Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận cao học những khía cạnh triết học của việc xây dựng đời sống văn hoá mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.57 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hoá là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của xã hội loài người. Nói cách khác, văn hóa phát triển
cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài người và ngày càng được bổ
sung thêm những nội dung mới. Văn hoá là biểu hiện trí tuệ nhân loại, nó
được bồi đắp theo quy trình từ thấp lên cao, theo tính quy luật đi từ chưa
nhiều đến nhiều hơn, từ chưa phong phú đến phong phú hơn, ít sâu sắc
đến sâu sắc hơn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Văn hoá là nền tảng sinh hoạt tinh thần của con người trong xã hội,
phản ánh trình độ phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Đất nước ta
bên cạnh những đổi mới, chuyển biến về kinh tế, xã hội, cơ cấu quản lý
thì những vấn đề văn hoá mới nảy sinh từ quá trình đô thị hoá, trình độ
dân trí nâng cao cũng làm cho nhu cầu hưởng thụ văn hoá gia tăng về quy
mô chất lượng.
Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế những
đặc điểm về địa lí tạo cho huyện sự khác biệt so với những nơi khác.
Toàn bộ các xã đồng bào dân tộc trước đây đều nằm trên vùng núi cao
hiểm trở bị thắt chặt theo hai vùng Đông-Tây Trường Sơn. Sống trong
vùng khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho dân tộc Nam Đông đức tính cần cù,
chịu khó, chịu thương và ý thức cộng đồng gắn bó với nhau rất mật thiết.
Hình thức cư trú phân tán và biệt lập là nét đặc thù của các dân tộc miền
tây Thừa Thiên Huế nói chung và huyện Nam Đông nói riêng. Những
biến động đã làm mất đi nét cổ truyền văn hóa dân tộc lâu đời của đồng
bào như ngôi làng Cơ-tu truyền thống . Kinh tế chủ yếu là nương rẫy và
săn bắt. Ngày nay, cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng ổn
định. Chính sách định canh định cư mang lại hiệu quả đáng kể trong đời
sống vật chất tinh thần, chính sách phát triển kinh tế mới ở Nam Đông từ
1976 đến nay có tác dụng tích cực trong việc giao lưu, phát triển kinh tế,
văn hóa, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một cuộc sống mới đang
hồi sinh và phát triển trên vùng đất Nam Đông.


Xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông Thừa Thiên
Huế bên cạnh tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, bảo tồn phát huy giá trị
văn hoá của mình, vừa sử dụng những thành quả kinh tế, chính trị giáo
dục và đặc biệt là những thành quả của khoa học - công nghệ hiện đại cho
đẩy mạnh sáng tạo các giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng đời sống
văn hoá mới phải tiến hành song song với nhau, để phát triển bền vững
bước những ảnh hưởng bới những mặt hai của nền kinh tế thị trường,
những hạn chế của việc thực hiện chính sách định cư, quy hoạch phát
triển kinh tế… Vì vậy việc xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam
Đông Thừa Thiên Huế là nhiệm vụ cấp thiết nhằm góp phần giữ gìn phát
huy văn hoá dân tộc trong giai đoạn hiện nay.


Trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
và sự chỉ đạo bởi đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc
xây dựng đời sống văn hoá mới đang được các tổ chức đảng, chính quyền
và nhân dân huyện Nam Đông hết sức quan tâm thực hiện.
Với nhận thức tầm quan trọng của việc xây dựng đời sống văn hoá
mới đối với sự phát triển của một địa phương, nên tôi chọn “Những khía
cạnh triết học của việc xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam
Đông- tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với chủ trương bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá do UNESCO
(tổ chức văn hoá thế giới) phát động. Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền
tảng văn hoá tinh thần xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế xã hội". Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh các quan niệm mới về văn hoá của phương Tây mà cốt lõi là đề
cao nhân tố văn hoá trong phát triển, phát huy những giá trị văn hoá, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá trong đó có những công trình

tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hóa
do Phạm Duy Đức chủ biên (NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội, năm
2008) các tác giả đã bàn luận quan điểm của các nhà triết học Maxic về
xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Và một số lĩnh vực cơ bản như
văn hoá chính trị, vấn đề xây dựng con người đạo đức, lối sống, tín
ngưỡng…
Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thử thách của toàn
cầu hoá (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002) các tác giả nguyễn
Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đã phân tích về vật chất của toàn
cầu hoá của góc độ triết học, giá trị học, quan hệ của toàn cầu hoá với
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, những giải pháp
và dự báo về vị trí vai trò, khả năng của giáo dục truyền thống trong sự
phát triển nền văn hoá nước ta hiện nay.
Tiến sĩ Vũ Thị Kim Dung, đại học sư phạm Hà Nội, trong tạp chí
Triết học số 1 (101) tháng 2 năm 1998, Cách tiếp cận vấn đề văn hóa theo
quan điểm triết học Mác-Lênin, xuất phát từ quan điểm về bản chất của
con người về phương thức xác định bản chất của sự “tồn tại người’’ của
triết học Mac, chúng ta có thể kết luận rằng nếu tự nhiên là cái nôi đầu
tiên của sự hình thành phát triển con người thì văn hoá là cái nôi thứ hai.
Nếu tự nhiên là cái quy định sự tồn tại của con người với tư cách là một
thực thể sinh vật, thì văn hóa là phương thức bộc lộ, phát huy những năng
lực bản chất người gắn liền với những hoạt động sống của con người. Nói
cách khác, văn hoá là sự kết tinh năng lực bản chất người trong thế giới
các sản phẩm do chính hoạt động con người tạo ra, là cái quy định bản
2


