Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Luận án Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.55 KB, 162 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................
3. Nhiệm vụ của luận án....................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................
5. Những đóng góp mới của luận án.................................................................
6. Cấu trúc của luận án......................................................................................
Chương 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU......................................
1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình
văn học............................................................................................................
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái...............................................................
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái...................................................................
1.1.3. Phê bình sinh thái - một khuynh hướng nghiên cứu văn học............
1.2. Lịch sử phê bình mối quan hệ con người với tự nhiên trong văn
học Việt Nam..................................................................................................
1.2.1.Các công trình nghiên cứu.................................................................
1.2.2. Phê bình sinh thái – những khởi đầu mới mẻ....................................
Chương 2: KHUYNH HƯỚNG VĂN XUÔI SINH THÁI VIỆT NAM
.........................................................................................................................
SAU NĂM 1975.............................................................................................
2.1. Những tiền đề lịch sử xã hội của văn học sinh thái Việt Nam............
2.2. Sự hình thành của văn xuôi sinh thái sau năm 1975...........................
2.2.1. Giai đoạn manh nha..........................................................................
2.2.2. Giai đoạn hình thành ý thức sinh thái...............................................
2.3. Những thay đổi trong cách thể hiện mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên......................................................................................................
2.3.1. Thay đổi điểm nhìn............................................................................
2.3.2. Thay đổi motif cốt truyện..................................................................



2.3.3. Thay đổi tính chất của nhân vật........................................................
2.3.4. Thay đổi giọng điệu...........................................................................
Chương 3: CẢM HỨNG PHÊ PHÁN TỪ ĐIỂM NHÌN PHÊ BÌNH
SINH THÁI....................................................................................................
3.1. Ý thức về con người "tội đồ" trong mối quan hệ với tự nhiên..........
3.1.1. Thống trị tự nhiên..............................................................................
3.1.2. Chiếm đoạt không gian hoang dã.....................................................
3.2. Ý thức về con người nạn nhân trong mối quan hệ với tự nhiên........
3.2.1. Số phận con người trong những thảm họa tự nhiên..........................
3.2.2. Niềm kính sợ với sinh mệnh tự nhiên................................................
3.3. Ý thức về con người tha hóa..................................................................
3.3.1. Ý thức sinh thái giai cấp....................................................................
3.3.2.Ý thức sinh thái nữ quyền...................................................................
3.4. Ý thức về nỗi bất an sinh thái................................................................
3.4.1. Cái nhìn phản lãng mạn về nông thôn..............................................
3.4.2. Nỗi bất an đô thị................................................................................
Chương 4: KIẾN LẬP CẢM QUAN ĐẠO ĐỨC SINH THÁI................
4.1. Sự trở lại và nối dài diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên.......................
4.1.1. Tiền đề từ các diễn ngôn phương Đông..........................................
4.1.2. Mĩ hóa, lí tưởng hóa cái tự nhiên....................................................
4.1.3. Nhận thức về quê hương như là môi trường sinh thái....................
4.1.4. Văn học đồng quê về những người nghèo khổ................................
4.2. Nhận diện mẫu hình nhân cách cho chủ nghĩa nhân văn sinh thái
.......................................................................................................................
4.2.1. Lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên......................................................
4.2.2. Đồng cảm với thế giới tự nhiên bị thương tổn................................
4.2.3. Tiếng nói của những thân phận bé nhỏ...........................................
KẾT LUẬN..................................................................................................
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ



TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu văn học sau khi “trở về chính mình” với những lí thuyết như chủ
nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, phê bình mới… chủ yếu quan tâm đến những
phương diện nội tại của tác phẩm dường như nhiều khi trở nên tự thu hẹp, khó tiếp
cận với những vấn đề đương đại rộng lớn. Mặt khác, các trường phái nghiên cứu
văn học hiện nay với những mối bận tâm về con người: phê bình phân tâm học, phê
bình Marxism , lí thuyết tiếp nhận… trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu nhưng
có lẽ “đang trong giai đoạn thác ghềnh và thỉnh thoảng mất phương hướng” [150,
xvii]. Cần phải tìm một hướng đi khác cho nghiên cứu văn học. Do vậy hiện nay,
bên cạnh những hướng nghiên cứu văn học trước đó vẫn đang có những tìm tòi mới
mẻ và đạt được nhiều thành tựu thì cũng xuất hiện sự chuyển hướng văn hóa trong
nghiên cứu văn học, xuyên qua văn học để quan sát sự đổi thay văn hóa, nghiên cứu
ý thức văn hóa được thể hiện như thế nào trong văn học, nghiên cứu ý thức về xã
hội, ý thức về môi trường thể hiện trong văn học.
Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối
mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ đô thị
hóa và sự ỷ lại vào khoa học kĩ thuật con người đang ngày càng quay lưng với tự
nhiên, khai thác quá mức, khiến cho tự nhiên ngày càng cạn kiệt. Thiên nhiên trả
thù con người không phải chỉ bằng các thảm họa, thiên tai, mà đáng sợ hơn, trả thù
bằng sự biến mất của chính nó. Cái “dây chuyền sống” huyền diệu của tạo hóa đang
ngày càng bị phá hủy. Phê bình sinh thái (ecocritisim) nổi lên khi vấn đề biến đổi
khí hậu, sự xuống cấp về môi trường không còn là vấn đề của mỗi quốc gia dân tộc

