Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Vai trò nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh sa văn na khệt, cộng hòa dân chủ nhân dân lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.93 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào khởi
xướng và lãnh đạo, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(1986) đã mở đường cho một thời kỳ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình
cải cách hành chính và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà
nước trong mọi lĩnh vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân (CHDCND) Lào đến năm 2020.
Trọng tâm của chương trình cải cách về kinh tế là hoàn thiện cơ chế,
chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực và
hiệu quả của hoạt động kinh tế nhà nước, đảm bảo thực hiện những mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp xu
thế của thời đại mới. Vì vậy, đòi hỏi tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói
chung và ngành thương mại nói riêng phải đổi mới cơ chế, chính sách, các
công cụ và phương pháp hoạt động vĩ mô... cho phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo định hướng XHCN.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, vai trò
Nhà nước về kinh tế nói chung và đối với thương mại nói riêng đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế, vừa chưa định
hướng quy hoạch chiến lược phát triển, vừa chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt
động thương mại của các thành phần kinh tế tham gia.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động thương mại của thành
phần kinh tế Nhà nước còn bị động, chưa phát huy được vai trò chủ đạo, hoạt
động thương mại của thành phần kinh tế ngoài Nhà nước phát triển nhanh
nhưng không đồng đều giữa các vùng, miền, thị trường nông thôn miền núi
1



hầu như bị "bỏ trống". Chính vì thế đòi hỏi phải có sự tác động của Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là địa bàn nông thôn miền núi.
Sa Văn Na Khệt là tỉnh đồng bằng và đô thị, hoạt động thương mại có
sự đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra, Sa Văn Na Khệt còn có vị trí địa lý
thuận lợi là cầu nối các tỉnh từ Bắc đến Nam Lào, là một tỉnh nằm ở miền
trung, có nhiều tiềm năng để phát triển thương mại. Tuy nhiên, vai trò nhà
nước đối với hoạt động thương mại cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên
cứu và giải quyết trong thực tiễn. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: "Vai trò nhà
nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Sa Văn Na Khệt, Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào" làm khóa luận tốt nghiệp đại học, chuyên ngành
kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đổi mới cơ chế, chính sách vai trò nhà nước về thương mại trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã được nhiều nhà khoa
học, nhà kinh tế quan tâm.
Ở Việt Nam, đã có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này
được đăng trên các báo chí, tạp chí và công trình khoa học đã công bố như: Luận
văn thạc sĩ: "Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa" của Nguyễn Xuân Thiện (2000). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Nhà nước "Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về thương mại trên thị
trường nội địa nước ta thời kỳ đến năm 2010" (2003) của Bộ Thương mại. Đề
tài: Đổi mới, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý thương mại dịch vụ của
GS. Hoàng Đạt; đề tài: Thị trường nội địa thống nhất và quản lý nhà nước về
thương nghiệp của TS. Hoàng Đức Tảo.
Một số nghiên cứu sinh Lào tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
cũng đã có các công trình nghiên cứu trên những lĩnh vực khác nhau như:

2



- Đề tài về "Phát triển thị trường nông thôn Cộng hòa dân chủ Nhân
dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Bun Thi Khưa My Xay, Khoa học Kinh
tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
- Đề tài về: "Đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Chăn Seng Phim Ma Vông, Khoa
học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
- Đề tài “Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên
địa bàn tỉnh Bo keo, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào”, Luận văn thạc sỹ của
Khăm Kâng Phiu Văn Na, Khoa quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
Tuy nhiên, ở một địa phương cụ thể cấp tỉnh có nhiều đặc thù riêng như
tỉnh Sa Văn Na Khệt, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
có hệ thống về lĩnh vực này. Để thực hiện đề tài, tôi có kế thừa các ý tưởng lý
luận của các công trình đã công bố của Việt Nam và Lào, đi sâu phân tích
thực trạng và đề xuất giải pháp phù hợp cho hoạt động thương mại của tỉnh Sa
Văn Na Khệt trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận của vai trò nhà nước đối với hoạt
động thương mại trong nền kinh tế thị trường, đánh giá thực trạng và đề xuất
phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực nhà nước về thương mại
trên địa bàn tỉnh Sa Văn Na Khệt trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục duy trì vai trò nhà
nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Sa Văn Na Khệt.
- Đánh giá quá trình đổi mới và thực trạng quản lý nhà nước đối với các
thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại ở tỉnh Sa Văn Na Khệt .
Từ đó rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp về thương mại ở tỉnh Sa Văn Na

Khệt.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là vai trò của nhà nước đối với
hoạt động thương mại ở tỉnh Sa Văn Na Khệt.
- Vai trò của nhà nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Sa Văn Na
Khệt, thời gian khảo sát nghiên cứu (từ năm 2007 – 2011)
- Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là vai trò của nhà nước về thương
mại đối với tất cả các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại,
trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Thương mại.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước của nước
CHDCND Lào từ Đại hội IV năm 1986 đến nay.
- Khóa luận kết hợp nhiều phương pháp, khảo sát, phân tích thống kê,
tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp khoa học của khóa luận
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, và thực tiễn về vai trò nhà
nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường ở tỉnh Sa Văn
Na Khệt, đề xuất giải pháp có tính khả thi vai trò nhà nước về lĩnh vực này
trong giai đoạn tới.
- Khóa luận là một công trình nghiên cứu lý luận với tình hình thực tiễn
của tỉnh Sa Văn Na Khệt, nên có thể làm tài liệu tham khảo để hoạch định
những chủ trương, chính sách phát triển thương mại ở tỉnh Sa Văn Na Khệt
trong những năm tới.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 chương, 8 tiết.