chất con người. Với tư cách là một “sinh vật có tính loài” là “một thực thể
xã hội”

Tác giả Nguyễn Khoa Điềm trong cuốn Xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc (NXB Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội năm 2001) đã tiếp cận những yếu tố cấu thành nền văn hoá, những
tiền đề lí luận và thực tiễn hoạt động văn hoá do Đảng ta lãnh đạo để nêu
những nét chính về tính tiên tiến của nền văn hoá mà nhân dân ta xây
dựng, về bản sắc văn hóa dân tộc, qua đó đề xuất một số biện pháp cơ bản
và kiến nghị xây dựng phát triển văn hoá.
Tác giả Nguyễn Huy Hoàng trong cuốn Mấy vấn đề triết học văn
hoá (NXB văn hoá thông tin, Hà Nội, năm 2002) đã xem xét văn hoá
trong sự phát triển của tri thức triết học từ góc độ lịch sử đến góc độ
phương pháp luận để trên cơ sở đó suy ngẫm một số vấn đề cấp bách đối
với thực tiễn và văn hoá hiện nay.
Trong cuốn Cơ sở triết học của văn hoá nghệ thuật Việt Nam do
Đỗ Huy chủ biên (NXB văn hóa thông tin, Hà Nội, năm 2002) các tác giả
đề cập đến những khía cạnh phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan mật thiết đến nền tảng và tư duy
triết học cả sự phát triển văn hoá nghệ thuật nói chung, sự phát triển của
các mê thức văn hoá nghệ thuật Việt Nam nói riêng.
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay chưa có công trình nào xuất
bản và công bố trùng với hướng tiếp cận và đối tượng nghiên cứu của đề
tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Từ quan điểm của triết học Mác-Lênin về văn hoá và vai trò của
văn hoá, làm rõ những giá trị và đề xuất các giải pháp xây dựng đời sống
văn hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
Nhiệm vụ:
- Phân tích quan điểm triết học Mác - Lênin về khái niệm bản chất,
cấu trúc, chức năng và giá trị của văn hoá.
- Làm rõ giá trị văn hoá ở huyện Nam Đông và đề xuất giải pháp
xây dựng đời sống văn hoá mới ở huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận là quan điểm triết học Mác - Lênin, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá và vai trò của văn hoá.
Đề tài kết hợp vận dụng những nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như logic và lịch sử, phân
tích và tổng hợp, trừu tượng hoá và khái quát hoá, so sánh, điều tra xã hội
học.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đời sống văn hoá ở huyện Nam
Đông, Thừa Thiên Huế hiện nay.
3


6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ những giá trị văn hoá của huyện Nam Đông
và đề xuất giải pháp phát huy những giá trị đó giai đoạn hiện nay.
Đề tài này có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu thuộc lĩnh
vực khoa học xã hội - nhân văn, nhất là trong nghiên cứu về văn hóa góp
phần tích cực cho việc tìm kiếm các giải pháp phát huy bảo tồn giá trị văn
hoá truyền thống ở huyện Nam Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, khoá
luận gồm 2 chương (5 tiết).

4


CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VĂN HOÁ
1.1. Khái lược về phạm trù "văn hóa"

Văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ
rất sớm. Nói cách khác, văn hóa tồn tại phát triển gắn liền với xã hội loài
người và ngày càng được bổ sung thêm những nội dung mới, nhân lên ở
tầm cao cùng với sự thăng tiến về tri thức của nhân loại.
Văn hóa không chỉ là kết quả của hoạt động vật chất và tinh thần
của con người mà còn là khách thể của quá trình nhận thức. Song do
đứng trên lập trường khác nhau mà cách lý giải về văn hóa cũng khác
nhau. Quan điểm duy tâm cho rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm tuyệt
đối, của đấng siêu nhiên nào đó sinh ra thông qua hoạt động của con
người hoặc là sản phẩm của ý chí của bậc đế vương, của anh hùng dân
tộc, của lãnh tụ … sinh ra. Quan điểm duy vật siêu hình xem văn hóa ở
những góc độ khác nhau thiếu tính toàn diện không đề cập đến tính kế
thừa các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội. Và từ việc tìm hiểu các
quan điểm đó, có thể khẳng định rằng chỉ có quan điểm duy vật biện
chứng mới vạch rõ nguồn gốc, bản chất, cũng như quá trình phát triển của
văn hóa.
Trước khi triết học Mác ra đời, các quan niệm về văn hóa trước
Mác đều thể hiện tính phiến diện. Các quan điểm duy tâm thần bí cho
rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm, ý niệm tuyệt đối. Các quan điểm
sùng bái cá nhân thì cho rằng văn hóa là sản phẩm ý chí của bậc quân
vương, anh hùng kiệt xuất, còn quần chúng nhân dân không phải là chủ
thể sản sinh ra văn hóa cũng không phải đối tượng của văn hóa mà chỉ là
lực lượng thụ động; hoạt đông vật chất không phải là cơ sở cho văn hóa
nảy sinh cũng không phải môi trường cho văn hóa tồn tại. Các quan điểm
duy vật của và duy vật tầm thường cũng nhìn nhân văn hóa một cách
phiến diện, hoặc coi trọng khía cạnh này hoặc đề cao khía cạnh khác của
văn hóa mà không thấy được văn hóa là một phạm trù có nội hàm và
ngoại diên rất rộng, bao gồm nhiều thành tố, có mặt trong tất cả các lĩnh
vực kể cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần.
C. Mác và Ph. Ăng - ghen, trong một số tác phẩm của mình đã

không trực tiếp bàn đến văn hóa như một lĩnh vực độc lập. Nhưng trong
khi phân tích mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội, tồn tại xã
hội và ý thức xã hội, Mác đã gián tiếp thể hiện quan điểm về văn hóa.
Theo đó văn hóa được xem là một dạng hoạt động người và những thành
tố văn hóa thuộc về ý thức xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội. Lao
động cùng với ngôn ngữ và tư duy là cơ sở hình thành văn hóa.
Văn hóa được tiếp cận từ hai phương diện. Thứ nhất, theo phương
diện hoạt động: văn hóa biểu hiện phương thức tồn tại của con người với
đầy đủ bản chất của mình thông qua các hoạt động sống. Thứ hai, theo
5


phương diện giá trị: văn hóa được xem như là sản phẩm của hoạt động
con người.
Văn hóa là một phạm trù có nội hàm sâu rộng, bao gồm nhiều
thành tố như: Ngôn ngữ, Nhà cửa - kiến trúc, nghệ thuật, tín ngưỡng, lễ
tết, lễ hội, văn chương, hội họa, phong tục tập quán, … Tất cả những
thành tố này là kết quả hoạt động sáng tạo của con người. Phạm vi của
văn hóa không chỉ đơn nhất, khu biệt ở một vùng, miền nào của thành tố
văn hóa mà nó trải rộng trên tất cả các lĩnh vực.
1.2.Quan điểm của triết học Mác-Lênin về văn hóa
1.2.1. Bản chất và đặc trưng của văn hoá
Bản chất của văn hóa là những hoạt động nhằm sản xuất hoặc sáng
tạo ra các giá trị vật chất cũng như tinh thần. Tất cả mọi hoạt động văn
hóa là nhằm hướng đến chân - thiện - mỹ. Do bản chất như vậy nên mục
đích của văn hóa là hướng đến cái cao cả. Cái cao cả nhất chính là sự
nghiệp phát triển, hoàn thiện và giải phóng con người. Văn hóa với tư
cách là một trong ngững hình thái ý thức xã hội có vai trò to lớn trong sự
nghiệp “kiến tạo” bản chất con người. Đi cùng với đạo đức, làm cho đạo
đức trở thành giá trị nhân bản sâu sắc và theo đó một nền văn hóa giàu

tính nhân văn phải là một nền văn hóa có chuẩn mực đạo đức xã hội
mang đậm tính nhân đạo, nhân nghĩa…
.
Văn hóa ra đời song hành với quá trình con người hoạt động sản
xuất ra đời sống vật chất và tinh thần của mình. Văn hóa cũng nói lên quá
trình mà con người để lại dấu ấn trong cuộc hành trình đi tìm và vươn tới
những giá trị chân - thiện - mỹ.
Từ bản chất của văn hóa có thể thấy văn hóa có những đặc trưng
sau:
Thứ nhất, văn hóa phản ánh năng lực sáng tạo của con người, văn
hóa phải là sản phẩm của con người có tư duy, trí thông minh, có trái tim
rung động và sự cảm thụ tinh tế…
Thứ hai,“văn hóa là thiên nhiên thứ hai”
Thứ ba, văn hóa biểu hiện thái độ của con người trước hiện thực.
Thứ tư, văn hóa là phương thức sống, phương thức hoạt động của
con người.
Thứ năm, văn hóa là tính nhân đạo trong sáng và sử dụng các sáng
tạo.
1.2.2. Cấu trúc của văn hoá
Khi nói đến hình thức tồn tại, người ta chia văn hóa thành hai lĩnh
vực: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Trên phương diện giá trị văn
hóa được phân thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Giữa hai mặt
này luôn tác động biện chứng với nhau trong hoạt động sống của con
người. Bên cạnh đó, có những sản phẩm của hoạt động con người mà khó
có thể phân biệt được chúng thuộc văn hóa vật chất hay tinh thần. Trong
6


