Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

khóa luận tốt nghiệp Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn thành phồ hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.61 KB, 70 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi ra đời, DNNN đã giữ vai trò vô cùng quan trọng và
không thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, do cơ chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu,
bao cấp thời kỳ trước đổi mới mà DNNN không phát huy được vai trò
quan trọng của mình. Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập
trung vào việc tháo gỡ những vướng mắc, rào cản của cơ chế cũ, góp
phần cởi trói, và giải phóng một phần năng lực sản xuất của các DNNN.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ tất yếu tồn tại ba hình thức sở hữu (sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân) và năm thành phần kinh tế (kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền
kinh tế. Và DNNN là bộ phận đặc biệt quan trọng của thành phần kinh tế
nhà nước. DNNN đóng vai trò như người “anh cả”, đi đầu trong những lĩnh
vực cần phải có sự can thiệp của Nhà nước, những lĩnh vực, những ngành,
nghề mà khu vực tư nhân không thể làm, không làm được hoặc không
muốn làm.
Đại hội VI năm 1986 của Đảng đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong
quá trình đổi mới kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Đại hội đã chỉ rõ:
“Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh
có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế…”.
Từ đó đến nay, đã qua nhiều kỳ Đại hội và vấn đề đổi mới doanh
nghiệp nhà nước luôn được đề cập, coi trọng:
1



Đại hội VII (1991) khẳng định: “Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới
quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu
quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế …Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể
các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. Sắp xếp lại các
liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh
trong cơ chế thị trường”.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá IX cũng thông
qua Nghị quyết “về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN”. Nghị quyết khẳng định: Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm
vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với
những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển
khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi
thích hợp, tích cực nhưng vững chắc.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định
"Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực
DNNN, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa".
Gần đây, Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Đẩy
mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của DNNN”.
Theo tinh thần đó của Đảng, thủ đô Hà Nội cũng đã tiến hành quá
trình sắp xếp, đổi mới DNNN trên địa bàn thành phố. Đảng bộ và chính
quyền thành phố đều nhận thức được vai trò quan trọng và thực trạng hoạt
động kém hiệu quả của DNNN của thủ đô, vì thế đã chủ trương sắp xếp,
đổi mới DNNN, nhằm làm cho DNNN ngày càng giữ vững vai trò và nâng
cao hiệu quả hoạt động.
Cũng như cả nước nói chung và các tỉnh, thành phố nói riêng, quá
trình sắp xếp, đổi mới DNNN ở thủ đô Hà Nội đã được tiến hành từ hơn 20

2


năm nay, và đã đạt được những thành tựu nhất định. Quá trình sắp xếp, đổi
mới DNNN về thực chất là tái cấu trúc hệ thống DNNN nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN. Tuy nhiên, quá trình tái cấu trúc
này chưa đạt được như mong muốn, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn,
các tổng công ty, các công ty nhà nước chưa thật sự tương xứng với nguồn
lực đã đầu tư cho DNNN.
Điều đó đặt ra yêu cầu phải tái cấu trúc DNNN ở thủ đô Hà Nội theo
quan điểm mới và phù hợp với điều kiện hiện nay về kinh tế - xã hội ở
nước ta. Với đề tái “Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
thành phồ Hà Nội hiện nay”, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé vào
việc đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản vừa cấp bách nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về sắp xếp, đổi mới quản lý và
nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau:
ThS. Phạm Văn Chiến, Đề tài nghiên cứu cấp trường: Quá trình đổi
mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2010.
Đỗ Bình Trọng, Hoàn thiện tổ chức quản lý DNNN theo mô hình
công ty mẹ - công ty con, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội, Hà Nội, 1995.
Ngô Đức Trung, Hiệu quả kinh doanh của các DNNN tỉnh Quảng
Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999.
Lê Minh Hiếu, Sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN
ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.


3


Ngô Văn Vũ, DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
Nguyễn Thị Hoa Nhài, DNNN của Ninh Bình trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
Đoàn Kiến Lập, Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và chủ thể quản lý
kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, Học việc Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2004.
Phạm Anh Tuấn, Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp được hình
thành từ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Nghệ An, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2008.
Nguyễn Thị Phương Thùy, Phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh
Thái Nguyên đến năm 2015, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2008.
Ngô Thị Thu Hà, Một số yếu tố cản trở quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội hiện nay, Khóa luận tốt nghiệp đại
học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội 2009.
Nguyễn Minh Vân, Cổ phần hóa DNNN ở Hà Nội – thực trạng và
giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội, 2003.
Đỗ Ngọc Mỹ, Đặng Văn Mỹ, Phát triển các tập đoàn kinh tế Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa: cơ sở lý thuyết và những định hướng
thực tiễn, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5 (396) tháng 5/ 2011.
Nguyễn Tuấn Phong, Phát triển tập đoàn kinh tế của một số nước và

bài học kinh nghiệm với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số (399)
tháng 8/2011.
4