4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động thương mại trong nền kinh
tế thị trường
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thương mại
1.1.1.1. Khái niệm thương mại
Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất của xã hội loài
người, là cơ sở của đời sống xa hội, nhưng của cải vật chất sản xuất ra không
đem trao đổi và tiêu dùng thì không phải là hàng hóa.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất ngày càng mở
rộng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động
xã hội. Lúc đầu là phân công tự nhiên (mang tính tự phát), sau đó là phân
công có ý thức. Chính nhờ sự phân công lao động xã hội đó mà hình thành
các ngành kinh tế độc lập khác nhau. Các Mác đã chỉ ra rằng: "nếu xét riêng
bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội
thành những ngành lớn như: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... là sự
phân công lao động chung, và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành
từng loại và như là sự phân công lao động đặc thù" [24, tr.580].
Quá trình phát triển từ công xã nguyên thủy đến chủ nghĩa tư bản đã
hình thành khá rõ 3 cuộc phân công lao động xã hội lớn: mới đầu chăn nuôi
tách ra khỏi trồng trọt, và hình thành một ngành nghề khác trong nông nghiệp,
tiếp đó ngành thủ công tách ra khỏi nghề nông, đã hình thành sự chuyên môn
hóa trong nông nghiệp và bắt đầu nhen nhóm ngành công nghiệp. Hoạt động
trao đổi trở nên phức tạp hơn; bắt đầu xuất hiện tiền tệ làm vật trung gian để

trao đổi, hình thành một nhóm người làm công việc mua đi bán lại, đó là

5


thương nhân. Lúc này thương mại tách ra khỏi sản xuất và trở thành một
ngành độc lập trong nền kinh tế quốc dân.
Các Mác đã chứng minh rằng, tư bản thương mại đã ra đời trước khi
xuất hiện tư bản công nghiệp, hoạt động của tư bản thương mại trong thời kỳ
tiền tư bản chủ nghĩa là một tiền đề quan trọng cho việc ra đời của tư bản
công nghiệp, nhờ việc tích tụ vốn và tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các
Mác viết:
Cho nên, chẳng lấy gì làm khó hiểu, tại sao tư bản thương nhân lại xuất
hiện với tư cách là một hình thái lịch sử của tư bản, rất lâu trước khi tư bản
khống chế được nền sản xuất. Bản thân sự tồn tại và phát triển tới một mức
nào đó của tư bản thương nhân là điều kiện lịch sử của phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Vì đó là điều kiện tiên quyết của việc
tích tụ tài sản bằng tiền và vì phương thức sản xuất TBCN giả định sản xuất
nhằm mục đích buôn bán... [19, tr.77].
Khi tư bản công nghiệp đã giữ vị trí thống trị trong xã hội thì tư bản
thương mại trở thành kẻ phục vụ cho tư bản công nghiệp và phụ thuộc vào tư
bản công nghiệp. Các Mác đã nhấn mạnh: ở giai đoạn đầu của xã hội tư bản
thương mại thống trị công nghiệp, trong xã hội hiện đại ngược lại.
Thương mại ra đời đánh dấu một sự phân công lao động trong xã hội,
khi đó chức năng trao đổi hàng hóa đã trở thành công việc chuyên môn của
một bộ phận lao động thoát ly sản xuất và phục vụ sản xuất bằng cách đưa
hàng từ người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua quan hệ hàng hóa - tiền
tệ. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu
dùng, là hình thức trao đổi hàng hóa thông qua việc mua, bán và các dịch vụ
thương mại.

Thương mại là một ngành kinh tế tương đối độc lập trong nền kinh tế
quốc dân, nó không sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại phục vụ cho quá
trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế gắn liền với lĩnh vực
lưu thông hàng hóa với sản xuất hàng hóa. Việc hình thành và phát triển
6


thương mại phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử quyết định. Trình độ của lực
lượng sản xuất này ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng sâu
sắc thì hoạt động thương mại được mở rộng cả về phạm vi, quy mô, cơ cấu
hàng hóa, dịch vụ cũng đa dạng và phong phú hơn.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động thương mại
Thương mại là một lĩnh vực kinh tế, trong đó các chủ thể kinh tế thực
hiện việc mua bán, trao đổi hàng hóa bằng các phương thức khác nhau.
Thương mại ra đời cùng với nền kinh tế hàng hóa và ngày càng phát triển.
Cho đến nay, thương mại là một ngành kinh tế phát triển ở trình độ cao với
quy mô rộng lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước, chiếm tỷ trọng
đáng kể trong cấu thành khu vực dịch vụ.
Thương mại tuy không phải là một ngành sản xuất vật chất độc lập,
nhưng lại có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với sản xuất, góp phần thúc
đẩy sản xuất và quá trình chuyên môn hóa, giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của đất nước.
Thương mại trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng của xu hướng
toàn cầu hóa kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức. Nó không chỉ đóng vai
trò cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về hàng hóa của toàn xã hội mà còn đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong việc góp phần khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của từng
vùng, từng địa phương, từng quốc gia; phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và
có hiệu quả. Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào

nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế, hoạt động thương mại ngày
càng không hạn chế ở việc buôn bán các hàng hóa vật thể truyền thống mà
còn mở rộng sang các lĩnh vực mới như cả thương mại dịch vụ, bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...ở nhiều nước phát triển, thương mại

