PHẦN 1
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
I. Cơ sở lý luận:
1. Các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về công tác rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh:
- Chỉ thị 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường THPT giai đoạn 2008 – 2013 nêu rõ phải rèn luyện
kỹ năng sống cho học sinh. Cụ thể là:
+ Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, sinh
hoạt.
+Rèn luyện kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn
thương tích khác.
+ Xây dựng kỹ năng ứng xử văn hóa, loại bỏ bạo lực và tệ nạn xã hội trong học
đường.
+ Hình thành thói quen làm việc theo nhóm.
- Năm 2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục ban hành công văn số 3408 về việc
bồi dưỡng cho giáo viên về tổ chức hoạt động giáo dục giá trị và kỹ năng sống cho
học sinh…
2. Khái niệm kỹ năng sống:
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý xã
hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác một
cách hiệu quả, có giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thách
thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo UNICEFF: Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và
giao tiếp cá nhân, giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp
1
một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân, nhằm giúp
họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả.
Từ kỹ năng sống có thể thể hiện thành công những hành động cá nhân, những
hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác, hoặc làm thay đổi
môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh.
Từ các quan niệm trên, ta có thể hiểu: Kỹ năng sống là khả năng, là cách
thức chúng ta tiếp cận và phản ứng với môi trường xung quanh, không phụ thuộc vào
trình độ chuyên môn, kiến thức. Kỹ năng sống không phải là tính cách, là bẩm sinh
mà là do chúng ta rèn luyện trong cuộc sống hàng ngày mà có.
Tính cá nhân và tính xã hội của kỹ năng:
- Tính cá nhân: Vì đó là khả năng của mỗi cá nhân.
- Tính xã hội: Vì mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn lịch sử có đặc điểm khác nhau về
điều kiện kinh tế, xã hội và văn hoá. Điều đó yêu cầu bản thân mỗi cá nhân phải có
kỹ năng ứng phó cho phù hợp.
3. Vai trò của kỹ năng sống đối với sự phát triển toàn diện học sinh:
- Theo UNESCO: 3 thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến thức,
kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ năng sống, có vai trò quyết định trong
việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chuyên nghiệp…
- Theo các nhà nghiên cứu: Trong các yếu tố quyết định sự thành công của
con người, kỹ năng sống đóng góp đến khoảng 85%.
- Theo các nhà quản trị: 80% sự thành công của một cá nhân là nhờ vào kỹ
năng sống (Kỹ năng mềm) chứ không phải “kỹ năng cứng” (kiến thức).
- Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn
cầu nói chung:
+ Sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã hội với những mặt tích
cực và tiêu cực, trong đó không ít cám dỗ và rủi ro, các em luôn đối diện với áp lực
cuộc sống, phải đương đầu với những khó khăn, thử thách.
2
+ Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ có kiến
thức mà còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có
đầy đủ các kỹ năng, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội nhập với thế giới, góp phần
tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, nhằm thích ứng với mọi
biến động của hoàn cảnh.
+ Đặc biệt là với lứa tuổi dậy thì, khi các em bước vào giai đoạn khủng hoảng
lứa tuổi quan trọng của cuộc đời.
II. Cơ sở thực tiễn:
Thực trạng về kỹ năng sống của học sinh hiện nay nói chung và học sinh
trường THPT Mai Anh Tuấn nói riêng.
Mặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ -Thông tin và hội nhập
quốc tế, HS có những hiểu biết khá phong phú nhờ truy cập Internet, nhưng kỹ năng
sống của các em còn nhiều hạn chế:
- Thiếu kỹ năng sống, thiếu khả năng phân tích và khả năng nhận thức đúng –
sai các vấn đề -> Dẫn đến lúng túng, không biết cách xử lý các tình huống thường
gặp trong cuộc sống.
- Vụng về, thô thiển trong giao tiếp….
- Xuống cấp về đạo đức, dễ bị các thói hư tật xấu, các tệ nạn xã hội lôi kéo.
- Tình trạng bạo lực học đường, gian lận trong thi cử…..
Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục công bố, có trên 95% các em
nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống; 77,7% chưa bao giờ được đào tạo, tập huấn về
kỹ năng sống; 76,4% trả lời rất cần được tập huấn kiến thức về kỹ năng sống. Hầu
hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp
trong cuộc sống…
Vì vậy: Giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh có một vai trò quan
trọng trong việc phát triển toàn diện học sinh. Đó là:
3
- Giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói
quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu
thuẫn, xung đột; rèn luyện các kỹ năng về hoạt động xã hội.
- Giáo dục cho học sinh rèn luyện sức khỏe, thói quen ý thức tự bảo vệ bản
thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, và các tệ nạn xã hội...
- Trang bị những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân,
đồng cảm, tôn trọng người khác.
Đó cũng là lý do cơ bản để tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “ Giải pháp
chỉ đạo các hoạt động rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Mai
Anh Tuấn”.
PHẦN 2.
NỘI DUNG
I. Xác định nguyên nhân của thực trạng thiếu kỹ năng sống của học sinh
hiện nay:
1. Chương trình giáo dục hiện nay còn nặng về kiến thức, ít quan tâm đến kỹ
năng sống.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa bắt buộc, chưa đưa giáo dục kỹ năng sống
thành một môn trong trường học mà chỉ yêu cầu các trường học lồng ghép trong các
giờ học chính khoá - không thể mang lại hiệu quả rõ rệt.
3. Đối với các nhà trường chủ yếu tập trung dạy cho học sinh kỹ năng học tập
và chính trị; việc giáo dục kỹ năng sống chưa quan tâm nhiều.
4. Đội ngũ giáo viên hiện nay:
- Một bộ phận không nhỏ giáo viên cũng chưa hiểu kỹ năng sống là gì? Bản
thân họ cũng còn thiếu kỹ năng sống; không ít giáo viên nghĩ rằng kỹ năng sống
chính là các bài dạy về đạo đức.
4
- Áp lực về công tác chuyên môn là quá lớn, cho nên họ chủ yếu tập trung thời
gian, công sức để làm tốt công tác chuyên môn; ít có thời gian để nghiên cứu, tìm
hiểu, sưu tầm tài liệu về kỹ năng sống.
5. Về phía các gia đình:
- Nhiều gia đình chưa đủ hiểu tâm lý của con em mình và đủ khả năng dạy cho
con những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống.
- Nhiều gia đình chỉ quan tâm đến việc kiếm tiền, đáp ứng nhu cầu vật chất
cho con em mà lãng quên việc dạy bảo con em những kỹ năng cần thiết trong cuộc
sống như: kỹ năng ứng xử, giao tiếp; kỹ năng tự bảo vệ...
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân về phía nhà trường là một trong
những nguyên nhân quan trọng.
II. Xác định những nhóm kỹ năng cần được rèn luyện cho học sinh trong
giai đoạn hiện nay:
Việc xác định những kỹ năng được dựa trên cơ sở:
- 4 trụ cột của việc học tập ở thế kỷ XXI (theo UNESCO): Học để biết, Học để
làm, Học để chung sống, Học để tự khẳng định bản thân.
- Đặc điểm tình hình nhà trường, xã hội, học sinh và yêu cầu cuộc sống.
=> Những kỹ năng sống cơ bản cần tập trung giáo dục, rèn luyện cho học sinh như
sau:
NHÓM 1: KỸ NĂNG TỰ NHẬN THỨC BẢN THÂN.
1. Lòng tự tôn về bản thân (tự nhận thức và đánh giá về bản thân)
2. Kỹ năng học và tự học.
3. Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả.
4. Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc.
5. Kỹ năng sử dụng và quản lý tài chính.
6. Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời.
NHÓM 2: KỸ NĂNG GIAO TIẾP, HOÀ NHẬP CUỘC SỐNG.
1. Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông.
5
2. Kỹ năng thuyết trình và diễn giải ý tưởng.
3. Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (cách giao tiếp trong môi trường học đường,
với bố mẹ, người lớn tuổi…).
NHÓM 3: KỸ NĂNG HỢP TÁC VÀ CHIA SẺ.
1. Kỹ năng làm việc theo nhóm (Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc).
2. Kỹ năng lắng nghe và thấu hiểu.
3. Kỹ năng phân biệt hành vi hợp lý và chưa hợp lý.
4. Kỹ năng giải quyết các xung đột trong nhóm.
5. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm.
