Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

tiểu luận tư tưởng triết lý dân là gốc của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.74 KB, 37 trang )

Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của việc chọn đề tài khóa luận

Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của một dân tộc với truyền thống
đấu tranh giữ nước lâu đời, phải luôn chống chọi với những cuộc chiến
tranh xâm lược ác liệt của những đế chế hùng mạnh, tàn bạo. Chính từ nền
tảng ấy là gốc rễ, cội nguồn kết tinh tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc
đậm chất riêng thuộc nền văn hóa Việt Nam. Những đóng góp mang tính
quyết định của nhân dân, sức mạnh của sự cố kết dân tộc đã dẩy lùi mọi
sức mạnh hiếu chiến như mạch nguồn không ngừng chảy trong huyết quản
mỗi con người Việt. Và chính từ đấy cũng là “mảnh đất”hình thành, phát
triển nên cách nhìn, phương thức hành động trong nhìn nhận, đánh giá sự
việc của dân tộc hay còn được coi là triết học Việt Nam. Song tư tưởng
triết học Việt Nam chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình vì còn có sự
“non nớt” trong đúc kết, khái quát vấn đề. Và chính vì thế nên khi nhìn
nhận về triết học Việt Nam đã có ý kiến cho rằng triết học Việt Nam chỉ là
sự rập khuôn tư tưởng của Trung Quốc và Ấn Độ nhưng có chút cải biên.
Đấy chỉ đơn thuần là sự nhìn nhận mang tính phiến diện, góc cạnh vì các
học thuyết lớn từ Trung Quốc và Ấn Độ chủ yếu là tri thức về chính trị- xã
hội. Trong khi đó tư tưởng triết học Việt Nam lại mang xu hướng tiếp biến
các tư tưởng triết học du nhập bên ngoài kết hợp cùng xu hướng tự thân nội
tại như điều kiện địa lý-xã hội, lối tư duy truyền thống… Hai xu hướng này
cùng song song tồn tại, chi phối lẫn nhau theo tiến trình lịch sử lâu dài của
dân tộc, đặc biệt là từ thế kỷ X, sau khi dân tộc ta đã giành được độc lập
dân tộc và bước vào kỷ nguyên Đại Việt. Vấn đề đặt ra không kém phần
nặng nề được đặt ra là nghiên cứu, chỉ ra được triết lý trong tư tưởng của
các nhà tư tưởng Việt Nam. Lịch sử Việt Nam đã cho thấy “tuy mạnh yếu



có lúc khác nhau nhưng hào kiệt không thời nào thiếu” qua sự kế tiếp nhau
của các nho sĩ uyên thâm với những triết lý sống mãi trong lòng dân tộc.
Nguyễn Trãi là một thiên tài trong số những tên tuổi kiệt xuất của thế kỷ
XV. Con người ấy được biết tới không chỉ là một nhà chính trị, nhà quân
sự đầy tài trí mà còn là nhà tư tưởng lớn.
Tư tưởng của Nguyễn Trãi không được tổng hợp nên các tác phẩm
có tính hệ thống mà từ lịch sử sống động, chân thực tạo cảm hứng cho ông
viết nên những bài thơ, bài phú,.. mang đậm nét hiện thực với những giá trị
tư tưởng sâu sắc nhất, tinh túy nhất. Ông đã để lại cho dân tộc Việt Nam
nói riêng, cho toàn thể nhân loại nói chung những giá trị tư tưởng quý giá
và là nhân chứng sống động về một giai đoạn lịch sử nước Việt. Nguyễn
Trãi đã kế thừa những truyền thống quý giá và cao đẹp của lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Kể từ ngày đất nước giành lại độc lập
sau hơn nghìn năm bị giặc phương Bắc xâm lược, Nguyễn Trãi là sự kết
tinh những tinh hoa của thời đại, mà hai triều Lý và Trần là tiêu biểu. Vậy
nên việc nghiên cứu để thấy được cốt lõi tinh thần triết lý ở Nguyễn Trãi là
việc vô cùng quan trọng, mang tính cấp thiết. Triết lý “dân là gốc” là viên
ngọc quý trong kho tàng tư tưởng ông để lại cho nhân loại, chính triết lý ấy
đã làm cho tên tuổi ông vươn lên hơn hẳn so với những đại biểu cùng thời.
Trong phạm vi đề tài này hướng tới chính là làm rõ triết lý “dân là gốc” và
những giá trị lịch sử của triết lý ấy.
2.

Tình hình nghiên cứu của khóa luận

Khi bàn về những đóng góp của Nguyễn Trãi, đã có một lượng lớn
bài viết, công trình nghiên cứu đề cập tới của nhiều tác giả, nhà nghiên cứu
khác nhau. Trước đó cần kể tới đó là tác giả Trần Huy Liệu với tác phẩm:
Nguyễn Trãi- một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhà xuất
bản văn-sử-địa, Hà Nội, 1962 đã chỉ ra cái nhìn tổng quan nhất về những



đóng góp và công lao của Nguyễn Trãi. Nguyễn Văn Bình có bài viết:
Nhân cánh nhà nho trong con người Nguyễn Trãi, tạp chí Triết học, số 4,
tháng 8-1998 đã hướng tới giải thích những nét riêng tiêu biểu ở cốt cách
một nhà nho luôn nặng lòng trăn trở vì dân, vì nước thoát ra khỏi cái bóng
của Tống Nho nặng nề kinh viện, cứng nhắc…Và phải không thể không
nói tới tác giả Võ Xuân Đàn với tác phẩm Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến
trình lịch sử Việt Nam, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội, 1996. Tác
phẩm này đã đi sâu và tập hợp thành hệ thống những đóng góp to lớn, đầy
đủ trong việc khảo cứu về Nguyễn Trãi ở lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Đặc
biệt là Võ Xuân Đàn đã thống kê được những công trình nghiên cứu, những
chuyên khảo bàn về tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Đấy là “11 công
trình của 12 tác giả đề cập tới tính “cách mạng” trong tư tưởng của Nguyễn
Trãi mà trước đó không có và sau nhiều thế kỉ mới xuất hiện trở lại và phát
triển”. Ngoài ra trong suốt quá trình nghiên cứu về đề tài này có điều kiện
tiếp xúc, tham khảo và tìm hiểu các bài viết, các tác phẩm của các tác giả
như: “Tư tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi” được viết bởi
Nguyễn Thu Nghĩa, “Nguyễn Trãi –khí phách và tinh hoa của dân tộc”của
Vũ Khiêu, “Về tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi”do tác giả Doãn Chính
viết, “Bàn về một số yếu tố triết học trong tư tưởng của Nguyễn Trãi” của
Triệu Quang Minh, “Mấy suy nghĩ về tư tưởng của Nguyễn Trăi một “Tấm
lòng sáng tựa Sao Khuê” của Hoàng Ngọc Vĩnh... Nhìn chung các công
trình khảo cứu, nghiên cứu và các bài viết ấy về Nguyễn Trãi mới chủ yếu
mang tính tổng quát, thâu tóm về các mặt tư tưởng với tính chất các quan
niệm về chính trị, đạo đức, nhân sinh như tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng
yêu nước, tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Vấn đề triết lý “dân là gốc”
ở tư tưởng Nguyễn Trãi không hẳn là mới nhưng chưa tới mức đã cũ mà
còn nhiều điều để khám phá, đánh giá và nhìn nhận nhất là ở điều kiện mới,