Nguyễn Lê Quý Hiển, Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam,Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số
(403) tháng 12/2011.
Phạm Hoài Thanh, Tiến trình cố phần hóa doanh nghiệp nhà nước
còn quá chậm, Thời báo kinh tế Việt Nam, Số tháng 5/2001.
Tô Huy Rứa, Cổ phần hóa DNNN dưới góc nhìn phát triển kinh tế xã hội bền vững, Tạp chí cộng sản, Số 5, 2006.
Đinh Công Hùng, Đánh giá thực trạng DNNN và thực trạng đổi mới,
Thông tin lý luận, Số 12, 1993.
Hồ Xuân Hùng, Đổi mới và phát triển DNNN, Báo Quân đội nhân
dân, 05/04/2006...
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu vào nghiên cứu lý luận về
DNNN nói chung, thực trạng hoạt động của DNNN, thực trạng quá trình
sắp xếp, đổi mới DNNN ở Việt Nam, cũng như ở một số tỉnh, thành, đồng
thời đưa ra nhiều giải pháp khắc phục hạn chế, yếu kém, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, và các giải pháp đẩy mạnh tiến trình
sắp xếp, đổi mới, tiến trình cổ phần hóa DNNN. Tuy nhiên, chưa có công
trình nào nghiên cứu về tái cấu trúc DNNN trên địa bàn Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Khái quát những vấn đề lý luận về tái cấu trúc DNNN, từ đó khảo sát
thực trạng và đề xuất giải pháp tái cấu trúc DNNN trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Nhiệm vụ:
+ Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về DNNN và tái cấu trúc
DNNN.

+ Khảo sát, đánh giá kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN ở Hà Nội.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp tái cấu trúc DNNN ở Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5


- Đối tượng nghiên cứu:
Tái cấu trúc DNNN trên địa bàn Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu:
• Tất cả các DNNN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
• Thời gian nghiên cứu: từ khi tỉnh Hà Tây hợp nhất vào thành
phố Hà Nội đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Khóa luận lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận, kế thừa những lý luận về kinh tế nhà
nước, DNNN, tái cấu trúc DNNN của các tác giả đi trước…
- Khóa luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
• Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
• Phương pháp khảo sát
• Phương pháp tổng hợp, phân tích
• Phương pháp tổng kết thực tiễn, thống kê, lựa chọn…
6. Đóng góp của khóa luận
- Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về tái cấu
trúc DNNN trong tình hình và điều kiện mới.
- Khảo sát, đánh giá kết quả sắp xếp đổi mới DNNN, từ đó đề xuất
giải pháp nhằm tái cấu trúc DNNN có hiệu quả.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa

luận được chia thành 3 chương lớn:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tái cấu trúc DNNN.
Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới quản lý DNNN ở thành phố
Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tái cấu trúc DNNN ở Hà Nội.
6


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÁI CẤU
TRÚC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1.Khái niệm doanh nghiệp nhà nước và tái cấu trúc doanh nghiệp
nhà nước
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước và các hình thức tồn tại của
doanh nghiệp nhà nước
Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), DNNN là tổ chức kinh
tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh
doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội do nhà nước giao. Cũng theo luật này, DNNN tồn tại dưới các hình
thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, doanh nghiệp thành viên của
tổng công ty.
Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước (2003), DNNN là tổ chức kinh tế
do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, phấn góp vốn chi
phối được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn.
Khoản 22 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “DNNN là
doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ”.
Luật Doanh nghiệp cũng quy định các hình thức pháp lý của DNNN
như sau:
 Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, là công

ty TNHH do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
 Công ty TNHH hai thành viên trở lên do Nhà nước làm chủ sở hữu,
là công ty TNHH trong đó tất cả các thành viên đều là công ty của
Nhà nước, do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
 Công ty cổ phần nhà nước, là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông
đều là cổ đông nhà nước, do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ;
7


 Công ty cổ phần hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên mà cổ
phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ.
Các DNNN vừa là chủ thể tham gia kinh doanh, là lực lượng trực
tiếp tạo cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, vừa là lực lượng kinh tế nòng
cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển. Như vậy, hệ thống doanh nghiệp do Nhà nước thành lập và làm
chủ sở hữu vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ, độc lập vừa là lực lượng kinh
tế vĩ mô của Nhà nước.
Là chủ thể kinh tế, các DNNNphải hoạt động có hiệu quả để đóng
góp tích cực cho ngân sách nhà nước, đảm bảo và gia tăng nguồn lực kinh
tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này.
Là lực lượng kinh tế vĩ mô, các DNNN phải góp phần tạo môi
trường, tiền đề thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của các loại hình doanh
nghiệp khác, lôi cuốn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, DNNN có vai trò rất quan trọng trong thành phần kinh tế
nhà nước nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở
nước ta.
1.1.2. Khái niệm tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước
Trước hết, tái cấu trúc ( tiếng Anh là Restructurin) là quá trình tổ
chức, sắp xếp lại nhằm tạo ra trạng thái tốt hơn cho một sự vật, hiện tượng

để thực hiện những mục tiêu đề ra.
Từ đó, tái cấu trúc DNNN là quá trình tổ chức, sắp xếp lại và đổi
mới DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN.
Một chương trình tái cấu trúc DNNN toàn diện sẽ bao gồm các lĩnh
vực như cơ cấu tổ chức, nguồn lực, cơ chế quản lý, điều hành,.. Tái cấu
trúc cũng có thể được triển khai “cục bộ” tại một hay nhiều mảng hoạt
động của DN (về tài chính, nhân sự, bán hàng, sản xuất, tiêu thụ…) nhằm
tăng chất lượng của các hoạt động đó.
8


