Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VỀ mối QUAN hệ hợp tác GIỮA giáo viên chủ nhiệm với phụ huynh học sinh và các tổ CHỨC, đoàn THỂ TRONG VIỆC GIÁO dục đạo đức PHÁP LUẬT CHO học SINH THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.23 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Đạo đức của học sinh vừa mang ý thức hệ xã hội, vừa phải phù hợp với các
qui định và chuẩn mực của xã hội; đồng thời phải phù hợp với những qui định của
nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay. Do đó trong hoạt động giáo dục
đạo đức học sinh không thể xem nhẹ và tách rời giữa giáo dục nhà trường với gia
đình và xã hội. Nếu làm tốt, làm đúng mọi qui trình giáo dục đạo đức phù hợp với
qui luật nhận thức sẽ giúp cho học sinh ý thức và điều chỉnh hành vi của mình,
điều chỉnh các mối quan hệ; tất cả các yếu tố sẽ góp phần hình thành nhân cách của
học sinh.
Đối với học sinh THPT ở độ tuổi mà tâm sinh lý lứa tuổi phát triển mạnh,
các em có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu tìm hiểu, thích
đua đòi ăn chơi, thích khẳng định mình là người lớn... ; trong khi đó các kiến thức
về hiểu biết xã hội, hiểu biết về gia đình, hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế,
thậm chí có em còn mơ hồ; do đó các em chưa có trách nhiệm với hành vi của
mình, nên dễ dẫn đến phạm tội, vi phạm pháp luật hoặc vi phạm nội quy nhà
trường.
Trường THPT Thái Ninh, đóng ở khu vực nông thôn ven biển; học sinh
chủ yếu ở các xã vùng thuần nông; hiện nay có gần 1500 HS với 30 lớp. Bên cạnh
những thuận lợi về cơ sở vật chất khang trang, cơ bản vẫn còn nhiều khó khăn
trong công tác giáo dục đạo đức học sinh.
Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, HS nói
riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà trường và
xã hội. Lúc sơ sinh vai trò của gia đình là chủ đạo, tuổi học mầm non gia đình và
nhà trường góp phần quyết định, tuổi học phổ thông (từ tiểu học tới trung học)
càng lớn vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội càng cân đối. Để làm tốt việc


giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống cho HS THPT chúng ta phải kết
hợp chặt chẽ nhiều lực lượng, tổ chức, đoàn thể.
Nhà trường, gia đình và các tổ chức xã hội có vai trò giáo dục khác nhau đối
với sự hình thành và phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của HS.


Trong mối quan hệ đó thì nhà trường được xem là trung tâm, chủ động, định
hướng trong việc phối hợp với gia đình và các tổ chức xã hội. Nhà trường là môi
trường giáo dục toàn diện nhất, là cơ quan nhà nước thực hiện chức năng giáo dục
chuyên nghiệp nhất nên nhà trường nhà trường là lực lượng giáo dục có hiệu quả
nhất, hội tụ đủ những yếu tố cần thiết để có thể huy động sức mạnh giáo dục từ
phía gia đình và các tổ chức xã hội.
Có một thực trạng tồn tại là các tệ nạn xã hội như đề đóm, cờ bạc, nghiện
hút v.v … cũng xuất hiện, làm đảo lộn vẩn đục môi trường giáo dục đạo đức,
không ngừng ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách và lối sống của HS. Nhà trường
dù là một pháo đài vững chắc nhưng vẫn có thể bị "tập kích" từ phía ngoài. Nhà
trường không phải là một ốc đảo tách khỏi xã hội, tách xa thực tiễn. Thực tiễn cuộc
sống, nhất là cuộc sống xã hội đang có các nhân tố của kinh tế thị trường tác động
đến nhà trường, có lúc nhẹ nhàng, có khi sôi động dồn dập. Xã hội ô nhiễm, luồng
văn hoá ngoại lai, đồi truỵ, bạo lực... len lỏi vào mọi tầng lớp nhân dân đã rất dễ
gây ấn tượng và phản ảnh sâu đậm đối với HS.
GVCN biết kết hợp và phát huy mối quan hệ hợp tác giữa GVCN với PHHS,
các tổ chức, đoàn thể nhằm giáo dục về tình hình và nhiệm vụ của tuổi trẻ với đất
nước, tình hình thời sự, chính trị trong nước và thế giới (có định hướng chính trị rõ
ràng); giáo dục về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội - chính trị trong hệ
thống chính trị ở Việt Nam, về quyền tự do, dân chủ và trách nhiệm công dân; bồi
dưỡng một số kỹ năng sinh hoạt chính trị - xã hội cần thiết.