xu hướng vận động đa chiều của thế giới hiện nay đang đặt ra cho chúng ta
thì thành tựu vẫn còn rất hạn chế.
Từ những tài liệu tham khảo và những đóng góp khác nhau của các
tác giả đã làm được, tôi đi tới khái quát và dựa trên đó để tiến hành nghiên
cứu đề tài này. Và cũng chính xuất phát từ nhận thức đó về tình hình
nghiên cứu triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi trong thực tế nên đề tài
này không chỉ dừng lại ở việc mô tả, giải thích triết lý “dân là gốc” mà
hướng tới nhiệm vụ nghiên cứu để làm toát lên được nguồn gốc, nội dung
và giá trị thực tiễn của triết lý “dân là gốc” trong suốt tiến trình phát triển
của dân tộc .
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là: Cố gắng làm rõ triết lý “dân
là gốc” ở Nguyễn Trãi với những giá trị lịch sử của nó.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận là:
- Chỉ rõ cơ sở hình thành của triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng
Nguyễn Trãi.
- Vạch ra những nội dung cơ bản ở triết lý “dân là gốc” của Nguyễn
Trãi
- Làm rõ những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” của Nguyễn
Trãi trong lịch sử dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khóa luận
- Đối tượng nghiên cứu: triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi
- Phạm vi nghiên cứu: Những tìm hiểu về triết lý “dân là gốc” ở tư
tưởng Nguyễn Trãi qua các tác phẩm còn có tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận



- Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng lý luận là phép biện chứng duy
vật, đặc biệt là biện chứng duy vật về lịch sử để tiến hành nghiên cứu đề
tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chung là các nguyên tắc
nghiên cứu tư tưởng triết học rút ra từ phép biện chứng duy vật. Đây là đề
tài nghiên cứu tư tưởng triết học cụ thể của một nhà tư tưởng cụ thể nên
còn vận dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học với nguyên lý về
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Phương pháp cụ thể là phương
pháp logic-lịch sử, phương pháp phân tích-tổng hợp, phương pháp so sánh,
phương pháp đối hiếu.
6. Đóng góp của khóa luận
-Thông qua nghiên cứu đề tài này, khóa luận muốn góp phần làm rõ
một cách có hệ thống về nguồn gốc, nội dung triết lý “dân là gốc” ở tư
tưởng Nguyễn Trãi cùng những giá trị lịch sử của nó không chỉ ở thời đại
Nguyễn Trãi, mà với dân tộc Việt Nam nói riêng và cho cả thế giới nói
chung.
- Khóa luận này có thể làm tài liệu tham khảo cho tất cả những ai
quan tâm đến vấn đề “dân là gốc”.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì
khóa luận gồm có hai chương, 5 tiết:
Chương 1: Cơ sở hình thành và triết lý “dân là gốc” trong tư tưởng
của Nguyễn Trãi.
1.1. Những nhân tố khách quan của sự hình thành triết lý “dân là
gốc” của Nguyễn Trãi
1.2. Nhân tố chủ quan
1.3. Một số nội dung cơ bản về triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi



Chương 2 : Những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” của
Nguyễn Trãi
2.1. Những giá trị to lớn của triết lý “dân là gốc” ở thời đại của
Nguyễn Trãi
2.2. Giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn Trãi
đối với lịch sử dân tộc Việt Nam
Phần nội dung
Chương 1:
Cơ sở hình thành và triết lý “dân là gốc”
trong tư tưởng của Nguyễn Trãi
1.1. Những nhân tố khách quan của sự hình thành triết lý “dân
là gốc” của Nguyễn Trãi
1.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV
- Bối cảnh quốc tế: Phương Tây bước vào giai đoạn chuyển mình
đầy dữ dội của xã hội trung đại. Nét nổi bật hơn hẳn chính là “cuộc đấu
tranh chống phong kiến đang trỗi dậy mạnh mẽ dưới hình thức những cuộc
chiến tranh nông dân, những phong trào thị dân và phong trào cải cách tôn
giáo”[19; 48]. Đây là thời kỳ “văn hóa phục hưng”, là cái vươn mình tỉnh
dậy sau đêm trường trung cổ ở phương Tây. Trào lưu phục hưng văn hóa
đã mang lại những giá trị vô cùng lớn lao “phá tan thế giới quan của giáo
hội phong kiến, phá tan sự sùng bái mù quáng đối với thần quyền, thức tỉnh
mọi người đấu tranh cho cuộc sống chính đáng của con người”[7;15]. Sự
phát triển của tư bản chủ nghĩa ở phương Tây đã là xu thế tất yếu. Công
cuộc phục hưng văn hóa và quá trình hình thành dân tộc thì sản phẩm tinh
thần tiến bộ nhất của phương Tây chính là chủ nghĩa nhân đạo và ý thức
dân tộc.



- Châu Á cũng có nhiều thay đổi mạnh mẽ, điển hình là Trung
Quốc sau chiến tranh giải phóng nông dân do Chu Nguyên Chương lãnh
đạo năm 1368 đã lật đổ chế độ thống trị của nhà Nguyên lập nên triều đại
Minh. Vào đầu thế kỷ XV, hướng bành trướng chủ yếu của nhà Minh là
vùng Đông Nam Á bao gồm cả âm mưu xâm lược nước ta. Năm 1368, nhà
Minh bước đầu sai sứ đi giao bang với Việt Nam cho tới năm 1384 thì nhà
Minh ngang nhiên lấn tới đòi Việt Nam phải cống nộp lương thực và tiến
tới hai năm sau lại ép Việt Nam cho mượn đường để đánh Chăm Pa.
Hoàn cảnh trong nước vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV: xã hội Đại
Việt rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Triều đại nhà Trần không còn
nắm giữ cương vị lãnh đạo như trước, dần bước vào giai đoạn tụt hậu nặng
nề, sâu sắc. Sự khủng hoảng rơi vào cực độ ở thời vua Trần Dụ Tông.
Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi vua Trần và tự xưng là Hoàng Đế
lấy quốc hiệu là Đại Ngu lập nên triều Hồ (1400-1407). Với những cố gắng
của Hồ Quý Ly thì xã hội Đại Việt đã phần nào có những bước tiến song
vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của sự phát triển xã hội. Chính
quyền nhà Hồ chưa kịp thiết lập quyền thống trị vững chắc, thiếu sự đồng
thuận từ xã hội đã phải chống đỡ với âm mưu xâm lược của nhà Minh. Nhà
Hồ dù kiên quyết chống giặc tới cùng song không có lực lượng nhân dân
ủng hộ nên không đủ sức chống trả cuối cùng chịu thất bại đau đớn sau gần
6 tháng chiến đấu.
Nhà Minh thiết lập nền thống trị thuộc địa hà khắc đồng thời bóc lột,
vơ vét của cải tàn bạo để mang về nước của chúng bao nhiêu của cải, tài
nguyên quý, bắt dân ta phải chịu hàng trăm thứ thuế má nặng nề cùng với
âm mưu thâm độc là phá hoại, thủ tiêu nền văn hóa của dân tộc Việt nhằm
đồng hóa dân ta về mặt phong tục, tập quán. Những phong trào cách mạng
lúc ấy đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu đều do thiếu tính tổ chức, thiếu sự


