi dạy của quần
chúng bằng súng đạn, do đó mâu thuẫm giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng
phát triển sâu sắc và luôn xảy ra những cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống lại
đế quốc và phong kiến thống trị kéo dài gần trăm năm.
Vì vậy để giải quyết mâu thuẫn xã hội trên, tất yếu phải sử dụng sức
mạnh bạo lực của quần chúng bị áp bức bóc lột chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù.
*- Cách mạng Việt Nam diễn ra trong thời đại mới.
Thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng cách mạng XHCN
tháng Mười Nga (1917), Nó có ảnh hưởng to lớn đến cách mạng toàn thế giới,
trong đó có cách mạngViệt Nam. Vì thế cách mạng Việt Nam, từ khi có Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới


và luôn được sự ủng hộ về nhiều mặt của phong trào cách mạng thế giới. Đó là một
nhân tố khách quan thuận lợi cho quá trình xây dựng sức mạnh tổng hợp của cách
mạng Việt Nam.
- Sau cách mạng XHCN tháng Mười Nga (1917) thành công, chủ nghĩa đế
quốc lún sâu vào khủng hoảng, hệ thống thuộc địa bị phá vỡ từng mảng lớn, để
củng cố địa vị thống trị của mình trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc ngày càng tỏ ra
phản động, hiếu chiến, đặc biệt là đế quốc Mỹ. Chúng tìm mọi cách liên minh với
các thế lực phản động chống lại phong trào cách mạng thế giới, chống lại CNXH,
trong đó Việt Nam cũng là điểm chống phá của chúng. Vì thế, cách mạng Việt
Nam luôn là têu đIểm của cuộc đấu tranh giữa một bên là lực lượng cách mạng đấu
tranh cho độc lập tự do và CNXH, một bên là các thế lực đế quốc và phản động.
Do vậy tính chất của cách mạng Việt Nam rất gay go quyết liệt, lâu dài, phải chống
lại nhiều kẻ thù cùng một lúc và bao giờ các thế lực xâm lược lớn cũng lớn gấp

nhiều lần về kinh tế, quân sự, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh, từ đó cần
thiết phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của toàn đang tiến hành cách mạng. Những
đặc đIểm trên quy định nội dung, hình thức, phương pháp cách mạng. Thấu suốt
đặc đIểm tình hình, Đảng ta và Hồ Chủ Tịch ngay từ đầu đã dứt khoát lựa chọn
phương pháp cách mạng bạo lực dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng được tổ
chức, giáo dục tiến hành cuộc đấu tranh giành chính quyền, giành độc lập dân tộc
và ruộng đất cho dân cày, tiến thẳng lên CNXH, không qua giai đoạn phát triển
TBCN.
·
Nội dung sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam.
Trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã khái quát sức
mạng tổng hợp của cách mạng Việt Nam:


“ Đường lối chính trị, quân sự, phương pháp tiến hành cách mạng và chiến
tranh cách mạng nói trên đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cuực kỳ to lớn để nhân dân
ta đánh thắng lực lượng khổng lồ và những cố gắng rất cao của tên đế quốc giàu
mạnh nhất, hung bạo nhất trong thời đại ngày nay”(9,tr.26).
Khái quát là: toàn bộ đường lối chính trị, đường lối quân sự, ngoại giao và
tất cả các hình thức, phương pháp tiến hành cách mạng và chiến tranh cách mạng,
là nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện đường lối trên cơ sở tập hợp đông
đảo lực lượng quần chúng cách mạng và toàn bộ tiềm lực đất nước nhằm thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Đường lối chính trị, quân sự , ngoại giao… đúng đắn của Đảng là cơ sở tập
hợp đoàn kết mọi lực lượng cách mạng trong và ngoàI nước, là hạt nhân quy tụ sức
mạnh, định hướng hành động cho quần chúng tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn.
Như Lê nin đã nói: “ Tài tổ chức tập thể, mà không có cái tài này thì đội quân hàng
triệu người vô sản không thể đi đến thắng lợi được” ( 1,tr.99).
Tài tổ chức tập thể đó theo Lê nin chính là vai trò của đường lối, cương lĩnh
cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sở dĩ đường
lối của Đảng luôn thu hút tập hợp được đông đảo quần chúng ủng hộ một cách tự
giác. Bởi lẽ ngay từ đầu Đảng và Hồ Chủ tịch đã giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, được ghi trong chính cương sách lược vắn tắt của Hồ Chủ tịch và
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam ( 10-1930), nó thể hiện tính
hơn hẳn so với chủ trương cứu nước đương thời của các sĩ phu yêu nước. Suy cho
cùng, mọi đường lối của Đảng đều đi đúng nguyện vọng thiêng liêng của người
dân mất nước, có khả năng đem lại hạnh phúc cho họ và đời đời các thế hệ con