nữa, nó ảnh hưởng đến sự sống. Văn học quan tâm đến sự sống cho nên khúc ngoặt
của phê bình sinh thái xét đến cùng lại liên quan đến bản thể của văn học.
Trên thế giới, khởi phát từ Anh – Mĩ, phê bình sinh thái đang là một trào lưu
năng động hiện nay, thu hút sự quan tâm ngày càng nhiều hơn các nước ngoài phương
Tây. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tình trạng biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, mưa bão, lũ lụt... Sống ở vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của
môi trường, hẳn nhiên điều đó sẽ ánh xạ vào tác phẩm, nhất là với nhà văn đa cảm, trắc
ẩn. Ý thức sinh thái này đã được nhiều tác giả văn xuôi sau năm 1975 đề cập đến: sự
hủy hoại môi sinh dẫn tới việc mất cân bằng tự nhiên; quá trình đô thị hóa, nền kinh tế
thị trường khiến con người rời xa môi trường sinh thái, con người trở thành nạn nhân,
công cụ của thương mại… Do vậy văn học có khuynh hướng tìm về biểu hiện mối


2
quan hệ giữa con người và tự nhiên, có một tư duy sinh thái trong việc nhận diện, phân
tích và thể hiện những nỗi đau môi trường, số phận con người trong cuộc khủng hoảng
môi sinh cũng như hướng con người sống có trách nhiệm với thiên nhiên, biết hòa
mình vào tự nhiên để được thanh thản, cân bằng trong cuộc sống…Từ hướng nghiên
cứu này, có một cách tiếp cận riêng trên con đường khám phá một trong những hấp dẫn
của văn học Việt Nam sau 1975 và qua đó kết nối văn học với những vấn đề thiết cốt
của nhân loại về trách nhiệm của con người trong khủng hoảng môi sinh.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài luận án là Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau năm
1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
chúng tôi hiểu như sau:
Thứ nhất, từ cái nhìn sinh thái, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa con
người và những yếu tố tự nhiên. Phê bình sinh thái cảnh tỉnh về nguy cơ của khủng
hoảng sinh thái. Do vậy, đề tài xem xét quan hệ con người với thực thể tự nhiên để
phân tích số phận con người trong cuộc khủng hoảng môi sinh, đồng thời chỉ ra

những căn nguyên của những thảm họa môi trường. Mặt khác, vấn đề tự nhiên bao
giờ cũng có mối liên hệ với xã hội. Do vậy, luận án cũng xem xét sự kết nối tính
sinh thái với các vấn đề xã hội để thấy hành trình bóc lột tự nhiên có mối liên hệ với
hành trình bất công xã hội. Từ đó, phê bình sinh thái đặt ra nhiều vấn đề về sự bất
công môi trường, về nông thôn và thành thị, những vấn đề áp bức phụ nữ, vấn đề
giai cấp... Từ thực trạng suy thoái môi trường cần thức tỉnh ý thức sinh thái và tạo ra
những góc nhìn khác về sự sống mà có thể cung cấp nền tảng đạo đức và kiến thức
cho cách hiểu đúng đắn về tương quan giữa các tồn tại trên trái đất.
Thứ hai, từ cái nhìn sinh thái dưới góc độ văn học, chúng tôi "đọc" các mã
văn học thể hiện ý thức sinh thái trên các phương diện chủ đề, motif cốt truyện,
nhân vật, cảm hứng, ngôn ngữ và giọng điệu. Từ đó chỉ ra những đặc điểm của văn
học sinh thái như là một xu hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và
chứa đựng bên trong những nhân tố cách tân văn học.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên phê bình sinh thái Anh-Mĩ, hướng tiếp cận nảy sinh trong thời đại
khủng hoảng môi trường, đề tài chỉ ra những điểm có thể vận dụng lí thuyết phê
bình sinh thái để nghiên cứu dựa trên văn xuôi hư cấu sau năm 1975, chủ yếu là
truyện ngắn và tiểu thuyết làm đối tượng khảo sát chính. Từ đó để thấy sự phản ứng
của văn học trước những khủng hoảng sinh thái đang diễn ra.