liên minh vì mang tính tự phát chưa kết thành lực lượng đông đảo của nhân

dân. Dù vậy vẫn giáng cho quân địch những đòn nặng nề, thắp lên ý chí
kiên cường của dân tộc.
Khởi nghĩa của Lê Lợi từ Lam Sơn phất cao lá cờ chính nghĩa kêu
gọi nhân dân chung lòng góp sức giết giặc cứu nước. Linh hồn của cuộc
khởi nghĩa này chính là Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Nếu Lê Lợi là hào trưởng
thuộc giai tầng xã hội mới - địa chủ bình dân đầy uy tín, hào phóng, quyết
đoán thì Nguyễn Trãi là người tài đức song toàn xuất thân nguồn gốc vừa
quý tộc vừa bình dân lại có tri thức cao cộng với thực tiễn cuộc sống. Sau
10 năm chiến đấu đầy gian khổ nhưng hết sức oanh liệt, không mệt mỏi đội
quân chiến đấu dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã giành chiến thắng đập tan mọi
âm mưu, tham vọng bành trướng, thống trị đất nước ta của giặc Minh, khôi
phục nền độc lập tự chủ cho đất nước.
1.1.2.

Tư tưởng “dân là gốc” của Nho giáo

Nguồn gốc sâu xa của tư tưởng “dân là gốc” xuất phát từ những tiền
đề văn hóa Trung Quốc theo Nho giáo vào Việt Nam. Nho giáo là một
trường phái triết học do Khổng Tử (551-479 trCN) sáng lập.
Khổng Tử quan niệm “dân vi bản”, là nền tảng của đất nước, của
chính trị, là bộ phận quan trọng của xã hội. Vậy nên ông nhận thấy dù là
chính thể nào, có là nhà cầm quyền nào đi chăng nữa thì cũng luôn phải
tuân theo thực hiện tốt ba chính sách là dưỡng dân, giáo dân, chính hình để
trị người và trị việc.
Trong chính sách trị dân của mình ông đặc biệt nhấn mạnh tới nhiệm
vụ “dưỡng dân” (chăm sóc, nuôi dưỡng dân) và xem đó là nhiệm vụ quan
trọng nhất. Theo Khổng Tử thì việc thi ân rộng rãi nhằm cứu giúp dân là
sự nghiệp của thánh vương.



Với ông dưỡng dân là làm sao cho dân no đủ, giàu có. Muốn vậy
việc cần làm là giảm thuế nhẹ cho dân nhất là lúc thiên tai, mất mùa. Phải
biết tiết kiệm, không lãng phí, cái gì không có lợi cho dân thì không tiêu
phí. Khổng Tử chỉ ra cần biết phân phối quân bình dân mới không bị bóc
lột và no đủ. Đó là chính sách quan trọng nhất của ông về trị dân.
Khổng Tử còn đòi hỏi nhà cầm quyền nêu cao việc giáo hóa dân.
Theo ông, bản tính con người ban đầu là giống nhau nếu như không được
dạy dỗ tốt sẽ chuyển sang tàn ác. Khổng Tử dồn nhiều tâm huyết cho việc
dạy dân vì trước hết dạy dân là một cách yêu dân. Mặt khác một khi dân
được giáo hóa thì dễ bề sai bảo, dễ trị , làm tốt việc giáo hóa thì không cần
cầm quyền mà nước cũng trị.
Khổng Tử còn nêu ra cách thức thực hiện giáo hóa dân cho nhà cầm
quyền. Cách thức tốt nhất của nhà cầm quyền là đức trị: người trị dân phải
có đức, trị dân qua đạo đức chứ không dùng bạo lực. Theo ông nhà cầm
quyền cần ý thức tự tu dưỡng bản thân từ đó dân mới nhìn vào mà tuân
theo phép tắc, mới tự giác theo mình thì nền cai trị mới bền. Nước muốn trị
thì cần hết sức chú trọng đào tạo những người hội tụ đủ đức đủ tài.
Mạnh Tử tiếp tục kế thừa, phát triển quan điểm của thầy mình về
dân, đã nêu quan điểm hết sức mới mẻ, tiến bộ, sâu sắc về dân ở quan niệm
“dân vi quý”. Ông quan niệm ở một nước thì dân là quý nhất vì dân là gốc
nước, có dân mới có nước, có nước thì mới lập nên vua.
“Dân vi bản bang” tức tư tưởng “lấy dân là gốc” là nội dung xuyên
suốt học thuyết nhân chính của ông. Dân là vốn quý còn quan trọng hơn cả
vua nữa, không có dân ủng hộ thì kẻ thống trị mạnh đến mấy cũng bị lật đổ.
Mạnh Tử nêu lên trách nhiệm của giai cấp thống trị thực thi nền chính trị
nhân nghĩa thu phục nhân tâm vì dân có vai trò, vị trí quyết định tới sự
thịnh suy của đất nước.


Mạnh Tử cũng chủ trương phải xây dựng một chế độ “bảo dân”, ở

đấy nhà vua hòa mình cùng công việc lao động của dân, chia sẻ vui buồn
với họ đó chính là đi vào thu phục dân tâm. Vua phải giữ được dân có vậy
mới nắm được thiên hạ, giữ được ngôi vị của mình. Vậy nên ông nêu điều
kiện thực hiện cho người cai trị giúp dân giàu để có lòng tin của dân. Mạnh
tử cũng xem giáo hóa dân là nhiệm vụ trọng yếu của việc trị nước. Khi biết
cách giáo hóa dân tốt thì thu phục được lòng tin yêu của dân nghe theo ý
mình.
Về phép trị nước Mạnh Tử nhấn mạnh chỉ có đức trị là biện pháp cai
trị chủ yếu và hữu hiệu còn bạo lực chỉ là nhất thời. Đường lối trị nước
trước hết là giải quyết ruộng đất rồi giảm bớt hình phạt tiếp tới giảm nhẹ
thuế và cuối cùng là mở trường dạy lễ nghĩa cho dân. Nhiệm vụ của nhà
vua không chỉ là làm cho dân giàu lên không thôi mà cốt lõi là giáo hóa.
Muốn được lòng dân thì cần phải biết thương dân đã, đã được lòng dân thì
sẽ biết thương dân.
Sau Khổng Tử thì Mạnh Tử đã có bước phát triển mới về dân, quan
tâm tới dân, đề cao dân nhưng ông vẫn chưa thể vượt qua hạn chế của
người thầy của mình. Ông hướng tới “bảo dân”, “chăn dân”, song xét một
cách sâu xa vẫn là để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị nắm quyền trong
xã hội phong kiến.
Khổng Tử và Mạnh Tử nhận thấy vai trò của dân như lực lượng sản
xuất to lớn và có ảnh hưởng nhất định tới sự thịnh suy - hưng vong của chế
độ chính trị, sự ổn định của xã hội. Song ở cách nhìn bị chi phối bởi lập
trường giai cấp thống trị nên với họ không phải tất cả người dân đều là
“quý”, đều là “bản”. Dân được đặt trong quan hệ đối lập với tầng lớp trị
dân do sự khác nhau về tài trí và đạo đức. Vì khác nhau tài trí, đạo đức mà
dẫn đến khác nhau về địa vị, vai trò.


