Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÀI THI EM YÊU LỊCH SỬ XỨ THANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.07 KB, 22 trang )

GỢI Ý TRẢ LỜI BÀI THI EM YÊU LỊCH SỬ XÚ THANH
Năm 2016
Câu 1. Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu (tức
Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trong các vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Gợi ý:
* Giải thích câu nói “ Vua xứ Thanh, thần xứ nghệ”
Trong dân gian đời xưa có câu : “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”, ý nói Thanh
Hóa là nơi phát tích của các triều đại đế vương. Còn xứ Nghệ An là nơi có các tôi
thần giỏi giang giúp vua trị nước. Theo thống kê, từ khi nước ta có vua (thời Văn
Lang) cho đến khi kết thúc chế độ phong kiến (nhà Nguyễn năm 1945 với vua Bảo
Đại), thì Thanh Hóa chính là nơi khởi nguồn của nhiều dòng vua, chúa nhất nước.
Vậy nên, nói Thanh Hóa là vùng đất địa linh, nhân kiệt từ ngàn xưa đến nay quả
chẳng ngoa chút nào.
* Lý giải vì sao Thanh Hóa là cái nôi sản sinh ra vua- chúa Việt
+ Điều kiện tự nhiên: Về hình thể, sách Đại Nam nhất thống chí, quyển VI,
phần Thanh Hóa tỉnh chí cho biết: “Mặt đông trông ra biển lớn, mặt tây khống chế
rừng dài. Bảo Sơn Châu (hoặc Sơn Thù) chăm hiểm ở phía Nam, (tục gọi là Eo
Ống), giáp huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An, núi Tam Điệp giăng ngang phía Bắc.
Ở trong thì sông Mã, sông Lương, sông Ngọc Giáp hợp nhau; ở ngoài thì núi Chiếc
Đũa, núi Biện Sơn che chở. Thực là một trọng trấn có hình thế tốt”. Lại xét, Ái
Châu là vùng đất mà như ngày nay nói là “khu IV đẩy ra, khu III đẩy vào”, tức là
nơi giao nhau giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, có thể xem như là yết hầu của nước
Nam nơi cõi Bắc vậy. Nhờ có địa thế tự nhiên với biển, núi, sông che chở, nên
vùng đất này có được cái thế hiểm yếu hiếm có trong quân sự. Chẳng thế mà sau
này quân Tây Sơn lại chọn lui về Tam Điệp (còn gọi là đèo Ba Dội giao nhau giữa
Ninh Bình, Thanh Hóa) và Biện Sơn để ngăn bước tiến quân Thanh.
+ Con người: Hình thế đắc địa như một vương quốc riêng như vậy, cũng từ đó mà
hình thành nên tính cách, phong tục của người dân nơi đây được An Nam chí lược
của Lê Tắc trong phần Phong tục khen là: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu


thì rộng rãi, có mưu trí”. Còn trong Đại Nam nhất thống chí thì bình rằng: “Sĩ tử
thích văn học, giữ khí tiết, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người đẽo đá là sở
trường hơn cả, ít người buôn bán”. Chính từ địa lợi, nhân hòa ấy, góp phần cho
vùng đất Ái châu trở thành nơi thiên thời cho việc xưng vương, dựng nước.
* Chứng minh: Thanh Hóa là đất của Vua, nhà của chúa
- Đất của vua
+ Năm Mậu Thìn (248), Triệu Thị Trinh đánh quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn,
Thanh Hóa làm quân giặc khiếp đảm tôn phục với câu cửa miệng “Hoành qua
đương hổ dị. Đối diện bà Vương nan” (Múa giáo chống hổ dễ. Đối mặt vua bà


khó). Dù chưa lập triều nghi, nhưng ngay quân Ngô đã tôn xưng người con gái của
chiến tuyến bên kia làm vua rồi.
+ Tháng 12 năm 931, Dương Đình Nghệ quê làng Giàng, nay thuộc xã Thiệu
Dương, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã đánh đuổi quan đô hộ Lý Khắc
Chính, Lý Tiến của nhà Đường, chiếm thành Đại La, tự xưng làm Tiết Độ sứ,
nhưng thực ra đã là một “vua không ngai” khi tiếp nối được nền độc lập, tự chủ do
dòng họ Khúc dựng nên từ năm Ất Sửu (905).
+ Tháng 7 năm Canh Thìn (980), Thái hậu Dương Vân Nga khoác áo mời
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi để thống nhất lòng dân chống quân xâm
lược Tống, từ đó mở ra nhà Tiền Lê (980 - 1009). Lê Hoàn, tức vua Lê Đại Hành
vốn quê xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Nhà Tiền Lê trải ba đời gồm
Lê Đại Hành (980 - 1005), Lê Trung Tông (1005), Lê Ngọa Triều (1005 - 1009).
+ 520 năm sau, cũng năm Canh Thìn (1400), ngoại thích Hồ Quý Ly thoán đoạt
ngôi vị nhà Trần lập nhà Hồ với tên nước là Đại Ngu, kinh đô ở thành Tây Giai, tức
Tây Đô của Thanh Hóa. Tổ tiên ông vốn ở Chiết Giang, Trung Quốc, sau di cư
sang sống ở Diễn Châu, Nghệ An rồi chuyển ra hương Đại Lại, Thanh Hóa lập
nghiệp. Nhà Hồ truyền qua hai đời vua trong 7 năm (1400 - 1407).
+ Thời gian 1428 – 1789 là thời kỳ tồn tại của nhà Hậu Lê gồm giai đoạn Lê sơ
(1428 - 1527) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Người sáng nghiệp nhà Hậu Lê là

Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh
(1417 - 1428). Ông quê ở xã Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Giai đoạn Lê sơ
trải qua 10 vị vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng, được xem là thời thịnh trị của
chế độ phong kiến Đại Việt với đỉnh cao là đời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460 1497). Giai đoạn Lê Trung hưng đánh dấu sự phục hồi của nhà Lê sau khi bị Mạc
Đăng Dung cướp ngôi với vị vua đầu tiên Lê Trang Tông (1533 - 1548), và kết
thúc với vua thứ 16 Lê Chiêu Thống (1786 - 1789).
+ Triều đại cuối cùng của Việt Nam là nhà Nguyễn (1802 - 1945) do Nguyễn
Ánh Gia Long hưng khởi, tổ tiên của ông là chúa Nguyễn Hoàng vốn bản quán ở
Gia Miêu ngoại trang thuộc huyện Tống Sơn (xã Hà Long, huyện Hà Trung nay),
đất Thanh Hóa. Nhà Nguyễn truyền được 13 đời vua, bắt đầu từ vua Gia Long
(1802 - 1820) cho đến vua Bảo Đại (1926 - 1945).
* “Nhà” của chúa
Trong lịch sử nước Nam ta, ghi nhận chính thức có hai dòng chúa là chúa Trịnh và
chúa Nguyễn. Cả hai dòng chúa đều phát tích từ xứ Thanh.
+ Chúa Trịnh thời vua Lê – chúa Trịnh thế kỷ XVI - XVIII do Trịnh Kiểm lập nên.
Ông vốn xuất thân nghèo nàn từ làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tuy
tiếng là phò giúp nhà Lê, nhưng quyền lực thực tế của các chúa Trịnh lại át cả vua
Lê, có cung vua thì có phủ chúa. Vua Lê có Lục Bộ thì chúa Trịnh có Lục phiên.
Vua Lê thời Trung hưng chỉ có hư vị mà thôi. Thế nên dân gian mới có câu: “Phi
đế phi bá, quyền nghiêng thiên hạ” để chỉ thế lực của chúa Trịnh. Dòng dõi chúa
Trịnh bắt đầu từ chúa Trịnh Kiểm (1545 - 1570) cho đến thời chúa Trịnh Bồng
(1786 - 1787) bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ dẹp thì dứt hẳn.


+ Chín đời chúa Nguyễn được lập nên sau thời chúa Trịnh. Vào năm Mậu Ngọ
(1558), Nguyễn Hoàng nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên
“Hoành Sơn nhất đại, khả dĩ dung thân” đã vào trấn trị đất Thuận Hóa. Chúa Tiên
Nguyễn Hoàng chính là con trai thứ của An Thành hầu Nguyễn Kim người Gia
Miêu ngoại trang được nói tới ở trên. Dòng dõi chúa Nguyễn trải qua 9 đời từ
Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) cho tới Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777), có công

lập nên và khai phá đất Đàng Trong, mở rộng dần về phía Nam đất nước cho tới tận
Mũi Đất, Cà Mau.
Không chỉ là nơi phát vua, phát chúa, Ái Châu – Thanh Hóa còn nhiều lần
đóng vai trò trung tâm của đất nước khi từng giữ vị trí là đất Thần Kinh. Cụ thể là
Tây Đô thời Hồ với thành An Tôn, hay Tây Giai (1400 - 1407). Khi vua Lê Trang
Tông phục quốc bên Ai Lao năm Quý Tỵ (1533), đến năm Quý Mão (1543) cũng
chọn xứ Thanh để đóng làm nơi phát binh Bắc tiến đánh Thăng Long diệt Mạc.
Năm Bính Ngọ (1546) thì lập điện để ở tại sách Vạn Lại, nay thuộc huyện Thọ
Xuân, Thanh Hóa tạo nên Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở
Thăng Long
* Trình bày hiểu biết về 1 vị vua, chúa mà em yêu thích nhất
Học sinh lựa chọn vị vua, chúa mà mình yêu thích nhất để trình bày
( Gợi ý: Trình bày vua Lê Lợi- có tư liệu gửi kèm)


Câu 2. Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong
những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011,
Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa
thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch
để giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Gợi ý:
* Nhận diện: Đó là Thành nhà Hồ (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long,
Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa)
* Giới thiệu về Thành nhà Hồ: Có tư liệu gửi kèm:
- Quá trình xây dựng
- Kiến trúc thành nhà Hồ
- Lịch sử tồn tại
- Liên hệ trách nhiệm bản thân trong việc giữ gìn giá trị văn hóa của quê
hương



