Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đặng thị hiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.5 KB, 16 trang )

Trường Đại học Ngoại thương
Khoa lí luận chính trị

Tiểu luận
Môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin

Tên đề tài:

PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ
VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI.

Họ tên: Đặng Thị Hiền
Lớp

: A6-TC-K48

Giáo viên hưỡng dẫn: Trần Quang Huy

Hà Nội 11/09
1


Mục lục
Mục

Trang

Mở đầu

3



1. Nguyên lí phổ biến

4

1.1 Nội dung nguyên lí phổ biến

4

1.2 Tính chất

6

1.3 Ý nghĩa phương pháp luận

7

2. Mối liên hệ với tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

8

2.1 Khái quát

8

2.2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội

9

Kết luận


15

Tài liệu tham khảo

16

2


MỞ ĐẦU

Mối liên hệ phồ biến là một trong hai nguyên lí cơ bản của phép
duy vật biện chứng. Nắm được khái niệm, tính chất, bản chất của
nguyên lí này sẽ giúp ta có phương pháp, biết vận dụng để nhận thức,
giải thích nhiều vấn đề trong cuộc sống. Ngoài ra, nguyên lí mối liên hệ
phổ biến còn cho ta một cái nhìn sáng suốt để đưa ra những phương án,
những cách xử lí tình huống, hoạch định phương hướng cho phù hợp
với từng hoàn cảnh cụ thể. Bởi vậy, làm tiểu luận với đề tài này là một
cơ hội để em củng cố và tìm hiểu sâu về một trong những nguyên lí
quan trọng của biện chứng duy vật. Nhờ đó em có thể có cách nhìn rõ
ràng, cụ thể hơn về bộ môn Triết học. Trong quá trình áp dụng mối liên
hệ phổ biến giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, em hiểu biết
thêm được một số vấn đề bổ ích như tình hình đất nước ta trước và sau
đổi mới, sự chênh lệch khá lớn giữa trình độ phát triển của Việt Nam
với nhiều nước, tầm quan trọng của kinh tế tới đời sống con người,
những nỗ lực của chính để phát triển đất nước, những vấn đề tồn tại mà
Việt Nam đang phải khắc phục,... Bởi còn rất nhiều thiếu sót với những
kiến thức thu nhận, tìm hiểu được nên em hi vọng sẽ nhận được sự
đánh giá, sữa chữa, bổ sung của các thầy cô bộ môn trong khoa lí luận

chính trị. Cám ơn thầy Trần Quang Huy đã hưỡng dẫn em hoàn thành
tiểu luận này!

3


1 Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
1.1

Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến

Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự
liên hệ và phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì
vậy ở bất kỳ cấp độ phát triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến vẫn được xem là một trong những nguyên lí
có ý nghĩa khái quát nhất.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng và
các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ
qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau.Trong đó liên hệ là sự tác
động qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại cho nhau, là sự quy
định lẫn nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn nhau của
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan. Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật
biện chứng còn khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật
và hiện tượng chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan
điểm này, các sự vật, các hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có
khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng
tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Các
mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong
toàn bộ vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm duy vật

biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự
liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ
tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó. Tính đa dạng của sự liên hệ do
4


tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự
vật và hiện tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua
lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc
tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối
với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên
ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói
chung nó không có nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường phải thông
qua các mối liên hệ bên trong mà phát huy. Tuy nhiên mối liên hệ bên
ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn giữ vai trò quyết định.
Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối
liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số
lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ
trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được
thực hiện thông qua một hay một số khâu trung gian. Có mối liên hệ
bản chất và mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và mối
liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối
liên hệ khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận
động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó
cũng có mối liên hệ với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của
các sự vật và các quá trình tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng
về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại
đó. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển
hoá đó có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét
hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật hiện tượng ấy.