Vì vậy, tôi xin báo cáo tham luận: “Mối quan hệ hợp tác giữa GVCN với
PHHS, các tổ chức, đoàn thể trong việc giáo dục đạo đức, pháp luật cho học
sinh THPT”.
1. Mục tiêu.
Trên cơ sở thực tiễn vai trò của GVCN lớp trong mối quan hệ hợp tác giữa
GVCN với PHHS, các tổ chức, đoàn thể trong việc giáo dục đạo đức, pháp luật cho
HS nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và góp phần hoàn thiện nhân cách HS ở

trường THPT.
2. Nhiệm vụ.
Nghiên cứu lý luận về mối quan hệ hợp tác giữa GVCN với PHHS, các tổ
chức, đoàn thể trong việc giáo dục đạo đức, pháp luật cho HS để đề ra những giải
pháp, hiệu quả và cụ thể trong mối quan hệ đó.
Nếu chỉ riêng một mình cá nhân GVCN tiến hành thì việc giáo dục đạo đức,
pháp luật cho HS gặp không ít khó khăn, phức tạp hoặc không thành công dẫn đến
tình trạng buông xuôi, thả lỏng. Đồng chí Nguyễn Công Khiên, Hiệu trưởng trường
THPT Thái Ninh trong cuộc họp triển khai công tác đầu năm học bàn về công tác
giáo dục đạo đức cho HS có nói "Giữ các em lại trường để giáo dục cho các em
tiến bộ thì khó, nhưng đẩy các em đi thì dễ". Điều này chứng tỏ nhà trường rất
chú trọng tới công tác GD đạo đức, pháp luật cho HS
Để khắc phục những khó khăn trên trong công tác chủ nhiệm không phải là
điều dễ dàng và đơn giản. Do vậy, tôi xin được đưa ra một số giải pháp để các
đồng nghiệp cùng chia sẻ.
3. Tình hình thực tế của lớp chủ nhiệm
Năm học 2011-2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 10A10 gồm học
sinh của 03 xã (Thái Thượng + Thái Xuyên + Thái Hưng) với tổng số 46 em (22
học sinh nam, 24 học sinh nữ). Đa số các em ở khu vực nông thôn ven biển có tỉ lệ
học sinh yếu kém về học lực và hạnh kiểm khá cao. Trong thời gian làm công tác


chủ nhiệm, đặc biệt là các lớp đầu cấp, tôi nhận thấy có một số vấn đề thuận lợi và
khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
Được sự chỉ đạo sâu sắc của Ban giám hiệu nhà trường đề ra kế hoạch
cụ thể theo kỳ, tháng và tuần và theo dõi, kiểm tra đôn đốc thường xuyên.
Hợp tác chặt chẽ giữa GVCN với GVBM, BGH, các đoàn thể và hội CMHS
trong công tác giáo dục đạo đức, pháp luật cho HS.
Đa số HS ngoan, có ý thức học tập và rèn luyện đạo đức.

HS trong lớp đoàn kết và có ý thức xây dựng tập thể lớp.
Giữa GVCN, phụ huynh học sinh và BGH luôn phối hợp chặt chẽ trong
công tác giáo dục HS.
b. Khó khăn:
- Phần lớn HS ở xa trường, đi về trong ngày rất vất vả (học sinh xã Thái
Thượng nhà cách trường gần 10 km). Nghề nghiệp của phụ huynh học sinh
chủ yếu là nông, ngư, buôn bán nhỏ lẻ hoặc đi làm ăn xa … Do đó, ít có điều kiện
quan tâm, theo dõi, quản lí con em mình thường xuyên.
Một bộ phận học sinh lười học, đua đòi, ham chơi dẫn đến nghỉ học không lí
do hoặc giả mạo chữ kí phụ huynh, kết quả học tập thấp, vi phạm nề nếp, tác
phong và nội quy nhà trường. Một số em sống ở gần chợ (như chợ Lục), gần các
nơi có quán internet, gia đình kinh doanh …lôi cuốn các em khác bỏ học, bỏ tiết đi
đánh điện tử, ăn mặc hở hang.
Nhiều phụ huynh tỏ thái độ khó chịu khi GVCN góp ý về ăn mặc của con
em mình thì cho là Thầy giáo là " Cổ hủ, lạc hậu"
Nhiều em để thỏa mãn sự "hưởng thụ" và "khám phá" của mình ở môi
trường mới đã có sự gian dối, che đậy khuyết điểm hoặc phản ánh thiếu khách
quan, trung thực về quá trình học tập và rèn luyện của mình. Cho nên, nhiều phụ
huynh lúng túng, ngạc nhiên, sửng sốt khi nhận được kết quả học tập và rèn luyện