cháu sau này. Bởi vậy đường lối của Đảng đã in thành cương lĩnh thứ 2, ( Cương
lĩnh hành động) của quần chúng, khơi dậy sức mạnh tiền tàng vô tận của toàn thể
dân tộc lên trận tuyến đấu tranh bất chấp gian nguy. Lịch sử Việt Nam đã chứng
minh hành động cách mạng phi thường của cao trào cách mạng 1930-1931, ngay
sau khi Đảng ra đời đưa ra đường lối cứu nước đúng đắn, càng về sau khí thế cách
mạng và sức mạnh của quần chúng dưới sự lãnh đạo của đảng ngày càng tăng lên
gấp bội, quyết định sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Rõ ràng trong mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam, trong mỗi thắng lợi
đạt được dù ở bất kỳ lĩnh vực nào của cách mạng đều bắt nguồn từ đường lôí
chính trị đúng đắn của Đảng.
Về đường lối quân sự, là một bộ phận hữu cơ của đường lối cách mạng, là
sự kế tục đường lối chính trị bằng phương thức khác, yếu tố góp phần quyết định
thắng lợi trong chiến tranh và trong xây dựng sức mạnh quân sự, đường lối quân sự
của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Thực tiễn chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong hơn nửa thế kỷ
tiến hành khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng lần lượt đánh bại các tên
đế quốc đầu sỏ như Nhật, Pháp, Mỹ cùng bè lũ tay sai. Đã chứng minh rằng đường
lối quân sự Việt Nam là sự phát triển của học thuyết quân sự Mác- Lê nin trong
điều kiện mới, là sự kế thừa truyền thống đánh giặc của ông cha và trở thành vốn

quý trong kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần bổ sung vào lý luận
quân sự mác xít.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta hầu hết là phải đương đầu với
các cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn, lâu dài gian khổ, chống chọi với


các thế lực hung hãn nhất của thời đại, to lớn, giàu có hơn ta nhiều lần. Vì vậy
thành tựu nổi bật trong đường lối quân sự Việt Nam đã kế thừa thành công nghệ
thuật “ lấy ít địch nhiều”, “ Lấy nhỏ thắng lớn”, của ông cha ta, chiến thắng mọi
đôí tượng tác chiến trong các điều kiện hoàn cảnh khác nhau. Nó có giá trị thiết
thực trong việc triển khai mọi hoạt động của nhân dân và lực lượng vũ trang, khai
thác mọi sức mạnh trong chiến tranh nhân dân và sử dụng sức mạnh giảI phóng
dân tộc vào mục đích chung giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lô gíc biện
chứng trong đường lối quân sự Việt Nam là:
- Một là: Trong mọi giai đoạn cách mạng luôn luôn chỉ ra chính xác kẻ thù
chủ yếu trước mắt, kẻ thù cơ bản lâu dài, đánh giá mạnh – yếu trước mắt, làm cơ
sở để xác định nhiệm vụ, quyết tâm và cách đánh.
- Hai là: Tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích gì; mục tiêu cụ thể
trong mỗi thời điểm…
- Ba là: Để chống lại kẻ thù, thực hiện mục đích đã định, toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân làm theo nhiệm vụ gì? Trong đó có nhiệm vụ chủ yếu trước mắt,
nhiệm vụ cơ bản lâu dài.
- Bốn là: Tính chất chiến tranh về phía ta, về phía địch ra sao? Thuận lợi,
khó khăn, từ đó làm cơ sở xây dựng quyết tâm, xây dựng yếu tố chính trị tinh thần.
- Năm là: Tiến hành chiến tranh theo phương thức nào? ( phương pháp), với
những vũ khí, phương tiện gì, lực lượng ?
Trong chiến tranh giải phóng về cơ bản Đảng ta áp dụng phương pháp kết
hợp đấu tranh chính trị vơí đấu tranh quân sự, theo phương châm làm chủ và tiến
công; tiến công và làm chủ, với lực lượng cơ bản gồm lực lượng chính trị phối hợp
với lực lượng vũ trang ba thứ quân.