1.1.3. Truyền thống nhân ái cao cả và cố kết cộng đồng cao của
dân tộc Việt Nam

Khi sử ta chưa thể viết sách chỉ lưu truyền bằng miệng thì ông cha ta
đã biết lưu giữ lại qua các truyền thuyết. Đất nước bị xâm lăng, dù Thạch
Sanh có đủ vũ khí, sức mạnh để giết thù, nhưng ông chỉ “dùng tiếng đàn
nhân nghĩa bắt quân thù phải hàng phục. Khi quân thù thất bại, Thạch Sanh
không để chúng đói ra về mà ban cho chúng niêu cơm nhân nghĩa của dân
tộc, khiến kẻ thù khiếp sợ vì ăn mãi không hết. Tấm lòng nhân nghĩa ấy
của Việt Nam, không đụng tới thì thôi, hễ đụng tới thì sinh sôi nảy nở, kẻ
thù làm sao ăn hết được”[38; 11]. Đấy là minh chứng cho lòng nhân ái cao
cả của dân tộc ở thế thắng nhưng không kiêu, yêu hòa bình chứ không hiếu
chiến.
Cậu bé Gióng đã lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết đi, nhưng khi
giặc Ân kéo tới đã vươn vai lớn lên đánh giặc cứu nước. Cậu bé ấy như
hình ảnh một dân tộc không cam chịu bị đè nén, áp bức đã vươn mình gánh
vác trọng trách lịch sử: bảo vệ động lập, tự do cho đất nước. Không kể đó
là đứa bé lên ba nhưng dám đứng lên bảo vệ non sông, không cam chịu ách
nô lệ thì muôn người như một đều tin tưởng đi theo cùng đánh đuổi kẻ thù
ra khỏi đất nước để lập lại hòa bình cho dân tộc.
Lòng nhân ái và tính cố kết còn mãi với dân tộc ta.
1.2.

Nhân tố chủ quan

Yếu tố hàng đầu có tính ảnh hưởng, quyết định tới tài năng của ông
chính là truyền thống gia đình, dòng họ Nguyễn Trãi. Ông xuất thân trong
gia đình dòng dõi, khoa bảng, từng nắm giữ những chức tước lớn trong
triều. Thân sinh của ông là Nguyễn Phi Khanh (trước đây là Nguyễn Ứng
Long) nổi tiếng thông minh hơn người, là con rể của quan tư đồ Trần
Nguyên Đán. Quan tư đồ Trần Nguyên Đán là vị tôn thất nhà Trần, nuôi



dưỡng Nguyễn Trãi từ khi sinh ra, lớn lên bằng những lời dạy thấm đẫm
truyền thống dân tộc, đạo lý làm người. Ông ngoại không chỉ truyền cho
kiến thức mà còn mang tới những kinh nghiệm phong phú của lịch sử trước
kia để lại, lịch sử đương thời, nên ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã phần nào có
thêm vốn hiểu biết, bản lĩnh vững vàng để quan sát và thể nghiệm việc đời.
Người cha đồng thời là người thầy dạy đầu tiên đã hướng ông học
đọc sách, hướng cho ông tới” vườn chư tử, bề lục kinh”. Từ ông ngoại và
cha đều là những nho sĩ uyên bác có kiến thức sâu rộng, chí hướng cao đẹp
cùng lòng nhiệt thành yêu nước.
Nguyễn Trãi từ rất sớm bộc lộ trí tuệ hơn người, chăm lo mài dùi
kinh sử và mới 20 tuổi ông đã đậu Thái học sinh (tiến sĩ) dưới triều Hồ rồi
làm Ngự sử đài. “Nếu hình dung Nho giáo là một đường thẳng thì tư tưởng
Nguyễn Trãi là một đường quanh co cùng hướng, lượn quanh, không bao
giờ trùng mà cũng không bao giờ đi quá xa đường thẳng - đó là một sự lựa
chọn; Nguyễn Trãi lựa chọn cho mình và cho cả dân tộc”[29; 114]. Cách
tiếp thu và xử lý những vốn tri thức cũng là sự khác biệt: không quá phụ
thuộc, rập khuôn cứng nhắc mà với ông lý luận luôn gắn với thực tiễn và
song hành, đi liền với cuộc sống.
“Ngoài Nho giáo, ông đã đọc và nghiên cứu các loại sách có trong
tay: từ giáo lý nhà Phật đến tư tưởng Lão Trang, từ các tác gia thời Tiên
Tần cho đến những quyển sách mới nhất được du nhập”[43; 340]. Những
kiến thức ông tiếp nhận, sử dụng làm thêm hành trang để chiêm nghiệm và
hành động. Điểm mới mẻ hơn nữa của ông là vừa học kiến thức sách vở
vừa đi vào cuộc sống để tìm ra lời đáp cho những điều mà sách vở đã viết
hoặc chưa viết chưa thật rõ.


1.3. Một số nội dung cơ bản về triết lý “dân là gốc” của Nguyễn
Trãi
1.3.1. Phạm trù dân và vai trò, vị trí của “dân” trong tư tưởng của

Nguyễn Trãi
Quan niệm về dân ở Nguyễn Trãi rất rộng, là toàn thể nhân dân lao
động không hề có ranh giới, cấp bậc cao. Trong tư tưởng Nguyễn Trãi dân
là những con người bình dị, gần gũi quen thuộc, là “những dân đen” đang
bị “thui trên lò bạo ngược”, là “những con đỏ” bị “vùi dưới hầm tai vạ”,
“những manh lệ tứ phương” ở những nơi “trong thôn cùng xóm vắng” trực
tiếp làm ra của cải vật chất cho xã hội. Với ông yêu dân là yêu nước, yêu
nước là yêu dân và hơn hết dân chính là lực lượng quyết định tới phát triển
xã hội.
Nguyễn Trãi đánh giá cao vai trò của dân vì đó là lực lượng to lớn có
sức mạnh “úp thuyền mới rõ sức dân như nước”. Dân có vai trò quyết định
“mến người có nhân là dân mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”[28;
87]. Nếu không có sức dân, không có dân đồng tình thì một vị vua cầm
quyền trị nước có tài giỏi như thế nào cũng không thể nào làm hết tất cả
mọi công việc. Bởi thế ông khuyên giai cấp nắm quyền không được phép
phung phí của dân mà phải luôn nhớ tới công lao của họ.
Lực lượng ấy có sức mạnh, vị trí quan trọng trong việc lật đổ những
triều đại phong kiến phản động, một ông vua tham tàn… Nguyễn Trãi cùng
với Lê Lợi đã tổ chức và đoàn kết sức dân hợp nên đội quân hùng mạnh
dưới ngọn cờ chính nghĩa đánh đuổi giặc Minh ra khỏi biên giới nước ta.
Nhân dân là những người có phẩm chất cao thượng, có lý tưởng, hướng tới
cái đẹp chứ không chỉ là công cụ phục vụ cho sự thống trị của giai cấp trên.
Dân không phải là giai cấp thấp hèn mà là đối tượng cần biết ơn, cần
ca ngợi, đáng khâm phục. Nguyễn Trãi luôn đánh giá rất cao vai trò, vị trí