của con em mình vào mỗi kì họp PH (trừ những em có "vấn đề" GVCN đã mời PH
trao đổi) trong khi hằng ngày vẫn thấy con đi học đều đặn và được báo cáo là "mọi
việc vẫn tốt"
Là giáo viên ngoại ngữ, số giờ trực tiếp trên lớp ít nên việc theo dõi, nhắc
nhở học sinh hằng ngày bị hạn chế.
c. Xét riêng về đặc điểm của lớp 10A10:
Là lớp đại trà, điểm đầu vào tương đối thấp so với các lớp khác, khó chọn
học sinh làm mũi nhọn, các em ở lớp đầu cấp còn rất nhiều bỡ ngỡ với môi trường
mới thì việc đưa các em vào khuôn khổ cuả trường lớp là cả một quá trình.

Nhiều em có hoàn cảnh gia đình khó khăn thuộc diện nghèo, cận nghèo như
em Lê Công Chiến xã Thái Xuyên, em Giang Thanh Hiền xã Thái Thượng.
Nhiều HS ham chơi, thiếu sự quản lí của gia đình, hay vắng học, vi phạm
nội qui trường lớp như: Ngô Tiến tùng, Lê Xuân Hiếu, Lưu Tiến Đạt, Vũ Trung
Long, Vũ Văn Dụng, Đặng Đình Phách, Trương Thị Hằng …
Một số em, bố mẹ ly hôn, ở với ông bà nội, đời sồng kinh tế rất khó khăn
như em: N T H G, L T Đ.
Từ thực tế trên, trong quá trình làm công tác chủ nhiệm tôi đã không ngừng
trao đổi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ các thầy cô có kinh nghiệm, luôn
tìm tòi sáng tạo những phương pháp mới và sử dụng linh hoạt các biện pháp để
phối hợp với PHHS trong quả trình giáo dục học sinh. Bài viết này xin nêu ra một
số biện pháp trong công tác chủ nhiệm và công tác giáo dục đạo đức học sinh
THPT đã áp dụng ở lớp 10A10, năm học 2011-1012.
4. Biện pháp thực hiện
Kính

thưa
Cùng

quí
toàn

vị
thể

đại

biểu.

hội


nghị

Được sự cho phép của Ban tổ chức Hội nghị, tôi xin trình bày một số biện
pháp và giải pháp đã thực hiện để giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh như sau:


Có 5 nhân tố chính trong việc giáo dục đạo đức học sinh đó là: GVCN - gia
đình, nhà trường và xã hội. Mỗi nhân tố đều mang 1 vai trò riêng nhất định:
- Mối quan hệ giữa GVCN với nhà trường:
Tạo mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết giữa GVCN - Nhà trường - Gia đình
với các ban ngành đoàn thể để phát hiện ngăn ngừa, giáo dục và xử lý những học
sinh có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc tham gia với những băng nhóm bạo lực
ngoài nhà trường. Ký kết liên tịch với Đoàn trường về việc chống bạo lực học
đường, khi có dấu hiệu bất thường thì nhà trường và Bảo vệ kịp thời có mặt ngăn
chặn răn đe và điện thoại cho gia đình biết và cùng phối hợp giáo dục
Giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh phải được tiến hành thường
xuyên liên tục, phát huy thật tốt mối quan hệ giữa gia đình nhà trường và xã hội để
giáo dục các em. Công tác thi đua phải đặt lên hàng đầu, phải thực hiện phương
châm

sai

đâu

sửa

đó

chống


lây

lan.