Trên thực tế, tái cấu trúc DNNN đã được bắt đầu từ sau Nghị quyết
Trung ương 6 (Khóa IV, năm 1979), đặc biệt là sang đầu những năm 90
của thế kỷ XX, với tên gọi đổi mới và sắp xếp lại DNNN, thông qua các
biện pháp giải thể, cho thuê, sáp nhập, cổ phần hóa, xây dựng thành các
tổng công ty, tập đoàn, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên v.v...
1.2. Kế hoạch tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
Đã có nhiều cuộc Hội thảo, nhiều bài viết trình bày kế hoạch tái cấu
trúc nền kinh tế nói chung và tái cấu trúc DNNN nói riêng, trong đó còn có
sự không thống nhất về một số nội dung của kế hoạch này. Trong phạm vi
đề tài này, chúng tôi trình bày kế hoạch tái cấu trúc DNNN ở nước ta theo
các nội dung chủ yếu sau đây:
1.2.1. Về mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của tái cấu trúc là nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh, đầu tư và xã hội;. tăng cường năng lực cạnh tranh, qua
đó phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong đó
DNNN có vị trí quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững,
ổn định.
1.2.2. Quan điểm tái cấu trúc
Kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều

thành phần. Trong đó, DNNN giữ vị trí quan trọng của kinh tế Nhà nước.
(quan điểm cơ bản để tiến đến xây dựng chủ nghĩa xã hội). Nên tiếp tục
củng cố, duy trì DNNN trong những lĩnh vực mà kinh tế tư nhân không thể
thực hiện hoặc thực hiện không hiệu quả, những khâu quyết định đến nền
tảng phát triển kinh tế của cả xã hội.
DNNN quá nhiều nhiệm vụ, chỉ nên tập trung vào những nhiệm vụ
được xác định cụ thể. Đặc biệt không giao những nhiệm vụ mang tính
chính trị cho DNNN.

9


Tái cấu trúc DNNN được thực hiện đồng bộ từ tái cấu trúc từ tư duy,
thể chế, mô hình hoạt động, đầu tư, tái cấu trúc quản lý nhà nước đối với
DNNN.
Trọng tâm tái cấu trúc DNNN là tái cấu trúc tập đoàn kinh tế nhà
nước và các tổng công ty nhà nước.
1.2.3. Yêu cầu của tái cấu trúc
Giảm số lượng các DNNN, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động, tiềm lực tài chính đủ mạnh để phát triển trong điều kiện cạnh tranh
hiện nay.
1.2.4. Phạm vi tái cấu trúc
Tái cấu trúc trong phạm vi các DNNN có quy mô lớn (86 tập đoàn,
tổng công ty nhà nước theo danh sách của Ban chỉ đạo tái cấu trúc DNNN)
bao gồm: tái cấu trúc trong từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động, thậm chí
từng tập đoàn sản xuất kinh doanh.
1.2.5. Nội dung thực hiện tái cấu trúc
- Đánh giá lại mô hình TĐKT của nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực.
Các TĐKT Nhà nước chỉ tập trung vào những ngành nghề chính được giao.
Hệ thống các công ty con được thành lập chỉ là những DN đóng vai trò

ngành nghề phụ trợ.
- Xóa bỏ các Ngân hàng, công ty tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm
trong các TĐKT; thoái vốn nhà nước do các DNNN đầu tư ở các định chế
tái chính. Vấn đề này cần được sớm giải quyết để khắc phục, ngắn chặn
luồng tín dụng “bừa bãi” gây tình trạng nợ xấu cho các TĐKT.
- Chính phủ trao quyền đại diện sở hữu cho một cơ quan duy nhất.
Thiết lập hệ thống giám sát chặt chẽ. Tách quyền sở hữu với quyền điều
hành sản xuất kinh doanh; trao quyền quản lý, giám sát DNNN mạnh hơn
nữa cho các Bộ, Ngành.
- Tăng quy mô, năng lực điều hành, nguồn vốn cho các DNNN cần
thiết phải duy trì phát triển.
10


- Thiết lập mô hình quản trị DNNN tuân thủ các quy tắc quản trị
công ty. Quản trị DN quyết định sự sống còn và năng lực cạnh tranh của
DN trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp vững vàng hơn, tự tin và chủ
động hơn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tồn tại và phát triển
bền vững trong thời gian tới.
- Khẩn trương thiết lập hệ thống giám sát tài chính đủ mạnh, hiệu
quả việc quản lý sử dụng vốn để cung cấp thông tin thường xuyên cho cơ
quan quản lý giám sát.
- Hoàn thiện cơ chế và ban hanh quy chế người đại diện và kiểm soát
viên trong DNNN trên cơ sở quy định rõ ràng, chặt chẽ về quyền hạn,
nghĩa vụ, và lợi ích để tăng cường hiệu quả giám sát. Trao những chế tài đủ
mạnh cho các cơ quản lý, cơ quan giám sát, cơ quan đại diện chủ sở hữu.
- Rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thuộc diện tái cấu
trúc, đặc biệt là vấn đề đầu tư ngoài ngành, hướng các DNNN vào thực
hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh chính.
- Thay đổi chính sách đầu tư. Nhà nước thực hiện thay đổi, điều

chỉnh chính sách đầu tư, nhất là chính sách huy động và sử dụng vốn đầu
tư ở một ngành, một lĩnh vực, một tập đoàn hay DN theo hướng đảm bảo
hiệu quả.
- Thực hiện xắp xếp lại các DNNN thông qua chuyển đổi, chia, tách,
giải thế, sáp nhập để có một tổ chức hợp lý và hiệu quả.
- Tiếp tục thực hiện CPH các DNNN. Việc tiếp tục thực hiện CPH
mạnh hơn nữa sẽ làm cho các DN chuyển đổi tốt hơn về tổ chức sản xuất
kinh doanh cũng như đáp ứng tốt hơn khả năng cạnh tranh trong nền kinh
tế thị trường;
- Sửa đổi các chính sách về thuế về tổ chức, quản lý DN theo hướng
xoá bỏ các bao cấp, ưu đãi đối với các DNNN, tạo môi trường bình đẳng
giữa các DNNN với các DN thuộc khu vực kinh tế khác, mở rộng quyền và
nghĩa vụ của các DNNN, xoá bỏ cách biệt giữa DNNN và các DN khác.
11


