Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Giảm nghèo bền vững tại tỉnh phú thọ đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.57 KB, 106 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BHYT
2. CT
3. CT MTQG
4. CPRGS
5. DTTS
6. GDP
7. HDI
8. HĐND
9. KCB
10. LĐTBXH
11. MTTQ
12. NHCSXH
13. TTCP
14. THPT
15. UNDP
16. HĐND
17. UBND
18. UBMTTQ
19. GNBV
20. XĐGN
21. WB
22. KT-XH
23. TPCP
24. BCĐ
25. ĐBKK
26.XDCB
27. XKLĐ
28.HSSV
29. CSSK
30. HPI



Bảo hiểm y tế
Chương trình
Chương trình mục tiêu quốc gia
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
Dân tộc thiểu số
Tổng sản phẩm quốc nội
Chỉ số phát triển con người
Hội đồng nhân dân
Khám chữa bệnh
Lao động - Thương binh và Xã hội
Mặt trận Tổ quốc
Ngân hàng Chính sách xã hội
Thủ tướng Chính phủ
Trung học phổ thông
Chương trình phát triển Liên hợp quốc
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Giảm nghèo bền vững
Xoá đói giảm nghèo
Ngân hàng thế giới
Kinh tế xã hội
Trái phiếu Chính phủ
Ban chỉ đạo
Đặc biệt khó khăn
Xây dựng cơ bản
Xuất khẩu lao động
Học sinh sinh viên
Chăm sóc sức khỏe

Chỉ số nghèo khổ tổng hợp

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luân văn
Nghèo là một hiện tượng mang tính toàn cầu, nó không chỉ tồn tại ở
những nước nghèo, có thu nhập thấp và các nước đang phát triển mà ngay cả
ở những nước phát triển cũng phải đối mặt với tình trạng này. Do đó giảm
nghèo là vấn đề kinh tế- xã hội (KT-XH) bức xúc tại nhiều quốc gia. Thực
tiễn giảm nghèo cho thấy, không ít người đã thoát nghèo song lại tái nghèo, từ
đó vấn đề đặt ra là quá trình giảm nghèo phải được thực hiện song song với
chống tái nghèo, tức là phải đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững
(GNBV). Đối với Việt Nam, GNBV luôn được Đảng, Nhà nước xác định là
mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển KT-XH, đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với
tình hình thực tiễn, công cuộc xóa đói giảm nghèo (XĐGN) ở nước ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, xã hội và an
ninh quốc phòng, phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và góp
phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước. Báo cáo Chính trị tại Đại
hội XI của Đảng khẳng định: "Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi
mới (1986- 2011) đã tạo ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn

hơn nhiều so với trước" [14, tr.184].
Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam được thế giới đánh giá cao.
Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm nhanh từ 58% năm 1993 xuống còn 10,7% năm 2010
[27, tr.4] đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Nhìn chung các chính
sách hỗ trợ, các dự án đầu tư đều đạt được mục tiêu đề ra và mang lại hiệu
quả xã hội sâu sắc nhằm tạo sự chuyển biến trong nhận thức về giảm nghèo


2

bền vững của nhân dân. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền
vững, nhiều hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập đang nằm sát chuẩn
nghèo, tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm còn cao; chênh lệch giàu - nghèo giữa các
vùng, nhóm dân cư vẫn còn khoảng cách lớn, đời sống người nghèo gặp nhiều
khó khăn, nhất là ở khu vực miền núi, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. "Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và
giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh" [14, tr.168]. Hệ số GINI ở nước ta liên
tục tăng qua các năm: 1994 là 0,350; năm 1999 là 0,390 và năm 2010 là 0,43
[27, tr.4]. Điều đó cho thấy, khoảng cách chênh lệch về mức sống và phân
hóa giàu nghèo đang có xu hướng ngày càng tăng lên. Từ đó, giảm nghèo bền
vững vẫn đang là vấn đề bức xúc, nóng bỏng cần được nghiên cứu giải quyết.
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng miền núi trung du Bắc Bộ trong
những năm gần đây đã đạt được những bước tiến đáng kể trong phát triển
KT-XH và giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 17,6% năm 2008 và
12,52 % năm 2013, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao
thông qua việc thực hiện nhiều chương trình, dự án giảm nghèo, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập, hỗ trợ sản xuất cho người nghèo, đầu tư cơ sở hạ
tầng, phát triển đa dạng hoá các ngành nghề dịch vụ có hiệu quả kinh tế
cao… Tuy nhiên, nguy cơ tái nghèo vẫn cao. Vì vậy, giảm nghèo bền vững
luôn được các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh xác định là một vấn đề đang

có nhiều khó khăn và thách thức nhất trong chủ trương phát triển kinh tế gắn
với giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội cho người nghèo
của tỉnh Phú Thọ.
Xuất phát từ thực trạng công tác GNBV tại tỉnh Phú Thọ cũng như những
khó khăn mà công tác GNBV sẽ phải đối mặt trong thời gian tiếp theo, tác giả đã
lựa chọn đề tài: “Giảm nghèo bền vững tại tỉnh Phú Thọ đến năm 2020” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp, nhằm góp phần thực hiện thắng lợi giải pháp hỗ trợ