-

Sáu là: Người tổ chức lãnh đạo chiến tranh là Đảng Cộng sản Việt Nam,

nhân tố quyết định thắng lợi.
Những vấn đề trên của đường lối quân sự là một thể thống nhất biện chứng,
từ cơ cấu mục tiêu, nhiệm vụ đến cơ cấu lực lượng, cách thức biện pháp tổ chức
thực hiện, nhân tố lãnh đậo… Tất cả những nội dung của đường lối sự phản ánh lý
luận sức mạnh tổng hợp hoàn chỉnh, vì thế trong quá trình tổ chức thực hiện Đảng
luôn luôn tạo ra được sức mạnh tổng hợp vô địch cuả chiến tranh nhân dân, đánh
bạI mọi kẻ thù xâm lược, cho dù chúng hung hãn đến đâu chăng nữa.
- Về đường lối ngoại giao: Ngay từ đầu trong đường lối chiến lược của
mình, Đảng ta luôn luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, khéo kết hợp mục tiêu cách mạng Việt Nam với mục tiêu thời đại,
đấu tranh cho hoà bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Cho nên vị trí của cách
mạng Việt Nam luôn đi đúng dòng thời đại, tạo được sự ủng hộ to lớn của bạn bè
quốc tế.
Trước sau như một đường lối đối ngoại của Đảng luôn tuân theo phương
châm thêm bạn, bớt thù và nguyên tắc quốc tế vô sản, tôn trọng độc lập chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
trong đó coi đoàn kết chiến đấu với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là
nhiệm vụ hàng đầu, đồng thời đoàn kết với tất cả các lực lượng tiến bộ và nhân dân
yêu chuộng hoà bình trên thế giơí. Đường lối luôn chỉ rõ bạn, thù, lợi dụng mọi
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hoá và tranh thủ mọi lực lượng có thể
tranh thủ được nhằm phục vụ cho mục đích tối cao của dân tộc.
Vì thế cách mạng nước ta trong mỗi thời kỳ dụng nước và giữa nước, luôn
luôn được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi cả vật chất và tinh thần to lớn của bầu bạn



khắp thế giới, hình thành cả một mặt trận thế giới ủng hộ Việt Nam như trong
kháng chiến chống Mỹ, tạo ra ngoại lực to lớn và quan trọng góp phần tăng làm
tăng nội lực bên trong cách mạng, tạo thành sức mạnh, tổng hợp to lớn làm chùn
bước mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Mẫu mực của sự thành công trong đường lối đối ngoại của Đảng và Hồ
Chủ Tịch trong thời kỳ củng cố và giữa vững chính quyền (1945- 1946), trong
hoàn cảnh cách mạng vừa mới thành công, chính quyền cách mạng còn non trẻ,
đứng trước nguy cơ đe doạ từ bốn phía của các kẻ thù hòng bóp chết chính quyền,
thủ tiêu Đảng, vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc. Thế nhưng, với tài ứng
xử của Đảng mà đứng đầu là Hồ Chủ Tịch trung thành theo đường lối đối ngoại
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (nghĩa là kiên định về nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền và mềm dẻo về sách lược), thậm trí có phải tự tuyên bố giải tán Đảng để cứu
nguy dân tộc vẫn phải làm. Với chính sách đó lần lượt đã gạt bỏ các kẻ thù và bè lũ
tay sai, bảo toàn được chính quyền cách mạng, tranh thủ thời gian củng cố thực lực
cách mạng để bước vào trận chiến đấu mới.
Từ thành công trên về đường lối đối ngoại gợi cho chúng ta suy ngẫm trong
hoàn cảnh hiện nay của cách mạng Việt Nam. Sau khi áp dụng thành công chiến
lược chống phá CNXH ở Đông Âu,các thế lực phản động trong và ngoàI nước
đang tìm mọi cách thủ tiêu CNXH ở Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn, phối hợp hành
động trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… theo
kế hoạch “ diễn biến hoà bình”, cố gắng tạo ra những “ nguyên cớ” bên trong đất
nước làm “ngòi nổ”cho sự can thiệp xâm lược. Vì vậy chúng ta luôn phải tỉnh táo
vừa phải giữ vững nguyên tắc vừa linh hoạt mềm dẻo trong sách lược đối ngoạI,
tránh những xung đột, mâu thuẫn không đáng xảy ra, tranh thủ thời cơ, vận hội đưa


đất nước đI lên, mọi sự thái quá lúc này đều dẫn đến hậu quả không lường; thực
hiện theo lời dạy của Bác: “Không lẽ vì muốn đập chết con nhặng mà đánh rơi cả
viên ngọc quý”.

*- Nói đến sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam không chỉ nói đến
đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao mà còn phải kể đến phương pháp cách
mạng, là một bộ phận không thể thiếu được trong đường lối chiến lược, là yếu tố
góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng mà
đường lối đã đề ra.
Căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh và đối tượng của cách mạng Việt Nam,
ngay từ đầu Đảng ta và Hồ Chủ Tịch đã lựa chọn phương pháp cách mạng bạo lực,
coi đó là con đường duy nhất giành chính quyền, không bao giờ có ảo tưởng theo
con đường cải lương thoả hiệp.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt quan điểm cách mạng bạo lực của chủ
nghiã Mác- Lênin áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.Trong
tác phẩm “ đường cách mệnh” viết năm 1927 dùng cho các lớp huấn luyện cán bộ
cốt cán của cách mạng sau này (tại Quảng Châu- Trung Quốc), Người đã nêu lên
quan điểm sức mạnh tổng hợp của phương pháp cách mạng bạo lực là: “Cách
mạng phải biết làm thì mới chóng”; “Biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm
thì chắc chắn làm được”(42, tr.75).
Sau này những tư tưởng trên của người được ghi thành những quan điểm lớn
trong “chính cương, sách lược vắn tắt”, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
có gía trị chỉ đạo to lớn. Đó là phương pháp cách mạng bạo lực dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhằm đập tan bộ máy bạo lực phản
cách mạng của đế quốc và phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân.