của nhân dân mặc dù cùng thời điểm ấy cho tới mãi về sau ít người nhận
thức được, hành động được như vậy. Bằng cả cuộc đời mình ông đã từng
bước một hoàn thành những điều mình trăn trở, dành cho nhân dân.
Nhận thức ấy đã vượt lên hẳn tư tưởng của Nho giáo và những bậc

tiền bối đi trước chưa nhìn nhận đúng về vai trò, vị trí của dân trong quản
lý xã hội.
1.3.2 “Dân vi quý” và “Dân là gốc” trong sự nghiệp dựng và
giữ nước của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi suốt đời gắn bó, quan tâm tới dân nên thấy xót xa trước
cảnh nhân dân sống trong chiến tranh loạn lạc, đau xót lầm than. Dân là
nền tảng của nước nhà vậy mà dân tình đang quằn quại, rên xiết dưới móng
vuốt kẻ thù, phải làm sao để giải phóng dân, làm sao để dân an bình, ấm
no? Những trăn trở ấy ông tìm ra con đường cứu nước và câu trả lời chính
là “Con đường cứu nhân dân chính là con đường nhân dân tự cứu
mình”[17; 601]. Ông ra lời kêu gọi đông đảo mọi người tham gia tạo sức
mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhân nghĩa để đoàn kết dân. Nhân
dân sát cánh cùng nghĩa quân chiến đấu đi tới giành thắng lợi cuối cùng.
“Từ phát hiện ra sức mạnh, huy động được sức mạnh của dân vào
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là sau khi cuộc chiến tranh đã
kết thúc, Nguyễn Trãi không quên nhắc đến họ với một vị trí xứng
đáng”[27; 42]. Đây là điều mới không có ở các cuộc đấu tranh từng diễn ra
trong lịch sử có sự tham gia của nhân dân. Lịch sử đấu tranh chống xâm
lăng của dân tộc ta từ trước khởi nghĩa Lam Sơn thì yếu tố quyết định vẫn
luôn là nhân dân nhưng quyền lợi sau chiến tranh của họ hầu như không
được quan tâm tới.
Riêng Nguyễn Trãi dù mượn lối diễn đạt của Nho giáo nhưng khác
với Khổng Tử. Ông coi trọng và thấy được vai trò quyết định trong lịch sử


của dân với tư cách là quần chúng nhân dân. Vào thời bình ông lại có chủ
trương “đem dân mựa nước mất lòng dân” (trông coi dân để giữ nước
không được mất lòng dân). Nhiều lần ông kiến nghị với triều đình phải
giảm nhẹ sưu thuế, không nặng trách phạt mà nên chăm lo dạy dỗ dân. Dù
chiến tranh đã hết nhưng ông lòng vẫn không yên vì nỗi lo quan lại ham lo

lợi ích cho riêng mình, lo sao cho dân được sống ấm no, không nghe cảnh
oán giận sầu đau.
1.3.3. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trên hết, trước hết là vì dân
Nguyễn Trãi quan niệm “nhân” không phải là lòng trắc ẩn mà là vì
độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì hòa bình của đất nước. Nhân
nghĩa ở ông là lấy việc lo cho cuộc sống của nhân dân lao khổ làm nghĩa vụ
hàng đầu.
Nhân nghĩa của ông hướng tới dân là trên hết, trước hết mang đậm tư
tưởng yêu nước tiến tới yên dân vì lẽ đó “tư tưởng vì dân, theo dân của
Nguyễn Trãi còn cao hơn cả thân dân”[29; 121]. Nhân nghĩa ở Nguyễn
Trãi là một đường lối, chính sách cứu nước và dựng nước trong kháng
chiến chống giặc cũng như trong xây dựng hòa bình. Nhân nghĩa là một
trong những “điểm sáng”, một đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống Việt Nam là yêu hòa bình, ghét chiến tranh. Vì dân thì phải biết thực
hiện nhân nghĩa nên ông căm ghét chiến tranh, chiến tranh dù thắng hay
thua đều gây ra tổn hại cho con người. Vì bảo vệ an nguy của dân nên “Lấy
chí nhân mà thay cường bạo” nhưng khi giặc vào thế yếu không ra tay sát
hại mà quyết nghị hòa để nhân dân hai nước khỏi nạn can qua. Cứu nước,
cứu dân phải dùng bạo lực nhưng là bạo lực chính nghĩa vì thế không thích
giết người, không muốn chảy máu những người dân vô tội, lính cũng xuất
thân từ người lao động bị bắt buộc mà phải cầm vũ khí. Thế nên “khi đã đủ
sức mạnh để diệt giặc Minh đến tận hang ổ cuối cùng của chúng, thì hai


ông lại dùng chiến lược ngoại giao “Miệng hổ lăn mình, quyết nghị hòa để
hai nước can qua đều khỏi”. Vì thế nên nhân nghĩa còn là chuẩn mực đối
xử, nguyên tắc giải quyết sự việc, là phương pháp luận của suy nghĩ hành
động: nuôi dân, chăm dân, huệ dân, lòng thương người, tình người, sự chân
thành, sự khoan dung độ lượng cảm hóa kẻ lầm đường dù là dân mình hay
kẻ thù... Sau chiến tranh, Nguyễn Trãi hiến kế cho Lê Lợi phải biết chăm lo

đời sống vật chất cho dân. Ông cho việc cấp bách nhất là phải làm sao cho
dân không đói, không rách, trên cơ sở đó đưa dân đến với lễ nghĩa, đến với
nếp sống có trật tự, kỷ cương. Vì thế ông nuôi hoài bão thực hiện một quốc
gia độc lập, hùng mạnh sau thời kỳ loạn ly kéo dài.
1.3.4. “An dân” và hướng tới xã hội lý tưởng người dân hưởng ấm
no, hạnh phúc.
Nguyễn Trãi ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm với dân “an
dân, điếu dân”. Chỉ có “an dân” là điều kiện để xã hội phát triển, phồn vinh
cũng là nội dung chỉ đạo nhân nghĩa. An dân cũng là nền tảng của đạo làm
người. Đạo làm người mà ông muốn hướng tới là mẫu người quân tử, hào
kiệt, đại trượng phu có các đức tính: nhân, trí, dũng. Khi dân là gốc thì mọi
đức tính của đạo người đều hướng về đó.
Trí không còn nặng nề, gò ép trong các giáo điều đạo đức phải tuân
theo nữa mà chủ yếu là cách nắm lấy kiến thức cần cho cuộc sống con
người. Dũng không còn là đạo đức chỉ có ở người quân tử vì lúc này có
nghĩa là có dũng khí đấu tranh chống lại mọi sai trái trong đời sống thường
nhật.
Nho giáo xem “nhân” là lòng thương người chung chung, đạo đức cá
nhân không nói tới số phận dân thì ở Nguyễn Trãi nó lại mang nghĩa cụ thể
là thương những người nghèo khổ, thương nhân dân lao động, chủ trương
“dân là gốc”.