3

người nghèo để cải thiện và nâng cao mức sống hướng tới mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên liên quan đến là của
tác giả Trịnh Duy Luân - Viện Xã hội học thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội
và Nhân văn quốc gia (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) tiến hành vào
năm 1992. Báo cáo tổng kết đề tài khảo sát thực trạng KT-XH 4 quận nội
thành Hà Nội. Kết quả khảo sát trên 800 hộ gia đình thuộc 4 phường (đại diện
cho 4 quận) ở nội thành Hà Nội, tác giả đã phân thành năm nhóm theo mức
sống: nhóm I có mức sống cao nhất chiếm 4,9% (còn gọi là nhóm "khá giả",
hay "giàu có", hay nhóm "đỉnh"); nhóm II có mức sống trung bình khá chiếm
30,0% (còn gọi là mức sống "thỏa mái"); nhóm III có mức sống trung bình
(còn gọi là "tạm đủ") chiếm 49,3%; nhóm IV có mức sống trung kém (còn
gọi là "chật vật"); chiếm 11,9%; nhóm V có mức sống kém: thấp nhất (còn
gọi là "nghèo" hay thiếu thốn, nhóm "đáy") chiếm 4,0%.
Cuộc khảo sát xã hội học do Viện Xã hội học tiến hành vào giai đoạn
1992 -1994 trên địa bàn một số tỉnh thành phố dọc theo quốc lộ I từ Hà Nội
đến thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nghiên cứu đầu tiên nỗ lực sử dụng các
chỉ báo liên quan đến mức sống, đến học vấn và hưởng thụ văn hóa tinh thần

của cộng đồng dân cư. Đề tài đã xác định được hai biến số phụ thuộc được coi
là các biểu hiện của phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo như: sự tích tụ vật
chất của các tầng lớp trong xã hội được đo bằng bình quân thu nhập đầu
người trong tháng với việc phân chia thành năm nhóm khác nhau; đầu tư và
tiêu dùng văn hóa được thể hiện qua sáu biến số độc lập được coi là các yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp: như truyền thông gia đình (nguồn gốc xuất thân của
chồng và vợ), trình độ học vấn và tay nghề qua từng giai đoạn, nghề nghiệp
và sự thăng tiến, tính tích cực chính trị, môi trường và vị trí chỗ ở hiện nay,


4

tuổi của đối tượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đã có dấu hiệu tương đối rõ
của phân tầng về mức sống, phân hóa giàu nghèo mà trước tiên là theo tiêu
chí địa bàn cư trú đô thị/nông thôn. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề tài đã dự
báo rằng trong những năm tiếp theo khoảng cách về mức sống giữa các nhóm
dân cư ở đô thị, nông thôn sễ dần dần lớn hơn, mang tính chủ đạo và sẽ tiếp
tục được khẳng định trong thời gian tiếp theo: Trên bình diện cơ cấu xã hội,
hiện nay đang nhìn thấy rõ sự cách biệt nông thôn và thành thị cũng đang đẩy
tới ngày càng sâu... Sự tách biệt đó dễ nhận thấy về lối sống, trong đó nổi lên
về trình độ văn hóa và tiếp đó là mức sống. nhưng nhìn sâu vào sẽ thấy rõ là
do tốc độ phát triển: nông thôn và nông nghiệp đang tụt hậu ngày càng xa so
với đô thị và công nghiệp
Trong những năm gần đây, một số cuộc điều tra có liên quan đến phân
tầng xã hội về mức sống và phân hóa giàu nghèo do Tổng cục Thống kê,
Viện Xã hội học và một số cơ quan nghiên cứu khác tiến hành. Kết quả các
cuộc điều tra cho thấy, việc sử dụng chỉ báo thu nhập được coi là điểm tựa
cho việc tìm hiểu và phân tích sự phân tầng về mức sống hay phân hóa giàu
nghèo. Viện Xã hội học là một đơn vị đã triển khai một số cuộc khảo sát về
lĩnh vực này. Những kết quả khảo sát xã hội học hướng vào thu thu thập

những chỉ báo về nhiều khái cạnh khác nhau trong đời sống vật chất cũng
như đời sống tinh thần của các nhóm xã hội khác nhau, từ đó phân chia
thành năm nhóm có thu nhập khác nhau như: Nhóm rất nghèo dưới
75.000đ/người/tháng; nhóm dưới trung bình từ 75.000đ đến 150.000đ; nhóm
trung bình từ 150.000đ đến 300.000đ; nhóm khá giả từ 300.000đ đến
600.000đ; nhóm rất giàu trên 600.000đ. Như vậy việc chia các tầng lớp xã
hội, không phân biệt nông thôn, thành thị theo theo những thang đo được
dựa trên cơ sở số liệu của Tổng cục Thống kê đã tính toán tỏ ra tương đối
hợp lý khi phân tích sự phân hóa giàu nghèo.