Phát huy vai trò, trách nhiệm của GVCN: Đầu năm học GVCN nhận bàn
giao học sinh; nắm chắc trình độ học tập, kết quả rèn luyện hạnh kiểm của học sinh
lớp mình, danh sách các học sinh thường xuyên vi phạm cần được quan tâm giáo
dục, các học sinh cá biệt… để có kế hoạch, biện pháp giáo dục. GVCN có kế
hoạch và biện pháp quản lý chặt chẽ học sinh có biểu biện vi phạm đạo đức.
Nhà trường là môi trường giáo dục chuyên nghiệp, không chỉ phát triển về
kiến thức mà còn phải truyền tải cho học sinh những giá trị chuẩn mực của xã hội
để các em trở thành những con người trí thức thật sự có đời sống tinh thần phong
phú bên cạnh cuộc sống gia đình.
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa hiệu trưởng với học sinh, truyền đạt chủ
trương chính sách của ngành, nội quy của nhà trường đến học sinh không phải
bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm hoá, gương mẫu của bản thân mình.
Bên cạnh đó GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà


trường xét kỷ luật nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra
tiếp.
GVCN lấy chủ trương hoạt động của nhà trường do BGH cung cấp để lên kế
hoạch hoạt động lớp mình, chịu trách nhiệm truyền đạt cho CMHS và HS về chủ
trương của trường, sở…
Báo cáo thường xuyên với BGH về tình hình của lớp thường xuyên theo
định kì, hoặc đột xuất khi có vấn đề cần giải quyết
Khi một học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức thì xã hội phê phán rằng tai
GVCN hay đó là HS thầy nầy lớp nọ..v.v. đã không hoàn thành trách nhiệm của
mình. Nhưng ít ai nghĩ được rằng, vấn đề chính cần giải quyết lại là chúng ta đã

biết kết hợp giáo dục hay chưa hay lại chỉ toàn đỏ lỗi cho nhau.
Cách khắc phục: Không có bất kì phương pháp nào hay hơn là phải thay đổi
phương pháp giáo dục đạo đức. Phương pháp phải thật sự có ích cho HS, là một
hành trang đầy đủ để học sinh có thể tự tin bước vào cuộc đời.
- Mối quan hệ giữa GVCN với cha mẹ học sinh.
Gia đình: là tế bào của xã hội, là nền tảng của mỗi quốc gia và là chỗ dựa
vững chắc về mặt tinh thần, đồng thời cũng là kim chỉ nam để tránh những nhận
thức lệch lạc từ phía học sinh.
Nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành cho việc
giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội, thậm chí
cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ
trao đổi với GVCN trong 3 buổi họp phụ huynh trong một năm học. còn chủ yếu là
trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Trẻ thiếu thốn tình cảm,
thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được
chiều chuộng và chăm sóc quá mức nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo.
Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay chưa có một
khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không nhiều GVCN thực


sự có năng lực, làm chủ nhiệm chủ yếu bằng kinh nghiệm của bản thân, cộng với
trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít,
chỉ 4 tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức giáo viên đầu tư vào công tác chủ
nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say với công tác chủ nhiệm. Nội dung
chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục
công dân, giáo dục đạo đức học sinh còn ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển.
Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày
càng có nhiều nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự
khẳng định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp
luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn
tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức cớ chiều hướng gia tăng. Đó là khó khăn

về mặt khách quan gây cản trở cho những người làm công tác chủ nhiệm lớp.
Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh do nhà trường đề ra. Đi thăm
và trao đổi trực tiếp với gia điình PHHS khi thấy cần thiết. Mời PHHS tới trường
đẻ tra đổi về việc giáo dục HS khi có những hiện tượng bất thường và khẩn cấp.
Liên hệ thường xuyên với hội CMHS để tích cực hóa các hoạt động giáo dục.
Việc kết hợp phụ huynh (PH) để cùng nhau giáo dục HS cũng không kém
phần quan trọng. Phải làm cho PHHS tin tưởng nhà trường, thấy việc gửi con mình
vào trường là quyết định đúng đắn. Mối quan hệ này được thể hiện qua các buổi
họp giữa GVCN với PHHS - GVCN phải tạo được uy tín, vững vàng, bản lĩnh
trong buổi họp đầu năm. Đây là buổi họp rất quan trọng, GVCN sẽ thông báo
những văn bản, thông tư, nội quy trường đến PHHS. Họp bàn bạc để đi đến thống
nhất ý kiến, từ đó PHHS sẽ đồng tình ủng hộ GVCN trong việc giáo dục con mình;
kiên trì giải thích và thuyết phục họ nhận ra những điểm mạnh, yếu của con mình.
Đặc biệt phải hình thành trong PHHS thói quen tìm hiểu tình hình học tập của con
mình bằng cách liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp (qua giấy thông báo) với GVCN.