7


thường được hiểu rộng đến mức nhiều khi rất khó phân biệt ranh giới hoạt
động thương mại với hoạt động khác.
Trong thời đại ngày nay, thương mại có tầm quan trọng đặc biệt với
phát triển kinh tế. Do vậy hầu hết các quốc gia và vùng kinh tế trên thế giới
đều rất quan tâm đến phát triển hoạt động thương mại. Trong xu hướng chung
đó Đảng và Chính phủ Lào cũng rất quan tâm đến vai trò Nhà nước đối với
hoạt động thương mại của quốc gia. Chính phủ đã có nhiều chính sách quan
trọng cho sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có sự chú ý đặc biệt
tới sự phát triển của ngành thương mại, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy nền
kinh tế của Lào tăng trưởng và phát triển.
Thể hiện ý chí đó, Đại hội lần IV và V của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào đã xác định chủ trương đổi mới trong phát triển kinh tế. Trong đó coi
hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có
nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ
kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp để chuyển sang phát triển kinh tế.
1.1.2. Vai trò của hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, thương mại có vai trò quan trọng trong
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xác định rõ vai trò của thương mại cho phép
tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển.
Trước hết, thương mại là một bộ phận của quá trình tái sản xuất.
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu
dùng. Sự vận động của sản phẩm hàng hóa qua khâu thương mại để hoạt động

tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. Ở vị trí cấu thành của quá
trình tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu của quá trình tái
sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu
dùng. Vì vậy, thương mại là hợp phần của sản xuất hàng hóa. Sản phẩm hàng
hóa có mục đích từ trước là để thỏa mãn nhu cầu của người khác, sản xuất ra
để trao đổi mua bán. Hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất
hàng hóa. Ở đây có thể phát triển ý kiến của Ăngghen rằng: sản xuất và
8


thương mại là hai mặt của kinh tế, có thể coi như trục hoành và trục tung của
đô thị kinh tế.
Thứ hai, thương mại làm cho sản xuất hàng hóa phát triển chấn hưng
các quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản
xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên
các vùng chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa lớn. Phát triển thương mại cũng
có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ, làm cho con người năng
động, dần thích nghi với cách thức của nền sản xuất hàng hóa, đó là con
đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc thành sản xuất
hàng hóa.
Thứ ba, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ
tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học công nghệ mới, hạ chi
phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc
người sản xuất phải năng động, phải không ngừng nâng cao tay nghề chuyên
môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực,
nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng
sản xuất phát triển.
Thứ tư, thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới.

Người tiêu dùng bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí, lợi ích
của sản phẩm hay mức độ thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng
tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường gần với
nhu cầu thực tế, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu.
Thương mại đáp ứng nhu cầu tốt hơn chế độ trao đổi hiện vật. Thương mại
luôn buộc các nhà sản xuất phải đa dạng kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản
phẩm, điều này tác động ngược lại người tiêu dùng làm khơi dậy những nhu
cầu tiềm tàng. Tóm lại, thương mại làm tăng nhu cầu và đó là gốc rễ cho sự
phát triển sản xuất kinh doanh. Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế
9


giới, thương mại đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa các nước không ngừng phát triển.
Điều đó giúp cho chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy lợi thế
so sánh, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập với thị trường thế giới,
đó cũng là con đường để phát triển kinh tế.
Thứ năm, thương mại giúp xã hội sử dụng hợp lý và tiết kiệm lao động.
Do có thương mại, các nhà sản xuất có thể tiến hành sản xuất liên tục,
không phải dùng sản xuất để tiêu thụ sản phẩm, nên có thể tăng hiệu suất sử
dụng máy móc, thiết bị tăng năng suất lao động giảm chi phí sản xuất.
Do có thương mại nên chi phí lưu thông, bao gồm chi phí bảo quản,
đóng gói, chuyên chở, v.v... có thể giảm nhiều so với chi phí lưu thông mà các
nhà sản xuất tư làm.
Thứ sáu, thương mại thúc đẩy và tạo điều kiện phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là một trong nhiều biện pháp tăng năng suất
lao động xã hội. Mà việc không ngừng tăng năng suất lao động quan trọng
như thế nào thì chúng ta đã biết.
Nhờ có thương mại, nhà sản xuất có thể yên tâm sản xuất, nhờ thương
mại nhà sản xuất có thể nắm được cầu một cách rộng khắp, nhanh chóng, từ

đó sớm có sự lựa chọn chuẩn xác phương án cung của mình sao cho tối ưu.
Thứ bảy, thương mại giúp xã hội mở rộng quan hệ hàng hóa trên phạm
vi ngày càng rộng lớn, nhờ đó mà nâng cao mức sống vật chất, văn hóa của
con người.
Nhờ có ngành thương mại, trong đó có ngoại thương, nhân loại toàn
cầu có thể thụ hưởng thành quả lao động của nhau.
Thông qua hàng hóa, con người có thể giao lưu văn hóa, thúc đẩy trí
tuệ phát triển làm cho xã hội sinh động hơn.
1.1.3. Mối quan hệ và tác động của hoạt động thương mại
1.1.3.1. Mối quan hệ của hoạt động thương mại
* Với sản xuất và tiêu dùng trong tái sản xuất xã hội:
10