hoạt động thực tiễn, bên cạnh việc sản xuất ra điều kiện vật chất, phương
tiện sinh hoạt thì con người còn sản xuất ra ý thức, biểu hiện dưới các

hình thức: ý thức tôn giáo, khoa học, nghệ thuật, pháp quyền, đạo đức…
Sự phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính
tương đối, bởi vì, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần là những bộ phận
của văn hóa.
1.2.3. Chức năng của văn hoá
Văn hóa có nhiều chức năng: chức năng giáo dục, chức năng tổ
chức, chức năng giao tiếp, chức năng điều chỉnh, chức năng nhận thức,
cải biến tự nhiên và xã hội, chức năng thẩm mỹ, chức năng giải trí…
Chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội giúp con người
nhận thức và hành động theo đúng quy luật của tự nhiên, chức năng giáo
dục là chức năng bao trùm và quan trọng nhất của văn hóa, qua đó văn
hóa định hướng nhân cách và hành động thực tiễn. Chức năng thẩm mỹ
có tầm quan trọng đặc biệt, thúc đẩy con người vươn đến giá trị chânthiện-mỹ.
Kết luận chương 1
Văn hóa xét về mặt tinh thần là một trong những hình thái ý thức
xã hội, phản ánh trình độ phát triển của lịch sử nhất định của một xã hội
hay cộng đồng dân cư. Lịch sử của văn hóa gắn liền với lịch sử tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Với tư cách là sản phẩm sáng tạo của con
người trong thực tiễn xã hội lịch sử của họ, văn hóa có khả năng chi phối
toàn bộ đời sống tâm lý, lối sống và phương thức hoạt động của con
người trong xã hội.
Văn hóa có những chức năng như giáo dục, thẩm mỹ, nhận thức và
cải tạo hiện thực bằng thực tiễn, văn hóa thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và tác
động tích cực đến sự phát triển và hoàn thiện bản chất con người. Văn
hóa được xem là động lực phát triển, giá trị văn hóa truyền thống là nhân
tố đảm bảo cho sự bền vững.
Nhận thức tầm quan trọng của nhân tố văn hóa trong đời sống xã
hội, việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần là vấn đề quan trọng hang
đầu. Phát huy, bảo tồn những giá trị văn hóa trên cơ sở kế thừa và phát
triển lên tầm cao mới.


7


CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA MỚI, MỘT
TRONG NHỮNG ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN CỦA HUYỆN NAM ĐÔNG TRONG GIAI ĐOẠN
CÁCH MẠNG HIỆN NAY
2.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện.
Nam Đông là một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa
bàn của huyện là một thung lũng phía đông dãy Trường Sơn.
Đặc điểm về địa lý đã tạo cho địa hình huyện Nam Đông có nhiều
khác biệt so với những nơi khác. Toàn bộ các xã đồng bào dân tộc trước
đây đều nằm trong vùng núi cao hiểm trở bị thắt chặt theo hai vùng Đông
–Tây Trường Sơn. Địa hình bị chia cắt nhiều đoạn bởi hệ thống núi non
và sông suối dày đặc của thượng nguồn lưu vực sông Hương (Tả Trạch ).
Sống trong vùng khí hậu, môi trường khắc nghiệt đã tạo cho đồng
bào các dân tộc Nam Đông đức tính cần cù, chịu khó, chịu thương và ý
thức cộng đồng gắn bó với nhau mật thiết trong cuộc đấu tranh sinh tồn
với thiên nhiên cũng như trong cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Về kinh tế là một huyện có dân số ít nhưng là huyện có địa bàn
phức tạp, trình độ dân trí thấp, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó
khăn, tỷ lệ hộ nghèo có giảm nhưng vẫn đang ở mức cao. Trong những
năm qua được sự đầu tư của nhà nước, công tác định canh định cư của
đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng đi vào thế vững chắc, tỷ lệ hộ đói
nghèo giảm.
Về xã hội, ngành giáo dục đổi mới và tăng cường công tác quản lý,
chú trọng và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tăng cường trang
thiết bị cơ sở vật chất phục vụ dạy học và quản lý
Công tác y tế dự phòng được chú trọng, không để bùng phát dịch.