6. Khả năng thích ứng với thay đổi về tổ chức, công việc.
NHÓM 4: KỸ NĂNG ĐỐI DIỆN VÀ ỨNG PHÓ KHÓ KHĂN TRONG
CUỘC SỐNG.
1. Kỹ năng ứng phó với những tệ nạn xã hội – trong đó chú ý tới việc giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc
2. Kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông; phòng, chống thiên tai.
3. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
4. Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định.
5. Kỹ năng chăm sóc bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khoẻ.
6. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
III. Giải pháp chỉ đạo thực hiện trong nhà trường:
1. Xây dựng kế hoạch thực hiện:
1.1. Tổ chức Hội thảo chủ đề “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong
giai đoạn hiện nay”.
1.2. Tập huấn cho cán bộ kiêm nhiệm công tác đoàn, giáo viên chủ nhiệm lớp,
giáo viên phụ trách hoạt động NGLL về phương pháp rèn luyện các nhóm kỹ năng
sống (ở trên) cho học sinh.
1.3. Chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch lồng ghép công tác
rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua các bài dạy của môn học.
6
1.4. Chỉ đạo Đoàn trường tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
1.5. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm đổi mới hình thức sinh hoạt lớp (sinh hoạt 15
phút đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần….) rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
2. Tổ chức thực hiện:
2.1. Tổ chức Hội thảo chủ đề “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong
giai đoạn hiện nay”.
Thành phần tham dự:
- Toàn thể cán bộ, giáo viên nhà trường với những tư cách:
+ Các nhà quản lý.
+ Tổ chức Đoàn thanh niên.
+ Giáo viên chủ nhiệm.
+ Giáo viên bộ môn.
- Đại diện Hội cha mẹ học sinh toàn trường.
Mục đích: Giúp đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường và các
bậc phụ huynh:
- Nhận thức sâu sắc:
+ Vai trò của kỹ năng sống đối với mọi người nói chung và thế hệ trẻ trong
thời đại mới nói riêng.
+ Tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác giáo dục, rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh trong các nhà trường THPT hiện nay.
- Xác định rõ:
+ Những kỹ năng cơ bản, cần thiết phải giáo dục, rèn luyện cho học sinh trong
nhà trường hiện nay.
+ Vai trò, nhiệm vụ của bản thân trong công tác luyện kỹ năng sống cho học
sinh đối với bộ môn, hoạt động mình phụ trách; với vai trò là cha mẹ của các em
trong gia đình.
7
2.2. Tổ chức tập huấn cho cán bộ kiêm nhiệm công tác đoàn, giáo viên chủ
nhiệm lớp, giáo viên phụ trách hoạt động NGLL về phương pháp rèn luyện các
nhóm kỹ năng sống (ở trên) cho học sinh.
Trên cơ sở những nhóm kỹ năng phải rèn luyện cho học sinh đã được xác định
trong Hội thảo, nhà trường phân công các tổ bộ môn đã nghiên cứu, trình bày trong
Hội thảo có nhiệm vụ tập huấn cho cán bộ kiêm nhiệm công tác đoàn, giáo viên chủ
nhiệm lớp, giáo viên phụ trách hoạt động NGLL.
2.3. Chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch lồng ghép công
tác rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua các bài dạy của môn học.
Ngay từ đầu năm học, cùng với việc xây dựng kế hoạch chuyên môn cho năm
học, Ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch
rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh thông qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy
trong từng bài giảng cụ thể.
Các kỹ năng cần rèn luyện: Kỹ năng tự giải quyết vấn đề, Kỹ năng hoạt động
nhóm, Kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, Kỹ năng phản hồi và đánh giá tích cực,
Kỹ năng quản lý thời gian, Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định…
Đây là nội dung có lẽ là khó nhất và phụ thuộc rất nhiều vào tài biến hóa của
giáo viên bộ môn và của nội dung bài học.
Không thể thực hiện lồng ghép vào tất cả các tiết học, mà chỉ có thể áp dụng ở
một số tiết học với nội dung phù hợp, đặc biệt với các bộ môn như Toán thì khả
năng lồng ghép lại càng khó hơn rất nhiều.