Để tiếp xúc được với PHHS thì nên chuẩn bị tốt nội dung cần trao đổi, chính
xác, rõ ràng, cụ thể. Có như thế, PHHS thấy được GVCN đã quan tâm sâu sắc đến
con mình từ đó yên tâm, tin tưởng GVCN, tin tưởng nhà trường. GVCN lớp cần
kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh trong quá trình giáo dục học sinh; kịp thời
liên hệ, báo cáo việc thực hiện nề nếp, kết quả học tập của các em, đề nghị gia đình
phối hợp trong việc uốn nắn các em chưa ngoan.
* Thành lập Ban đại diện cha mẹ học sinh:
Đầu mỗi năm học, kiện toàn Ban đại diện cha mẹ học sinh. Lập kế hoạch tổ
chức họp phụ huynh ít nhất 3 lần/năm. Tạo điều kiện cho cha mẹ học sinh thực
hiện tốt theo điều lệ. Từng thành viên trong Ban đại diện nắm bắt kịp thời tình
hình rèn luyện của học sinh thông qua báo cáo của giáo viên.
* Thực hiện sổ liên lạc gia đình:
Sử dụng có hiệu quả tác dụng của sổ liên lạc. Trên cơ sở đó, GVCN thông

báo tới các bậc cha mẹ học sinh về tình hình học tập, rèn luyện, ý thức từng em
đồng thời GVCN cũng nắm bắt được các thông tin về hoàn cảnh, cá tính, sự ham
thích… của học sinh từ phía phụ huynh cung cấp. Qua đó GVCN tìm những biện
pháp giáo dục phù hợp với từng học sinh.
* Thông qua các buổi họp phụ huynh:
Tại các buổi họp phụ huynh. GVCN thông báo tới các bậc phụ huynh nội
quy, quy định về học tập, nề nếp và các yêu cầu cần thiết của nhà trường tới các
bậc phụ huynh để đôn đốc học sinh thực hiện. Ngoài ra còn thông báo với gia đình
về các chuẩn mực đạo đức mà học sinh phải đạt được ở từng chương, từng học kỳ.
Tạo điều kiện cho phụ huynh trao đổi với GVCN về việc rèn luyện đạo đức của
từng em trong không khí thoải mái, chân tình. Đối với những học sinh có cá
tính, GVCN cần trao đổi cụ thể với gia đình và kết hợp chặt chẽ với gia đình tìm ra
các biện pháp cụ thể để giáo dục và uốn nắn (có thể mềm dẻo nhưng thật kiên
quyết với những em có hành vi không đúng).


GVCN tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh cần quan tâm hơn nữa đến
đời sống tình cảm của học sinh. Tạo cho các em có góc học tập, có một môi trường
sống lành mạnh. Cha mẹ anh chị em cần có mối quan hệ thân thiết, quan tâm đến
nhau từ đó có tác dụng tới việc hình thành nhân cách cho các em.
GVCN và cha mẹ học sinh phải thống nhất được phương hướng phấn đấu
của lớp đặt trong kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống nhất được các
biện pháp thực hiện. Đây là điều kiện đầu tiên để GVCN có được sự ủng hộ của
phụ huynh trong công tác tổ chức lớp học. Đặc biệt với những học sinh vi phạm
nội quy của trường, lớp, tuỳ theo mức độ vi phạm GVCN thông báo với phụ huynh
bằng văn bản (giấy thông báo), bằng điện thoại hoặc trực tiếp gặp để thống nhất
biện pháp giáo dục. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều giáo viên đã làm và
có hiệu quả: học sinh tiến bộ và phụ huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được
mời đến gặp
Cũng có GVCN mời phụ huynh đến để thông báo về tình trạng của trẻ với

mong muốn gia đình kết hợp cùng nhà trường để giáo dục cho các em tốt hơn, có
phụ huynh thì tiếp thu và cũng có phụ huynh lại bực tức con mình và đánh con
trước mặt giáo viên rồi dẫn con về cho... nghỉ học luôn vì cảm thấy xấu hổ. Điều
này đã cho thấy chính phụ huynh cũng bất lực trước con mình...
Lên danh sách cho cha mẹ HS tự đăng ký các môn cho con em mình học phụ
đạo, thoả thuận tiền thù lao trả giáo viên dứng lớp có biên bản kèm theo.
Yêu cầu CMHS ghi số điện thoại của mình để GVCN tiện liên hệ. Lấy ý
kiến đóng góp của CMHS về bản phương hướng. Giới thiệu và bầu ban đại diện
CMHS của lớp bao gồm 2 phụ huynh có tinh thần ủng hộ sẵn sàng giúp đỡ, nhiệt
tình có trách nhiệm, có khả năng với chức năng được bầu.
- Mối quan hệ với GV bộ môn
GVCN cần tạo điều kiện hình thành mối quan hệ tốt đẹp giữa GV bộ môn và
HS: Thường xuyên nhắc nhở HS tôn trọng tất cả các thầy cô, nhất là các thầy cô