2.1.2 Truyền thống lịch sử văn hóa huyện Nam Đông
Nam Đông là một huyện miền núi, là huyện có địa bàn phức tạp,
đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đồng bào dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện chủ yếu là dân tộc Cơ - tu và một số ít dân tộc khác như Tà
ôi, Tà hy, Pa cô, Vân kiều…
Với đặc điểm có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống nên vùng đất
Nam Đông có đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc
vùng miền đến nay cơ bản vẫn còn lưu giữ được. Với nếp sống nông
thôn, đa phần người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, người
Nam Đông chất phác, thật thà, sống có bản lĩnh, lao động cần cù, có tinh
thần đoàn kết, cố kết cộng đồng cao.
Mặc dù địa hình rừng núi không bằng phẳng, có nhiều vùng lõm
khó khăn trong việc phát triển kinh tế cũng như giao lưu văn hóa giữa các
xã, bản, song có thể nói đời sống văn hóa ở Nam Đông đang khởi sắc
từng ngày.
8


Từ cuộc sống lao động được tích lũy từ thế hệ này qua thế hệ khác,
đồng bào các dân tộc Nam Đông đã bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá
trị văn hóa nghệ thuật truyền thống trong quá khứ.
Đặc biệt là văn hóa dân tộc Cơ - tu. Đời sống của người Cơ - tu
gắn liền với nền nông nghiệp, kinh tế nương rẫy nên phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên. Tính chất của nền nông nghiệp đã quy định cách thức cư trú
của họ, đó là lối sống quần cư mà trong đó mối liên kết, tương trợ lẫn
nhau hết sức chặt chẽ. Nhà Gươl là nơi sinh hoạt văn hóa tính ngưỡng
Về trang phục của người dân tộc Cơ - tu bên cạnh nguyên tắc thuộc
về đặc thù chung đối với một cư dân miền núi, vẫn thể hiện một số đặc
điểm riêng. Nghệ thuật dệt, tạo hoa văn bằng cách luồn hạt cườm vào sợi
chỉ dệt chỉ tìm thấy ở người Cơ - tu.

Lễ hội của người Cơ - tu rất đa dạng, phong phú. Song xét về tính
mục đích có thể phân thành ba hình thức chính: Lễ hội mừng thắng lợi, lễ
hội liên quan ngoại giao với các làng khác và tế lễ.
Điêu khắc, họa tiết trang trí phản ánh nhận thức của họ về thế giới
tự nhiên và thể hiện ước mơ của họ về cuộc sống thông qua những hình
tượng đầu trâu hoặc hoặc tượng thần tốt hình người trên nhà làng hay nhà
mồ.
Văn học - nghệ thuật của người Cơ - tu phản ánh tâm tư, tình cảm,
hoài bảo của họ trước cuộc sống hiện thực.
Văn hóa dân tộc Cơ - tu chứa đựng giá trị nhân văn, nhân đạo.
Trong nếp sống hàng ngày, tinh thần tương thân, tương trợ trong phạm vi
làng. Do sống ở vùng cao cách trở họ chú trọng yếu tố cộng đồng, ăn sâu
vào tâm thức và dần hình thành phong tục như ăn mừng lúa mới, cùng
sinh hoạt lễ hội đâm trâu.
Nét đặc trưng của văn hóa dân tộc Cơ - tu đó là môi trường sinh
hoạt làng, phạm vi cư trú chính là không gian văn hóa của dân tộc Cơ tu.
2.2. Thực trạng đời sống văn hóa ở huyện Nam Đông
Xây dựng đời sống văn hóa mới ở cơ sở, cụ thể là ở huyện Nam
Đông được coi là bước đi đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa ở tỉnh
Thừa Thiên Huế nói riêng và Việt Nam nói chung tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là công cuộc xây dựng
kết cấu hạ tầng văn hóa với mục tiêu chính là giáo dục hoàn thiện nhân
cách, phát triển toàn diện.
Mặt phải và mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến
đời sống tinh thần của từng thôn, xóm và mỗi gia đình của người dân.
Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp đã và đang bị mai một một
cách đáng lo ngại. Trước tình hình đó. Bộ Chính trị quyết định mở cuộc
vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh xây dựng nếp
sống văn minh - gia đình văn hóa bằng cách ban hành Chỉ thị 27 CT/TW của Bộ Chính trị, Thông tư 04 của Bộ Văn hóa Thông tin. Thực
9