Trung với Nho giáo Trung Quốc chỉ trung thành với một dòng họ
cầm quyền, dựa trên quan hệ cá nhân giữa chủ và tớ. Trung theo quan niệm
Nguyễn Trãi không chỉ trung với nước, mà phải trung với dân chứ không
chỉ riêng một triều đại. Chữ trung còn có nghĩa là bổn phận, trách nhiệm
của triều đại với nước, với dân.
Sau chiến tranh, Nguyễn Trãi muốn nhanh chóng xây dựng lại cuộc
sống hòa bình cho nhân dân, đặt lại nền thịnh trị lâu dài. Dù hoài cổ, muốn

xây dựng trên đất nước ta một xã hội như thời Nghiêu Thuấn, thì cái xã hội
- Vua quan không phải là kẻ đại biểu cho địa chủ, giai cấp áp bức mà là
những người quàn lý xã hội, trách nhiệm chăm sóc nhân dân, bảo vệ, đem
hạnh phúc cho dân; vua là người thay trời chăm lo cho con dân, làm sao
cho xã hội đạt trạng thái cân đối, hài hòa giữa các quyền lợi, lợi ích và giữ
vững tình trạng ấy là một yêu cầu cần thiết cho mọi triều đại; vua có nghĩa
vụ “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, “khi thấy có
một người đói, vua phải cho là do mình làm cho người ta đói, khi thấy một
người rét vua phải cho là do mình mà người ta rét”[21; 136] – mà ông mơ
ước chính là cuộc sống hòa bình cho nhân dân.
Nguyễn Trãi nêu cao ý thức trách nhiệm cho người nắm quyền hành
đất nước, vua cho ra vua rất nặng nề và ngai vàng là nghĩa vụ lớn lao. Vua
phải coi trọng điều nhân nghĩa, làm việc nhân nghĩa và biết lắng nghe ý
kiến từ phía dân đế nắm được điều dân cần, cái dân muốn là gì để tránh làm
những việc làm hại tới quyền lợi của dân. Vua phải luôn biết trau dồi, tu
dưỡng mình. Nếu vua mà không quan tâm tới đời sống của dân thì sớm
muộn cũng mất nước. Bộ máy quan lại cũng làm theo chính sách nhân
nghĩa của vua. Kẻ làm quan ăn bổng lộc phải biết nhớ ơn “kẻ cấy cày” chứ
không được “thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều”…


Với Nguyễn Trãi, dân bao giờ cũng làm hết trách nhiệm với lịch sử,
với nhiệm vụ của mình: lực lượng chính trong chiến tranh, sản xuất ra của
cải vật chất nuôi sống lớp người trên và nuôi sống bản thân mình, lực
lượng xây dựng những công trình kiến trúc lớn cho xã hội. Khi ông đề cao
vai trò, vị trí của dân cũng là bao hàm cả trách nhiệm của dân vào trong đó.
Những mong muốn về một xã hội mang lại ấm no, hạnh phúc cho
dân của Nguyễn Trãi cũng là mong ước muôn đời của nhân dân, mọi nỗ lực
cố gắng bao nhiêu suy cho cùng cũng chỉ là hướng tới cái đích đó.
Tiểu kết chương 1: Trước Nguyễn Trãi đã rất nhiều người nghiên

cứu, nêu quan điểm về “dân là gốc’ nhưng chưa ai có cái nhìn hoàn thiện,
đúng đắn về triết lý đó. Ngay cả danh tướng lẫy lừng của dân tộc là Trần
Quốc Tuấn đã nêu kế giữ nước bền lâu là dựa vào sức dân đoàn kết với
dân, tổ chức dân, dưỡng dân, song tư tưởng ấy mới chỉ là “thân dân”.
Triết lý “dân là gốc”của Nguyễn Trãi đã có những bước tiến dài,
toàn diện, chỉ ra những điểm rất tiến bộ, vừa mang ý nghĩa đương thời vừa
có tác dụng sâu xa về sau. “Dân là gốc” trong tư tưởng của Nguyễn Trãi đã
phát triển trong điều kiện dựng và giữ nước lúc bấy giờ nên đã khái quát
làm rõ những nội dung trọng điểm. Khái niệm “dân” ở Nguyễn Trãi rất
rộng, gồm cả “Dân đen”, “Con đỏ”, “Manh lệ tứ phương”. Dân là số đông
những con người lao động tạo ra của cải cho xã hội, xây dựng nền tảng cho
đất nước, an nguy của triều đại. Mọi chủ trương, chính sách, mọi quan hệ
đối xử của triều đình đều phải dựa vào dân, lòng người. Đấy là quy luật
chung của công cuộc dựng, giữ nước.
Vì xem “dân là gốc” nên tự thấy được sức mạnh của dân, vị trí cũng
như vai trò của dân với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Thông qua đó để
đi tới ý thức trách nhiệm “nuôi dân”, “chăm dân”, “huệ dân” có nghĩa là
vượt lên trên hẳn so với “thân dân”. Theo ông, thành hay bại, trị hay loạn,


tất cả đều ở ý dân, lòng dân. Do vậy, mọi chủ trương, mọi đường lối của
triều đình đều phải căn cứ vào lòng thương dân, đều phải căn cứ vào lòng
người mà hoạch định.
Nguyễn Trãi đã vận dụng thành công nhân nghĩa vào chính trị.
Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trên hết, trước hết là vì dân. Ông dùng “nhân
nghĩa” tiêu chí để phân biệt người nhân với kẻ tiểu nhân, người yêu nước
và kẻ bán nước… Lòng nhân là hướng tới dộc lập dân tộc, hạnh phúc của
nhân dân, hòa bình của đất nước. Và đấy cũng chính là làm cốt lõi đối xử
với dân nước mình lẫn những kẻ lầm đường lạc lối không phải để trừng
phạt mà để giáo hóa họ. Nhân nghĩa cũng là phương thức đối xử, hành

động trong chiến tranh để hạn chế thấp nhất đổ máu và mất mát về con
người.
Lấy “dân là gốc” thì phải có cách thức để dân sống an lành hạnh
phúc. Nguyễn Trãi hướng tới “An dân” và xã hội lý tưởng người dân
hưởng ấm no, hạnh phúc. Xã hội ấy nhằm bảo đảm những quyền lợi cho
dân, đáp ứng như cầu cấp thiết của cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Với
xã hội lý tưởng ấy đã chỉ ra những điều vua quan phải làm gì để “an dân”.
Phải thấy trách nhiệm của mình với dân như thế nào.
Triết lý “dân là gốc” ở Nguyễn Trãi không chỉ tiến bộ có giá trị tiêu
biểu ở thế kỷ XV-XVII mà còn nguyên giá trị với sự phát triển của lịch sử
dân tộc.
Chương 2:
Những giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” của Nguyễn Trãi
2.1. Những giá trị to lớn của triết lý “dân là gốc” ở thời đại của
Nguyễn Trãi
2.1.1. Trên phương diện lý luận