- Xoá bỏ độc quyền kinh doanh đối với một số lĩnh vực kinh doanh
đặc biệt, có điều kiện hoặc lĩnh vực đặc thù (điện, than, xăng dầu…).
- Tăng cường công tác kiểm soát và giám sát, minh bạch thông tin
đối với các DNNN.
- Tăng cường các chế tài áp dụng và các trách nhiệm cá nhân đối với
những DNNN vi phạm các quy định về quản lý, điều hành DN.
1.3. Sự cần thiết phải tái cấu trúc doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta
Tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước khẳng
định là một trong ba nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá trình tái cấu
trúc nền kinh tế nước ta. Sự cần thiết phải tái cấu trúc DNNN ở nước ta
được qui định bởi các yếu tố sau đây:
1.3.1. Sự đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, hay chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
kiểu tổ chức kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật
của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chính tính chất, đặc trưng cơ bản này chi phối và quyết định phương
tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là sử
dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học và công nghệ, phát triển nguồn
nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có
thể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
12


Thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước đã chứng minh những ưu
điểm của cơ chế thị trường như tạo ra tính năng động, tự do kinh doanh,
khuyến khích cạnh tranh, thông qua thị trường mà phân bổ các nguồn lực
một cách hiệu quả nhất, phát huy đến mức cao nhất các tài năng sáng tạo...
Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật nhất định như là
cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền, phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng xã hội, hủy hoại môi trường…
Trong khi đó, mục tiêu của chúng ta là xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, xây dựng một quốc gia có dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh. Vậy thì những khuyết tật đó của cơ chế thị trường
phải được giải quyết như thế nào? Làm thế nào để đảm bảo cạnh tranh bình
đẳng? Làm thế nào để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo?...Điều này đòi hỏi

Nhà nước ta phải có những giải pháp triệt để nhằm phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết tật của cơ chế thị trường, phát triển kinh tế - xã hội – môi
trường một cách bền vững.
Muốn vậy, một trong những giải pháp cơ bản và cũng là đòi hỏi tất
yếu đối với chúng ta hiện nay là phải đấy mạnh tái cấu trúc DNNN, làm
cho DNNN (bao gồm cả DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công
ích) hoạt động hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo giải quyết
tốt các vấn đề xã hội.
1.3.2. Giá trị do doanh nghiệp nhà nước tạo ra chưa tương xứng
với nguồn lực Nhà nước đầu tư
Trong nền kinh tế nước ta, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, trong đó DNNN là một bộ phận thuộc thành phần kinh tế này, nó
đóng vai trò như “người anh cả” đi đầu trong các lĩnh vực cần phải có sự
can thiệp của nhà nước, như đường sắt, điện, xăng, viễn thông… Đồng
thời, DNNN còn tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, đó là các DN công
ích, chẳng hạn như DN sản xuất đồ dùng cho người khuyết tật như xe lăn,
tay giả, chân giả; doanh nghiệp chế tạo vũ khí, quân trang…
13


Nhìn tổng thể, vai trò của DNNN nói chung, các TĐKT, TCT, công
ty nhà nước nói riêng trong thời gian qua là hết sức quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các DNNN, mà trọng tâm là các
TĐKT, TCT, công ty nhà nước đã bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản
phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các TĐKT, TCT, công ty nhà
nước vẫn duy trì được hoạt động và có đóng góp quan trọng trong việc thực
hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn
định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Vì thế, DNNN đã được Nhà nước
đầu tư khá lớn về nguồn vốn, tài nguyên, khoa học công nghệ, nhân lực, và

nhiều ưu đãi hơn so với các DN ngoài quốc doanh.
Mặc dù vậy, những năm trở lại đây, khi nền kinh tế Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế toàn cầu thì các DNNN Việt Nam lại
bộc lộ ngày càng nhiều hạn chế, yếu kém, kết quả mà DNNN đem lại chưa
tương xứng với nguồn lực do Nhà nước đầu tư, được thể hiện ở các khía
cạnh sau:
Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh của DNNN còn thấp:
Các số liệu thống kê cho thấy, khả năng sinh lời của DNNN không
cao, thậm chí thua lỗ. Theo báo cáo của Đảng ủy khối Doanh nghiệp Trung
ương mới đây, nhiều TĐKT, TCT nhà nước đang có những con số lỗ giật
mình, như Tập đoàn Điện lực tính đến đầu năm 2011 lỗ gần 8.000 tỉ đồng;
Tổng công ty Xăng dầu lỗ khoảng 1.500 tỉ đồng… đằng sau những con số
lỗ lớn của nhiều TĐKT, TCT là câu chuyện về nợ xấu ngân hàng và chiếm
dụng vốn lẫn nhau.
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, hiện các DNNN chiếm tới
60% tín dụng của các ngân hàng, tổ chức tín dụng. Đặc biệt mức nợ của
các DNNN đang chiếm tới 70% nợ xấu của các ngân hàng. Tính đến hết
tháng 8/2011, nợ xấu toàn ngành ngân hàng ở mức trên 76.000 tỉ đồng và
đang có xu hướng tăng. Trong đó, các tổ chức tín dụng có nguy cơ mất
14


trắng khoảng 37.000 tỉ đồng. Trong khi 1 đồng vốn của DNNN chỉ làm ra
0,095 đồng lợi nhuận trước thuế thì cùng 1 đồng vốn của công ty cổ phần
(được chuyển đổi từ DNNN) lại làm ra 0,19 đồng lợi nhuận.
Mặc dù các DNNN đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của xã hội,
nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế không tương xứng, xét về tỷ trọng đóng
góp cho GDP giải quyết việc làm, hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất (đất
đai, tiền vốn, nguyên vật liệu…) kém hơn các loại hình DN khác… Cơ chế
quản lý vẫn còn nhiều bất cập, như quyền quản lý nhà nước đối với DNNN,