Câu 3. Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người
ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất
khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.
Gợi ý:
* Khái quát chung về quá truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, xuất
xứ câu nói của Triệu Thị Trinh :
- Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh anh dũng…..
- Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta đã phải đương đầu với biết bao kẻ
thù hung bạo: Hơn 1000 năm chống phương Bắc đô hộ, các cuộc kháng chiến
chống Tống, Nguyên- Mông, Minh…., cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì,
kháng chiến chống Mĩ…
- Nhân dân Thanh Hóa cùng với đồng bào cả nước liên tục đứng lên chống
giặc ngoại xâm góp phần cùng nhân dân cả nước “giành lại giang sơn, cởi ách nô
lệ” đúng như khẳng định của Triệu Thị Trinh “Tôi…….”
* Làm rõ truyền thống….của con người xứ Thanh
Thể hiện thông qua các cuộc đấu tranh (Có tư liệu gửi kèm)
* Liên hệ bản thân
- Tự hào về truyền thống….
- Trách nhiệm:
+ Vun đắp truyền thống …
+Làm gì để góp phần gìn giữ truyền thống, đóng góp vào công cuộc xây
dựng bảo về tổ quốc hiện nay


Câu 4. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng

nhất?
Gợi ý:
* Sự thành lập, ý nghĩa
- Sự thành lập: Ngày 03 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được rất quan tâm đến việc tổ chức thành
lập tổ chức cộng sản ở Thanh Hóa . Được sự chỉ đạo của xứ ủy, đồng chí Lê Doãn
Chấp đã về bắt mối liên lạc với các hội viên của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên ở huyện Triệu Sơn, Thiệu Hóa, Thọ Xuân và xúc tiến thành lập các chi bộ
cộng sản
Cuối tháng 6/1930, chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở làng Hàm Hạ
(nay thuộc xã Đông Tiến-Đông Sơn)
Đầu tháng 7/1930, chi bộ cộng sản thứ 2 được thành lập ở Phúc Lộc- Thiệu
Hóa
Giữa tháng 7/1930, chi bộ cộng sản thứ ba được thành lập ở làng Yên
Trường (Thọ Lập-Thọ Xuân)
Ngày 29/7/1930, dưới sự chỉ đạo của xứ ủy Bắc Kỳ, Hội nghị thành lập đảng
cộng sản Thanh Hóa được tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Doãn Chấp tại
nhà đồng chí Lê Văn Sĩ (làng Yên Trường -Thọ Lập-Thọ Xuân)
-Ý nghĩa: Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước ngoặt lịch sử quan trọng,
là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu tranh cách mạng đánh đổ chế độ
thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở Thanh Hóa năm 1945, đồng thời
giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng
như trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập hiện nay
* Trình bày về người cộng sản đầu tiên của Thanh Hóa: Lê Hữu Lập
Lê Hữu Lập - Sinh năm 1897, ở thôn Hữu Nghĩa, tổng Xuân Trường, huyện
Hậu Lộc (nay là xã Xuân Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa) là người đã có công đóng góp
rất lớn vào công cuộc xây dựng tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và là
người cộng sản đầu tiên của Thanh Hóa.
Sinh ra trong một gia đình ở thôn ngay từ nhỏ, đồng chí đã sẵn có lòng yêu
nước thương dân, cảm nhận được nỗi khổ của những người dân mất nước và sự bất

công do thực dân Pháp và bọn phong kiến gây ra.
Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trường Pháp Việt, đồng chí tham gia hoạt động
cách mạng, sang Trung Quốc tham gia vào tổ chức Tâm Tâm Xã – một tổ chức
cách mạng của người Việt Nam yêu nước ở Trung Quốc.
Năm 28 tuổi, đồng chí được gặp Nguyễn Ái Quốc và được Người giác ngộ
cách mạng rồi được kết nạp vào tổ chức Việt Nam Thanh niên CM đồng chí hội –
tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng
lập. Sau đó, đồng chí được cử về nước cùng với các đồng chí khác để tuyên truyền


giác ngộ cách mạng cho những thanh niên yêu nước ở Thanh Hóa, Thái Bình,
Nam Định, Nghệ An, Quảng Trị… đưa sang Quảng Châu huấn luyện.
Năm 31 tuổi, đồng chí được bầu vào Ban chấp hành kỳ bộ thanh niên Trung
Kỳ, được cử sang Thái Lan hoạt động và bị tòa án Nam Triều Thanh Hóa kết án tử
hình vắng mặt.
Đầu năm 1934 đồng chí đã tham gia được Ban Viện trợ cách mạng Đông
Dương cử về hoạt động ở tỉnh Nghệ An và được tổ chức bố trí hoạt động tại một cơ
sở ở huyện Nghi Lộc. Tại đây, đồng chí lâm bệnh nặng và được đưa về điều trị ở
nhà thương Vinh, do bệnh quá nặng, lại bị sự kiểm soát gắt gao của thực dân Pháp,
vào một ngày cuối tháng 6/1934, đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 37 tuổi.
Đồng chí Lê Hữu Lập là người thanh niên cộng sản lứa đầu tiên của đất
Thanh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, người học trò nhiệt thành của Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu, đồng chí đã chiến đấu không mệt mỏi và hiến dâng cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp của dân, của nước, góp phần viết nên những trang sử hào
hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa.