Sau khi giành được chính quyền tháng 8- 1945, cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, trong thư gửi đồng bào chiến sĩ miền Mam
(1946) Bác căn dặn: “ Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, những ngắn dài cũng
hợp bởi bàn tay”. Với cách nói hình ảnh so sánh trên, Bác muốn nhắc nhở đồng
bào chiến sĩ cả nước về sự đoàn kết hiệp lực cho dù trong hàng ngũ cách mạng có
người này kẻ khác, nhưng khi hành động cách mạng thì phải thống nhất, muôn
ngàn người như một, đó chính là tư tưởng hợp lực thành sức mạnh.

Những tư tưởng trên của người không chỉ thể hiện trong lời nói mà còn biến
thành hiện thực sinh động trong mỗi việc làm, bằng cả cuộc đời hoạt động cách
mạng đã hiến dâng không biết mệt mỏi cho tinh thần đoàn kết dân tộc, liên hiệp
đấu tranh theo chủ trương nhất quán trong khuôn khổ tổ chức cách mạng, tạo thành
sức mạnh to lớn thực hiện thành công mọi mục tiêu cách mạng. Trên nền tảng tư
tưởng cơ bản về sức mạnh tổng hợp của Hồ Chủ Tịch, Đảng ta đã cụ thể hoá và
làm phong phú thêm trong các giai đoạn tiếp theo, trở thành quy luật của phương
pháp cách mạng bạo lực Việt Nam là: tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng từ
trong quần chúng đông đảo, hình thành hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị và
lực lượng quân sự; kết hợp chặt chẽ và phát huy sức mạnh của hai hình thức đấu
tranh chính trị và quân sự, phát triển từ thấp đến cao, từ khởi nghĩa quần chúng đến
chiến tranh cách mạng; thực hành tư tưởng cách mạng tiến công, giành thế chiến
lược tiến công trong sự vận dụng các hình thức và phương pháp cách mạng…
Phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp phát triển lên đỉnh cao trong
kháng chiến chống Mỹ và trở thành nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam. Được
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV khái quát thành quy luật của chiến tranh cách
mạng Việt Nam: “Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: lực lượng chính


trị của quần chúng và lực lượng vũ trang trong nhân dân, tiến hành khởi nghĩa từng
phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp
đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi
nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công; tiến công
và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược…, đánh địch bằng ba mũi giáp
công; kết hợp ba thứ quân; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy…
Thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương
châm chiến lược đánh lâu dài; đồng thời biết tạo thời cơ và năm vững thời cơ, mở
những trận tiến công chiến lược… tiến tới thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè
bẹp quân thù giành thắng lợi cuối cùng “(9.,Tr. 25,26).
Những điển hình về nghệ thuật sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực của

Đảng được ghi nhớ mãi trong sử sách là thắng lợi của khởi nghĩa giành chính
quyền trong cách mạng tháng tám – 1945, là kết quả của sự kết hợp giữa đấu tranh
chính trị và đấu tranh quân sự, bằng hai lực lượng cơ bản là lực lượng chính trị và
lực lượng quân sự. Trong đó lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị là chủ yếu
quyết định, lực lượng vũ trang là hỗ trợ quan trong. Vì vậy cách mạng tháng Tám
là điển hình về một cuộc cách mạng giành chính quyền nhanh nhất, ít đổ máu nhất
tronh lịch sử cách mạng thế giới.
Đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước phương pháp cách mạng bạo lực thể
hiện đầy đủ sinh động nhất, đặc biệt là sự kết hợp hai hình thức đấu tranh chính trị
và quân sự tiến hành song song, nó áp dụng linh hoạt vào từng vùng khác nhau
trong cách mạng miền Mam.
*- Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là nhân tố cơ bản quyết định phát huy sức
mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.