Thương mại giữ vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng trong quá
trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, chính thương mại kết
nối và thực hiện sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động
mua bán bằng tiền. Thương mại là điều kiện không thể thiếu của tái sản xuất
xã hội. Thương mại một mặt chịu sự tác động quyết định của sản xuất và tiêu
dùng (quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của thương mại do quy mô, cơ cấu và
sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng quy định). Ngược lại sự phát triển của
thương mại có tác động trở lại làm biến đổi quy mô, cơ cấu và sự phát triển
của cả sản xuất lẫn tiêu dùng.
* Thương mại phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể
của nền kinh tế thông qua hoạt động mua bán trên thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế
được phản ánh chủ yếu trên thị trường thông qua mua bán gắn liền với hoạt
động thương mại. Những mối quan hệ thương mại này có liên quan tới nhiều
chủ thể khác nhau (chính phủ, các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá
nhân người tiêu dùng cũng như có liên quan tới mọi thành phần kinh tế khác

nhau trong nền kinh tế). Thương mại chịu ảnh hưởng tác động của các quan
hệ quốc tế giữa các chủ thể kinh tế nói trên. Mặt khác, thương mại cũng tác
động trở lại góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ, xác lập địa vị của họ
về kinh tế thông qua các mối quan hệ mua bán.
* Thương mại là một hệ thống mở với môi trường bên ngoài (kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội, luật pháp và môi trường tự nhiên)
Thương mại là một hệ thống tập hợp các yếu tốt có mối liên hệ qua lại
thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ bằng tiền với mục
tiêu kinh doanh hoặc phi kinh doanh như chúng ta đã nói ở trên.
Hệ thống thương mại được hình thành bởi hai hệ thống con, đó là cung
và cầu. Cung được hình thành bởi sản xuất, người bán đại diện cho sức cung
trên thị trường. Cầu được hình thành bởi tiêu dùng dựa trên cơ sở khả năng
thanh toán của xã hội. Người mua đại diện cho sức cầu của thị trường. Hai hệ
11


thống con của hoạt động thương mại được liên hệ với nhau bởi các hoạt động
và mối quan hệ qua lại giữa người mua và người bán trên thị trường như: hoạt
động Marketing, hệ thống kênh phân phối của thị trường...
1.1.3.2. Những tác động của thương mại
Thương mại là một hệ thống mở trong sự tương tác qua lại với môi
trường bên ngoài. Thương mại chịu ảnh hướng tác động của các yếu tố môi
trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, pháp luật, tự nhiên. Những yếu tố
môi trường này có thể tác động thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của thương
mại. Thương mại cũng tác động trở lại đến tất cả các yếu tố môi trường bên
ngoài. Những tác động này khá đa dạng và có liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác nhau của tái sản xuất. Phạm vi tác động của thương mại rất rộng, nó liên
quan đến mọi người, mọi tổ chức, mọi thành viên kinh tế. Những tác động
này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra cả phương
diện chính trị, xã hội, luật pháp, văn hóa và môi trường tự nhiên. Những tác

động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng có thể những tác động
tích cực (thúc đẩy hoặc đưa lại những lợi ích), cũng có thể là các tác động tiêu
cực (cản trở hoặc dẫn đến những tổn thất). Kết quả của những tác động này có
thể lượng hóa được (đo lường được) nhưng nhiều trường hợp chúng rất khó
định lượng. Tác động của thương mại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, phạm
vi ảnh hưởng của chúng rất khác nhau. Có nhiều hoạt động thương mại mà
ảnh hưởng của chúng chỉ trong một phạm vi hẹp và trong một thời gian ngắn,
ngược lại có những tác động mà ảnh hưởng của chúng rất rộng rãi và lâu dài.
Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó
không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh
nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn giúp cho việc quản
lý các hoạt động thương mại ở phạm vi vĩ mô một cách có kết quả và hiệu
quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như sự
phát triển kinh tế bền vững.
* Tác động tích cực của thương mại:
12


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thương mại có những tác động
tích cực sau:
- Về kinh tế:
+ Góp phần tạo ra thu nhập quốc dân là nguồn thu ngoại tệ quan trọng
(ngoại thương), góp phần cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia, ổn định
kinh tế vĩ mô.
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, ổn định và bền vững.
+ Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và đẩy mạnh xuất khẩu.
+ Thúc đẩy đầu tư hợp tác kinh tế giữa các vùng, các quốc gia và các
khu vực kinh tế thế giới.
+ Thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới.

- Về xã hội (văn hóa, xã hội, chính trị, pháp luật):
+ Góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết những vấn đề dư thừa lao
động và nạn thất nghiệp.
+ Giúp phát triển các vùng lạc hậu, vung sâu, vùng xa.
+ Xóa bỏ sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, các khu vực kinh
tế trong nền kinh tế thế giới.
+ Củng cố các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa
thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp.
+ Ổn định và nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư.
+ Trên cơ sở xây dựng và củng cố các mối quan hệ kinh tế, thương mại
góp phần thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu văn hóa, củng cố hòa
bình, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
+ Thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng chung.
+ Tái đầu tư để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường đảm bảo sự phát triển bền vững.
* Tác động tiêu cực của thương mại:

13


Sự phát triển của thương mại một cách tự phát, không có sự quản lý và định
hướng đúng đắn của Nhà nước cũng có thể dẫn tới những tác động tiêu cực.
- Về kinh tế:
+ Sự phát triển thương mại một cách tự phát có thể dẫn đến khủng
hoảng, gây nên sự lãng phí các nguồn lực trên phạm vi toàn xã hội.
+ Chạy theo lợi nhuận và cái lợi ích cục bộ một cách mù quáng đi lên
những hoạt động thương mại bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh,
buôn gian bán lận... phá hoại nền kinh tế.
+ Gia tăng cạnh tranh cũng như sự lệ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc
gia và bên ngoài...