Câu 5. Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn:
“Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế, quân sự phải là là tỉnh kiểu mẫu , làm hậu phương vững chắc cho

cuộc kháng chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (19862016) Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu
nổi bật nhất góp phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu.
Liên hệ trách nhiệm bản thân?
Gợi ý:
Nêu thành tưu nổi bật, HS chọn 1 trong 2 thành tựu (Có tư liệu gửi kèm)


TƯ LIỆU
I. Lê Lợi (1385 -1433)
Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay
thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng
một phương". Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương (anh lớn
của ông tên Học, anh thứ là Trư). Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. Khi
quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh
nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên
giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy
tớ người?".
Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược
nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại
Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù
giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ
cõi.
Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18
người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê
hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách. Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa,
chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất
Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân
tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn,
Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian

chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch
đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là
lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427),
qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê
Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những
lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch
Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập
mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20
năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu
một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa
Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi
nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc,
mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện
là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực
lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính
chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi
nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập
hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở
một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến


tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to
lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh
nghiệm lịch sử quý giá.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng
cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện"
theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành
kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện
binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy.

Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị
phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp
với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của
Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi
Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của
Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng
đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất
(1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có
những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển
đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống
địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để
khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới
việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm
sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh.
Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là
chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi
đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc
thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu
sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc
lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có
ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết
lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết
đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân
trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc
vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh
Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:
Đất hiểm trở từ nay không còn,
Núi sông đã vào chung một bản đồ.

Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.
Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng
bên Chợ Bờ, Hòa Bình.


II. Thành nhà Hồ
Khu di tích lịch sử Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc độc đáo.
Ngày 27 tháng 6 năm 2011, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa thế giới. Nơi đây cũng đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào
danh sách xếp hạng 62 di tích quốc gia đặc biệt. Cùng với khu di tích lịch sử Lam
Kinh, cầu Hàm Rồng và nhiều cụm di tích khác; đây được xem như một chứng tích
lịch sử hào hùng của mảnh đất xứ Thanh. Đến nay, đó còn là một điểm hẹn văn hóa
– du lịch nổi tiếng bởi vẻ đẹp, sự tôn nghiêm, trang trọng đứng vững trường tồn với
thời gian.
*Quá trình xây dựng Thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ gắn liền với một triều đại tuy chỉ tồn tại có 7 năm trong lịch
sử nhưng ít nhiều đã đánh dấu những chính sách tiến bộ về cai trị và xây dựng đất
nước – triều đại nhà Hồ.
Tháng 3 năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi
quốc hiệu là Đại Ngu. Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi
cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết
đoán mọi công việc. Hồ Quý Ly là một vua có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế,
văn hóa. Hồ Quý Ly là một nhà cải cách có tài nhưng khả năng về quân sự của ông
chưa tương đương với tài năng về văn trị. Những cải cách của ông nhằm mục đích
xây dựng một nước Đại Ngu cường thịnh. Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Hồ Quý
Ly và những cải cách của ông thực hiện quá dồn dập trong một thời gian ngắn,
không đạt kết quả như mong đợivà gây ra sự phẫn nộ trong nhân dân; đặc biệt là
với các sĩ phu trung thành với nhà Trần.
Thành nhà Hồ (Thành Tây Đô) được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do

quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử
sách, thành bắt đầu xây dựng vào mùa xuân tháng Giêng năm Đinh Sửu niên hiệu
Quang Thái thứ 10 đời vua Thuận Tông của vương triều Trần. Người quyết định
chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ giữ chức Nhập nội Phụ chính Thái
sư Bình chương quân quốc trọng sự, tước Tuyên Trung Vệ quốc Đại vương, cương
vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Người trực tiếp tổ chức và điều
hành công việc kiến tạo là Thượng thư bộ Lại Thái sử lệnh Đỗ Tỉnh. Hồ Quý Ly
xây thành mới ở động An Tôn (nay thuộc địa phận các xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến,
huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa), làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc
triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng
3 năm Canh Thân (26-3 đến 24-4-1400), vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và
Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô
vẫn giữ vai trò quan trọng của đất nước. Thành đá được xây dựng trong một thời
gian kỷ lục, chỉ chừng 3 tháng. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành
phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho
đến năm 1402.