vai trò của chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu, vai trò và cơ chế
trách nhiệm, quyền lợi của Hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên
chưa rõ ràng; trong khi quyền chủ động điều hành sản xuất, kinh doanh của
DNNN lại bị hạn chế; cơ chế tài chính và cơ chế phân phối lợi nhuận của
doanh nghiệp, sự gắn kết lợi ích vật chất với trách nhiệm của người quản lý
và đội ngũ lao động bộc lộ nhiều khiếm khuyết, bất cập.
Phần lớn DNNN đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu, chủ
chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện lực, xi măng, sắt thép, khai khoáng...
nhưng hiệu quả sinh lợi không cao; trình độ công nghệ, năng suất lao động
của khá nhiều DN còn thấp; sức cạnh tranh còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế và chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước.
Mặc dù được hưởng độc quyền kinh doanh trên một số lĩnh vực
nhưng không ít tập đoàn kinh tế nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, mức
đóng góp vào GDP ngày một giảm; sự thất bại của Vinashin là một điển
hình và đang là gánh nợ cho Ngân sách nhà nước.
Thứ hai, DNNN kém năng động, năng lực cạnh tranh không cao:
Chiếm đến khoảng 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà
nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA
nhưng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, DNNN chỉ đóng góp khoảng 37%38% GDP. Do được hưởng quá nhiều đặc quyền nên không ít DNNN đã ỷ
15


lại Nhà nước, thiếu chủ động trong kinh doanh, triệt tiêu động lực phát
triển; kém khả năng cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước.
Sự tồn tại của mô hình DNNN hiện nay làm nảy sinh mâu thuẫn cơ
bản trong chính sách kinh tế của Việt Nam đó là sự bất bình đẳng. Khu vực
dân doanh trong nước và đầu tư nước ngoài là hai khu vực năng động nhất
lại chưa được hỗ trợ phát triển đúng mức, trong khi đó, khu vực kinh tế nhà
nước kém năng động lại luôn nhận được những khoản ưu đãi lớn; điều này
không thể để tồn tại lâu dài...

Năng lực cạnh tranh của DNNN còn thấp là do mấy nguyên nhân
chủ yếu sau:
- Cơ cấu mô hình tổ chức tập đoàn, tổng công ty không phù hợp.
Với mục tiêu tạo nên những TĐKT, TCT nhà nước có quy mô lớn,
nhằm tận dụng lợi thế quy mô, phát triển thương hiệu cũng như khai thác
các lợi thế khác, nhưng mô hình các DNNN lớn lại rất gần gũi với hệ thống
kế hoạch hóa tập trung, trong đó các DN hầu như không có quyền tự chủ
trong sản xuất, kinh doanh làm mất đi điều kiện tiên quyết để tạo nên một
tập đoàn kinh tế thực thụ. Ngoài những ưu đãi độc quyền, những ưu đãi về
vốn, đất đai, nhân lực đã trở thành nguyên nhân quan trọng, làm mất đi tính
cạnh tranh của các DNNN. Để chuẩn bị cho Viêt Nam gia nhập WTO;
Chính phủ đã thành lập nhiều TĐKT nhà nước với kỳ vọng cạnh tranh với
các DN lớn của nước ngoài.
Theo đó, 12 TĐKT nhà nước đã ra đời, nắm giữ vị thế gần như độc
quyền ở nhiều ngành sản xuất trọng yếu. Tuy nhiên, thực tế, sự ra đời của
các tập đoàn chỉ như “góp gạo thổi cơm chung” nhưng cũng “cơm chẳng
lành, canh không ngọt” bởi cấu trúc thiếu hợp lý của các tập đoàn này. Sự
hiện diện của các TĐKT có thể thấy ở hầu hết các bộ, ngành, địa phương,
tạo nên sự độc quyền và ưu ái riêng, chưa nói tới cách thức tổ chức, quản lý
không thống nhất. Sự quản lý theo cách trên đây dẫn đến tình trạng phân
16


tán nguồn lực, lãng phí đầu tư; thiếu sự liên kết giữa các tập đoàn, tổng
công ty tạo sức cạnh tranh trên thị trường.
- Đầu tư tràn lan, chệch hướng.
Tính đến giữa năm 2011, các TĐKT, TCT nhà nước đã đầu tư
19.500 tỷ đồng ra ngoài ngành. Đáng lo ngại là số tiền này đã được đổ vào
nhiều lĩnh vực có độ rủi ro cao như: chứng khoán, ngân hàng, bất động sản,
bảo hiểm… làm phân tán nguồn lực cả về vốn và nhân lực, gây rủi ro lớn.