3
3. Nhiệm vụ của luận án
- Khảo sát các tác phẩm văn xuôi sinh thái sau năm 1975; phân tích các tác
phẩm dưới góc nhìn của phê bình sinh thái
- Đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về văn học sinh thái Việt Nam sau năm 1975
- Khảo sát những bình diện khác nhau của khuynh hướng văn xuôi sinh thái
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp được sử dụng như những thao tác thường xuyên
trong nghiên cứu văn học như thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, so sánh

(đồng đại, lịch đại), chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp luận
- Vận dụng "cảm quan nhìn lại" của phê bình sinh thái làm tiền đề để nhận
thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên xung quanh như một thực thể của
chỉnh thể sinh thái. Sự nhận thức lại này sẽ giúp chúng ta nhận diện rõ hơn mối
quan hệ giữa tự nhiên và văn hóa.
- Phương pháp liên ngành: Phê bình sinh thái là một hướng nghiên cứu liên
ngành, kết hợp văn học với khoa học, phân tích tác phẩm văn chương để rút ra những
cảnh báo môi trường. Luận án vận dụng những kiến thức của các ngành khoa học (sinh
thái học, dân tộc học, sử học, triết học, chính trị, đạo đức...), một số loại hình nghệ thuật
khác (điện ảnh, âm nhạc…) để hiểu và lý giải một số quan điểm của các tác phẩm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu khác
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học hiện đại đã được vận
dụng để nhận diện khuynh hướng văn xuôi sinh thái qua điểm nhìn, motif cốt
truyện, nhân vật, giọng điệu.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này giúp xem xét mối
quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống mà cụ thể là những dấu hiệu lặp lại
có tính quy luật của những yếu tố ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố, tính chỉnh
thể sẽ được bộc lộ rõ.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Tổng thuật các nghiên cứu trên thế giới (chủ yếu là Anh-Mỹ) và Việt Nam
về phê bình sinh thái.
- Chứng minh có một khuynh hướng văn xuôi sinh thái sau năm 1975, đặc
biệt là sau năm 1986. Chỉ ra những đặc điểm của văn xuôi sinh thái như là một xu
hướng văn học có tầm quan trọng xã hội thẩm mĩ và chứa đựng những nhân tố cách
tân nghệ thuật.


4
- Khảo sát 2 bình diện của khuynh hướng văn xuôi sinh thái xác lập cho văn

chương đương đại, là 1) cảm hứng phê phán trên tinh thần sinh thái và 2) xác lập
đạo đức sinh thái.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 4 chương
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975
Chương 3: Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn phê bình sinh thái
Chương 4: Kiến lập cảm quan đạo đức sinh thái


5
Chương 1
TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Phê bình sinh thái – Một khuynh hướng mới trong phê bình văn học
1.1.1. Khái niệm phê bình sinh thái
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một
sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình.
Thuật ngữ sinh thái học (ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm
oikos (chỉ nơi sinh sống) và logos (học thuyết, khoa học). Thuật ngữ “sinh thái học”
chỉ thật sự ra đời vào năm 1869 do nhà sinh vật học người Đức Ernst Haecker đưa ra.
Ông là người đầu tiên đặt nền móng cho môn khoa học sinh thái về mối tương quan
về động vật với các thành phần môi trường vô sinh. Trải qua hàng trăm năm phát
triển, sinh thái học đã có rất nhiều định nghĩa nhưng chung nhất vẫn là học thuyết
nghiên cứu về nơi sinh sống của sinh vật, mối tương tác giữa cơ thể sinh vật sống và
môi trường xung quanh. Ngày nay, sinh thái học không chỉ tồn tại trong sinh học mà
nó còn là khoa học của nhiều ngành khác, trong đó có khoa học xã hội và nhân văn.
Với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và văn học, phê bình
sinh thái (ecocriticism), được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ
XX, đã hấp thu tư tưởng cơ bản của sinh thái học vào nghiên cứu văn học “dẫn
nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn học” [89].