- Về xã hội:
+ Phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội làm sâu
sắc thêm những mâu thuẫn xã hội.
+ Nguy cơ xâm nhập các lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền du nhập
lối sống và văn hóa ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng, làm sâu sắc những mâu thuẫn
giữa các quốc gia.
+ Cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên
nhiều khi đã là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộc và
giữa các quốc gia.
- Về môi trường tự nhiên:
+ Khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Phá hủy môi trường tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường sống.
Để khai thác những mặt tích cực của thương mại và hạn chế những mặt
tiêu cực của nó, hoạt động thương mại phải vận động theo cơ chế thị trường
và phải chịu sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

14


1.2. Vai trò Nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh
tế thị trường
1.2.1. Vai trò nhà nước đối với hoạt động thương mại
- Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại:
Chiến lược phát triển thương mại được xây dựng nhằm đề ra những
mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối ưu các
nguồn lực cho phát triển thương mại của quốc gia bao gồm: chiến lược
thương mại trong nước và chiến lược thương mại quốc tế trong một thời gain
khá dài (khoảng 10 năm, 20 năm) góp phần thực hiện chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử. Hệ thống chiến lược
thương mại trong nền kinh tế quốc dân thuộc nội dung quản lý Nhà nước về
thương mại bao gồm:
1. Chiến lược thương mại quốc gia (thường do Bộ Thương mại xây
dựng và được Chính phủ thông qua) thể hiện những quan điểm chủ đạo chung
của Nhà nước đối với thương mại, mục tiêu tổng quát của ngành thương mại
của các giải pháp vĩ mô.
2. Chiến lược thương mại vùng lãnh thổ là bộ phận của chiến lược phát
triển kinh tế vùng lãnh thổ do Bộ Thương mại xây dựng.
3. Chiến lược thương mại của tỉnh, thành phố là bộ phận của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố.
Quy hoạch phát triển thương mại là một cấp độ thực hiện chiến lược
thương mại nhằm thể hiện rõ ý tưởng của Nhà nước về bố trí lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực thương mại của quốc gia, gồm các nội
dung chủ yếu như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng chung
cho hoạt động thương mại, bố trí nguồn nhân lực và các loại hình chủ thể
tham gia hoạt động thương mại. Hệ thống quy hoạch phát triển thương mại
trong nền kinh tế quốc dân bao gồm:
1. Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc
dân.
15


2. Quy hoạch phát triển thương mại theo vùng lãnh thổ.
3. Quy hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố.
4. Quy hoạch phát triển thương mại của các ngành hàng chủ yếu.
Kế hoạch phát triển thương mại mang tính định hướng trong nền kinh
tế quốc dân là việc Nhà nước xác định phương hướng, mục tiêu, cơ cấu phát
triển thương mại và thị trường trong từng giai đoạn (thường là 5 năm gọi là kế
hoạch dài hạn, 2 - 3 năm gọi là kế hoạch trung hạn, 1 năm gọi là kế hoạch

ngắn hạn), cũng như xác định cả biện pháp để đạt mục tiêu đó, đáp ứng yêu
cầu của nền kinh tế trong từng thời đoạn cụ thể. Kế hoạch hóa thương mại
vừa là phương pháp vừa là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò
hướng dẫn, định hướng phát triển thương mại và thị trường trong nước và
quốc tế. Mục tiêu của kế hoạch hóa định hướng phát triển thương mại là nhằm
giữ một sự cân đối lớn của thị trường và thương mại, ổn định thị trường, phát
triển lưu thông hàng hóa, phát triển xuất nhập khẩu (XNK) và lợi nhuận. Đối
tượng của kế hoạch phát triển thương mại bao quát toàn bộ các quá trình kinh
tế trong ngành thương mại, cả hoạt động thương mại trong nước và với nước
ngoài, trọng tâm là các quan hệ tổng cung - tổng cầu, quan hệ tiền hàng, quan
hệ cung - cầu từng mặt hàng thiết yếu, các cơ cấu thương mại chủ yếu.
Kế hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân gồm kế
hoạch phát triển thương mại quốc gia, kế hoạch phát triển thương mại của
vùng, lãnh thổ, kế hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố.
Chính sách thương mại thuộc hệ thống chính sách kinh tế của Nhà
nước, là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp,
mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong nước và
hoạt động thương mại quốc tế trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các
mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển thương mại quốc gia nói riêng,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung trong thời kỳ lịch
sử. Chính sách thương mại được phân thành nhiều chính sách bộ phận, gồm:
chính sách lưu thông hàng hóa, chính sách ngoại thương, chính sách thương
16


nhân, chính sách phát triển thị trường, chính sách thương mại đối với các
vùng đặc thù (miền núi, vùng sâu, vùng xa...), chính sách thuế quan, chính
sách bảo vệ người tiêu dùng, chính sách hội nhập khu vực và thế giới... Trong
mỗi chính sách, bộ phận nói trên lại được phân nhỏ thành các chính sách
riêng biệt khác nhau. Ví dụ, chính sách ngoại thương được phân thành 3 chính

sách bộ phận: chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa quốc gia với các
nước, các đối tác thương mại chủ yếu; chính sách xuất khẩu, chính sách nhập
khẩu. Trong chính sách xuất khẩu lại được phân nhánh thành các chính sách
bộ phận như: chính sách thị trường xuất khẩu, chính sách mặt hàng xuất khẩu,
chính sách thương nhân tham gia hoạt động xuất khẩu (quyền kinh doanh xuất
khẩu), chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
- Ban hành các quy định pháp luật và văn bản pháp quy về thương
mại:
Nhà nước phải xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp đồng bộ, tạo
môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại theo yêu cầu của
cơ chế thị trường. Hệ thống luật pháp này bao gồm luật và các văn bản dưới
luật của Chính phủ, Bộ Thương mại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
khác. Bảo đảm tính hệ thống, nhất quán và tương đối ổn định của pháp luật là
khâu trọng yếu đầu tiên của quản lý Nhà nước.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành tạo
thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn
bản quản lý Nhà nước (dưới luật). Các văn bản luật, pháp quy đều chứa đựng
các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung với toàn xã hội hoặc một
nhóm xã hội và được thực hiện lâu dài.
Hệ thống các văn bản pháp luật của một đất nước, thông thường bao
gồm: hiến pháp, cả đạo luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
(hoặc tổng thống); nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị

17


của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp.
Các văn bản pháp luật về thương mại gồm: 1. Luật thương mại; 2. Các

luật về tổ chức doanh nghiệp (như luật doanh nghiệp, luật phá sản doanh
nghiệp...) các nghị định và quyết định của Chính phủ về tổ chức doanh nghiệp,
các thông tư, công văn, chỉ thị, quyết định của Bộ Thương mại (hoặc cơ quan
tương tự) và các Bộ ngành hữu quan liên quan đến tổ chức doanh nghiệp; 3.
Các văn bản hiện hành về quản lý kinh doanh trong nước; 4. Các văn bản về
xuất nhập khẩu, các văn bản về quản lý thị trường; 5. Các văn bản về đầu tư
liên quan đến thương mại; 6. Các văn bản về tiêu chuẩn chất lượng về quản lý
đo lường chất lượng hàng hóa; 7. Các văn bản về thuế trong nước và về thuế
quan; 8. Các văn bản về văn phòng đại diện thương mại; 9. Các văn bản về hải
quan; 10. Các văn bản về hợp đồng kinh tế và trọng tài thương mại.
- Tổ chức hệ thống quản lý hoạt động thương mại các cấp:
Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở mỗi
nước có những đặc thù riêng theo quy định của Hiến pháp và luật pháp của
từng nước, đồng thời, tùy thuộc vào thiết chế và thể chế chính trị và hành
chính của Chính phủ từng quốc gia. Tuy nhiên điểm chung giữa các nước là
đều có Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng (hoặc Tổng thống ở một số nước).
Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất nắm quyền hành pháp.
Chính phủ ở hầu hết các nước đều có chức năng cơ bản là thống nhất việc
quản lý, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do
quyền lập pháp định ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; quản lý
bộ máy hành chính Nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; tham gia
quá trình lập pháp.
Cơ cấu tổng thể Nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó
quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và
cơ chế phân bổ quyền lực do hiến pháp quy định. ở các nước theo chế độ tư
18


bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập

pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức
năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. Do đó việc xác
định chủ thể vai trò Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng
không quá phức tạp - đó là Chính phủ. Vai trò Nhà nước về hoạt động thương
mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, Bộ trưởng là thành
viên trong Chính phủ.
Vấn đề phân cấp theo ngành, theo lãnh thổ và vùng là vấn đề phức tạp
và luôn luôn là vấn đề thời sự của các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi.
Cơ quan nào của Nhà nước có vai trò trọng tâm của quản lý Nhà nước về kinh
tế ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là
vấn đề phức tạp, xong có ý nghĩa quan trọng. Vì đây không phải là vấn đề đơn
lẻ mà nó là kết quả của chuyển đổi đồng bộ các chức năng quản lý Nhà nước
về kinh tế.
Bộ Thương mại có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý Nhà
nước về thương mại hàng hóa và dịch vụ thương mại. Các Bộ, cơ quan ngang
Bộ các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý
Nhà nước về thương mại đối với một số lĩnh vực được phân công phụ trách
và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại để thực hiện vai trò Nhà nước
về thương mại theo quy định của Chính phủ.
Đối với vai trò Nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành
phố, vùng lãnh thổ) ở mỗi nước có những đặc thù riêng, chính quyền các cấp
quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính
phủ. Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính quyền tỉnh,
thành phố thực hiện nhiệm vụ, vai trò Nhà nước về thương mại ở địa phương.
Đơn vị cuối cùng trong hệ thống tổ chức vai trò Nhà nước về thương mại.
Ở cấp cơ sở là phòng Thương mại quận, huyện và tổ quản lý thị trường
cấp xã, phường làm nhiệm vụ thi hành luật pháp và các chỉ thị, quy định của
Nhà nước về hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn được giao.
19



- Kiểm tra, kiểm soát hoạt động thương mại:
Bao gồm những nội dung cụ thể như thanh tra, kiểm tra sự phù hợp của
chất lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường với: tiêu chuẩn Lào bắt buộc áp
dụng, đăng ký chất lượng hàng hóa, các quy định về an toàn vệ sinh môi
trường. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện những quy định về ghi nhãn hiệu
sản phẩm của hàng hóa lưu thông trên thị trường. Thanh tra, kiểm tra tính hợp
pháp của các dụng cụ đo lường có liên quan đến việc kinh doanh hàng hóa
trên thị trường và hàng hóa gói sẵn trên định lượng. Thanh tra, kiểm tra các
vụ việc về sản xuất hoặc buôn bán hàng giả, buôn lậu, buôn bán không có hóa
đơn trên thị trường. Thanh tra, kiểm soát phòng và chống gian lận thương mại
trên phạm vi cả nước, phạm vi từng địa bàn lãnh thổ,...
1.2.2. Vai trò nhà nước đối với hoạt động thương mại ở Lào
Trong những năm qua CHDCND Lào đã giữ vững và thực hiện đường
lối đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của Lào
Một là: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động
thương mại, trong đó thương mại Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực hiện
chính sách tự do hóa thương mại, khuyến khích mọi thành viên kinh tế tham
gia, khai thác vốn liếng, tái sản xuất, kinh nghiệm nhằm phát triển thương
mại, làm cho thị trường sôi động, hàng hóa đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu
cầu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ cho
doanh nghiệp thương mại Nhà nước có đủ tiềm lực kinh tế thực hiện vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước nói
chung và thương mại nói riêng là "làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và
giải quyết vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác
cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều
tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho sản xuất xã hội mới" [26, tr. 93].
Hai là: xác định đúng chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động
thương mại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) là vấn đề rất mới mẻ Lào chưa trải qua, chưa có kinh nghiệm... mặt