5

Một trong những nguồn số liệu có độ tin cậy cao trong việc phân tích
xu hướng phân hóa giàu nghèo là kết quả các cuộc khảo sát mức sống dân cư
tiến hành 5 năm một lần do Tổng cục Thống kê thực hiện với sự hỗ trợ kỹ
thuật của các tổ chức quốc tế: Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc
(UNDP) Ngân hàng Thế giới (WB) và cơ quan phát triển Quốc tế Thụy Điển
(SIDA). Trên cơ sở phân tích số liệu của VLSS93 và VLSS89, tác giả Đỗ
Thiên Kính cho rằng ở Việt Nam hiện nay có khuynh hướng phân hóa khu
vực rất rõ: "....phân hóa mức sống theo các vùng/khu vực, hay là sự chênh
lệch mức sống (chỉ tiêu) thể hiện rất rõ giữa các vùng/khu vực khác nhau",
"Sự phân chia rõ ràng những vùng/khu vực nào là của người nghèo". Tác giả
đã luận chứng sự tác động của yếu tố học vấn đến việc nâng cao mức sống
cho hộ gia đình và khảng định đi cùng voái tiến trình phát triển của xã hội,
ảnh hưởng của học vấn đến mức sống ngày càng mạnh dần lên và rõ nét hơn.
Bên cạnh đó, sự tác động của cơ cấu nghề nghiệp đến phân tầng phân hóa ở
nông thôn đồng bằng sông Hồng đặc biệt su hướng phi nông nghiệp tác động
đến phân hóa giàu nghèo cũng được tác giả phân tích khá rõ.
Ngoài ra còn phải kể đến các công trình và bài viết của các tác giả sau:

Nguyên Văn Tiêm, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trung Quế, Nguyễn Phượng
Vĩ, Giàu nghèo trong nông thôn hiện nay. Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1993;
Bạch Hồng Việt, Vấn đề giàu nghèo ở nước ta hiện nay. Tạp chí Cộng sản, số
8, 7/1995; Đỗ Thiên Kính (2003) Phân hóa giàu nghèo và tác động của yếu
tố học vấn đến nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, (2004), Kỷ yếu hội
thảo: "Vấn đề phân phối và phân hóa giàu nghèo trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩ ở nước ta" Nhà xuất bản
Lao động xã hội, Hà Nội; Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn Áng
(2000), Giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo ở các nước và ở Việt Nam,


6

Nxb Nông Nghiệp Hà Nội; Lê Văn Toàn (2006), Vấn đề phân hóa giàu
nghèo ở Việt nam hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị; Lê Ngọc Hùng (2010),
Chênh lệch giàu nghèo, phân tầng xã hội ở Hà Nội hiện nay, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 8/10/2010....Nhìn chung các công trình trên
đã tiến hành đã tiến hành phân tích về lý luận và một số khía cạnh khác nhau
của phân hóa xã hội, phân hóa giàu nghèo. Các kết quả nghiên cứu có tầm
quan trọng đặc biệt trong việc phát triển lý thuyết cũng như các giải pháp về
chính sách nhằm thực hiện mục tiêu GNBV và từng bước nâng cao mức sống
cho mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên những nghiên cứu trên chưa đặt vào
nghiên cứu tổng thể hoặc chưa gắn kết với nhau nhằm mang lại thông tin có
tính hệ thống, qua đó có thể so sánh và rút ra được sự vận động mang tính quy
luật của phân hóa giàu nghèo và những biến đổi trong cấu trúc xã hội. Đặc
biệt là cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập sâu tới vấn
đề giảm nghèo bền vững ở tỉnh Phú Thọ theo phương diện quản lý kinh tế
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là hệ thống hóa những vấn đề lý luận về giảm

nghèo bền vững, trên cơ sở đó phân tích đánh giá thực trạng giảm nghèo trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ thời gian qua, đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững
trên địa bàn tỉnh thời gian tới
Nhiệm vụ của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chủ yếu về nghèo và giảm
nghèo bền vững.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng nghèo và giảm nghèo bền vững
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất một số giải pháp giảm nghèo bền vững ở tỉnh Phú Thọ đến
năm 2020.


7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giảm nghèo được tiếp cận trên
giác độ quản lý kinh tế, trong đó tập trung đi sâu phân tích, đánh giá nội dung
chính sách giảm nghèo bền vững.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn về không gian là hoạt động giảm
nghèo thông qua các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo bền vững
trên địa bàn toàn tỉnh Phú Thọ. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn hướng
tới xác định mục tiêu giảm nghèo cụ thể của tỉnh, trên cơ sở đó đề xuất những
giải pháp tiếp tục thúc đẩy giảm nghèo bền vững của tỉnh đến 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận: Việc nghiên cứu luận văn dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để
nhận thức xem xét các vân đề một cách hiện thực, khách quan, logic, từ đó
đưa ra những giải pháp có căn cứ khoa học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu kinh tế và quản lý phổ biến như tổng hợp, phân tích, thống

kê, so sánh, điều tra, khảo sát số liệu, thu thập thông tin và các tài liệu có liên
quan để làm rõ cơ sở lý luận của giảm nghèo bền vững; thực trạng giảm
nghèo ở tỉnh Phú Thọ thời gian vừa qua; đồng thời, đưa ra một số giải pháp
giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới; có kế thừa
có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan.
6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung lý luận giảm nghèo
bền vững trên địa bàn tỉnh.
Việc đánh giá thực trạng giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, tìm ra
những thành công, hạn chế, nguyên nhân đề đề xuất giải pháp giảm nghèo bền
vững trên địa bàn tỉnh thời gian tới là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu


8

xây dựng cơ chế chính sách giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về giảm nghèo bền vững.
Chương 2: Thực trạng nghèo và giảm nghèo tại tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy giảm nghèo bền vững ở tỉnh
Phú Thọ đến năm 2020.


9

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

1.1. Những vấn đề cơ bản về nghèo
1.1.1. Khái niệm nghèo
1.1.1.1. Quan niệm về nghèo của các tổ chức quốc tế
Nghèo là một vấn đề xã hội bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới
đặc biệt là các nước đang phát triển. Đây là vấn đề được Chính phủ các nước,
các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc tế rất quan tâm nhằm tìm ra giải pháp hạn
chế và tiến tới xóa bỏ nạn nghèo đói trên phạm vi toàn cầu.
Thế giới thường dùng khái niệm “nghèo khổ” và nhận định nghèo khổ
theo bốn khía cạnh về thời gian, không gian, giới và môi trường:
- Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống
dưới mức “chuẩn” trong một thời gian dài để phân biệt với số người nghèo
khổ “tình thế”, chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người mới
nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, địch họa, tệ nạn xã hội rủi ro…
- Về không gian: Nghèo thường diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có
đông dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng nghèo ở thành thị, trước hết là ở
các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng.
- Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Những hộ gia
đình nghèo nhất là những hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Trong các hộ nghèo do
đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới.
- Về môi trường: Phần lớn người nghèo đều sống ở những vùng sinh
thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều
đang ngày càng trầm trọng thêm.
Từ cách tiếp cận theo bốn khía cạnh trên, Ủy ban kinh tế và xã hội của
Liên hợp quốc về Châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP) đưa ra hai khái niệm
về nghèo như sau:


10

- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng

những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống của
con người là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội,
vệ sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những nhu cầu cơ bản nêu trên, cũng có ý
kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng.
- Nghèo tương đối: Sự nghèo khổ tương đối được hiểu là những người
sống dưới mức tiêu chuẩn có thể chấp nhận được trong những địa điểm và
thời gian xác định. Nghèo tương đối có thể được xem như việc cung cấp
không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc
một tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển kinh tế - xã hội tại
Copenhagen Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một khái niệm cụ thể hơn về
nghèo: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 đôla
mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm
thiết yếu để tồn tại”.
Tại hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc, Thái Lan (9/1993) các quốc gia trong khu
vực đã thống nhất đưa ra định nghĩa: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư
không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và phong tục tập quán của địa phương”. Đây là định nghĩa được nhiều quốc
gia đang phát triển sử dụng, trong đó có Việt Nam.
Mặc dù không có một định nghĩa duy nhất về nghèo nhưng các quan
niệm về nghèo trên thế giới hầu như không có sự khác biệt đáng kể về bản
chất. Nhìn chung các quan niệm đều nhìn nhận nghèo là tình trạng thiếu thốn
ở nhiều phương diện khác nhau như: thu nhập hạn chế, thiếu cơ hội tạo ra thu


11


nhập, không có khả năng đảm bảo tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu cơ
bản của con người, ít hoặc hầu như không được tham gia vào các quá trình ra
quyết định của cộng đồng… Sự khác biệt trong việc xác định thế nào là nghèo
ở mỗi quốc gia thể hiện chủ yếu dựa trên mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó
cao hay thấp. Vì vậy việc phân định đối tượng nghèo chỉ mang tính chất
tương đối và phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cũng như
phong tục tập quán và chủ trương chính sách của từng khu vực, từng quốc
gia.
1.1.1.2. Quan niệm về nghèo ở Việt Nam
Việt Nam sử dụng khái niệm nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc - Thái Lan
(9/1993): “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của địa phương”. Để phản ánh tình hình nghèo, thông thường sử dụng các
thuật ngữ như sau:
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là
những đảm bảo ở mức tối thiểu các nhu cầu thiết yếu: ăn, mặc, ở và nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày: văn hóa, giáo dục, y tế, đi lại, giao tiếp.
- Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Hộ nghèo: Ở Việt Nam tồn tại nhiều cách xác định hộ nghèo tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội và chủ trương giảm nghèo của từng địa phương
trong mỗi thời kỳ khác nhau, do đó để phân loại hộ nghèo cần xem xét các
đặc trưng cơ bản như: thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng
khoán, nợ thuế triền miên, vay nặng lãi trẻ em không có điều kiện đến trường