Trong các định nghĩa về phê bình sinh thái, định nghĩa của Glotfelty được xem là
ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả:
Nói đơn giản, phê bình sinh thái là nghiên cứu mối quan hệ
giữa văn học và môi trường tự nhiên. Cũng giống như phê bình nữ
quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxit
mang lại ý thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc
văn bản, phê bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là
trung tâm (earth-centered approach) để nghiên cứu văn học [150, xviii].
Để hiểu rõ hơn định nghĩa này, chúng ta cần hiểu quan niệm của phê bình
sinh thái về con người/ tự nhiên, tự nhiên/ văn hóa, những vấn đề làm nên tư tưởng
đặc thù của phê bình sinh thái. Về mặt từ nguyên, tự nhiên (nature) mà gốc Latin
của nó là natura, nghĩa là “đặc điểm thuộc về tự nhiên, vũ trụ” hay natus (sự sinh ra,
được sinh ra)… để phân biệt với thế giới được chế tạo, như các đồ vật được làm bởi
con người. Dẫu vậy, “tự nhiên” đã trở thành một diễn ngôn mơ hồ, luôn biến đổi, nó
là cái tồn tại mặc nhiên từ buổi hoang sơ, nhưng cũng là cái đã bị con người sở hữu
và chiếm hữu theo nhiều cách. “Tự nhiên” do đó đã không còn là nó một cách


6
nguyên thủy, mà các yếu tố cấu thành nó ít nhiều đều bị quy định bởi con người.
Theo sự biến thiên này, cặp từ tự nhiên (nature)/ văn hóa (culture) không còn là sự
đối lập đơn giản mà có sự xuyên thấm lẫn nhau. Thật khó có một thứ gì đó có thể
phân loại rành mạch rõ ràng, nhất là cặp đôi “phiền phức” văn hóa/ tự nhiên. Peter
Barry đã chứng minh bằng cách lấy thí dụ, cái chúng ta gọi là ‘môi trường bên
ngoài’ là một chuỗi các khu vực xâm nhập, sấn chéo lên nhau và dịch chuyển dần
dần từ khu vực tự nhiên sang khu vực văn hóa, theo trật tự như sau:
Khu vực một: cái hoang dã (the wilderness). Thí dụ sa mạc, đại dương,
những lục địa không có người sinh sống.
Khu vực hai: Cảnh trí hiểm trở (the scenic sublime). Thí dụ rừng, hồ, núi,
thác nước…

Khu vực ba: vùng nông thôn (the countryside). Thí dụ đồi, cánh đồng, rừng cây..
Khu vực bốn: cảnh trí nhân tạo quanh nhà (the domestic picturesque). Thí dụ
công viên, vườn, đường…
Khi chúng ta di chuyển (trong suy nghĩ) giữa các khu vực này, rõ ràng chúng ta
đã di chuyển từ khu vực thứ nhất – “thuần túy” tự nhiên sang khu vực thứ tư – phần lớn
là “văn hóa”. Dĩ nhiên, cái hoang dã bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nhà kính – vốn là do văn
hóa tạo ra, và các khu vườn thì tồn tại phụ thuộc vào ánh nắng – vốn thuộc lực lượng tự
nhiên [140, 252]. Do vậy, các nhà phê bình sinh thái sử dụng thuật ngữ human/
nonhuman khi chỉ mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Karen Thornber
giải thích “sử dụng thuật ngữ "nonhuman" (thế giới phi nhân loại) để chỉ sinh học (nghĩa
là, các sinh vật không phải con người) và vô sinh (có nghĩa là để nói, yếu tố vật chất
không sống như không khí, nước và đất). Tôi sử dụng thuật ngữ " human" (nhân loại) để
chỉ con người và công trình xây dựng của con người cả về vật chất và trí tuệ, bao gồm
cả công nghệ” [158]. Phê bình sinh thái khẳng định tầm quan trọng của việc nhấn mạnh
đến mối quan hệ giữa nhân loại (human) và phi-nhân-loại (nonhuman) trong các diễn
ngôn văn hóa. Phê bình sinh thái trở thành một giải pháp khôi phục ý nghĩa và tầm quan
trọng của tự nhiên với con người cũng như khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong việc
định hình và thay đổi các quan niệm về tự nhiên như lời khẳng định của Glotfelty
Toàn bộ phê bình sinh thái chia sẻ những giả thuyết cơ bản mà văn
hóa con người kết nối với tự nhiên, ảnh hưởng tới nó và chịu ảnh hưởng của
nó. Phê bình sinh thái đặt vấn đề quan hệ nối kết giữa tự nhiên và văn hóa,
đặc biệt là sự tạo tác văn hóa của ngôn ngữ và văn học. Như một quan điểm
phê bình, phê bình sinh thái đặt một chân ở văn học và chân kia trên mặt đất,
như là một diễn ngôn lí thuyết, phê bình sinh thái dàn xếp giữa con người
(human) và (thế giới) phi nhân loại (nonhuman) [151, xix].