hiện chỉ thị trên, Đảng bộ và nhân dân huyện Nam Đông đã phát động
phong trào xây dựng và phát triển đời sống văn hóa mới.
Nhận thức được công tác tuyên truền là hàng đầu, do vậy trong thời
gian qua công tác tuyên truyền được các cấp ủy Đảng, chính quyền quan
tâm thực hiện. Công tác tuyên truyền được thực hiện bằng nhiều hình
thức.
Trên địa bàn huyện các thiết chế Văn hóa, Thể thao được quan tâm
đầu tư xây dựng hàng trăm triệu đồng bằng các nguồn kinh phí nhà nước
và nhân dân cùng làm như: nhà họp dân, các sân chơi, nơi tập luyện Thể
dục Thể thao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế nhất
định cần được khắc phục để nâng cao chất lượng phong trào. Công tác tổ
chức, chỉ đạo thực hiện chưa đồng bộ; sự kết hợp giữa các ban ngành
chức năng vẫn còn nhiều hạn chế, thông tin hai chiều giữa Ban chỉ đạo
cấp xã, các cơ quan đơn vị đối với Ban chỉ đạo cấp huyện còn chậm, chưa
có các giải pháp kịp thời tháo gỡ những vướng mắc của phong trào.
Tuy có nhiều đổi mới, song thu nhập bình quân đầu người đầu
người còn thấp, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người… tỷ lệ hộ nghèo đói còn cao, dân trí thấp. Huyện còn nhiều tiềm
năng về đất đai, nguồn lực song chưa khai thác hết; năng lực chuyển đổi
cơ cấu kinh tế sang sản xuất hàng hóa vẫn còn chậm.
Mức hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền chưa đồng đều, do đặc
điểm địa hình có nhiều vùng lõm nên một số vùng chưa có vô tuyến
truyền hình, việc phục vụ phim ảnh, báo chí tuyên truyền hàng năm chưa
đi hết các vùng trong huyện.
Tổ chức bộ máy của ngành văn hóa từ huyện đến cơ sở chưa đủ
sức phát huy hết khả năng hoạt động, đặc biệt là ở cơ sở, cán bộ làm công
tác văn hóa còn chắp vá, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, chưa có chế độ

chuyên trách văn hóa các xã. Trình độ chuyên môn của các cán bộ văn
hóa còn hạn chế nhiều mặt.
Vai trò của Đoàn thanh niên các cấp chưa được phát huy, trong đó
có cơ sở thiếu quan tâm hoặc thờ ơ vận động, tuyên truyền thanh niên
cưới theo nếp sống mới nên chưa hình thành được phong trào sâu rộng.
Văn hóa truyền thống chưa được phát huy. Vẫn còn tình trạng bói
toán, cờ bạc trong các lễ hội văn hóa. Việc tổ chức các ngày lễ kỷ niệm,
ngày truyền thống của các đơn vị vẫn còn lãng phí. Vấn đề tâm linh do
chưa làm rõ được cơ sở khoa học, nên vẫn len lỏi trong đó những yếu tố
mê tín dị đoan, gây bán tín bán nghi.
Tuy là huyện ít có tệ nạn xã hội xảy ra, nhưng các hành vi tệ nạn xã
hội, các loại tội phạm cũng đã xuất hiện và xảy ra trên địa bàn toàn
huyện.
Như vậy, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa mới ở huyện Nam
Đông với đặc thù là một huyện miền núi còn nhiều khó khăn đặc biệt là
10


nơi tập trung sinh sống của đa số là đồng bào dân tộc nên còn tồn tại
nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu. Vì vậy, so với các nơi khác việc xây dựng
đời sống văn hóa mới còn gặp phải nhiều khó khăn. Chủ trương, chính
sách quan niệm và cách làm của huyện chưa đạt kết quả mong muốn,
chưa làm biến chuyển các hủ tục, quan niệm một cách sâu sắc và toàn
diện, làm công tác văn hóa còn mang tính chất thời vụ.
2.3 Một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng đời sống văn hóa
mới ở huyện Nam Đông.
2.3.1 Cơ sở lý luận của giải pháp.
Xây dựng đời sống văn hóa mới ở huyện Nam Đông trong giai
đoạn hiện nay là nhiệm vụ cấp bách, lâu dài và có ý nghĩa chiến lược vì
đó là một trong những động lực để phát huy và tập trung mọi nguồn lực

của địa phương để rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa miền xuôi và
miền ngược. Xét về điều kiện cụ thể của huyện Nam Đông trong tương
quan của toàn Tỉnh và quán triệt quan điểm biện chứng duy vật mácxít để
thực hiện những giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa mới đảm bảo
tính truyền thống và hiện đại.
Xuất phát từ việc tổng kết thực tiễn, quán triệt mối liên hệ giữa cái
chung và cái riêng đặt trong nguyên lý liên hệ phổ biến. Vận dụng vào
xây dựng đời sống văn hóa mới có những giải pháp chung. Riêng huyện
Nam Đông là một huyện miền núi đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn,
trình độ dân trí thấp chủ yếu là đồng bào dân tộc miền núi nên cần có
những giải pháp trực tiếp chú trọng vào nhiệm vụ bảo tồn giá trị, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Từ thực tiễn đó đề ra
phương hướng nhiệm vụ đúng đắn trong việc xây dựng đời sống văn hóa
mới.
Phát triển bền vững là mục đích của việc xây dựng đời sống văn
hóa mới ở huyện Nam Đông trong giai đoạn hiện nay. Để đảm bảo xây
dựng đời sống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc vừa mang tính hiện đại từ
đó thúc đẩy đời sống kinh tế xã hội của huyện ngày một đi lên. Những
phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa mới phải nằm
trong chỉnh thể của một hệ thống thống nhất và chặt chẽ.
Phát triển toàn diện là một trong những cơ sở đảm bảo thực hiện
xây dựng đời sống văn hóa mới. Việc nâng cao đời sống kinh tế, nâng cao
trình độ dân trí, xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo an sinh xã hội phải tiến
hành song song với việc phát huy và bảo tồn văn hóa truyền thống.
Một sự vật hiện tượng là một thể thống nhất hoàn chỉnh, vì vậy các
giải pháp nhằm thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển phải mang tính đồng
bộ và thống nhất. Xét trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể hiện nay ở
huyện Nam Đông thì việc đề ra những giải pháp để xây dựng đời sống
văn hóa mới không thể không tuân theo quan điểm biện chứng và khoa
học này.