Quy luật hợp lực đã chỉ rõ mỗi nhân tố, mối lực lượng và các thành phần
tham gia vào quá trình vận động cách mạng xã hội, chỉ phát huy tác dụng của từng
mặt nhất định, theo đặc điểm môi trường hoạt động của mình, thế nhưng quá trình
vận động của cách mạng lại là quá trình thống nhất các yếu tố, các lực lượng đòi
hỏi một sự phát huy tác dụng đồng bộ các nhân tố, lực lượng tham gia mới tạo
thành được sức mạnh tổng hợp lực. Đương nhiên tự bản thân chúng không bao giờ
trở thành sức mạnh được mà phải thông qua hoạt động lãnh đạo của Đảng với tư
cách là một nhân tố tham gia vào quá trình cách mạng. Vừa là người nắm bắt quy
luật và vận dụng quy luật thực hiện nhiệm vụ tập hợp các yếu tố, lực lượng và phát
huy sức mạnh từng nhân tố theo cùng một hướng; kết hợp một cách đồng bộ để tạo
thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Đúng như Lênin nói: “Chỉ có Đảng…
mới có thể lãnh đạo tất cả những hành động liên hiệp của toàn bộ giai cấp vô sản,
tức là lãnh đạo giai cấp về mặt chính trị và thông qua giai cấp ấy mà lãnh đạo toàn
thể quần chúng nhân dân lao động…” (2, tr. 314).
Mặt khác trên cơ sở đường lối, phương pháp cách mạng còn phảI có khâu tổ

chức chỉ đạo hoạt động thực tiễn để biến cương lĩnh của Đảng thành cương lĩnh
hành động thống nhất của hàng chục triệu quần chúng, tư tưởng của Đảng thấm
sâu vào quần chúng biến thành một sức mạnh vật chất vĩ đạI làm nên những kỳ
tích vẻ vang. Đó là những thành công của Đảng ta trong chỉ đạo cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân mà lịch sử còn ghi nhớ mãi.
Biểu hiện sinh động về sự chỉ đạo là quá trình Đảng ta xây dựng địa bàn
chính trị, làm cơ sở hình thành lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Kết hợp
chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự thành phương châm chỉ đạo
xuyên suốt quá trình cách mạng cũng như chiến tranh. ở thời điểm, từng vúng


chiến lược, Đảng đều có scáh lược kết hợp đấu tranh của hai mũi giáp công này
nhằm khai thác triệt để sức mạng của từng loại hình đấu tranh và kết hợp sức mạnh
của chúng lại thành sức mạnh tổng hợp, khiến cho kẻ thù hoảng sợ đi đến đâu cũng
gặp phải tự tiến công của cả lực lượng vũ trang chính trị tại chỗ,trong thế trận
chiến tranh nhân dân trùng điệp…
Điều đó nói lên trình độ và khả năng tổ chức đấu tranh rất khoa học và cũng
rất cách mạng của Đảng ta, thực chất là nghệ thuật giải quyết mối liên hệ các nhân
tố,các lực lượng nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của phương pháp bạo lực cách
mạng.
Ngoài ra còn phải nói đến vai trò gương mẫu, uy tín của Đảng như một lực
lượng xã hội tiên tiến là hạt nhân đoàn kết quy tụ mọi lực lượng cách mạng. Vì thế
trong quá trình phát triển cách mạng, Đảng luôn luôn chú ý xây dựng Đảng vững
mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để theo kịp với sự phát triển
chung, trong đó chú trọng nâng cao năng lực đề ra đường lối và phương pháp cách
mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu. Gắn công tác xây dựng Đảng với phong trào
cách mạng quần chúng; thực hiện lới dạy của Bác Hồ: mỗi cán bộ từ trung ương
đến cơ sở đều là “công bộc” của nhân dân. Bởi thế trong chiến tranh giải phóng
dân tộc Đảng ta luôn được quần chúng tin tưởng, ủng hộ, che chở đùm bọc vượt
qua mọi hiểm nghèo suốt thời kỳ hoạt động trong bóng tối, mọi chỉ thị mệnh lệnh

của Đảng đưa ra đều được quần chúng tham gia một cách tự giác và biến thành
những phong trào đấu tranh rộng lớn mạnh mẽ.
Tóm lại: Các nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam là
sự kết hợp hài hoà giữa đường lối chính trị, đường lối quân sự, đường lối ngoại
giao và phương pháp cách mạng; nghệ thuật tổ chức chỉ đạo chiến lược, sách lược;