Thành xây trên địa phận hai thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh
Tiến và thôn Đông Môn nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh
Hoá. Vị trí Thành nhà Hồ so với các trung tâm thành phố lân cận như sau: cách thủ
đô Hà Nội khoảng 140 km (theo quốc lộ 1A, quốc lộ 38B, quốc lộ 12B và quốc lộ
45), cách thành phố Thanh Hóa 45 km (theo quốc lộ 45). Thành Tây Đô ở vào địa
thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh
tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi
non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao
thông thủy bộ.
* Kiến trúc Thành nhà Hồ
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và
là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Thành nhà Hồ thể hiện một trình độ rất cao

về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được
nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất
kết dính nào. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững.
Hiện nay, chưa có một số liệu chính xác nhất về kích thước Thành nhà Hồ.
Trong Thanh Hoá Vĩnh Lộc huyện chí của Lưu Công Đạo đưa ra số liệu: Thành
Tây Đô vuông, mỗi mặt thành dài 424 tầm (một tầm khoảng 2m). Thành hình
vuông, mỗi cạnh trên dưới 800m và chu vi trên 3,5 km. Thành phía ngoài xây bằng
đá, bên trong xây bằng đất đầm nện chắc, mở bốn cửa theo bôn hướng Nam, Bắc,
Đông, Tây. Tường thành đá bên ngoài xây bằng những khối đá nặng trung bình 1016 tấn, có khối nặng đến trên 26 tấn, được đẽo gọt khá vuông vắn và lắp ghép theo
hình chữ công (I) tạo nên sự liên kết kiên cố. Đất đắp bên trong thoai thoải dần.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận: La thành, Hào thành và Hoàng thành. La
thành là vòng ngoài cùng, chu vi khoảng 4 km. Hào thành được đào bao quanh bốn
phía ngoài nội thành, cách chân thành theo các hướng khoảng 50m. Công trình này
có nhiệm vụ bảo vệ nội thành. Hoàng thành được xây dựng trên bình đồ có hình
gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5 m, chiều Đông - Tây dài 883,5 m. Bốn cổng
thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng Tiền - Hậu - Tả Hữu. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các cổng này được xây dựng theo kiến
trúc hình mái vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít
lên nhau. Cổng tiền (cổng phía Nam) là cổng chính, có ba cửa: cửa giữa rộng 5,82
m, cao 5,75 m, hai cửa bên rộng 5,45 m, cao 5,35 m. Ba cổng còn lại chỉ có một
cửa. Tường thành cao trung bình 5 - 6 m, chỗ cao nhất là cổng tiền cao 10 m. Toàn
bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá vôi màu
xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá dài
trung bình 1,5 m, có tấm dài tới 6 m, trọng lượng ước nặng 24 tấn.
Hẳn các bạn rất ngạc nhiên khi với những phiến đá rất lớn, các nhà xây dựng
của chúng ta làm thế nào để vận chuyển chúng lên những vị trí cần thiết? Trước hết


để vận chuyển được các khối đá lớn, người thợ đã tạo ra các băng chuyền thủ công,
gọi là các bi đá (kích thước 10 – 30 cm) và các con lăn bằng gỗ, kết hợp với sức
kéo, sức đẩy, sức tì ép của người và gia súc. Các phiến đá khổng lồ sẽ được dịch

chuyển dần từng bước, chậm chạp, chắc chắn. Tại vị trí xây, để nâng các khối đá
chồng xếp theo phương thẳng đứng, người ta tiếp tục sử dụng kĩ thuật băng chuyền
như trên và đắp các lũy đất thoai thoải phía trong để nâng dần các khối đá lên cao.
Các khối đá lớn xếp ở dưới, hơi choãi ra; khối nhỏ ở trên, thu nhỏ vào so le nhau.
Thật thần kì phải không các bạn? Không một chất kết dính, các phiến đá khi được
xếp đúng vị trí bỗng nhiên khít nhau và kết thành một khối vững chắc, kiên cố.
Điều này sẽ không quá khó hiểu với các bạn. Bởi đó là những kiến thức Vật lí rất
quen thuộc trong chương trình Vật lí 10 mà chúng ta vừa mới học xong. Bằng
những hiểu biết này, chúng ta hoàn toàn lí giải được sự thần kì trong kĩ thuật xây
dựng thành đều xuất phát từ những nguyên lí rất giản đơn.
Việc xây dựng cổng thành cũng rất độc đáo. Đá xây dựng ở đây phải được
chế tác nhẵn phẳng ở tất cả các mặt và chế tạo thêm có hình nêm kiểu “múi bưởi”.
Để xây dựng các cửa vòm cuốn đá, người ta phải sử dụng đất đắp hình cửa cuốn
theo kích thước định trước làm cốt. Khi ghép các khối đá xong, chỉ việc moi đất
“cốt” ra. Sức nặng của các khối đá hình múi cam sẽ tự ép lại tạo thành các cổng
thành đá kiên cố.
Nhìn vào cổng thành, hẳn các bạn học sinh sẽ thấy rất quen thuộc với hình
dạng của nó. Đó là hình dạng của một parabol khi chúng ta vẽ đồ thị hàm số bậc 2.
Khi có trong tay số liệu về chiều cao và chiều rộng của cổng thành, các bạn hoàn
toàn có thể thiết lập một hàm số bậc 2 và vẽ lại cổng thành một cách chính xác.
Chưa hết đâu, khi các bạn tham quan toàn bộ kiến trúc bên trong của thành sẽ thấy
rất quen thuộc với những hình vuông, hình chữ nhật, hình hộp chữ nhật là kết cấu
của từng phần, từng khu vực của thành. Chuyến tham quan thực sự hữu ích khi có
được những trải nghiệm thực tế, những quan sát trực quan giúp chúng ta củng cố
kiến thức Toán học và dùng nó để nhận biết cấu trúc của thành.
Có thể nói, toàn bộ khối kiến trúc và kĩ thuật xây dựng thành được xem là
một kì quan hiếm có trên thế giới.
*Lịch sử tồn tại của Thành nhà Hồ
Thành nhà Hồ được xây dựng chỉ trong 3 tháng, đến cuối năm 1397 cơ bản
đã hoàn tất. Trong suốt quá trình trị vì, Hồ Quý Ly tiếp tục tu bổ và hoàn thiện