5


1.2 Tính chất.
Tính khách quan: sự quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn
nhau của các sự vật hiện tượng là cái vốn có, tồn tại độc lập với ý thức
con người. Con người chỉ có khả năng nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ. Mối liên hệ là cái có trong mỗi bản thân sự việc, hiện tượng,
xuất phát từ tính thống nhất của vật chất.
Tính phổ biến: Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng có quan hệ với sự
vật hiện tượng khác. Ví dụ như mối liên hệ giữa các loài trong tự nhiên
tạo thành hệ cân bằng sinh thái, mối liên hệ giữa người và người trong
xã hội tạo thành sự đa dạng phức tạp của xã hội. Ngoài ra, tính phổ biến
của mối liên hệ còn biểu hiện ở quan hệ chặt chẽ giữa các mặt, các yếu
tố, các quá trình trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng. Ví dụ mối liên
hệ giữa đồng hóa và dị hóa trong cơ thể sinh vật, mối liên hệ giữa kinh
tế và chính trị trong xã hội.
Tính đa dạng, phong phú: các sự vât hiện tượng hay các quá trình
khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò cụ
thể khác nhau, giữ vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của
nó; cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều
kiện khác nhau , ở những giai đoạn khác nhau của quá trình vận động
thì cũng có nhữngtinhs chất, vai trò khác nhau. Có thể phân chia các
mối liên hệ thành từng cặp: mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối
liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối
liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên, mối liên hệ chung và riêng,…

6



1.3 Ý nghĩa phương pháp luận
Quan điểm toàn diện: khi nhận thức về mối liên hệ phải đăt trong
mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các mặt của chính sự
vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác.
Ví dụ: khi xem xét đánh giá một con người phải đánh giá toàn diện các
mặt đạo đức, trí tuệ, ngoại hình. Phải phân biệt từng mối liên hệ, thấy
vị trí của tùng mặt từng mối liên hệ trong chỉnh thể. Tuy nhiên cũng
cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều
kiện nhất định. Trong hoạt động thực tế, khi tác động vào sự vật cần
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật đó với sự vật khác. Phải biết sử
dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau tác động vào
sự vật nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
Quan điểm lịch sử - cụ thể: Khi nhận thức vào sự vật phải chú ý điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát
triển. Phải xác định rõ vị trí , vai trò khác nhau của mối liên hệ cụ thể
trong những tình huống cụ thể để từ đó có được giải pháp đúng đắn và
có hiệu quả trong các vấn đề thực tiễn. Mọi sự vật hiện tượng đều tồn
tại trong không gian thời gian nhất định và mang dấu ấn của không
gian thời gian đó. Do đó chúng ta cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi
xem xét và giải quyết mọi vấn đề thực tiễn đặt ra.

7


2. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội
2.1 Khái quát
Để hiểu rõ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội, ta cần hiểu được bản chất của các khái niệm.

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GDP (tổng sản phẩm quốc nội)
hoặc GNP ( tổng sản phẩm quốc gia) hoặc thu nhâp bình quân đầu
người trong một thời gian nhất định. Các nhân tố của tăng trưởng kinh
tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản, công nghệ. Để đo lường
tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối (mức chênh
lệch quy mô kinh tế giữa hai kì), tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm trong một giai đoạn (chênh lệch giữa quy mô kinh tế hiện tại so
với quy mô kinh tế kì trước chia cho quy mô kinh tế kì trước).
Công bằng xã hội với cách nhìn tổng thể có thể hiểu là các giá trị
định hướng để con người sinh sống và phát triển trong các quan hệ giữa
các thành viên trong cộng đồng về vật chất, tinh thần. Đó là những giá
trị cơ bản trong các quan hệ xã hội: quan hệ giữa mức độ lao động –
mức độ thu nhập, quyền sở hữu tư liệu sản xuất – quyền định đoạt sự
sản xuất và phân phối, mức độ phạm tội – mức độ bị trừng phạt, quan
hệ giữa các thành viên trong xã hội với hoàn cảnh kinh tế, mức độ phát
triển trí lực khác nhau và có cơ hội tham gia vào quá trình giáo dục,
khám chữa bệnh, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể dục
thể thao .