Trước hết, ông đã phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam lên tới đỉnh cao khi nêu lên quan điểm “dân là gốc” một cách toàn
diện, hoàn chỉnh. Ông chỉ ra đâu là sức mạnh của cuộc chiến tranh chính
nghĩa chống giặc Minh: dân là trung tâm sức mạnh, trung tâm của tư tưởng
nhân nghĩa, đồng thời cũng là trung tâm của chủ nghĩa yêu nước. Khái
niệm rộng lớn về “dân” của ông được hiểu là quần chúng nhân dân lao khổ
làm trung tâm. Ông đã thấy được sự cần thiết của yêu cầu mới đầu thế kỷ
XV để kết hợp đúng đắn “yêu cầu giải phóng dân tộc (đánh đuổi giặc
Minh) với yêu cầu giải phóng giai cấp (thủ tiêu chế độ điền trang thái ấp,
nông nô, nô tỳ)”[43; 256].
Triết lý “dân là gốc” của ông có nội dung mới: coi việc chăm lo cho
quyền lợi đông đảo quần chúng nhân dân lao khổ là nội dung cơ bản của

chủ nghĩa yêu nước. Một đường lối cứu nước lấy nhân dân lao động làm
sức mạnh cơ bản. Nguyễn Trãi có quan niệm về vai trò của con người, cách
khai thác, phát huy nguồn lực con người để có thể tiến hành thắng lợi
nhiệm vụ chính trị đặt ra. Ông nêu lên trách nhiệm của kẻ cầm quyền phải
chăm lo đời sống của muôn dân, phải tự ý thức được nhiệm vụ của mình
không gây tổn hại nào tới quyền lợi, đời sống của dân.
Giá trị thứ hai của tư tưởng Nguyễn Trãi chính là chủ nghĩa nhân
đạo-tư tưởng nhân nghĩa trong “dân là gốc”. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
kế thừa những mặt tích cực của phương Đông nhưng đã tiến xa hơn hẳn.
Nho giáo xuất phát từ lợi ích cá nhân, lấy lợi ích cá nhân làm tiêu chuẩn để
đối xử với người khác và coi khinh “quyền mưu”. Phật giáo lấy việc trên
cõi niết bàn làm mục đích để từ bi, bác ái với chủ trương bất sát, yêu cho
tới cỏ cây, loài cầm thù đầy thương cảm và xóa nhòa ranh giới giữa thiện –
ác... Nguyễn Trãi lấy lợi ích của dân, của nước làm cơ sở, nền tảng, luôn
hướng tới cái thiện, chính nghĩa và đấu tranh chống lại cái ác. Nhân nghĩa


trong đường lối đấu tranh chống giặc một mặt tập hợp đựơc sức mạnh của
dân mặt khác thực hiện chiến lược tâm công -đánh vào lòng khiến địch
sớm nhận ra chính nghĩa, sức mạnh của ta dần đẩy lui ý chí xâm lược. Tùy
theo thời gian và phạm vi mà tư tưởng ông có sự tiếp nhận phù hợp: tư
cách nhà nho chân chính nhưng không bác bỏ những giá trị phổ quát của
Phật giáo và Lão giáo mà có sự trân trọng đan xen chúng tạo nên tư tưởng
mang tính đa nguyên, đa dạng dễ thích ứng với đời. Và cũng chính sự đan
xen, kết hợp tam giáo thế này trong tư tưởng của Nguyễn Trãi đã góp phần
nâng cao chủ nghĩa nhân văn của ông lên một tầm cao mới mà từ trước tới
nay chúng ta chỉ tiếp cận được ở một số phương diện cụ thể mà chưa có
tính đa diện. Đóng góp nữa của ông về mặt lý luận nữa là bộc lộ tư tưởng
của mình thông qua diễn đạt đạo làm người hướng tới cốt lõi vẫn là vì dân.
Bởi coi “dân là gốc”, “mến người có nhân là dân, mà chở thuyền cũng là

dân lật thuyền cũng là dân”, cho nên theo Nguyễn Trãi trung với vua là
phải khuyên vua thực hành nhân nghĩa, cùng vua cứu nước cứu dân. Rồi
các quan niệm về nhân, dũng, trí của ông cũng mang sắc thái mới, nội dung
mới. Dân, lợi ích của dân là quy chiếu cho quan niệm về đạo làm người của
Nguyễn Trãi. Và không thể không nhắc tới xã hội lý tưởng mà ông hằng
mong muốn dân ta được sống một cách ấm no, thịnh vượng sau chiến thắng
giặc Minh là xã hội Nghiêu, Thuấn. Dưới xã hội ấy vua yêu thương dân,
chăm lo cho dân và phải có những đạo đức cần thiết “cần kiệm, liêm chính,
chí công vô tư”. Quan lại cũng phải ý thức rõ trách nhiệm của mình. Người
dân chỉ cần biết chăm lo làm lụng trong cảnh thái bình..
Triết lý “dân là gốc” của ông mang tính “cách mạng”. Thông qua
việc tiếp thu và phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống, những yếu tố
tích cực của tư tưởng Nho-Phật-Lão-Trang kết hợp với chất liệu từ chính
cuộc sống hàng ngày, từ công cuộc kháng chiến chống Minh cùng truyền


thống gia đình, Nguyễn Trãi đã nâng tư tưởng của mình, đã phá vỡ lớp vỏ
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của giai cấp phong kiến..
Con đường cứu nước của ông đã đi tới cái đích cuối là thắng lợi giặc
ngoại xâm bước đầu đem lại đời sống an bình cho nhân dân. Tư tưởng của
ông đã hiện thực hóa qua hành động cứu nước, cứu dân. Triết lý “dân là
gốc” ở Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở chỗ đánh đuổi xong giặc ngoại
xâm là xong xuôi hết mà còn hướng tới lý tưởng xây dựng đất nước. Với
Nguyễn Trãi thì quan điểm về nhân dân vừa là sự nhận thức về sức mạnh
của dân, sự trân trọng dân cả mặt bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn hòa bình
vừa là động lực, tâm điểm của xây dựng đất nước khi hết chiến tranh.
2.1.2. Trên phương diện thực tiễn
Để hiểu đúng đắn về tầm vóc của triết lý “dân là gốc” ở Nguyễn Trãi
ta cần đặt sự kế thừa và vận dụng tư tưởng của ông vào thực tiễn, vào hoàn
cảnh bấy giờ - cuộc kháng chiến vĩ đại của một dân tộc cứu nước. Nguyễn