12


(mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê
cuốc mướn để kiếm sống hoặc đi ăn xin…
- Xã nghèo: Là những xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 25%, cơ sở hạ tầng
(đường giao thông, trường học, trạm y tế, nước sạch…) thấp kém hoặc không
đủ phục vụ nhu cầu của người dân: dưới 50% số hộ gia đình không được sử
dụng điện sinh hoạt, dưới 30% số hộ gia đình không được sử dụng nước sạch,
số phòng học không đáp ứng được cho 70% số học sinh trở lên, không có
đường giao thông đến trung tâm xã, không có trung tâm y tế xã…
- Vùng nghèo: Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ
là một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn,
bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng, như đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu
khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản
xuất tự cung tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng rất thấp so với mức
sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm.
Hiện nay khái niệm nghèo ở Việt Nam đã được mở rộng theo nhiều
khía cạnh và ngày càng tiếp cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới và
khu vực. Khái niệm nghèo không chỉ dựa trên mức thu nhập đảm bảo cho các
nhu cầu thiết yếu hàng ngày mà đã quan tâm tới những nhu cầu khác của con
người như quyền được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục, các dịch vụ cơ
bản khác, quyền được tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng…
Từ phân tích những quan niệm kể trên, theo tác giả luận văn, nghèo là
khái niệm phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập
quán của địa phương.
Khác với khái niệm nghèo, khái niệm đói phản ánh trình độ phát triển
và mức sống thấp hơn. Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức
sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để



13

duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến
2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả.
1.1.2. Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá nghèo
Chuẩn nghèo là tiêu chí để xác định ai là người nghèo trong xã hội.
Thông thường chuẩn nghèo phản ánh mức chi tiêu tối thiểu cần thiết của con
người để tồn tại và tham gia các hoạt động trong đời sống kinh tế.
Chuẩn nghèo là công cụ có ý nghĩa quan trọng trong việc phân định đối
tượng nghèo và không nghèo. Những người được coi là nghèo khi mức sống
của họ đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn chuẩn nghèo.
Tại một thời điểm nhất định có thể tồn tại nhiều đường nghèo khác
nhau, ví dụ: đường nghèo thu nhập, đường nghèo lương thực thực phẩm,
đường nghèo chung, đường nghèo về y tế, đường nghèo về giáo dục, đường
nghèo quốc tế, đường nghèo quốc gia, đường nghèo địa phương…
Chuẩn nghèo là một thước đo quan trọng trong việc đánh giá nghèo của
mỗi quốc gia cũng như của toàn thế giới, việc xây dựng một chuẩn nghèo hợp
lý, phù hợp với điều kiện thời gian, không gian, tập quán chi tiêu của từng địa
phương sẽ giúp xác định đúng đối tượng nghèo, từ đó đánh giá chính xác hơn
thực trạng nghèo tại địa phương đó.
- Chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GNP/người)
1.1.2.1. Chuẩn nghèo và tiêu chí của thế giới
* Tiêu chí đánh giá nghèo của thế giới:
Căn cứ theo chỉ tiêu GNP/người/năm theo thời điểm năm 1990, Ngân
hàng thế giới đưa ra chỉ tiêu đánh giá nghèo của các quốc gia như sau:
Trên 25.000 USD: Nước cực giàu
Trên 20.000 USD - 25.000 USD: Nước giàu
Trên 10.000 USD - 20.000 USD: Nước khá giàu
Trên 2.500 USD - 10.000 USD: Nước trung lưu



14

Trên 500 USD - 2.500 USD: Nước nghèo
Dưới 500 USD: Nước cực nghèo
- Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI)
Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản:
+ Tuổi thọ
+ Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh
+ Tỷ lệ xóa mù chữ
- Chỉ số phát triển con người (HDI)
* Căn cứ đánh giá chỉ số HDI bao gồm:
+ Tuổi thọ bình quân được tính bằng số năm sống
+ Trình độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ
và tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi.
+ Thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương HDI
nhận giá trị từ 0 đến 1, quốc gia nào có HDI càng gần 1 thì được đánh giá là
càng phát triển cao. Theo báo cáo của UNDP, Iceland, Nauy, Canada là
những nước có chỉ số HDI cao nhất thế giới trong nhiều năm. Việt Nam là
nước có chỉ số HDI thuộc nhóm trung bình của thế giới nhưng tốc độ tăng khá
nhanh, năm 2002 là 0,688 và năm 2004 là 0,709, xếp thứ 109/177 quốc gia.
Năm 2005 chỉ số HDI của Việt Nam là 0,733 và xếp thứ 105/177 quốc gia.
Năm 2006 chỉ số HDI là 0, 718 và xếp thứ 109/177 quốc gia.
1.1.2.2. Chuẩn nghèo và tiêu chí của Việt nam:
* Theo phương pháp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Đây là phương pháp dựa trên thu nhập của hộ gia đình, các hộ gia đình
được xếp vào diện nghèo nếu mức thu nhập bình quân đầu người của họ dưới
mức chuẩn xác định, mức này được qui định khác nhau giữa thành thị, nông
thôn và miền núi hải đảo. Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo sử

dụng chuẩn nghèo theo phương pháp này.