8


Có thể nói tăng trưởng kinh tế là biểu hiện về vật chất còn công
bằng xã hội là yếu tố về tinh thần. Sự thay đổi về tăng trưởng kinh tế là
sự thay đổi về lượng còn sự thay đổi về công bằng xã hội là sự thay đổi
về chất của một đất nước.
2.2 Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công
bằng xã hội. Không thể có công bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế
thiếu hụt chỉ đủ cung cấp cho dân chúng một cuộc sống “giật gấu vá

vai”, “khéo ăn mới no khéo co mới ấm”. Nói cách khác, khi có được
mức độ tăng trưởng kinh tế hợp lí mới có khả năng xây dựng được
những cơ sở cần thiết như trường học, bệnh viện, đường xá, giao thông,
… và nâng cấp các điều kiện khác để phục vụ cho công bằng xã hội.
Một đất nước có mức độ tăng trưởng kinh tế thấp, không bền vững sẽ
gặp khó khăn trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Bởi lúc đó, dù có
muốn tạo dựng công bằng xã hội thật hiệu quả thì cũng không đủ khả
năng về kinh tế, cơ sở hạ tầng. Trên thực tế, dân số ngày càng tăng, mà
thêm vào đó các yêu cầu về cuộc sống cũng không ngừng thay đổi theo
chiều hướng đi lên. Nó không chỉ gói gọn đơn thuần trong việc “ăn
chắc mặc bền”. Nó còn là nhu cầu học tập, vui chơi, chăm sóc sức y tế,
giải trí,... Và những nhu cầu đó luôn phát triển để tiến tới cho con
người hưởng thụ những gì tốt nhất, xứng đáng với công sức lao động
bỏ ra. Thế nên tăng trưởng kinh tế vững chắc cho ta niềm tin để xây
dựng một công bằng xã hội lí tưởng

9


Ngược lại, thực hiện tốt công bằng xã hội trở thành động lực để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Không thể có một nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, có hiệu quả cao, bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng
thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất và một bộ phận đáng kể lực
lượng lao động thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra lề xã hội. Tăng trưởng
kinh tế chính là nhờ vào sức lao động của nhân dân để tạo ra của cải
cho xã hội. Chỉ khi nào người dân cảm thấy mình được hưởng những
điều kiện xứng đáng, được chăm sóc tốt về y tế, giáo dục, văn hóa,…
thì họ mới cống hiến năng lực bản thân bằng sự tận tâm vào công cuộc
xây dựng đất nước. Bởi khi đó dân chúng tin rằng làm giàu cho đất
nước cũng chính là làm giàu cho chính mình, làm cho cuộc sống của

chính mình tốt đẹp hơn. Mặt khác, thực hiện tốt công bằng xã hội
không chỉ có lợi cho tăng trưởng kinh tế hiện tại mà cả tương lai. Vì
khi tạo được một xã hội lành mạnh, công bằng, có cơ sở vật chất tốt,
tức là ta đã tạo điều kiện để cho một thế hệ mới-thế hệ của tương lai
phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Đó sẽ là những nguồn
lao động tốt, có phẩm chất, trình độ trong tương lai, sẽ làm cho tăng
trưởng kinh tế được bền vững, ổn định và phát triển.
Nhìn vào tình hình tăng trưởng kinh tế từ 1975 của Việt Nam ta có
thể thấy rõ điều này.
Từ 1975 đến 1985, sau khi thống nhất đất nước, thu nhập quốc dân
tăng rất thấp, có năm còn giảm: năm 1997 tăng 2,8%, năm 1979 giảm
2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4% thấp xa
so với tốc độ tăng trưởng dân số làm cho thu nhập quốc dân đầu người