Để có thể thực hiện tốt phần nội dung này đòi hỏ giáo viên bộ môn phải luôn
liên hệ nội dung bài học với thực tế cuộc sống, tận dụng sức mạnh của hoạt động
nhóm để giúp các học sinh giải quyết những vấn đề khó.
Có thể dẫn chứng một ví dụ dễ như sau:
Cho các em học sinh chia thành nhiều nhóm nhỏ để ôn bài cũ hoặc giải bài tập mang
tính chất liên hoàn (có thể chia thành nhiều công đoạn) để các em có thể rút ngắn
thời gian hoàn thành công việc.
8
Sau đó cho các em tự trình bày vấn đề của nhóm hoặc cá nhân, tự bảo vệ ý
kiến của mình, trong khi đó, các bạn khác sẽ theo dõi, quan sát và phản biện, góp ý
kiến chia sẻ sao cho bài tập, sản phẩm của bạn mình được hoàn thiện hơn.
Vấn đề ở đây chính là phương thức tổ chức lớp học để học sinh có thể phát
huy kỹ năng hợp tác, làm việc nhóm, tạo động lực làm việc cho học sinh.
Cái khó nảy sinh chính là nội dung chương trình sẽ là bước cản cho việc lồng
ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào, nếu như không khéo, vô hình trung giáo
viên sẽ tự nâng cao gánh nặng cho chính bản thân hoặc cho học sinh.
Và đây chính là yếu tố biện minh cho việc không thực hiện nội dung lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống trong bộ môn.
Vai trò Ban giám hiệu phải được chú trọng ở bước giải quyết khó khăn này.
Cần có những tiết thao giảng, dạy mẫu, có những giờ trao đổi, rút kinh nghiệm trong
tổ bộ môn, Ban giám hiệu cần chú ý nhắc nhở giáo viên môn đưa nội dung cần lồng
ghép vào trong nội dung môn học một cách tự nhiên, không gượng ép.
2.4. Chỉ đạo Đoàn trường tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
- Sinh hoạt dưới cờ:
+ Cuộc thi “Âm vang Mai Anh Tuấn”: 01 lần/ tháng, số lượng học sinh tham
gia 10 em có nhiều điểm giỏi nhất trong 2 tuần đầu của tháng.
+ Cuộc thi tìm hiểu truyền thống: 01 lần/ tháng, số lượng học sinh tham gia 10
em có nhiều điểm giỏi nhất trong 2 tuần cuối của tháng.
+ Thi Aerobic.
+ Cuộc thi tuyển chọn MC, phát thanh viên giỏi trong nhà trường…
- Các trò chơi dân gian.
- Các cuộc thi: “Nét đẹp nữ sinh trường THPT Mai Anh Tuấn”, thi tìm hiểu về
truyền thống người phụ nữ Việt Nam, thi nữ công gia chánh (nấu ăn, cắm hoa…).
Các kỹ năng cần rèn luyện: Kỹ năng tự bảo vệ, Kỹ năng trình bày, Kỹ năng
thuyết trình thuyết phục, Kỹ năng quản lý thời gian, Kỹ năng tự điều chỉnh cảm
9
xúc, Kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông; phòng, chống thiên tai, Kỹ năng
chăm sóc bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khoẻ…
2.5. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm đổi mới hình thức sinh hoạt lớp (sinh hoạt
15 phút đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần….) rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Hiện nay việc thực hiện sinh hoạt lớp của giáo viên chủ nhiệm thường theo
kịch bản cũ:
- Giáo viên chủ nhiệm tổng kết hoạt động tuần qua, xem xét qua các lỗi vi
phạm của học sinh, chấn chỉnh những sai phạm, cảnh cáo những trường hợp tái phạm
của học sinh.
- Sau đó là thông báo các hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân công
học sinh thực hiện theo kế hoạch.
Để các giờ sinh hoạt lớp không bị nhàm chán, học sinh được rèn luyện
những kỹ năng sống cần thiết, nhà trường đã chỉ đạo GVCN trong các giờ sinh
hoạt lớp:
Hạn chế việc kiểm điểm, giáo huấn học sinh mang tính triết lý, giáo điều.