15

*. Giai đoạn 2001 - 2005 (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH,
ngày 01/11/2000), theo đó không tách riêng chuẩn đói và nghèo do trong giai
đoạn này đã căn bản xóa được nạn đói.
Hộ nghèo là hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người trong hộ đạt
từ mức thu nhập sau trở xuống:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng
- Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng
*. Giai đoạn 2006 - 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 08/07/2005)
Hộ nghèo là những hộ gia đình có mức thu nhập bình quân đầu người
trong hộ đạt từ mức thu nhập sau trở xuống:
+ Khu vực nông thôn: 200.000 đồng/người/tháng
+ Khu vực thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
*. Giai đoạn 2011 - 2015 (Quyết định số 09/2011/QĐ - TTg ngày
30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ):
* Hộ nghèo:
+ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng /01 người/ 01tháng (từ 4.800.000 đồng/ 01người/ 01 năm) trở xuống.
+ Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/01 người/01tháng (từ 6.000.000 đồng/01người/01năm) trở xuống.
* Hộ cận nghèo:
+ Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/01người/01tháng.
+ Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ

501.000 đồng đến 650.000 đồng/01 người/01tháng.
*. Theo phương pháp của Tổng cục Thống kê
Tổng cục Thống kê dựa trên cả khía cạnh thu nhập và chi tiêu theo đầu
người để xác định chuẩn nghèo, theo đó xác định 2 chuẩn nghèo sau:


16

- Chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm: Được xác định là số tiền cần
thiết để mua một số lượng lương thực, thực phẩm hàng ngày đảm bảo cung
cấp lượng Kalory tiêu dùng bình quân là 2.100 Kalory/01người/01 ngày.
- Chuẩn nghèo chung: Được xác định bằng cách lấy chuẩn nghèo về
lương thực, thực phẩm cộng thêm chi phí cho các mặt hàng phi lương thực,
thực phẩm.
Bảng 1.1: Chuẩn nghèo ở Việt Nam qua các năm
Chi tiêu bình quân đầu người/năm
1993
1998
2002
2004
Chuẩn nghèo lương thực,
thực phẩm (đồng)
Chuẩn nghèo chung (đồng)
Tỷ lệ nghèo lương thực,
thực phẩm (%)
Tỷ lệ nghèo chung (%)

780.000
1.116.000


1.287.000
1.790.00
0

1.381.000

1.488.000

1.915.000

2.076.000

9,9

7,8

24,9

15,0

58,1

37,4
28,9
24,1
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

1.1.2.3. Chỉ số nghèo khổ con người (Chỉ số nghèo khổ tổng hợp - HPI)
Giá trị HPI của một nước có ý nghĩa cho biết sự nghèo khổ của con
người ảnh hưởng bao nhiêu phầm trăm dân số nước đó. Việc so sánh hai giá

trị HDI và HPI của một nước sẽ cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ
con người như thế nào. Các nước có thể có giá trị HDI tương đương nhau
nhưng giá trị HPI lại khác nhau. Năm 2001, Việt Nam xếp thứ 43/89 nước
được đánh giá.
Hiện nay ngoài chỉ tiêu về thu nhập bình quân đầu người, các chỉ tiêu
đánh giá đói nghèo còn được xét trên nhiều phương diện xã hội khác căn cứ
vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hiện trạng đời sống trung bình phổ


17

biến của dân cư như: chất lượng nhà ở, y tế, giáo dục, nguy cơ dễ bị tổn
thương, vai trò trong quá trình ra quyết định của cộng đồng…
Các chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo trên thế giới hiện nay vẫn
chủ yếu căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người. Khi kết
hợp giữa các chỉ tiêu GNP/người, PQLI, HDI, HPI sẽ cho phép nhìn nhận các
nước giàu, nghèo khách quan và chính xác hơn.
1.1.2.4. Chỉ số đánh giá nghèo tại Việt Nam:
- Tỷ lệ nghèo (tỷ lệ đếm đầu người - HCR)
Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ phần trăm của dân số sống dưới mức
nghèo. Sử dụng tỷ lệ nghèo có thể giúp đánh giá tình trạng nghèo và những
thành công trong quá trình thực hiện mục tiêu “giảm nghèo” của mỗi quốc gia
hay của thế giới.
Tỷ lệ hộ nghèo có thể phân chia theo vùng, theo giới tính hoặc dân tộc
khác nhau.
Trong những năm qua tỷ lệ nghèo ở Việt Nam đã giảm tương đối
nhanh, được UNDP đánh giá là một trong những nước điển hình về việc thực
hiện mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Tình hình cụ thể được
phản ánh qua các số liệu của Bảng 1.2 dưới đây:



18

Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn
và phân theo vùng (%)
Năm

199
8

CẢ NƯỚC
Tỷ lệ nghèo chung
Phân theo thành thị,

2002 2004 2006 2008 2010

201

Sơ bộ

Ước

1

2012

2013
9.9

37.4


28.9

18.1

15.5

13.4

14.2

12.6

11.1

9.0
44.9

6.6
35.6

8.6
21.2

7.7
18.0

6.7
16.1


6.9
17.4

5.1
15.9

3.9
14.4

30.7
64.5

21.5
47.9

12.7
29.4

10.0
27.5

8.6
25.1

8.3
29.4

7.1
26.7


6.1
24.2

phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên

42.5

35.7

25.3

22.2

19.2

20.4

18.5

16.7

hải miền Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu

52.4
7.6
36.9


51.8
8.2
23.4

29.2
4.6
15.3

24.0
3.1
13.0

21.0
2.5
11.4

22.2
2.3
12.6

20.3
1.7
11.6

18.6
1.4
10.6

nông thôn

Thành thị
Nông thôn
Phân theo vùng
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi

Long

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Theo công bố của Bộ LĐTB - XH, tính đến cuối năm 2010, cả nước có
3.055.566 hộ nghèo và 1.612.381 hộ cận nghèo.
Trong tổng số 63 tỉnh, thành phố, có 5 tỉnh, thành phố tỷ lệ hộ nghèo
dưới 5% là TP.HCM (0,01%); Bình Dương (0,05%); Đồng Nai (1,45%); Bà
Rịa - Vũng Tàu (4,35%); Hà Nội (4,97%). Đây cũng là những địa phương đã
ban hành chuẩn nghèo riêng, cao hơn chuẩn nghèo quốc gia.
Kết quả công bố cũng cho thấy có 14 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo từ 5% đến
dưới 10%; 18 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 20%; 16 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo
từ 20% đến dưới 30%; 6 tỉnh tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 40%; 3 tỉnh tỷ lệ
hộ nghèo từ trên 40% đến dưới 50%, là: Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.
Đáng chú ý, kết quả điều tra cho thấy, cả nước hiện còn 1 tỉnh có tỷ lệ
hộ nghèo trên 50% là Điện Biên. Ngoài ra, còn 81 huyện thuộc 25 tỉnh có tỷ


19

lệ hộ nghèo trên 50%, trong đó bao gồm 54 huyện nghèo theo Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP.
Như vậy, sau 5 năm (2006-2010), tỷ lệ nghèo của cả nước giảm từ 20%
năm 2006 xuống còn 9,45% năm 2010
1.2. Những vấn đề cơ bản về giảm nghèo bền vững

1.2.1. Khái niệm giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện cho bộ phận dân cư nghèo tiếp
cận với các nguồn lực cần thiết để họ tự nâng cao mức sống, từng bước thoát
khỏi tình trạng nghèo. Kết quả giảm nghèo biểu hiện ở sự giảm xuống về số
lượng người nghèo hoặc sự giảm xuống của tỷ lệ phần trăm số hộ nghèo trong
tổng số hộ, thể hiện mức sống chung của toàn bộ cộng đồng được nâng lên.
Nói cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo lên
mức sống cao hơn hay thoát nghèo nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng và
sự nỗ lực vươn lên của bản thân các hộ nghèo.
Xóa đói, giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và
tăng trưởng bền vững. Hiện nay nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy, việc phân hoá giàu - nghèo ngày càng rõ
nét. Quan tâm bảo vệ lợi ích người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp
pháp, vừa coi trọng xoá đói, giảm nghèo từng bước thực hiện công bằng xã
hội là yêu cầu khách quan đặt ra đối với nước ta trên con đường công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, việc đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói,
giảm nghèo ở nước ta còn xuất phát từ yêu cầu cơ bản và toàn diện của sự
nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Muốn thể hiện tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội, đảm bảo vật chất, tinh
thần cho mọi người lao động, từ đó củng cố lòng tin của nhân dân trong việc
lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, thì một trong những vấn đề phải giải


20

quyết là xóa đói, giảm nghèo, không ngừng chăm lo tới đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Nhìn về góc độ kinh tế, xóa đói, giảm nghèo là một trong những mục
tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một
điều kiện (tiền đề) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào

đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội
cho chương trình xóa đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng
kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết
quả xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
Nhìn về góc độ xã hội, đói nghèo sẽ dẫn đến những sức ép căng thẳng
về xã hội dễ dẫn đến lệ thuộc kinh tế vào các nước giàu. Từ kinh tế dẫn đến
xâm nhập văn hoá, hệ tư tưởng và chính trị. Thực tế cho thấy, trong điều kiện
hội nhập quốc tế, quốc gia có thể giữ vững chế độ chính trị, độc lập tự do khi
có tiềm lực kinh tế mạnh.
Xóa đói, giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn
lên thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một
chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn
là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển,
tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn
“cất cánh”. Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm nay đã có những chủ trương,
chính sách đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo, coi đó là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội. Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công
việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ
nghèo; lâu dài là xóa sự nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây
dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.