10


giảm sút mạnh; thời kì 1981-1985 thu nhập quốc dân có những bước
tăng trưởng tiến bộ hơn. Nhưng nhìn chung thời kì 1977-1985 chỉ tăng
được 3,7%. Lại đặt trong hoàn cảnh đất nước vừa bước ra khỏi chiến
tranh, nền kinh tế còn vô cùng khó khăn. Thu nhập quốc dân sản xuất
trong nước chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng,
chẳng những không có đủ tích lũy trong nước mà còn không đủ tiêu
dùng. Toàn bộ quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ nước
ngoài. Đó là một thời kì mà tăng trưởng kinh tế nước ta gặp nhiều khó
khăn, cộng với một xuất phát điểm thấp. Điều đó dẫn tới hậu quả tất
yếu là công bằng xã hội không được thực hiện tốt. Vào thời kì này, dù
đã kết thúc chiến tranh nhưng cuộc sống của người dân không được cải
thiện. Sản xuất công nghiệp- nông nghiệp đình đốn; lưu thông, phân
phối ách tắc; lạm phát ở mức ba con số; đời sống tầng lớp nhân dân sa

sút chưa từng thấy. Ở thành thị, lương tháng của công nhân, viên chức
chỉ đủ sông 10-15 ngày. Ở nông thôn, vào lúc giáp hạt có tới hàng triệu
nông dân thiếu ăn. Tiêu cực xã hội lan rộng, lòng dân không yên. Công
bằng xã hội không được thực hiện tốt lại tiếp tục ảnh hưởng xấu tới tình
hình tăng trưởng kinh tế.
Từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội đã thực sự khởi sắc. Kinh tế tăng trưởng liên tục với
tốc độ khá: năm 1986 tăng 2,84%, năm 1991 tăng 5,81%, năm 1996
tăng 9,84%, năm 2001 tăng 6,89%. Bình quân thời kì 1986-2005 đạt
6,76%, cao gần gấp đôi tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kì 1977-1985.
GDP năm 2005 gấp trên 3,7 lần 1985, đến năm 2005 tăng trưởng kinh
tế đạt 25 năm liên tục. Về xã hội, theo thống kê, tổng sản phẩm quốc
11


nội tính bình quân đàu người tăng từ 200USD năm 1990 lên 835 USD
năm 2007, khoảng 80-85% gia đình tự đánh giá mức sống khá hơn so
với trước. Trong những năm qua, chúng ta đã lần lượt kí kết và thực
hiện các văn bản pháp lí quốc tế quan trọng về quyền lao động: xóa bỏ
lao động cưỡng bức, xóa bỏ phân biệt trong tuyển dụng và nghề
nghiệp, xóa bỏ hình thức lao động trẻ em. Nhờ tăng trưởng kinh tế khá,
Chính phủ đã dành tới 24-26% ngân sách nhà nước để chi cho các
chương trình dân số-kế hoạch hóa gia đình , tạo việc làm, xóa đói giam
nghèo, xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục, y tế, xây dựng mạng lưới an sinh
xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội…Theo đánh
giá của Liên hợp quốc, giá trị chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam có xu hướng tăng đều đặn và liên tục trong mấy chục năm
qua: từ 0,590 năm 1985 lên 0,620 năm 1990, đến 2005 là 0,733. Cũng
có thể nói công bằng xã hội được thực hiện hiệu quả đã ảnh hưởng tốt

cho kinh tế.
Các dẫn chứng trên cho thấy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tăng hoặc cùng giảm. Tất nhiên
cũng có thể có những nơi tăng trưởng kinh tế sẽ không tỉ lệ thuận với
công bằng xã hội. Đó là khi của cải sản xuất ra nhiều mà những người
lao động không hưởng đúng với khả năng lao động của họ mà lại thuộc
về một bộ phận tầng lớp khác. Ví dụ các chế độ chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản, đã có những giai đoạn kinh tế rất phát triển nhưng
không thực hiện được công bằng xã hội, cho nên không thể tồn tại bền
vững, dẫn đến bị thay đổi bởi các hình thức khác cho phù hợp. Điều đó
12