11


Việc thực hiện các giải pháp phải căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể
trong từng giai đoạn để có thể ưu tiên sử dụng các giải pháp về kinh tế,
chính trị tư tưởng hay giải pháp về văn hóa giáo dục một cách hợp lý và
có hiệu quả.
Triết học Mác-Lênin chỉ rõ trong mỗi giai đoạn phát triển của sự
vật thường nổi lên mâu thuẫn chủ yếu và cơ bản. Đây chính là cơ sở để
quy định việc đề ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, yếu
kém trong công tác xây dựng đời sống văn hóa mới của huyện Nam
Đông.
2.3.3. Những giải pháp chủ yếu.
- Giải pháp về kinh tế:
Điều kiện kinh tế-xã hội luôn đống vai trò là hạt nhân quyết định
sự hình thành, tồn tại, biến đổi về ý thức, tinh thần của con người. Phát
triển kinh tế là để nâng cao đời sống vật chất, nâng cao mức sống và tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. Phát triển
kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng kiến trúc
thượng tầng, xây dựng văn hóa.
Giải pháp về phát triển kinh tế:
Thứ nhất, đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế: điện- đườngtrường- trạm cho các xã vùng cao
Thứ hai, quy hoạch tái định cư cho dân để đảm bảo an cư và tạo
điều kiền thuận lợi trong hoạt động sản xuất nông-lâm nghiệp đảm bảo
lương thực tại chổ cho miền núi.
Thứ ba, trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ dịch vụ nông nghiệp,
nâng cao ý thức áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Thứ tư, lập kế hoạch giao đất giao rừng cho dân, đồng thời tăng
cường quản lý bảo vệ rừng bảo vệ tài nguyên khoáng sản
Thứ năm, xây dựng mô hình du lịch sinh thái.

-Giải pháp chính trị- tư tưởng:
Giải pháp chính trị là một giải pháp quan trọng nằm trong cơ cấu
chính trị- kinh tế- văn hóa của một xã hội. Do đặc thù của vùng miền núi
nên vấn đề tư tưởng chính trị được đặt ra một cách cấp thiết. Do đó cần
chú trọng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, giáo dục về
chính trị tư tưởng, giúp đồng bào nâng cao nhận thức, tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách- pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc, tôn giáo.
-Giải pháp về văn hóa, giáo dục.
Giải pháp văn hóa, giáo dục đề ra những cách thức trực tiếp, cụ thể.
Phải phát huy những mặt tích cực xóa bỏ những tập tục lạc hậu gây cản
trở phát triển văn hóa. Những giải pháp cụ thể đó là:
Thứ nhất, chú trọng khôi phục không gian văn hóa làng.
12


Thứ hai, đẩy mạnh phát triển y tế, giáo dục là giải pháp hết sức
quan trọng trong điều kiện hiện nay ở vùng cao. Giải pháp về giáo dục
nhằm nâng cao độ đồng đều về chất lượng ở từng cấp học, bậc học. Quan
tâm giáo dục mậm non, củng cố trung học cơ sở, trung học phổ thông.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách an ninh xã hội đối với người có
công và gia đình chính sách; giảm nhanh hộ nghèo theo hướng bền vững,
khuyến khích làm giàu chính đáng, giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức
xúc nổi lên. Thực hiện cuộc sống văn hóa, kỷ cương pháp luật.
Thực hiện chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm và
phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh tổ quốc
Thứ tư, duy trì và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa văn
nghệ, thể thao. Triển khai việc khôi phục các lễ hội truyền thống tốt đẹp
của dân tộc như: Lễ hội Đâm trâu, nghề dệt Zèng, đan lát, văn nghệ của