thành. Đến năm 1407, trước sự thất bại trong cuộc kháng chiến chống Minh, Thành
nhà Hồ bị quân Minh chiếm đóng.
Năm 1427, dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi, chúng ta đã lấy lại được tòa thành và
đặt tên là Tây Kinh. Thành nhà Hồ trở thành một trung tâm hành chính quan trọng
của đất nước trong suốt nửa đầu thời Lê sơ.
Cuối thời Lê sơ và trong suốt thế kỉ XVI, Thành nhà Hồ luôn là căn cứ địa
hiểm yếu của các triều đại Lê sơ, Lê trung hưng, nhà Mạc trong các cuộc nội chiến
bảo vệ vương quyền. Không chỉ là một khu căn cứ quân sự, Thành còn là một trung
tâm văn hóa lớn của khu vực.


Từ khi nhà Lê trung hưng đóng đô ở Thăng Long, Thành nhà Hồ không
được dùng như trước nữa, dần dần trở nên hoang phế.
Rêu phong với thời gian, tuy nhiên cho đến hôm nay, Thành nhà Hồ vẫn
đứng vững. Hành trình trong suốt 6 năm qua, những nỗ lực không ngừng của bà
con quê hương, của chính quyền địa phương, của Đảng và Nhà nước; Thành nhà
Hồ được công nhận là di sản văn hóa của thế giới.
*Trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản Thành nhà Hồ
Thanh Hóa – mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, đã từng lưu dấu biết
bao chứng tích hào hung của vùng đất Tây Đô một thời, nơi ghi lại một hành trình
gian nan của vua Lê khi xưa từ những ngày gian khổ chống Minh đến khi xây dựng
triều đại mới, rồi đến những tháng ngày oanh liệt hào hùng ở cầu Hàm Rồng trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thành nhà Hồ cũng đã kịp lưu dấu trong
dòng chảy đó, là minh chứng hùng hồn cho mảnh đất “đế vương chung hội”.
Nhìn lại quá khứ lịch sử hào hùng của mảnh đất quê hương, các thế hệ con
cháu hôm nay cần phải giữ gìn và tiếp tục phát huy truyền thống đó trên một trang
sử mới – giữ gìn truyền thống và góp công xây dựng quê hương trong thời đại mới.
Nhưng trước hết, mỗi chúng ta cần phải trang bị những hiểu biết cần thiết về văn
hóa, lịch sử của quê hương. Thông qua những chuyến đi thực tế, những trải nghiệm
phiêu lưu trong những cuốn sách để tìm hiểu về lịch sử quê hương. Mỗi học sinh

phải ra sức học tập, rèn luyện để mai này góp công xây dựng quê hương giàu mạnh.
Tiếp nối những trang sử hào hùng của cha anh đi trước, kết nối những di sản văn
hóa và các di tích lịch sử của quê hương ra khắp cả nước và trên toàn thế giới.
Thành nhà Hồ - một di tích lịch sử, trở thành một thắng cảnh du lịch hấp dẫn
du khách gần xa. Là con cháu xứ Thanh, chúng ta cần phải nói cho nhau nghe,
tuyên truyền đến những người chưa biết về giá trị lịch sử và văn hóa của khu di tích
Thành nhà Hồ. Không ngừng nỗ lực, phấn đấu học tập để làm giàu cho quê hương,
cho vẻ đẹp con người xứ Thanh, cho mảnh đất giàu truyền thống cách mạng này.
Thiết nghĩ đó vừa là trách nhiệm vừa là quyền lợi đối với mỗi chúng ta.
III. Chứng minh truyền thống….của nhân dân Thanh Hóa:
1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160)
Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ
Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất
các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày
nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán,
lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm
160.
2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248
Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3
nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ.
Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn


cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền,
huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ,
thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng
Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền
đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556)
Mùa xuân 542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập

ra nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh
ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương
tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý
Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương - Triệu Quang
Phục - người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm
Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên ngày nay).
4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)
Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của
nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện
Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà
Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100
hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên
An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng
Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị
quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu
Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi,
san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật
giáo đã rất phát đạt ở Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ
làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất
ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà
thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.
5. Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937)
Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt
Nam, thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các
xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền,
Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ
đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam
Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người
Trung Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc
thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.