20


khác hoạt động thương mại với tư cách là đối tượng quản lý lại đang quá trình
đổi mới hình thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời gian qua đã có nhiều
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và quản lý đã và
đang góp phần xác định một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học về chức năng
và nội dung, vai trò Nhà nước đối với hoạt động thương mại, trong bước
chuyển sang cơ chế thị trường. Điều rất quan trọng là trong thời gian gần đây,
Bộ Thương mại đã và đang tổ chức việc nghiên cứu kinh tế thương mại, các
công trình nghiên cứu để hoàn thiện chức năng, vai trò Nhà nước về thương
mại ở Trung ương đến địa phương. Nhờ đó việc xác định đúng đắn và hoàn
thiện chức năng, vai trò quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, sẽ có cơ
sở khoa học và thực tiễn hơn.
- Mở rộng thị trường ngoài nước gắn với việc phát triển ổn định thị
trường trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh
doanh thương mại trong hiệu quả kinh tế xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
Chủ trương đưa nền kinh tế của Lào vào hội nhập với thị trường thế
giới và khu vực, chuyển hoạt động kinh tế đối ngoại hướng mạnh vào xuất
khẩu dựa trên sự khai thác các lợi thế so sánh là để phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân,
quốc phòng và đời sống nhân dân. Vì vậy, trong khi hết sức coi trọng mở rộng
thị trường ngoài nước, hoạt động thương mại phải lấy thị trường trong nước
làm cơ sở, gắn ngoại thương với nội thương, đặt các hoạt động thương mại và
xuất nhập khẩu trong yêu cầu tạo tiền đề và cơ sở vật chất để thúc đẩy sản
xuất, góp phần ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, ổn định nâng cao đời sống,
bảo đảm hiệu quả và tăng trưởng lâu bền của toàn bộ nền kinh tế.
- Vai trò Nhà nước đối với hoạt động thương mại phải thể hiện trong
toàn bộ sự vận động lưu thông hàng hóa. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải
chủ động tác động đến mọi hoạt động của các doanh nghiệp. Nguyên tắc chung

để chỉ đạo là khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các mặt tích cực, đồng thời có

21


biện pháp hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát triển.
Nhân tố quyết định nhất bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường là vai trò quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trong đó kế hoạch và thị trường kết hợp chặt chẽ với nhau
trong một thể thống nhất, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Sự vận động của kinh tế
thị trường trong mấy năm qua đã giúp chúng ta nhận thức sâu sắc rằng: thông
qua thị trường và hoạt động thương mại sẽ diễn ra quá trình phân phối và
phân phối lại thu nhập quốc dân. Vì vậy, sự công bằng xã hội trong nền kinh
tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không chỉ được thực hiện
thông qua phân phối trực tiếp kết quả sản xuất, mà còn được thực hiện ở khâu
phân phối lưu thông qua thị trường, giá cả bằng pháp luật, các định chế, các
chính sách; bằng các định hướng trong quy hoạch và kế hoạch phát triển và
bằng kiểm kê, kiểm soát Nhà nước tổ chức về thiết lập trật tự thị trường, thúc
đẩy hình thành vận động lưu thông hàng hóa giữa các vùng các miền; khuyến
khích và phát huy các mặt tích cực của cơ chế thị trường đồng thời có biện
pháp ngăn ngừa xu hướng tự phát, nạn đầu cơ buôn lậu và hành vi kinh doanh
trái phép; hạn chế sự phân hóa giàu nghèo quá mức, bảo đảm tăng trưởng
kinh tế kết hợp với tiến bộ và công bằng xã hội.
1.3. Tìm hiểu kinh nghiệm vai trò Nhà nước đối với hoạt động
thương mại của Việt Nam và bài học vận dụng ở Lào
1.3.1. Kinh nghiệm vai trò nhà nước đối với hoạt động thương mại
của Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Đại hội lần thứ VI
của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra quan điểm, đường lối đổi mới kinh tế - xã

hội sâu sắc và toàn diện. Đây là một thực sự cách mạng đổi mới triệt để được
tiến hành đồng thời trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

22


Để thực hiện đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn
chiến lược phát triển hợp lý. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực, căn cứ vào
điều kiện cụ thể của đất nước, Việt Nam lựa chọn thương mại như sau:
Thứ nhất, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu, đồng thời thực hiện hợp lý chính sách thay thế hàng nhập khẩu có
hiệu quả cao hơn.
Thứ hai, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển có trọng
điểm, tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm có điều kiện thuận lợi,
có thế mạnh, tiến tới phát triển các vùng trong cả nước. Nhưng trong giai
đoạn đầu giành ưu tiên cho ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu
tư cao và thu hồi vốn nhanh. Qua đó tạo nguồn hàng xuất khẩu lớn và đáp
ứng nhu cầu thị trường trong nước.
Thứ ba, Việt Nam tập trung đầu tư vốn và công nghệ xây dựng các
doanh nghiệp Nhà nước với quy mô lớn đủ khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế, đồng thời phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) thuộc
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài Nhà nước.
Thứ tư, Việt Nam thực hiện chiến lược ưu tiên phát triển công nghệ tiên
tiến và công nghệ cao, xử lý thỏa đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò
của thông tin trong quản lý và chất xám trong nền kinh tế tri thức.
Thứ năm, Việt Nam thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nền kinh tế quốc dân ngay từ rất sớm. Phát triển các ngành công nghiệp phục
vụ công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn đầu của quá trình
công nghiệp hóa đất nước. Vì Việt Nam đã có bài học kinh nghiệm của các
nước về tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc ổn định nền kinh tế và đời