Kết quả điều tra tại 200 DN lớn nhất Việt Nam mới đây do UNDP
(United Nationns Development Programme – Chương trình phát triển của
Liên Hợp Quốc) thực hiện cho thấy, nhiều công ty trong “Top 200” của
Việt Nam đã đầu cơ ngoài ngành và thiếu tập trung vào hoạt động kinh
doanh cốt lõi. Đơn cử như EVN (Tập đoàn điện lực Việt Nam) đầu tư sang
cả viễn thông; trong khi nhiệm vụ kinh doanh chính thua lỗ cả chục ngàn tỷ
đồng… Sự đầu tư chệch hướng, tràn lan là nguy cơ mất đi khả năng cạnh
tranh và định hướng dẫn dắt thị trường của DNNN.
Hầu hết các TĐKT, TCT nhà nước đã không tận dụng cơ hội đặt ra
khi Việt Nam gia nhập WTO để thâm nhập thị trường quốc tế, trái lại, còn
cố gắng tạo ra những công ty độc quyền trong nước để ngăn cản cạnh tranh
từ các DN nước ngoài.
- Hệ thống kiểm soát không đủ mạnh.
Hệ thống kiểm soát hiệu quả kinh doanh không đủ mạnh đã dẫn tới
những khoản vay và đầu tư quá mức của các tập đoàn. Các TĐKT, TCT
nhà nước đang lợi dụng sự bảo lãnh của Nhà nước để thực hiện các khoản
vay lớn trên thị trường quốc tế.
Cũng từ hệ thống kiểm soát không đủ mạnh đã làm thất thoát vốn,
lãng phí tài sản rất lớn. Tiến trình CPH các DNNN trong một số trường hợp
đã biến tài sản nhà nước thành tài sản riêng, lợi dụng danh nghĩa DN thuộc
Nhà nước thông qua các dự án đấu thầu, chỉ định thầu cấu kết với một số
17


người có thẩm quyền trong hệ thống nhà nước, lợi dụng mối quan hệ này
để trục lợi.
- Yếu kém trong mô hình quản trị công ty.
Trong quá trình mở rộng phát triển các TĐKT, TCT nhà nước, một
“kịch bản” phổ biến khi mở rộng là tập đoàn thành lập một hoặc một số
công ty con, trong đó ban giám đốc của tập đoàn (còn gọi là công ty mẹ) và

của công ty con nắm giữ một lượng cổ phiếu đáng kể của công ty con mới.
Một phần tài sản của tập đoàn (nhà xưởng, tài nguyên, đất đai) được
chuyển cho công ty con dưới hình thức đầu tư hay góp vốn ban đầu. Về bản
chất, quá trình này không khác nhiều so với quá trình bòn rút tài sản công
thông qua tư nhân hóa đại trà ở Nga vào đầu những năm 1990, mặc dù ở
Việt Nam, quá trình này xảy ra với tốc độ chậm hơn và mức tập trung của
cải vào trong tay một bộ phận thiểu số.
Trước thực tế đó, tái cấu trúc các DNNN là tất yếu và là nhiệm vụ
cấp bách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh hiệu quả, tăng sức cạnh tranh
của DNNN nói riêng, của cả nền kinh tế quốc dân nói chung trong bối cảnh
hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra sâu, rộng như hiện nay.
1.3.3. Sắp xếp, đổi mới và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước là
quan điểm nhất quán và thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta
Trong giai đoạn 2001 - 2011, cùng với những chuyển biến và đổi
mới nền kinh tế, thì đổi mới DNNN vẫn tiếp tục được đẩy mạnh nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của DNNN, góp phần hoàn thành nhiệm vụ được
giao và củng cố, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đổi mới
DNNN được Đảng ta khẳng định và nhấn mạnh qua các kỳ Đại hội IX
(2001), Đại hội X (2006) và mới đây là Đại hội XI (2011).
Đại hội IX (năm 2001) đã đề ra mục tiêu trong 5 năm (2001 - 2005)
phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới
và nâng cao hiệu quả các DNNN hiện có, đồng thời phát triển thêm DN mà
Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh
18


vực then chốt và địa bàn quan trọng. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương CPH
và đa dạng hóa sở hữu đối với những DN mà Nhà nước không cần nắm
100% vốn. Việc bán cổ phần cho các tổ chức và cá nhân ngoài DN được
mở rộng. Thực hiện sáp nhập, giải thể hoặc phá sản các DNNN hoạt động

không hiệu quả và không thực hiện được việc giao, bán, khoán, cho thuê…
Trong chương trình cụ thể hóa về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Đảng chủ trương đẩy mạnh CPH những
DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng
để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. Đặc biệt,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Ba đã nêu lên những định
hướng quan trọng và chỉ ra những lĩnh vực mà Nhà nước vẫn giữ 100%
vốn, những lĩnh vực mà Nhà nước phải giữ cổ phần chi phối hoặc 100%
vốn, quy định chi tiết đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và đối
với doanh nghiệp hoạt động công ích.
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã thông
qua Nghị quyết “về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước”, trong đó khẳng định: Nhờ có đường lối đổi
mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo kiên quyết của Chính phủ
và các cấp, các ngành, sự cố gắng vượt qua khó khăn thử thách để vươn lên
của các DNNN, của đội ngũ cán bộ quản lý, người lao động trong cơ chế
mới, DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm
thiết yếu của nền kinh tế. Năng lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng
hợp lý hơn. Trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và
sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống của người lao động được
cải thiện.
Tuy nhiên, DNNN cũng còn những hạn chế, yếu kém như: quy mô
còn nhỏ, trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, kết quả sản
xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu
tư của Nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp…
19