Thay vào đó là:
- Sưu tầm những câu chuyện cuộc sống hay, phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi. Kể,
đọc cho cả lớp nghe. Cho các em bình luận câu chuyện, từ đó rút ra những bài học
quý báu cho bản thân.
- Giao cho một bạn trong lớp đọc hoặc kể những câu chuyện dang như "Tâm
hồn cao thượng:" để giáo dục cách ứng xử cho học sinh trong cuộc sống..
- Tổ chức các trò chơi khác nhau nhằm làm tăng tính chủ động của học sinh
trong lớp, phát huy khả năng từng cá nhân và nhấn mạnh vai trò của tập thể….
Các trò chơi này phải được lựa chọn và có chủ đích nhằm giáo dục kỹ năng
tương ứng cho học sinh. Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính
giải trí đơn thuần, sẽ làm sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ
năng sống trong giờ sinh hoạt
10
Các kỹ năng cần rèn luyện: Tự khám phá bản thân, Tính năng động, Kỹ
năng giải quyết vấn đề, Khả năng phản hồi tích cực…..
Một số trò chơi đã được thực hiện:
MONG MUỐN - Hy vọng và mối quan tâm về môn học nào đó.
Yêu cầu các em lấy ra một mảnh giấy và trong một vài phút viết ra những
mong muốn riêng của mình về một môn học hoặc một hoạt động nào đó, nói lên
những điều mình hy vọng sẽ đạt được, và cả những điều mà mình có quan tâm đến.
Thu lại tất cả những mảnh giấy này để vào lẫn một hộp, sau đó yêu cầu mỗi em
chọn ra một mảnh giấy trong hộp và đọc lên những mong muốn/hy vọng/quan tâm
cho cả nhóm học sinh nghe. GVCN hoặc một học sinh xung phong viết ra những
thông tin đó lên giấy khổ lớn.
Hoặc: Chia học sinh ra thành các nhóm nhỏ (4 hoặc 5em/ nhóm), phân chia bảng
thành các phần tương ứng cho các nhóm và yêu cầu các học sinh cùng nhau quyết
định đưa ra những mong muốn, hy vọng và quan tâm đối trong thời gian tới. Sau đó
ghi lại những phản hồi của từng cá nhân lên bảng, hoặc là thu lại những mảnh giấy
của nhóm nhỏ và dán lên cho mọi người trong phòng đều thấy được.
- Tổng hợp lại những mong muốn của các học sinh, nêu ra điểm giống nhau về
suy nghĩ, mong muốn của học sinh trong lớp.
- Thông báo cho học sinh biết được những nội dung cần làm trong tuần tới. Nhấn
mạnh những việc cần đạt được và học sinh phải được biết rằng mức độ yêu cầu đạt
được của mỗi học sinh khác nhau do vậy yêu cầu các em phải phấn đấu để đạt mức
cao nhất.
LẮNG NGHE:
Số lượng: từ 5 trở lên, có thể chơi trong nhóm nhỏ trước và mở rộng cho cả lớp
Luật chơi: Mỗi học sinh sẽ được phát 1 cây viết và 1 tờ giấy. Trong vòng 1
phút, các em sẽ ghi lại tất cả những tiếng động xung quanh mình. Ai ghi nhiều hơn,
người đó sẽ thắng.
11
Ý nghĩa: Đây là trò chơi nhằm rèn luyện kĩ năng lắng nghe, một trong những
kĩ năng quan trọng nhất để làm việc nhóm hiệu quả, phản ánh sự tôn trọng hay xây
dựng ý kiến lẫn nhau giữa các thành viên. Khi chịu lắng nghe, chắc chắn bạn sẽ có
nhiều thông tin để giải quyết vấn đề hiệu quả hơn.
TRUYỀN TIN:
Thể loại: Trò chơi cảm giác, vận động nhẹ trong phòng và ngoài trời, khoảng
08 người tham dự.
Rèn luyện: Nhận định chính xác các cử điệu từ người khác.
Giáo dục: Tương trợ nhau, phải có sự nhanh nhẹn và hiểu ý nhau trong lời nói
và hành động.
Luật chơi: Đứng thành từng đội và mỗi đội cử 01 người đến nhận bản tin, rồi
trở về đứng cách những người của đội mình 1,5m và truyền lại bản tin đó bằng cử
điệu mà không được nói, cũng như không được nhép miệng. Đội nào nhận được bản
tin và thực hiện theo bản tin trước là thắng.