sống nhân dân.
Thứ sáu, đi đôi với việc xác định lâu dài, Nhà nước và Chính phủ Việt
Nam đã xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cho từng thời kỳ. Đề
ra chỉ tiêu kế hoạch và phương thức thực hiện kế hoạch của Chính phủ và Bộ
ngành, địa phương theo mô hình kinh tế mới được tổ chức theo quan điểm kế
23


hoạch hóa mang tính định hướng, kế hoạch không phải chỉ giao chỉ tiêu để
thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án.
Những đổi mới quan trọng của Việt Nam về vai trò Nhà nước trong lĩnh
vực kinh tế và thương mại thời kỳ mở cửa và hội nhập có thể khái quát như sau:
+ Về đổi mới cơ chế quản lý: Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế chính trị của mình tiếp tục quá trình tự do hóa thương mại, thực hiện xóa bỏ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Giảm dần độc quyền của doanh
nghiệp Nhà nước và xây dựng các đạo luật theo tinh thần đảm bảo bình đẳng
trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế, chống cửa quyền, độc quyền,
tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tạo lập môi trường
pháp lý chung, giảm phân biệt đối xử. Nhà nước tạo điều kiện, tiền đề cho sự
ra đời hoạt động của các thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường vốn, thị
trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ...
+ Về xây dựng chính sách thương mại: Nhà nước đóng vai trò tạo lập
môi trường và chính sách quản lý phù hợp với quy luật kinh tế thị trường,
hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh
doanh theo luật pháp và có hiệu quả. Nhà nước ban hành các chính sách kinh
tế, thương mại và đầu tư thông thoáng hấp dẫn để khuyến khích các doanh
nghiệp trong và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất hàng hóa phục vụ nhu
cầu trong nước và tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi mới đồng bộ các chính sách
thương mại và các chính sách kinh tế liên quan đến thương mại, gồm:
Đổi mới chính sách xuất nhập khẩu đối với thương nhân: Nghị định

64/HĐBT (1989) là bước đột phá đầu tiên về quyền kinh doanh, đã xóa bỏ
độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đối với hoạt động ngoại
thương mở rộng quyền cho các doanh nghiệp tư nhân được tham gia xuất
nhập khẩu (XNK). Ngày 10/5/1997, Luật thương mại Việt Nam đã được
Quốc hội thông qua và tiếp sau đó Chính phủ cũng đã ra Nghị định số
57/1998/NĐ-CP xóa bỏ chế độ cấp phép kinh doanh XNK, nhưng vẫn có giới
24


hạn trong phạm vi ngành nghề nhất định. Khi Luật doanh nghiệp ra đời đã mở
rộng quyền tự do kinh doanh XNK cho mọi đối tượng tham gia sản xuất kinh
doanh. Ngày 29/4/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số
10/1999/CP-TTg quy định "đẩy mạnh xuất khẩu là nhiệm vụ của mọi cấp,
mọi ngành và mọi tổ chức". Nghị định 44/CP (2001) về chính sách thương
nhân, mở rộng quyền kinh doanh thương mại cho mọi thương nhân đều được
trực tiếp XNK tất cả các loại hàng hóa. Đây là một bước phát triển mới của tự
do hóa thương mại trong nước.
Đổi mới chính sách thương mại thu hút, khuyến khích đầu tư sản xuất
kinh doanh XNK:
Ngày 8/7/1999 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ra Nghị định số
51/1999/NĐ-CP quy định chính sách ưu đãi với các dự án sản xuất hàng hóa
xuất khẩu.
Ngày 3/2/2000 Chính phủ Việt Nam đã có Nghị định số 03/2000/NĐCP xóa bỏ thủ tục cấp giấy phép kinh doanh, thay vào đó là thủ tục đăng ký
kinh doanh.
Cho đến ngày 31/7/2000 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam lại ra chính
sách ưu đãi mới, đó là Nghị định số 24/2000/CĐ-CP quy định chính sách ưu
đãi với các dự án sản xuất hàng hóa xuất khẩu và kinh doanh xuất khẩu.
+ Về cơ chế điều hành xuất nhập khẩu (XNK), Chính phủ Việt Nam đã
cải tiến mạnh mẽ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động XNK trong thời
kỳ mới, phù hợp với xu thế hội nhập thương mại khu vực và quốc tế.

Đổi mới cơ chế điều hành XNK theo hướng từ quy định từng năm sang
quy định cho một thời gian dài là 5 năm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chủ động hoạch định chiến lược và phương án kinh doanh dài hạn. Tại Quyết
định số 46/QĐ-TTg ngày 4/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã xóa
bỏ hầu hết các hạn chế định lượng về hàng hóa XNK, nhập khẩu 2001 - 2005.
Những mặt hàng này sẽ còn duy trì sự quản lý của Bộ Thương mại và hàng hóa
thuộc diện quản lý của 07 chuyên ngành do Bộ chủ quản quản lý. Cho đến nay
25


×