trẻ; kiên quyết xử lý những HS vô lễ, thiếu tôn trọng thầy cô, chây lười trong học
tập. Khi được thông báo HS vi phạm, GVCN luôn lắng nghe thông tin từ hai phía
để có hướng giáo dục tốt; tạo điều kiện để GV bộ môn có thể hiểu được tình hình
lớp dẫn đến thông cảm, thương yêu, đối xử công bằng với HS; truyền đạt những
nhận xét của GV bộ môn đến học sinh (khen - chê) để các em rút kinh nghiệm,
phấn đấu.
Thống nhất kế hoạch và chương trình giáo dục chung đối với cả lớp
Thống nhất hình thức và biện pháp tác động đối với HS , HS bỏ tiết, nghỉ
phụ đạo không phép nhiều lần, Điều hoà những biện pháp tác động giữa các giáo
viên với HS
Phản ánh, trao đổi kịp thời những mong muốn của HS đến GVBM, ngược
lại GVCN cung cấp danh sách HS yếu môn học nào đó ở lớp cho GVCN biết kịp
thời.
Biết lắng nghe những nhận xét của giáo viên bộ môn thậm chí là những phê
phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân tích thông tin để phối hợp tác

động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn, vướng mắc của học sinh trong quá
trình học tập, đề đạt nguyện vọng của học sinh với giáo viên bộ môn để nâng cao
chất lượng giáo dục.
Vai trò của GVCN khác với những thầy cô giáo dạy bộ môn ở chỗ, ngoài
việc dạy học theo sự phân công thì GVCN còn kiêm thêm công tác chủ nhiệm với
lớp mà nhà trường đã giao. Như vậy, GVCN phải thực hiện triệt để việc dạy cá thể
hóa cho nhóm đối tượng học sinh của mình. Làm sao GVCN phải hiểu được cá
tính và năng lực của từng em? Muốn được như vậy, GVCN phải tiếp cận từng học
sinh bằng nhiều hình thức, nhiều con đường khác nhau một cách khéo léo như theo
dõi tình hình học lực, hạnh kiểm của các em ngay khi mới nhận lớp vào đầu năm
học. Từ đó, GVCN đề ra hướng giải quyết cụ thể đối với từng nhóm học sinh với
mục đích đưa các em vào “guồng máy” chung của lớp mà không làm cho các em


cảm thấy mình bị “kỳ thị” hay bị “phân biệt đối xử”. Công việc này không dễ chút
nào đối với những giáo viên còn “non” trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. Nó
đòi hỏi GVCN phải thật sự nhẫn nại, phải yêu nghề, yêu công việc “làm dâu trăm
họ” này thì mới vượt qua những khó khăn trước mắt để tìm hướng đi tốt nhất cho
các em. Đi sâu đi sát đến các em để GVCN hiểu được những tâm tư, nguyện vọng
của các em, nắm được những băn khoăn mà các em không biết chia sẻ hay không
dám bày tỏ cùng ai. Đây cũng có thể là mối dây của những hành vi tiêu cực khi các
em không kiềm chế nổi khi gặp “chuyện”. Bởi vậy, sâu sát đến từng học sinh giúp
GVCN có cái nhìn phổ quát hơn về từng học trò của mình. Từ đó, GV sẽ chọn lựa
những giải pháp giúp các em phát triển tốt hơn về cá thể cũng như tinh thần tập
thể.
Công việc này tưởng chừng đơn giản nên nhiều GVCN đã bỏ qua, không để
ý tới và chỉ đến khi “đụng chuyện” mới chạy nháo nhào để hỏi han thầy A, cô B về
em học sinh này, em học sinh kia thì lúc đó sự việc đã đi xa tầm kiểm soát của
GVCN rồi. Những hành vi bạo lực đã xảy ra rồi thì khó mà kìm lại được. Một việc
làm rất bình thường như những cuộc xã giao khác trong đời sống, GVCN phải là