Trãi là con người của hành động: hành động vì dân vì nước nên tư tưởng
của ông bên cạnh giá trị lý luận còn có giá trị thực tiễn. Phương pháp tư
duy của ông được cụ thể hóa thành phương pháp hành động cụ thể trong
lịch sử.
Nguyễn Trãi đã kế thừa, nâng cao, khái quát hóa khiến tư tưởng của
mình gần hơn với quan niệm mác-xít về vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử. Lợi ích của dân của nước là mục đích duy nhất của hành
động.
Nguyễn Trãi - quan đại thần của nhà Hồ, cháu ngoại nhà Trần chọn
đi theo phò tá Lê Lợi làm minh chủ vì ông biết con người đó hội tụ nhiều tố
chất có thể cứu dân, cứu nước khỏi cảnh loạn lạc bấy giờ. Nguyễn Trãi
nắm rõ yếu tố có tính quyết định tới thắng lợi là sức mạnh của dân nên
dùng hết tâm huyết cùng Lê Lợi hoạch định ra các phương án đánh giặc,


dùng ngòi bút của mình ra lời kêu gọi nhân dân cùng hưởng ứng và tập hợp
được nhiều hào kiệt trong nước theo về tham gia nghĩa quân. Sức mạnh của
quần chúng nhân dân khi tham gia nghĩa quân chỉ thực sự phát huy trong
chiến tranh chính nghĩa, vì lẽ phải và sự công bằng mà thôi. Ông khuyên
Lê Lợi và nghĩa quân “không thích giết người là bản tâm của bậc nhân
giả”. Hành động ấy là bảo vệ an nguy cho dân tộc ta lẫn nhân dân bên phe
kia không đổ máu vô nghĩa. Bởi lẽ khi ông dấn thân vào cuộc chiến này là
vì lo cho an nguy của dân thì khi giặc đã vào thế thua thì nên hòa, cốt vẫn
là chủ trương “lấy toàn dân là hơn” chứ không hiếu chiến. Chiến đấu chống
thù ròng rã suốt mười năm mới đi tới thắng lợi ấy được chỉ đạo dựa trên
quan điểm nhân nghĩa mà tâm điểm là lấy “dân là gốc”. Tất cả mọi hoạt
động của con người trong chiến tranh đều đi từ quan điểm nhân nghĩa rồi
lại quay về với nhân nghĩa.
Ông đã thực hành đường lối nhân nghĩa của mình để dần tiến tới “an
dân”. Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn Trãi còn tinh tế hơn là muốn “an

dân” thì luôn phải giữ được hòa bình. Nền hòa bình ấy không giới hạn chỉ
riêng cho nhân dân nước mình mà còn cho cả nhân dân nước gây chiến
được yên ổn. Nguyên nhân gây chiến chỉ là âm mưu của những người đứng
đầu điều hành đất nước còn dân thì nước nào cũng như nhau với bản tính
hiền lành. Nguyễn Trãi không ít lần ra vào các trại giặc để thương thuyết đi
tới nghị hòa. Nhờ những đóng góp ấy mà nghĩa quân đi tới thắng lợi một
cách hòa bình, ít gây đổ máu hơn nhiều.
Khi hòa bình đã lập lại cả dân tộc bước vào giai đoạn kiến thiết lại
đất nước và Nguyễn Trãi đi vào thực hiện áp dụng những quan điểm tiến
bộ vừa thực hiện thời chiến vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Sau khi
giành lại non sông đất nước, thiết lập thống trị nhà Lê thì nội bộ đã nảy
sinh một số bộ phận kéo bè kết phái mưu lợi cho riêng mình. Tư tưởng


nhân nghĩa trong con người hết lòng vì dân đó không thể nào làm ngơ
trước thực trạng rối ren ấy, không thế hòa cùng với những hạng người ấy
được do đấy làm nảy sinh nên mâu thuẫn giữa Nguyễn Trãi với bọn quan
lại trong triều đình nhà Lê. Dù bộ máy nắm quyền nhà nước thời bình
không như lúc trị loạn nhưng ông vẫn không nản chí. Nguyễn Trãi vẫn
dành hết nhiệt huyết đưa ra lời khuyên can dựa trên những điều đã có trong
kinh sách để bày tỏ quan điểm nhân nghĩa vì dân của mình cho nhà vua về
việc nước qua những việc cụ thể.
2.2. Giá trị lịch sử của triết lý “dân là gốc” ở tư tưởng Nguyễn
Trãi đối với lịch sử dân tộc Việt Nam
2.2.1. Là một giá trị tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước truyền
thống của Việt Nam
Tư tưởng của Nguyễn Trãi có đầy đủ những đặc trưng cơ bản về chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam ấy và được diễn đạt theo lối tư duy
của riêng ông.
“Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam khác xa với chủ nghĩa

trung quân Nho giáo. Nho giáo Bắc phương hiểu vua là nước, vua ở đâu thì
nước ở đó còn theo chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam hễ lãnh thổ
và nhân dân ở đâu thì nước ở đó. Nước không phải lúc nào cũng đồng nhất
với một dòng họ, một triều đại, một ông vua”[43; 289]. Với dân tộc ta thì
chỉ cần là người dám đứng lên bảo vệ Tổ quốc dù có là đứa bé, người phụ
nữ cũng được muôn người đi theo cổ vũ, chung lòng đánh đuổi lũ xâm
lăng. Hay hiểu theo cách khác thì đó là đặc trưng cho tinh thần bất khuất
chống giặc ngoại xâm quyết tâm bảo vệ đất nước tới cùng và tính cố kết
cộng đồng cao của nhân dân ta. Nguyễn Trãi đã mất mười năm đầu khi
quân Minh chiếm đóng nước ta để tìm ra con đường cứu nước vì vào
khoảng thời gian ban đầu ấy ông không thấy ai thật sự có con đường cứu


nước giết thù hơn hẳn. Khi Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ông mới vào Thanh
tìm minh quân cùng đánh đuổi giặc thù. Tâm khảm Nguyễn Trãi luôn khắc
ghi lời dạy của cha mình “con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa
nhục cho nước, giả thù cho cha như thế mới là đại hiếu”. Ông luôn nêu cao
tinh thần hy sinh quên mình vì dân, bao giờ cũng đặt lợi ích nhân dân lên
trên lợi ích của mình.
Nhân nghĩa Nho giáo luôn dạy phải dựng lại những dòng dõi vua đã
mất, còn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lại là truyền thống đấu tranh sinh
động, quyết tâm giành lại độc lập dân tộc không cứ phải dựng lại triều đại
vua cũ. Và triều đại nào được dựng lên là nhờ tài đức của người lãnh đạo
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nguyễn Trãi chọn con đường cứu
nước theo truyền thống dân tộc dù tư tưởng vẫn thuộc Nho giáo nhưng là
tư tưởng Nho giáo mang khuynh hướng khoáng đạt, gần gũi, linh hoạt. Vậy
nên tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn bổ sung, phát triển thêm vào
các đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam mà không thể
lặp lại với bất kì dân tộc nào khác ở các đặc trưng: yêu hòa bình ghét chiến
tranh và lòng nhân ái cao cả. Vốn bình sinh ông rất ghét chiến tranh, xem

chiến tranh là việc vô nghĩa, luôn thiết tha hướng tới hòa bình. Nhưng
Nguyễn Trãi cũng nhận thức rõ hòa bình chỉ thực sự bền vững, lâu dài khi
được củng cố bằng nền độc lập dân tộc. Một khi bị đẩy vào tình thế dân
tộc, đất nước phải chịu cảnh loạn ly, tan tác vì chiến tranh thì việc đứng lên
cầm vũ khí là không thể tránh được bởi “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/
Quân cứu nước phải lo trừ bạo” làm sao cho trăm họ hết cảnh lầm than.
Quân Lam Sơn quyết tâm đánh giặc bằng sức mạnh của muôn dân
tuy thiện chiến mà không hiếu chiến vì ra trận chỉ vì bất đắc dĩ. Phương
châm đánh giặc của nghĩa quân là “lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí
nhân mà thay cường bạo”, “ta mưu đánh vào lòng, không chiến mà cũng


×