Mục đích: Gây bầu khí sôi động để dẫn vào chiều sâu lắng sau đó.
Vật dụng: Các vật dụng của các bản tin.
Lưu ý: Không nên nói những lời khó hiểu và khó thực hiện.
3. Kết quả đạt được:
Trong Năm học 2012 -2013, sau khi triển khai công tác chỉ đạo rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động: chuyên môn, công tác chủ nhiệm
lớp, hoạt động NGLL của tổ chức Đoàn…, tôi nhận thấy có những chuyển biến như
sau :
3.1. Bản thân đội ngũ cán bộ, giáo viên trẻ trong nhà trường cũng được trang
bị những kiến thức cơ bản, thiết yêu về kỹ năng sống. Đội ngũ cán bộ, giáo viên đã
nâng cao được nhận thức về tự học, tự nghiên cứu về chuyên môn, nâng cao tay
nghề, tự rèn về nhân cách đạo đức người thầy giáo, thực hiện nghiêm túc chất lượng
giáo dục toàn diện; Bản thân mỗi thầy, cô giáo đều thấy được sự rất cần thiết, rất cấp
12
bách phải giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, họ đã rất nhiệt tình, có
trách nhiệm cao trong công tác này.
3.2. Chất lượng các phong trào thể hiện rõ nét, học sinh hăng hái, tích cực
tham gia các buổi sinh hoạt tập thể, mạnh dạn trong giao tiếp, thái độ lịch sự, nhã
nhặn, lễ phép với thầy cô, với người lớn; tính cách thân thiện trong cư xử với bạn bè,
sống hài hoà tránh xung đột với người khác, hạn chế tối đa những hành vi gây gổ,
đánh nhau, chửi thề nói tục, mà biết chia sẻ, quan tâm giúp đỡ người khác. Biết tôn
trọng và gìn giữ tài sản chung nơi công cộng, biết sống tiết kiệm, bảo vệ và thân
thiện với môi trường.
Qua các trò chơi rèn cho các em tình đoàn kết, tôn trọng cảm thông và chia sẻ,
kỹ năng hợp tác cùng chung sức, nỗ lực phát huy hết năng lực, biết hỗ trợ giúp đỡ
các thành viên trong nhóm đồng cam cộng khổ vượt khó khăn để hoàn thành nhiệm
vụ.
3.3. Các bậc phụ huynh trong nhà trường đồng tình ủng hộ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để nhà trường thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức học sinh.
4. Bài học kinh nghiệm:
Muốn thực hiện tốt việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tronh nhà trường
hiện nay:
4.1. Đối với Ban giám hiệu:
- Phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh trong nhà trường thông qua các hoạt động, thống nhất đưa ngay
trong nội dung kế hoạch năm học một cách cụ thể, rõ ràng.
- Thực hiện phân công các tổ chức thực hiện có hiệu quả.
- Kết hợp hài hoà trong việc thực hiện các phong trào thi đua.
- Kết hợp chặt chẽ với lực lượng trẻ nòng cốt, các ban ngành đoàn thể, phát
huy nguồn lực hội cha mẹ học sinh nhằm hỗ trợ kinh phí đắc lực cho các hoạt động.
- Kịp thời biểu dương tập thể hoặc cá nhân giáo viên và học sinh đạt những
thành tích xuất sắc trong các phong trào hoạt động.
13
4.2. Đối với Đoàn trường:
- Bám sát chương trình kế hoạch của nhà trường về công tác rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh, đặc biệt các nhóm kỹ năng được nhà trường thống nhất cần rèn
luyện cho học sinh.
- Bám sát chủ đề năm học của nhà trường, của tổ chức Đoàn cấp trên.
- Căn cứ đặc điểm tình hình, những thuận lợi của nhà trường và của địa
phương.