người hỏi thăm những thầy cô giáo bộ môn về học trò của mình, xem có em nào có
những biểu hiện khác thường trong học tập hoặc có hành vi ứng xử không tốt ngay
trong tiết học của các giáo viên bộ môn hay không? Từ đó, GVCN nắm được mấu
chốt của vấn đề ngay từ đầu mà có hướng giải quyết “êm xuôi” không để những
mâu thuẫn giữa học sinh với học sinh, giữa thầy cô giáo bộ môn với học sinh xảy
ra… Việc liên hệ với các thầy cô giáo bộ môn, tôi cho rằng là việc làm thiết thực
nhất để GVCN nắm thêm được nguyên căn của những mâu thuẫn, những bất hòa
xảy ra trong lớp của mình. Có như vậy, những hành vi bạo lực trong học đường sẽ
giảm ngay, không còn chỗ đứng nữa.
Phối hợp với GVBM để dạy học hiệu quả ở lớp chủ nhiệm. Để theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc việc học tập của tập thể và cá nhân. Tập hợp ý kiến của đồng


nghiệp về lớp mình và lớp khác. Trao đổi trực tiếp với đồng nghiệp những vấn đề
cụ thể của lớp để cùng đưa ra biện pháp giáo dục thống nhất. Đề xuất các ý kiến
của tập thể về công tác dạy học với giáo viên có liên quan. Cụ thể do thường xuyên
kết hợp với giáo viên bộ môn nắm được toàn diện về HS, từ đó đưa ra biện pháp
giáo dục. Giúp cho HS từ học lực yếu lên học lực trung bình và lên học lực khá, có
ý thức đạo đức tốt vào cuối năm.
Đối với tập thể lớp, HS luôn chuẩn bị bài cũ ở nhà, làm bài tập về nhà đầy
đủ, hăng hái phát biểu ý kiến. Cuối năm đạt kết quả cao về học tập và rèn luyện.
-Mối quan hệ giữa GVCNvới các đoàn thể khác:
GVCNcùng với các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường để tuyên
truyền, giáo dục, động viên các em cùng tham gia vào các hoạt động của nhà
trường, các hoạt động thi đua, hỗ trợ học tập, những hoạt động mang tính tình
nguyện… Đẩy mạnh và cụ thể hóa các nội dung xây dựng “trường học thân thiện,
học sinh tích cực”, thực hiện các giải pháp, hành động cụ thể, tạo sự gần gũi giữa
thầy cô giáo với học sinh, từ đó giúp các em xóa đi những khoảng cách về tư
tưởng, tình cảm, hình thành suy nghĩ về cách ứng xử phù hợp, giúp giáo viên kịp
thời phát hiện, chấn chỉnh và ngăn chặn những vi phạm của học sinh.

- Phối hợp với các tổ chức tạo cho các em có các sân chơi lành mạnh như tổ
chức các hoạt động văn nghệ, thể thao, trò chơi dân gian nhân các ngày lễ lớn
trong năm.
Xã hội: là môi trường thực tế, giúp học sinh hoàn thiện một số kĩ năng cuộc
sống, chi phối một phần rất lớn trong suy nghĩ và hành động của học sinh.
GVCN phải thường xuyên trao đổi với bảo vệ để nắm tình hình HS lớp mình
chủ nhiệm; kết hợp chặt chẽ với các phòng ban của nhà trường để nắm được các
hoạt động liên quan đến HS để thông báo cho các em thực hiện kịp thời.
Gia đình và nhà trường cố gắng hướng học sinh đến một tâm hồn trong sáng,
cao đẹp, sống hết mình vì mọi người thì xã hội vô hình lại nhấn mạnh đến bằng


cấp, địa vị, quyền lực, tiện nghi, sự giàu có. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến
những quan niệm sống của học sinh mà đôi khi cả gia đình và nhà trường cũng
không thể uốn nắn lại được.
Tổ chức tốt các hoạt động bổ trợ. Tăng cường và nâng cao vai trò của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh trong nhà trường, đây là lực lượng quan trọng, nhân tố tích
cực trong việc phát huy tốt vai trò xung kích, gương mẫu của đoàn viên trong học
tập và rèn luyện.
Thường xuyên nhắc nhở, động viên, đôn đốc HS tham gia tốt các hoạt động
đoàn thể, phong trào thi đua do Đoàn phát động cũng là một biện pháp tích cực
thúc đẩy phong trào đi lên của tập thể lớp.
Phong trào thi đua học tập và các hoạt động khác trong nhà trường được
Đoàn thanh niên phát động và duy trì thường xuyên suốt năm học. Trên cơ sở đó,
lớp đề ra các hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm và các cá nhân. Kết thúc mỗi đợt
thi đua chọn ra những tập thể (tổ, nhóm) và các cá nhân xuất sắc để biểu dương
khen thưởng. Để tạo hứng thú cho học sinh trong việc xây dựng bài học ở trên lớp,
tôi gợi ý các em tính điểm thi đua cho mỗi lượt phát biểu. Kết quả nhiều giờ học
diễn ra sôi nổi và có chất lượng, giáo viên dạy rất phấn khởi.
Giúp cán bộ đoàn phát hiện những thanh niên ưu tú để giới thiệu kết nạp