Để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, mục
tiêu của 10 năm 2001- 2010 được đề ra là: ''Sắp xếp, đổi mới, phát triển,

nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước để doanh
nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ
công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an
ninh, là lực lượng nòng cố đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền
tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa''.
Để đạt được mục tiêu và những nhiệm vụ trên, Hội nghị đề ra 5 giải
pháp lớn là:
Thứ nhất, định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách.
Thứ ba, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công
ty nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Thứ tư, đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Thứ năm, thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập,
giải thể, phá sản DNNN.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1 năm 2004) quyết định
"Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa". Về chỉ đạo,
Trung ương đã quyết định "Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng
diện các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả một số công ty và
doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa
chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng
không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm... Giá trị tài sản doanh
nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng
đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu
20


phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín

trong nội bộ doanh nghiệp".
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định:“Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng,
sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một
số lĩnh vực công ích… Thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh, tầm cỡ khu vực…” .
Tại hội nghị TW 3 Khóa XI, Ban chấp hành TW Đảng đã xác định:
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước là một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá
trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế nước ta.
Như vậy, chủ trương sắp xếp, đổi mới DNNN đã được Đảng ta đưa
ra từ sớm, và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, chứng tỏ đây là một
chủ trương đúng đắn và hiệu quả.
1.3.4. Sự chậm trễ của quá trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp
nhà nước
Hiện nay, quá trình chuyển đổi, sắp xếp lại DNNN diễn ra chậm.
Luật Doanh nghiệp nhà nước hết hiệu lực từ ngày 1-7-2010, tại thời điểm
đó có 1.500 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước phải chuyển đổi hình thức
để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp. Giai đoạn 2007 - 2010, số
lượng DNNN đã thực hiện CPH chỉ đạt 25% theo các phương án được
Chính phủ phê duyệt. Tính đến ngày 30-9-2011, cả nước vẫn còn hơn
1.300 DN 100% vốn nhà nước, trong đó đã chuyển 1.245 thành công ty
TNHH, 64 DN chưa chuyển đổi hoặc đang thực hiện các hình thức sắp xếp
khác. Chín tháng đầu năm 2011, cả nước đã thực hiện sắp xếp 47 DN,
trong đó CPH 14 DN, giải thể 1 DN và chuyển 32 DN thành công ty
TNHH một thành viên.
21



Tái cấu trúc DNNN thực chất trọng tâm là tái cấu trúc TĐKT, TCT
Nhà nước. Mô hình TĐKT hiện nay có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
lại. Nhưng biểu hiện thực tế cho thấy nó đã trở nên lỗi thời với sự thay đổi
của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Tái cấu trúc để tạo hệ thống mới, tốt hơn chứ không phải là sự khai
tử đối với khu vực DNNN. Việc tái cấu trúc sẽ ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực đển tư tưởng, nhận thức, lợi ích của rất nhiều chủ thể trong đó có cả
nhóm lợi ích. Nhưng nó sẽ là một cuộc cách mạng, tạo ra sự đột phá thúc
đẩy sự phát triển kinh tế đất nước nếu nhận thức đúng và thực hiện triệt để.
Tái cấu trúc DNNN sẽ tạo ra sân chơi bình đẳng cho các DN, bao gồm
DNNN và DN ngoài nhà nước. Từ đó sẽ tạo động lực cho DNNN buộc
phải tính toán thận trọng từng bước đi, phải không ngừng nâng cao năng
lực cạnh trạnh và hiệu quả hoạt động của mình.
Nếu không sớm tái cấu trúc khu vực DNNN sẽ có thể dẫn đến những
hậu quả sau:
Với các khoản nợ xấu quá lớn, nếu các DNNN không còn khả năng
thanh toán sẽ gây ra mất khả năng thanh khoản và khả năng thanh toán cho
các ngân hàng thương mại. Từ đó có thể dẫn đến đổ vỡ hệ thống tài chính,
gây bất ổn rất nghiêm trọng cho thị trường tài chính.
Nợ của DNNN sẽ là gánh nặng cho nợ công, do doanh nghiệp bị hạn
chế hoặc không còn khả năng tạo ra tiền để trả nợ. Nhà nước sẽ phải chịu
trách nhiệm trước các khoản nợ có bảo lãnh. Nếu Nhà nước muốn trả nợ sẽ
phải tiếp tục tăng thuế để trả, hoặc đi vay, hoặc in tiền để trả nợ. Cả 3 khả
năng này đều dẫn đến những hậu quả tồi tệ cho kinh tế vĩ mô.
Đổ vỡ niềm tin của nhân dân vào sức mạnh kinh tế nhà nước, niềm
tin của các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính quốc tế, từ đó làm giảm hệ số
tín nhiệm quốc gia và hệ số tín nhiệm của khu vực doanh nghiệp.

22



Như vậy, tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
một tất yếu khách quan, là yêu cầu cấp bách từ thực tiễn phát triển kinh tế
của đất nước, chứ không phải là ý muốn chủ quan của bất kỳ ai.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG SẮP XẾP, ĐỔI MỚI QUẢN LÝ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội
Quán triệt chủ trương của Đảng và Chính phủ về cải cách, đổi mới
DNNN, Thành uỷ và UBND Thành phố Hà Nội đã có kế hoạch thực hiện
ngay từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước.
Từ tháng 1/1993 đến tháng 12/1996 Thành uỷ xây dựng và lãnh đạo
thực hiện tốt chương trình số 18/Ctr-TW ngày 12/1/1993 về sắp xếp lại sản
xuất kinh doanh trên địa bàn Hà Nội. Kết quả là 344 DNNN đã đăng ký
hoạt động theo Nghị định 388/NĐ-HĐBT, sát nhập 37 DN và 19 DN khác
và giải thể 13 DN.
Thực hiện Nghị định số 28/NĐ-TTg ngày 07/5/1996 của Thủ tướng
Chính phủ về chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần, Thành uỷ ra
Chỉ thị số 10/CT-TW này 10/1/1997 yêu cầu các cấp, các ngành có kế
hoạch, biện pháp chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện CPH ở ngành mình. Song
vì nhiều lý do, đến cuối năm 1996, Thành phố mới chỉ có một DN được
CPH là Xí nghiệp sản xuất đồ mộc thuộc Sở Thương mại, và 4 Công ty cổ
phần từ các DNNN được tách ra là Công ty điện tử Hà Nội, Công ty xốp
nhựa - Hanel, Công ty Taxi và Công ty chiếu sáng đô thị.
Ngày 2/10/1996 Chính phủ có Nghị định 56/CP về DNNN hoạt động
công ích và ngày 4/4/1997 Bộ Chính trị có thông báo số 63/TB-TW về tiếp
23