có nghĩa là muốn tăng trưởng kinh tế được lâu dài, ổn định thì nhất
thiết phải có cơ sở là công bằng xã hội. Nhất là trong xã hội ngày nay,
khi mà nhận thức con người tương đối toàn diện và không ngừng tăng,
mọi người sẽ không dễ dàng chấp nhận những điều không công bằng,
không hợp lí.
Như đã nói ở trên, tăng trưởng kinh tế có thể coi là thứớc đo về
lượng của một xã hội, còn công bằng xã hội là thước đo về chất. Mà
chất và lượng thì luôn có một mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi tăng
trưởng kinh tế đạt đến một mức nhất định nào đó thì công bằng xã hội
sẽ bước sang một giai đoạn khác cao hơn, tiến bộ hơn. Năm 2008 thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 1024 USD/năm. Nếu một
ngày nền kinh tế của chúng ta lớn mạnh đến mức GDP/người đạt mức
trên 50000USD/năm thì đời sống của người dân có thể sẽ tương đương
với của các nước như Lucxembua, Nauy, Singapore. Một đất nước
muốn được công nhận là giàu mạnh thì không thể nào chỉ tập trung
phát triển kinh tế mà phải tiến hành trên rất nhiều mặt. Ta thấy thế giới
đã đặt ra rất nhiều thước đo để đánh giá tình hình của một quốc gia,

như GDP, GDP/ người, HDI
Lẽ dĩ nhiên không thể cứ phát triển kinh tế thật tốt thì tự khắc công
bằng xã hội sẽ được thiết lập, hay cứ có công bằng xã hội thì ngay lập
tức tăng trưởng kinh tế sẽ lên vùn vụt. Chúng chỉ mới là điều kiện cần
của nhau. Để cả hai cùng phát triển, gắn bó chặt chẽ với nhau thì cần có
những chính sách, biện pháp phù hợp, hiệu quả để liên kết cả hai mặt
lại. Đó là đảm bảo hài hòa về lợi ích giữa các nhóm, các giai tầng trong

13


xã hội; giải quyểt sự gia tăng phân hóa giàu nghèo; đảm bảo quyền lợi
của người lao động; nâng cao vị thế của người lao động; ngăn chặn và
đẩy lùi tình trạng tham nhũng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; và cùng với những biện pháp kinh tế thông minh, sang suốt của
Chính phủ,...

KẾT LUẬN

Trong quá trình xây dựng đất nước hiện nay, việc nắm chắc nguyên
lí phổ biến nói riêng và phép biện chứng duy vật nói chung là một điều
bắt buộc để có thể hiểu rõ các mối quan hệ giữa các nhân tố xã hội,
không chỉ là giữa công bằng xã hôi và tăng trưởng kinh tế, mà có thể
nắm được bản chất của những mối liên hệ khác như giữa xây dựng nền
14


kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, giữa tăng
trưởng kinh tế với môi trường sinh thái,… Từ đó ta có thể nhận xét,
đánh giá tình hình, đưa ra những hoạch định, chính sách, phương

hướng, giải pháp một cách hiệu quả, thông minh, đúng đắn. Khi đứng
trước một vấn đề trong thực tế mang tính triết học hay xã hội, việc vận
dụng mối liên hệ phổ biến có thể giúp ta có một cái nhìn khái quát, rõ
ràng về bản chất vấn đề.
Em hi vọng bài tiểu luận này đã có thể phần nào làm rõ được giá trị
của nguyên lí phổ biến và việc vận dụng của nguyên lí.

Các tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo - Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin – Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Hà Nội -2009

15


2. />Object=4&news_ID=29557398
3. />%9Fng_kinh_t%E1%BA
%BF#T.C4.83ng_tr.C6.B0.E1.BB.9Fng_v.C3.A0_ph.C3.A1t_tri.E1.B
B.83n
4. />%E1%BB%94NG%20QUAN%20V%E1%BB%80%20X
%C3%83%20H%E1%BB%98I%20VI%E1%BB%86T%20NAM
%20TRONG%20QU%C3%81%20TR%C3%8CNH
%20%C4%90%E1%BB%94I%20M%E1%BB%9AI
%20%C4%90%E1%BB%82%20PH%C3%81T%20TRI%E1%BB
%82N%20...
5. />
16




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×