Giúp cán bộ đoàn đôn đốc nề nếp và các khoản quỹ, các hoạt động đoàn
Phối hợp với đoàn trường xử lý HS vi phạm nội qui nhà trường
Phối kết hợp với Công đoàn tổ chức các hoạt động vui chơi, giao lưu thể
dục thể thao, văn nghệ… để từ đó hình thành và rèn luyện các hành vi, thói quen
đạo đức cho học sinh góp phần phát triển nhân cách đồng thời giúp cho các em
phát triển thành những con người có nhân cách toàn diện.
Tổ chức vận động các gia đình, các đoàn thể XH cùng phối hợp, thống nhất
nội dung, mục đích, biện pháp giáo dục HS trong trường.


Thế hệ sau không có một khuôn mẫu đạo đức để noi theo. Làm sao có thể áp
dụng bài học an toàn giao thông vào thực tế khi một đứa trẻ thường xuyên thấy ba
mẹ vượt đèn đỏ? Và phải giáo dục đạo đức cho học sinh thế nào khi có những kẻ
sai phạm rành rành nhưng vẫn thoát tội ? Chính vì tiếp nhận quá nhiều thông tin
tiêu cực nên học sinh sẽ bị hoang mang trong việc định hình nhân cách, hay tệ hơn
là sẽ có những định hướng lệch lạc.
Cách khắc phục: Muốn giáo dục một ai đó, trước tiên phải giáo dục được
chính mình. Thế hệ trước luôn phải có ý thức rằng mình là một tấm gương để thế
hệ trẻ noi theo. Làm được như thế xem như đã thành công một phần không nhỏ
trên con đường giáo dục nhân cách cho HS. Chính vì thế, mỗi giáo viên phải luôn
là tấm gương sáng, điển hình cho HS học tập noi theo.
Nói chung, bất kì sự không phối hợp hay phối hợp thiếu nhịp nhàng nào
cũng sẽ gây cản trở rất lớn cho quá trình giáo dục đạo đức học sinh.
KẾT LUẬN
Sựquan hệ hợp tác giữa GVCN với PHHS, các tổ chức, đoàn thể là việc làm
hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục nhân cách, đạo đức ở học sinh.
Giống như chiếc kiềng 3 chân, đơn giản, vững chắc và không thể thiếu bất kì chân
nào.
Qua trải nghiệm thực tế, tôi nhận thấy rằng việc việc chúng ta làm có thành
công hay thất bại còn phụ thuộc vào yếu tố khác nữa. Chúng ta không nên áp dụng

rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp giáo dục tiên tiến nào bởi lẽ sản
phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích
hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,…
Muốn duy trì tốt thành quả giáo dục cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
phong trào khác, những hoạt động khác, và đặc biệt cần phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với Chi Hội CMHS, được sự quan tâm lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền,


các đoàn thể và nhân dân địa phương để tạo sức mạnh đồng bộ, toàn xã hội cùng
giáo dục thế hệ trẻ đồng thời giữ vững được hướng đi đúng và thích hợp.
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN phải là người có
uy tín, toàn diện, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm, đi trước, đề
xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim
đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS,
mỗi lớp học, mỗi trường học…
Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là nguyên khí quốc gia. Nên
giáo dục đạo đức cho giới trẻ là cách chúng ta đào tạo ra những công dân tốt cho
Tổ quốc, là cách đầu tư tốt nhất cho tương lai của nước nhà. Giáo dục thế hệ trẻ
ngay từ trong gia đình và trên ghế nhà trường luôn là điểm khởi đầu để một xã hội
chuyển mình phát triển bền vững.
Vì thời gian không cho phép tôi chỉ nêu ra một số giải pháp để hội nghị cùng
chia sẻ. Cuối cùng thay mặt cho tất cả giáo viên công nhân viên trường THPT Thái
Ninh xin kính chúc quí vị đại biểu và quí thầy cô mạnh khỏe. Chúc hội nghị thành
công tốt đẹp.



×