tục triển khai vững chắc CPH, Thành ủy Hà Nội tiếp tục ra chỉ thị số
19/CT-TW và kế hoạch số 20/KH-TW ngày 28/10/1997 về sắp xếp lại các
DNNN thuộc Thành phố Hà Nội quản lý.
Ngày 01/12/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ký duyệt quyết định số
1021/TTg thành lập tổ công tác sắp xếp DNNN trên địa bàn Thành phố Hà
Nội. Thực hiện quyết định này, Thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo về
“Đổi mới quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh” và Hội đồng thẩm định
thành lập DNNN thành lập 3 tổ công tác để phục vụ cho công tác CPH;
Thành uỷ Hà Nội đã chỉ đạo xử lý các vướng mắc khi CPH, trong đó có
việc chuyển giao các tài sản, nhà thuộc diện Nhà nước cho thuê thành tài
sản của DN để xác định giá trị DN khi tiến hành CPH.
Trong năm 1997, Thành phố đã tiến hành điều tra cơ bản 879 DNNN
trên địa bàn (trong đó có 328 DNNN trực thuộc Thành phố Hà Nội quản lý)
theo những tiêu chí do Chính phủ đề ra làm căn cứ cho xây dựng phương
án sắp xếp lại sản xuất - kinh doanh của DNNN. Thành phố đã ra quyết
định sát nhập 10 DNNN yếu kém vào các DNNN khác, chuyển đổi cơ quan
quản lý cho 7 DN, thành lập mới một DNNN công ích và chuyển 9 DNNN
hoạt động kinh doanh sang hoạt động công ích (trong đó có 5 DNNN
ngành thuỷ lợi). Thực hiện giải thể 2 DN là Nhà máy thực phẩm xuất khẩu
Cầu Diễn và Công ty cây công nghiệp và CPH 4 doanh nghiệp.
Sang năm 1998, với sự lãnh đạo kiên quyết và tập trung của Thành
uỷ, các ngành, các cấp của Thành phố đã thực hiện tích cực và đồng bộ Chỉ
thị số 20/1998/CT-TTg, Thành phố hạ quyết tâm thực hiện cho kỳ được 30
doanh nghiệp CPH. Quyết định này được quán triệt tới các cơ quan chủ
chốt của các cấp, ngành, doanh nghiệp. Theo số liệu thống kế của Ban chỉ
đạo Đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong năm 1998, Hà Nội đã CPH
được 30 DNNN, sát nhập 6 DNNN và DNNN khác, giải thể 2 DNNN khác,
thay thế 28 giám đốc, thực hiện thí điểm khoán toàn bộ đối với Xí nghiệp
Đo lường, đầu tư 228 tỷ đồng cho các DN hoạt động công ích.

24


Năm 1999, kết quả có phần khả quan hơn với 41 công ty cổ phần
được hình thành từ CPH DNNN, sát nhập 5 DN, giải thể một DN, thành lập
và đưa vào hoạt động Tổng công ty Đầu tư và Phát triển nhà. Thế nhưng
tiến trình cải cách DNNN đã thực sự bị chững lại từ năm 2000, khi chỉ có 9
DN được chuyển đổi thành công ty cổ phần trong cả năm và tốc độ chậm
chạp này vẫn tiếp tục diễn ra cho đến hết năm 2001, cả năm 2001 chỉ cổ
phần hoá được 8 DNNN và không có DN nào chuyển đổi sở hữu theo Nghị
định 103/1999/NĐ-CP về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê DNNN.
Đến năm 2004, tiến trình sắp xếp, đổi mới DNNN được tiếp tục triển
khai với Nghị định của Chính phủ Số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11
năm 2004 Về việc chuyển công ty nhà nớc thành công ty cổ phần.
Theo QĐ số 94/2005/QĐ-TTg về phê duyệt phương án sắp xếp, đổi
mới công ty nhà nước thuộc UBND thành phố Hà Nội, trong tổng số 116
DN, năm 2005, có 73 DN được sắp xếp lại. Để thực hiện, thành phố Hà
Nội đã ban hành Quyết định 2320/QĐ-UB về quy trình CPH DNNN; chủ
động tranh thủ sự phối hợp giúp đỡ của Bộ tài chính, Ban chỉ đạo đổi mới
và phát triển DN trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc áp
dụng Nghị định 187/2004/NĐ-CP.
Đến hết năm 2005, thành phố Hà Nội đã hoàn thành sắp xếp, đổi mới
73 DN. Cụ thể: 30 DN được CPH toàn bộ DN; 28 DN chuyển DNNN sang
công ty TNHH một thành viên; 2 DNNN chuyển sang công ty mẹ – công ty
con; 10 DN được sáp nhập; 1 DN chuyển về trung ương quản lý; 1 DN giao
cho tập thể người lao động; 1 tổng công ty đầu tư và phát triển nhà sang
hoạt động theo mô hình tổng công ty mẹ - công ty con.
Đến nay, UBND thành phố Hà Nội cũng đã có văn bản gửi các bộ,
ngành liên quan kiến nghị một số giải pháp cụ thể để giai đoạn 2011 2015, công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN
trên địa bàn bảo đảm đúng lộ trình và phát huy hiệu quả.

25


×