quá trình xây dựng lực lượng cách mạng nòng cốt là 2 giai cấp công nhân và nông
dân; cùng với vai trò lãnh đạo tổ chức chỉ huy của Đảng là nhân tố quyết định việc
hình thành và phát huy sức mạnh tổng hợp trong cách mạng Việt Nam.
Đó là một thể thống nhất biện chứng tác động qua lại với nhau theo phương
hướng hoạt động chung là đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH, tạo thành sức
mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy lịch sử tiến lên không ngừng; kết thúc vẻ vang một
giai đoạn cách mạng quan trọng- cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo tiền đề
thuận lợi cho giai đoạn cách mạng tiếp theo- cách mạng XHCN. Ngày nay về cơ
bản những nhân tố trên đang phát huy tác dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam.
3. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo quan điểm sức mạnh tổng
hợp.
a)
Chủ nghĩa Mác- Lênin bàn về quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Trong điều kiện CNTB chưa phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, MácĂngghen cho rằng: trong qua trình cách mạng XHCN, nếu bị những nước tư bản
xâm lược thì giai cấp vô sản phải tiến hành chiến tranh tự vệ chống lại chúng.
Đồng thời hai ông kêu gọi giai cấp vô sản hãy đứng về phía các dân tộc bị áp,
ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng của họ. Một dân tộc nhỏ bị CNTB xâm lược
muốn chiến thắng các thế lực lớn hơn mình thì phải tiến hành vũ trang toàn dân và
sáng tạo các hình thức phương pháp đấu tranh, dùng sức mạnh tổng hợp của các
hình thức phương pháp đó nhằm chống lại kẻ thù lớn hơn thì mới có khả năng
giành thắng lợi. Luận điểm nổi tiếng của Ăngghen là: “Một dân tộc muốn giành
độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức tiến hành

chiến tranh thông thường, khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội
du kích ở khắp mọi nơi- đó là phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có


thể chiến thắng được một dân tộc lớn, mà một quân đội ít mạnh hơn có thể đương
đầu được với một quân đội mạnh hơn” (23, tr. 274).
Khi công xã Pari nổ ra (1870- 1871), Với những thành công và thất bại của nó,
hai ông đã đi đến kết luận: sức mạnh của công nhân được vũ trang đã hoàn thành
được cuộc cách mạng vô sản thì nhà nước XHCN cũng có thể có khả năng đánh
bại hoàn toàn quân đội thường trực của CNTB. Về thất bại của nó, một trong
những nguyên nhân cơ bản là khi vũ trang cho giai cấp công nhân thì những người
lãnh đạo công xã không biết vũ trang cho cả giai cấp nông dân liên kết đấu tranh
để giữ chính quyền, do vậy đã bị CNTB lôi kéo, dụ dỗ nông dân biệt lập với giai
cấp công nhân và dẫn đến những thất bại đáng tiếc.
Thế nhưng Mác-Ăngghen vẫn không nêu ra vấn đề bảo vệ một hay một số nước
XHCN tồn tại bên cạch những nước tư bản mạnh. Vì điều kiện lịch sử lúc đó chưa
nổ ra cuộc cách mạng XHCN điển hình nào, hơn thế nữa vào thời kỳ đó giai cấp vô
sản vẫn “ chưa có tổ quốc” với tư cách là một quốc gia XHCN độc lập.
Trong điều kiện lịch sử mới ở đầu thế kỷ XX, CNTB đã phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, Lênin phát triển tư tưởng Mác -Ăngghen về sự tất thắng của
CNXH. Ông cho rằng khả năng thắng lợi của cách mạng XHCN không chỉ ở một
loạt nước tư bản phát triển mà trước tiên nó sẽ xảy ra ở một số nước, thậm trí ở
một nước nhất định trong khâu yếu nhất của CNTB. DO đó, sự tấn công của
CNTB vào nước XHCN chiến thắng là không thể tránh khỏi và sẽ là vô cùng gay
go gian khổ, trong trường hợp đó sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
là chính nghĩa.


Ít lâu sau cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga (1917) thành công và dự
đoán của Lênin đã thành sự thật. Lênin đã kêu gọi toàn dân đứng lên bảo vệ thành

quả cách mạng của mình trước sự tiến công bao vây của CNTB thế giới.
“ Từ ngày 25-10-1917 chúng ta là những bảo vệ Tổ quốc, chúng ta tán thành
bảo vệ Tổ quốc. Chiến tranh giữ nước mà chúng ta tiến hành là một cuộc chiến
tranh để bảo vệ Tổ quốc XHCN; bảo vệ CNXH với tính cách là Tổ quốc” (12, tr.
216).
Như vậy tình thần cơ bản trong lời kêu gọi của Lênin hàm chứa nội dung
tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc phải bằng
sức mạnh của cả nước, của cả chế độ XHCN chứ không phải của riêng lĩnh vực
nào. Suy rộng ra có nghĩa là bảo vệ Tổ quốc XHCN với tính cách là cả một hình
thái kinh tế- xã hội, với những bản chất ưu việt của nó, có khả năng đầy đủ tạo
thành sức mạnh tổng hợp để giữ nước.
Để chuẩn bị kế hoạch giữ nước một cách căn bản, ngay tại Đại hội lần thứ II
(1917) của Đảng bônsêvích Nga, Lênin đã đưa ra khái niệm về sức mạnh quân sự
của Nhà nước XHCN: “Đối với chúng ta, một nước mạnh là nhờ sự giác ngộ của
quần chúng, một nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ mọi cái, quần chúng có
thể phán đoán về mọi cái và đi vào hành động một cách có ý thức. Vì vậy sức
mạnh của một nhà nứoc bao gồm những khả năng của cơ cấu xã hội, giai cấp, các
tiềm lực kinh tế, khoa học, tinh thần, chính trị và tiềm lực quân sự “ (12, tr. 413).
Từ những quan đIểm cơ bản trên, kết hợp với sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng
bônsêvich Nga đứng đầu là Lênin đã tiến hành phát động toàn dân đứng lên bảo vệ
Tổ quốc bằng sức mạnh của toàn bộ đất nước XHCN, diễn ra toàn diện trên tất cả