đồng bào dân tộc Cơ - tu,…Từ đó đã đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần
của nhân dân các dân tộc trên địa bàn.
Kết luận chương 2
Nam Đông là một huyện miền núi, tuy điều kiện kinh tế còn nhiều
khó khăn nhưng huyện có nền văn hóa truyền thống với những giá trị đặc
sắc của nền văn hóa dân tộc Cơ - tu.
Để xây dựng đời sống văn hóa mới đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
vừa mang tính hiện đại cần kết hợp chặt chẽ kinh tế, chính trị, văn hóa.
Đề ra những phương hướng và giải pháp thiết thực về phát triển kinh tế
miền núi trước hết phải xóa đói giảm nghèo, đây là nhiệm vụ quan trọng
nhằm góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát triển văn hóa.
Giải pháp về chính trị, tu tưởng có vai trò quan trọng trong nâng cao ý
thức chính trị, nâng cao nhận thức của người dân trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội… từ đó xây dựng ý thức dân tộc và cộng đồng trong
việc giữ gìn bản sắc văn hóa. Giải pháp về văn hóa với tính chất là giải
pháp trực tiếp chú trọng vào nhiệm vụ bảo tồn giá trị, phát huy bản sắc
văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

13


14


KẾT LUẬN
Văn hoá xét về mặt tinh thần là một trong những hình thái ý thức
xã hội, phản ánh trình độ phát triển của lịch sử nhất định của mỗi xã hội
hay cộng đồng dân cư. Lịch sử của văn hoá gắn liền với lịch sử tồn tại
của xã hội loài người. Với tư cách là sản phẩm sang tạo của con người.
Với tư cách là sản phẩm sang tạo của con người trong thực tiễn lịch sử xã

hội của họ, văn hoá có khả năng chi phối toàn bộ đời sống tâm lý, lối
sống và phương thức hoạt động của con người trong xã hội.
Với những chức năng giáo dục, thẩm mỹ nhận thức và cải tạo hiện
thực bằng thực tiễn, văn hoá thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, tác động tích cực
đến sự phát triển và hoàn thiện bản chất con người. Trong xu thế đổi mới
và hội nhập văn hoá luôn được xem là động lực phát triển.
Nhận thức tầm quan trọng của nhân tố văn hoá trong đời sống xã
hội, việc nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân là vấn đề cần
quan tâm hang đầu của mỗi dân tộc ở mỗi địa phương.
Nam Đông là một huyện miền núi, tuy điều kiện kinh tế còn nhiều
khó khăn nhưng có những nét sinh động đời thường trong phong tục tập
quán và những tri thức có giá trị tích cực về cuộc sống, những giá trị đó là
thể hiện trong di sản văn hoá trong hành vi và cách thức sinh hoạt hàng
ngày của mỗi cá nhân, trong đời sống tâm linh, trong triết lý đặc biệt là
những giá trị nói lên tinh thần đoàn kết tinh thần nhân văn, nhân đạo sâu
sắc.
Để xây dựng đời sống văn hoá ở huyện Nam Đông hiện nay cần
kết hợp kinh tế, Chính trị, văn hoá. Phát triển kinh tế miền núi trước hết
là xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần xây dưng
cơ sở hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện thực hiện chiến lược phát triển văn
hoá. Giải pháp chính trị tư tưởng có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao ý thức chính trị, nâng cao nhận thức của người dân trong các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội… từ đó xây dựng ý thức về bảo vệ phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc. Giải pháp về văn hoá là giải pháp trực tiếp chú trọng
vào nhiệm vụ bảo tồn phát huy giá trị văn hoá hiện nay.
Như vậy, chủ nghĩa Mác đã nghiên cứu vấn đề văn hoá bắt nguồn
từ sự phân tích mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội tồn tại
xã hội và ý thức xã hội. Nói tới văn hoá là nói tới việc phát huy những
năng lực bản chất con người nhằm hướng tới sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội. Quan điểm về văn hoá của chủ nghĩa Mác bao hàm cả cơ sở lí

luận về sự hình thành chuẩn mực, đánh giá một cách khách quan các giá
trị văn hoá đó là “ chân - thiện - mỹ” đây cũng là cái khung của thang bậc
giá trị. Chuẩn mực của sự đánh giá các giá trị văn hoá chỉ được trình bày
dưới hình thức nào thì nó vẫn nhằm mục tiêu là hướng tới sự phát triển
của con người và xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định.
15


Văn hoá là một hiện tượng phong phú và không kém phần phức
tạp, nó luôn mở ra một phạm vi rộng cho sự nghiên cứu. Đúng như J.
Đêriđa một nhà triết học phương Tây hiện đại đã từng nói: “ Văn hoá là
bí ẩn tận cùng của con người” trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin
về văn hoá nhân thấy rằng việc xây dựng đời sống văn hoá mới song song
với việc bảo tồn phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá của dân tộc là
vấn đề có ý nghĩa góp phần tạo sự “ thống nhất đa dạng” của văn hoá.
Với những giải pháp thiết thực kết hợp nhiều phương diện kinh tế, chính
trị và văn hoá.
Trong xu hướng toàn cầu hoá hiên nay việc xây dựng nền văn hoá
đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời phát huy tính đa dạng của việc kế thừa
bản sắc trong mỗi dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt, từ đó thúc đẩy
đoàn kết thống nhất, đưa đất nước ngày một đi lên.

16



×