6. Thời Ngô Quyền (938 - 968)
Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu
diệt Kiều Công Tiễn - kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản
phá quân Nam Hán là Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô
Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ


Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất
vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.
7. Thời nhà Trần (1226 - 1400)
Tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu,
người làng Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn
xong Ðại Việt sử ký toàn thư - bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.
Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285,
kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do
Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở
các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Văn Trinh
(Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang
Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra
sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các
vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng
5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân
Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà
Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng
Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ tức Trần Nghệ Tôn - nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân
Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm
1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp
Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng
Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị
Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày

nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly
chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng
chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm
Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm
Thành.
8. Thời nhà Hồ (1400 - 1407)
Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn
(nay là đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn
(1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại
Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành
đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng
đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm
1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông
Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày
nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến
đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay
quân xâm lược nhà Minh.
9. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 - 1428)


Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng
với những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ
Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình
Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam,
huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh
lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày
nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng
Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước),
Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện

Bá Thước và huyện Hoàng Long - Ninh Bình và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá),
Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như
ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo
kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao
vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến
Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao vây
Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất
Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng 01 năm
Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau - giặc rút về, đất nước
sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt. Ngày 15 tháng giêng năm Mậu
Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông
Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành
chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.
10. Thời Lê sơ (1428 - 1516)
Tháng 11 - Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn,
sau 10 năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh
Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày
22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về an táng ở
Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433) xây dựng
điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam
Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam
Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần
khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy
Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
11. Thời Lê Mạc (1516 - 1788)
Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là
Nguyễn Kim - người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm
1533 (Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê
Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (Ất Tỵ),
Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ

Mạc ở Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua.


Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ
Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa
thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng - con trai
Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long,
lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời
đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận
Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật
(con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt
động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc
Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm
dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn
xen đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh Mạc, những tai hoạ ấy không hề có ở thời Lê sơ.
12. Thời Tây Sơn
Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê
Trung Nghĩa (tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận
ở Tĩnh Gia.
Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu
tượng của các vua Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790,
con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792,
ông tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn
Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).
13. Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Thanh Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh
Hoá đặc biệt được chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh
Hoá ngang với chức thượng thư trong triều đình và phải là một vị hoàng thân mới
được làm tổng đốc tỉnh Thanh Hoá.
Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ

rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu
Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182
trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê,
dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại
thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm
một hệ thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn
thuỷ với 44 khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá
hơn 7.000 người. Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công
Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên
bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân
dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn
phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau
(12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh
Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do


Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887,
chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp
phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn
quốc (6.000 người trong một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng
vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ
huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của
đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà
Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895
mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền
Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị
Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị
xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh
Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá
mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại

hoá.
14. Thời hiện đại
Các năm 1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời.
Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc
xã Ðông Tiến, huyện Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí
thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
Tháng 9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân
huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân
thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày
sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng
tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào
thời kỳ phát triển mới. Trong thời đại phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại
những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân
tộc Việt Nam. Thanh Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê,
chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong sự nghiệp cách mạng ngày nay,
người dân xứ Thanh cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây dựng quê
hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.
IV. Tư liệu trả lời câu 5:
Có thể chọn một trong 2 thành tựu sau:
1. Kinh tế
Ngày 20-2-1947, trong thời khắc gian khó, ác liệt của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, với tình cảm đặc biệt và với tầm nhìn chiến lược, trong lần
đầu tiên về thăm Thanh Hóa, Bác đã ân cần căn dặn: “Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên
một tỉnh kiểu mẫu... Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”.


Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế của tỉnh đã có bước
phát triển vượt bậc:
- Nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ tỉnh đã có các Nghị quyết chuyên đề về phát