21

Giảm nghèo là quá trình vô cùng khó khăn, phức tạp. Song song với bộ
phận dân cư thoát nghèo, một bộ phận khác có thể rơi vào tình trạng nghèo
đó. Do đó, giảm nghèo phải đi đôi với chống tái nghèo. Từ đây hình thành
quan niệm về giảm nghèo bền vững.
Theo PGS. TS.Trần Đình Thiên - Viện trưởng viện Kinh tế Việt Nam:

“Không thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện
sống... Đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời,
không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ
quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển
mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn
ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục
hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập
trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo
nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận”. Tác giả luận văn cũng
đồng ý với quan niệm trên về giảm nghèo bền vững.
Giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà
nước và là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước,
của xã hội và của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của
từng địa phương, nhất là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để giảm nghèo,
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước
và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người
nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định thành công của công cuộc xóa đói
giảm nghèo.
Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đối với các huyện nghèo là
nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp
ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự
phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời,


22

phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến
tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của Chương trình.
Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung
trong cả nước, Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ

giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh thần
của Nghị quyết này, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm
một số huyện nghèo khác trên địa bàn, nhất là các huyện có đồng bào dân tộc
thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực của địa phương đầu tư hỗ trợ
các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.
1.2.2. Vai trò của giảm nghèo bền vững
1.2.2.1. Giảm nghèo bền vững góp phần ổn định chính trị và phát triển
xã hội.
Trong một xã hội luôn có sự tăng trưởng cao về kinh tế, sự gia tăng liên
tục của chênh lệnh giàu- nghèo đẩy tới sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội
và hệ quả cuối cùng là xung đột xã hội. Điều này đã diễn ra và đang diễn ra
trong lịch sự phát triển của xã hội loài người. Sự tích tụ lợi ích kinh tế, vật
chất, tinh thần thái quá của một nhóm người này đã làm tổn thương đến sự
hưởng thụ vật chất và ích lợi xã hội của một bộ phận khác và đẩy họ vào bần
cùng hóa. Kết quả tất yếu dẫn đến sự phản kháng, lật đổ và tái tạo lại sự cân
bằng mới.
Trong điều kiện đó, cách giải quyết làm cho các mâu thuẫn giàu-nghèo
trong xã hội không dẫn đến xung đột vũ trang, gây đổ máu phải là cách thực
hiện chia sẻ lợi ích giữa các bộ phận người giàu và người nghèo trong xã hội,
nghĩa là thực hiện sự phân phối lại về lợi ích vật chất và tinh thần giữa các
nhóm người, cộng đồng thông qua các biện pháp chuyển tải lợi ích từ nhóm
người giàu sang người nghèo, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Các biện pháp


23

này có thể được triển khai ở cấp độ vĩ mô (toàn xã hội) và cấp độ vi mô (trong
một địa phương, một cộng đồng..)
Hiện nay, trên hành tinh chúng ta vẫn còn tới khoảng 1,5 tỷ người đang
sống dưới mức tối thiểu, trong đó tập trung ở chủ yếu ở châu Á và châu Phi.

Đặc biệt, có thể thấy rõ, trong những năm gần đây ở các nước châu Phi, đi
liền trực tiếp với nạn đói nghèo là tình trạng mù chữ, thất học, bệnh tật lây
lan, điều kiện, môi trường sống ngày càng ô nhiễm kéo theo suy giảm trí lực
và tuổi thọ. Đói nghèo đã kéo theo sự gia tăng các tệ nạn xã hội, làm gay gắt
thêm những mâu thuẩn và bất bình đẳng xã hội và dẫn đến mất ổn định chính
trị, nội chiến hay rộng hơn là việc thôn tính cả về chính trị và kinh tế của
nước có trình độ phát triển cao hơn đối với những nước nghèo đói, lạc hậu.
Điều này cũng đã xảy ra ở một số nước châu Á khi Chính phủ không bảo đảm
được sự công bằng tương đối về lợi ích giữa các nhóm người trong xã hội.
Giảm nghèo bền vững là tiền đề của ổn định và phát triển xã hội. Đây
là vấn đề hàm chứa sâu xa các cả các mục tiêu xã hội và nhân văn. Cuộc đấu
tranh lý luận và hệ tư tưởng về quản lý xã hội, lựa chọn con đường, mô hình
phát triển giữa các nước ngày nay chính là cuộc đấu tranh để xem chế độ xã
hội nào có thể giải quyết được tình trạng đói nghèo, lạc hậu, bất công bằng xã
hội hay nói cách khác, chế độ nào có thể giải quyết được đói nghèo bền vững
hơn?. Chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, nhờ tận dụng được những thành
quả của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại nên đã đạt được những bước
tiến lớn trong phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế, trở nên giàu có, phồn
vinh. Song sở hữu phần lớn số của cải mà chế độ đó tạo ra lại chỉ là số phần
trăm nhỏ bé thuộc các thế lực tư sản có khả năng về kinh tế, có khả năng tác
động đến chính trị- xã hội. Còn lại, một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn phải
sống trong thất nghiệp và đói nghèo. Chủ nghĩa tư bản từ trong bản chất của
nó không thể giải quyết được nghèo đói xã hội. Phân cực xã hội ngày càng


×