các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật…, bằng sức mạnh tổng
hợp của chế độ mới XHCN, do đó đã đánh bại mọi cuộc tấn công của CNTB.
Trên thực tế, quá trình tồn tại nước XHCN đầu tiên trên thế giới là quá trình
liên tục đấu tranh chống lại các thế lực xâm lược bằng các thủ đoạn khác nhau, nền
quốc phòng Liên Xô đã tỏ ra sức mạnh của nình chống lại một cách có hiệu quả
trước sự tiến công vừa tàn bạo vừa tinh vi của CNTB. Nó đã phát huy có hiệu quả
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong

khu vực thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc- phát xít (1939- 19450, góp
phần cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới…
Nhưng cũng thật đáng tiếc cho nền quốc phòng vững mạnh của Liên Xô đã
bị tan ra nhanh chóng cùng với nhà nước XHCN trong những năm đầu của thập kỷ
90 này, trước sự “xâm lăng” không tiếng súng của chủ nghĩa đế quốc và các lực
lượng phản động, phản bội CNXH. Đó là bài học để chúng ta suy nghĩ tìm lời giải
đáp cho mình trong đIều kiện bối cảnh quốc tế hiện nay. Phải chăng dưới góc lý
luận sức mạnh tổng hợp cho ta nhận xét ban đầu rằng sự tan rã của nó do mất
phương hướng vì thiếu vai trò lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng cộng sản,
làm cho các yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp bị cắt rời, đối lập nhau, trước hết
là yếu tố chính trị, xã hội, quân sự, thế cũng đủ biết luận điệu “ phi chính trị hóa
quân đội “ thật là nguy hiểm.
b)
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng xây dựng quốc phòng toàn dân.
Thuật ngữ quốc phòng ở nước ta chỉ xuất hiện sau khi có chính quyền cách
mạng.
Cách mạng tháng Tám- 1945 thành công, chính quyền mới Việt Nam dân
chủ cộng hoà được thiết lập,những ngay sau đó phải đương đầu với bao khó khăn,
thử thách, hiểm nghèo. Trước hết phải đối phó với sự tấn công từ bốn phía của các


loại kẻ thù Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, và bọn phản động trong nước Việt Quốc, Việt
Cách; tất cả bọn chúng tuy có âm mưu khác nhau nhưng đều chung một chiến lược
tiêu diệt chính quyền cách mạng, thủ tiêu Đảng cộng sản và người đứng đầu là Hồ
Chủ tịch. Vì thế vấn đề bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ thành quả cách
mạng trong nước vừa mới giành được, bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu, là vấn đề sống còn của dân tộc. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó của cách mạng,
Hồ Chủ tịch đã nhanh chóng xúc tiến công việc bảo vệ quan điểm sức mạnh tổng
hợp, triển khai toàn diện sức mạnh đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
quân sự, văn hoá, ngoại giao. Chủ trương của Người là phảI tiến hành tiêu diệt cả “

ba thứ giặc”; giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, kết hợp với kiện toàn nhà nước và
các thiết chế của nhà nước dân chủ nhân dân, trong đó có sắc lệnh thành lập Bộ
Quốc phòng, nhằm củng cố thực lực cách mạng coi đó là cơ sở nguồn gốc của sức
mạnh giữ nước và bảo vệ chính quyền. Đồng thời kết hợp với đẩy mạnh hoạt động
ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo đúng nguyên tắc để giải giáp quân Nhật; gạt quân
Anh- Tưởng về nước; hoà hoãn với Pháp; loại trừ bọn phản động tay sai của Quốc
dân đảng là hai tổ chức Việt quốc, Việt cách mà không phải dùng đến quân sự,
hoạt động quân sự lúc này chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ, là hậu thuẫn cho các hoạt động
chủ yếu khác.
Làm như vậy chính là thể hiện quan điểm giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp,
không thiên về một mặt nào, của Đảng ta và Hồ Chủ tịch.
Khi giặc Pháp gây chiến ở Nam bộ, khiêu khích ở Hải phòng chỉ sau khi ta
giành chính quyền chưa đầy một tháng nhưng Bác vẫn kiên trì, thậm chí có những
nhân nhượng mang tính sách lược để tranh thủ thời gian củng cố thực lực cách
mạng , mãi tới tháng 12-1946 mới phải thực hiện toàn quốc kháng chiến. Và cuộc