triển kinh tế, tận dụng cao nhất mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, giải quyết việc
làm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hằng năm giai đoạn 2011 - 2015 ước đạt
11,4%, cao nhất trong gần 30 năm đổi mới.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Năm 2015, GDP (theo giá so sánh
năm 1994) ước đạt 34.891 tỷ đồng, gấp 1,7 lần năm 2010, xếp thứ tám cả nước.
GDP bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 1.530 USD, gấp 1,9 lần năm 2010,
tăng nhanh hơn so với mức tăng trung bình của cả nước. Sản xuất nông nghiệp phát
triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm ước đạt 4%; giá trị sản xuất năm
2015 gấp 1,24 lần năm 2010.
- Nông – lâm – ngư nghiệp: Các vùng trồng cây nguyên liệu phát triển ổn
định; cơ giới hóa được đẩy mạnh ở một số khâu; một số vùng sản xuất nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao được hình thành. Chăn nuôi phát triển mạnh; một số dự án
chăn nuôi tập trung theo hướng công nghiệp hiện đại đang được đầu tư xây dựng;
thủy sản phát triển cả về nuôi trồng, khai thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá.
Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, thật sự trở thành phong
trào sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh, thu hút được toàn xã hội tham gia.
- Sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá, năm 2015 giá trị sản
xuất gấp 1,94 lần năm 2010. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện mạnh
mẽ, các chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (PAPI), năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh (PCI), chỉ số hội nhập kinh tế quốc tế (PEII) tăng cao và nằm trong nhóm
các tỉnh dẫn đầu của cả nước. Giai đoạn 2011 - 2015, đã thu hút 560 dự án đầu tư,
với tổng vốn đăng ký 120 nghìn tỷ đồng, trong đó có 59 dự án FDI với tổng vốn
đăng ký 12,8 tỷ USD, đứng thứ sáu cả nước về thu hút vốn FDI. Các dự án: Ximăng Long Sơn, thủy điện Trung Sơn, sản xuất dầu ăn tại Khu kinh tế Nghi Sơn,...
và nhất là dự án Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn - công trình trọng điểm quốc gia,
có tổng mức đầu tư hơn 9 tỷ USD, lớn nhất cả nước từ trước đến nay, được khởi
công xây dựng. Các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn như: Nhiệt điện Nghi Sơn I,
dây chuyền 2 xi-măng Công Thanh và nhiều nhà máy may mặc, giày da được đầu
tư xây dựng và đi vào hoạt động đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập cho nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường. Năm

2015, cơ bản xóa hết các điểm vượt sông bằng phà trên các tuyến quốc lộ; cảng
hàng không Thọ Xuân đi vào khai thác với lượng hành khách tăng nhanh, vượt quy
hoạch đến năm 2020, đã đưa Thanh Hóa trở thành một trong những tỉnh có hệ
thống giao thông thuận lợi, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không và
cảng biển nước sâu. Các công trình văn hóa lớn, như: Chính điện Lam Kinh, Đền


thờ Mẹ Việt Nam Anh hùng và các Anh hùng liệt sĩ, Trung tâm Triển lãm - Hội
chợ - Quảng cáo, Nhà hát Lam Sơn, thư viện tỉnh, quần thể du lịch nghỉ dưỡng sinh
thái FLC Sầm Sơn,... được hoàn thành và đưa vào sử dụng.
- Các ngành dịch vụ có chuyển biến tích cực cả về quy mô, loại hình và chất
lượng. Một số siêu thị, chợ đầu mối đã đi vào hoạt động; giá trị hàng hóa và dịch
vụ xuất khẩu năm 2015 ước đạt 1,15 tỷ USD, gấp 2,9 lần năm 2010. Hạ tầng các
khu du lịch được đầu tư nâng cấp, môi trường du lịch được cải thiện, văn hóa du
lịch được nâng lên, lượng khách và doanh thu du lịch tăng cao.
Trong thời gian tới, với quyết tâm cao và niềm tin vững chắc vào tương lai
tươi sáng, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa tiếp tục
phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách
thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18,
nhiệm kỳ 2015 - 2020, phấn đấu đến năm 2020 Thanh Hóa trở thành tỉnh khá của
cả nước, đến năm 2030 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại
2. Văn hóa, xã hội
Ngày 20-2-1947, trong thời khắc gian khó, ác liệt của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, với tình cảm đặc biệt và với tầm nhìn chiến lược, trong lần
đầu tiên về thăm Thanh Hóa, Bác đã ân cần căn dặn: “Tỉnh Thanh Hóa phải trở nên
một tỉnh kiểu mẫu... Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”. Sau gần 30 năm thực
hiện đường lối đổi mới, tình hình văn hóa - xã hội của tỉnh đã có bước phát triển
vượt bậc:
Văn hóa, xã hội chuyển biến tiến bộ. Quy mô giáo dục phát triển hợp lý, chất
lượng giáo dục được nâng lên; kết quả thi học sinh giỏi và thi đại học luôn ở tốp

đầu cả nước.
- Chất lượng khám, chữa bệnh được coi trọng. Xã hội hóa y tế đạt khá, một
số bệnh viện ngoài công lập hoàn thành và đi vào hoạt động.
- Hoạt động văn hóa, thông tin, văn học - nghệ thuật, thể dục, thể thao có
nhiều tiến bộ.
- An sinh xã hội được chăm lo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện.
- Tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,57%/năm. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và hiệu quả hơn. Cải cách hành
chính được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước chuyển biến tích cực.
Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày
càng được nâng cao.


Trong thời gian tới, với quyết tâm cao và niềm tin vững chắc vào tương lai
tươi sáng, Đảng bộ, chính quyền, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa tiếp tục
phát huy truyền thống đoàn kết, chung sức, đồng lòng, vượt qua khó khăn, thách
thức, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18,
nhiệm kỳ 2015 - 2020, phấn đấu đến năm 2020 Thanh Hóa trở thành tỉnh khá của
cả nước, đến năm 2030 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại



×