=> Tổ chức nhiều sân chơi bổ ích, thường xuyên đổi mới nhiều hình thức
phong phú theo chủ đề từng tháng gắn liền với việc học tập kiến thức mới của các
em … thu hút các em tham gia, vừa học vừa chơi, tạo không khí thân thiện đoàn kết
gần gũi cho các em, xây dựng và hình thành các mối quan hệ trong học sinh từ lớp
này với lớp kia, từ cá nhân với tập thể, và ngược lại để qua các hoạt động đó thể hiện
tinh thần giáo dục kỹ năng sống cho các em .
4.3. Đối với đội ngũ giáo viên:
Để thực hiện tốt công tác rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, trước hết bản
thân mỗi thầy, cô giáo:
- Phải là người có kỹ năng sống tốt.
- Hiểu được tâm sinh lý lứa tuổi của từng học sinh của mình.
* Đối với giáo viên bộ môn: Chịu khó tìm tòi, chuyên sâu nghiên cứu nội dung
và phương pháp, soạn giảng thiết kế giáo án làm đồ dùng dạy học, tổ chức các hoạt
động dạy học trên lớp, liên hệ thực tế vận dụng và phối hợp lồng ghép theo hướng
dạy học tích cực, lựa chọn phù hợp giữa phương pháp truyền thống và phương pháp
hiện đại lấy học sinh làm trung tâm phát huy tính tích cực.
* Đối với giáo viên chủ nhiệm: Phải năng động, luôn có sự kết hợp chặt chẽ
với Đoàn trường để xây dựng nội dung sinh hoạt lớp cho mỗi tuần, mỗi buổi sao cho
có tính hấp dẫn và hiệu quả nhất.
4.4. Quá trình giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải đảm bảo
nguyên tắc:
14
- Trải nghiệm: Muốn rèn luyện một kỹ năng sống nào đó cho học sinh thì
phải đưa học sinh vào tình huống để học sinh được giải quyết vấn đề. Mỗi tình huống
có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau, nhưng trong hoàn cảnh cụ thể thì sẽ chọn
phương án tối ưu nhất.
- Tiến trình: Quá trình giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh không
thể thực hiện đạt kết quả ngay trong ngày 1 ngày 2, mà phải trải qua một quá trình
lâu dài. Trong đó phải lần lượt : Từ sự thay đổi về nhận thức -> dẫn đến hình thành
thái độ -> và cuối cùng là thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Được như thế có
nghĩa là chúng ta đã thành công.
- Thời gian: Công tác giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh phải
được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt.
4.5. Giáo dục KNS không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường
mà của cả xã hội, cộng đồng. Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội mới
mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn diện.
PHẦN 3
KẾT LUẬN
Việc chỉ đạo công tác rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong nhà trường
THPT Mai Anh Tuấn trong giai đoạn hiện nay là rất cấn thiết và mang tính cấp bách,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, mục tiêu đạt được những điều mà
quan điểm giáo dục của Đảng và nhà nước đã đề ra cho ngành giáo dục.
Việc rèn luyện kỹ năng sống qua các hoạt động giáo dục cũng nhằm hình
thành một cách tự nhiên và hiệu quả cho các em phát triển năng lực, phát triển tư duy
nuôi dưỡng 5 nền tảng tính cách là: sự tự tin, tính kiên trì, tính tổ chức, khả năng hoà
nhập, khả năng thích nghi lối sống văn hoá văn minh, thấm nhuần các đặc điểm tâm
sinh lý cần thiết, hiểu biết về thể chất, tinh thần, giá trị của bản thân, thúc đẩy an
sinh tình cảm trong môi trường học tập, vui chơi để nhà trường luôn luôn là ngôi
15
nhà thứ hai của các em và mỗi ngày đến trường mang về nhiều niềm vui trong cuộc
sống.
Qua thời gian nghiên cứu và thực hiện trên thực tế, được sự hỗ trợ của tập thể
giáo viên và học sinh trường THPT Mai Anh Tuấn, đã giúp tôi hoàn thành đề tài.
Tuy nhiên:
- Trong đề tài, tôi chưa thể hiện được hết những nội dung đã thực hiện trong
nhà trường trong năm học 2012 - 2013.
- Trong quá trình thực hiện vẫn không tránh khỏi những hạn chế.
Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của Hội đồng khoa học
ngành để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn và có thể được áp dụng trong những
trường THPT trong tỉnh có cùng đặc điểm tình hình như trường THPT Mai Anh
Tuấn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
16