kháng chiến mà người lựa chọn thấm nhuần sâu sắc quan đIểm sức mạnh tổng hợp;
thể hiện trong lời hiệu triệu giữ vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam bộ
( 22-12-1946): “ Cách thực hành trường kỳ kháng chiến và toàn dân kháng chiến:
bằng quân sự ( dũng cảm kỷ luật); bằng chính trị ( đoàn kết, trật tự ); bằng kinh tế (
tăng gia sản xuất); bằng ngoại giao ( thêm bạn bớt thù). Trước hết là bằng tinh
thần, bại không nản, thắng không kiêu… chung sức, đồng tâm nhất trí, giữ gìn trật
tự, tuân theo mệnh lệnh của chính phủ” ( 32,tr.13).
Dự đoán cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp lần này sẽ quyết liệt
lâu dàI, trong khi đó chúng ta còn hạn chế về nhận thức quân sự, vì vậy Hồ Chủ
tịch đã chủ động viết một loạt bài đăng trên báo” Cứu quốc” từ tháng 5 đến tháng
12-1946. Những bài viết này thể hiện lý luận quân sự tiên tiến, kết hợp giữa lý luận
Mác-Lê nin với truyền thống đánh giặc của dân tộc và binh pháp phương Động,
trong đó nội dung bao trùm vẫn là sự kết hợp các lĩnh vực, các yếu tố cấu thành

sức mạnh tổng hợp.
“Bài 7: “ Hình thức chiến tranh ngày nay” chứa đựng nhiều kiến thức hiện
đại, trước kia chỉ có quân đội đánh nhau ở tiền tuyến và trên mặt đất hay trên mặt
nước nên người ta gọi là bình diện chiến tranh. Ngày nay đánh nhau ở cả trên
không và cả ở tiền tuyến cũng như hậu phương nên người ta gọi là lập thể chiến
tranh. Trước kia chỉ đánh nhau về quân sự, nhưng ngày nay đánh nhau đủ mọi mặt,
quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng nên người ta gọi là toàn diện chiến tranh …
Chiến tranh ngày nay phức tạp vè hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân
dân về đủ mọi mặt để ứng phó không thể nào thắng lợi được” ( 32,tr.13)


Nói chuyên tại trường Chính trị trung cấp quân đội ngày 25-10-1951, ( nay
là Học viện Chính trị –Quân sự) Bác căn dặn : “ Quân sự mà không có chính trị
như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” ( 33, tr.14)
Bác không chỉ dừng lại ở những lời huấn thị mà còn trực tiếp uốn nắn
những nhận thức lêch lạc cuả cán bộ ta hiểu sai về sức mạnh tổng hợp của chiến
tranh nhân dân. Tại hội nghị chiến tranh du kích do Trung ương Đảng triệu tập ( 71952), Bác phân tích những khuyết điểm của cán bộ Đảng, quân đội:
“ 1. Cán bộ quân, dân, chính , Đảng không nghiên cứu rõ ràng, tỉ mỉ, sâu sắc
những chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương, Chính phủ gửi xuống… Địa phương
thấy hẹp, chỉ thấy cái cây mà không thấy cái rừng, chỉ thấy một mà không thấy
mười, cho nên có một công việc mà địa phương cho là thành công nhưng đan ghép
với tình hình chung thì lại là thất bại…
2. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích không nên chỉ biết đánh.
Biết đánh là cái tốt, nhưng chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính trị, kinh tế, tuyên truyền
giáo dục nhân dân tức là chỉ biết có một mặt. Vì đánh không thể tách rời được với
chính trị và kinh tế. Nếu chỉ biết đánh mà không nghĩ đến kinh tế thì khi hết gạo sẽ
không đánh được, cho nên đánh là cố nhiên, nhưng không phải là chỉ đánh thôi mà
phải lo cả các mặt khác nữa” ( 6,tr.262,263).
Mặt khác Người còn nêu lên mối quan hệ giữa các ngành, các cấp trong thực
hiện nhiệm vụ chung là kháng chiến và kiến quốc coi đó là khác nhau cơ bản trong

tổ chức xây dựng sức mạnh tổng hợp.
4. Về cán bộ thì cán bộ quân sự chỉ biết quân sự, cán bộ chính quyền chỉ biết
chính quyền, cán bộ Đảng chỉ biết Đảng, như thế chẳng khác gì người đứng một
chân. Cán bộ chỉ biết một mặt là có hại, không vững; vì các mặt quân, dân, chính,
Đảng kết hợp lại thành một khối, thiếu một mặt thì không mạnh, không hoàn


×