7
1.1.2. Lịch sử phê bình sinh thái
1.1.2.1. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái

Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu sinh thái cho rằng phê bình sinh thái không có
lịch sử của nó, nghĩa là phong trào này mới phát xuất từ những năm 70 của thế kỉ
XX khi những cảnh báo về sự khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng và
con người ta bắt đầu nhận thấy mặt trái của văn minh kĩ trị đã ảnh hưởng đến môi
trường như thế nào. Tuy nhiên, hành trình đó cũng bắt đầu bằng cách tìm cách trở
về với trái đất nguyên thủy vì sự thực bất kì lí thuyết nào cũng có cội nguồn của nó.
Triết học phương Tây đã manh nha các tư tưởng sau này trở thành tiền đề cho
phê bình sinh thái: tư tưởng sinh thái của Rousseau, Darwin, Heidegger... Nghiên
cứu về phương diện tiến hóa của Darwin đã chứng minh một cách thuyết phục bằng
khoa học, giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng "con người kiểu mẫu muôn loài" có
thể đứng cao hơn tất thảy. Sự thực, nhân loại và các sinh vật khác có cùng nguồn
gốc trên ý nghĩa sinh vật học, do vậy, con người phải ý thức rằng tất cả các sinh vật
đều có quan hệ huyết thống, cần đem sự quan tâm của con người mở rộng đến tất cả
các sinh mệnh khác. Rousseau, một nhà triết học Ánh Sáng cũng đề cao việc tôn
trọng tự nhiên. Ông khẳng định rằng bản chất con người là lương thiện nhưng xã hội
làm cho hư hỏng và bất hạnh vì vậy cần giáo dục con người quay trở về tự nhiên.
Các nhà triết học hiện tượng luận (Hussel, R. Ingarden, Heidegger, Merleau
Ponty…) đi vào thế giới nhân sinh bên trong của con người, quan tâm nhiều đến tri
giác. Họ cho rằng con người cảm nhận thế giới bằng chính cảm giác trực giác của
mình, tất cả các chức năng cao hơn của ý thức như sự hiểu biết, ý chí đều có nguồn
gốc và phụ thuộc vào sự phản ánh của chủ thể, rằng tồn tại thể xác chính là tri giác.
Đặc biệt, phê bình sinh thái ảnh hưởng trực tiếp nhất từ tư tưởng triết học các
trường phái của luân lí học môi trường phương Tây hiện đại: Đại địa luân lí học
(Land Ethics), Tự nhiên giá trị luận (Theory of nature value), Động vật giải phóng
(Animal liberation), Sinh thái học bề sâu (Deep ecology)… - triết lí sinh thái và môi
trường hiện đại tôn trọng sự tồn tại bình đẳng của tạo vật, coi mọi sinh vật trong hệ
thống không có loài nào ở thế ưu trội. Arne Naes, người Na Uy trong tham luận Bề
mặt và bề sâu, khoảng cách của phong trào sinh thái (The Shallow and the Deep,
Long-range Ecology Movement, Inquiry 16, Spring, 1973) phát biểu tại Budapest
bàn về bản chất của triết học và sinh thái, đề ra thuật ngữ Deep Ecology (Sinh thái

học bề sâu) coi tự nhiên và chúng ta cùng một thể. Nguyên tắc cốt lõi của sinh thái
học bề sâu là niềm tin rằng môi trường sống như một chỉnh thể cần được được tôn
trọng. Môi trường sống có những quyền bất khả xâm phạm để sinh sống và phát
triển, độc lập với lợi ích thực dụng của con người. Sinh thái bề sâu cho rằng thế giới
tự nhiên là một sự cân bằng tinh tế của mối quan hệ phức tạp, trong đó sự tồn tại


8
của sinh vật phụ thuộc vào sự tồn tại của những sinh vật khác trong hệ sinh thái.
Can thiệp của con người hoặc phá hủy thế giới tự nhiên đặt ra một mối đe dọa do đó
không chỉ đối với con người mà cho tất cả các sinh vật tạo thành trật tự tự nhiên .
Aldo Leopold (1887 - 1948) được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ sinh
thái của phương Tây cận đại. Niên giám về đất nước sa mạc (A sand country almanac,
1949, Oxford University press, 1966) của Aldo Leopold được coi là tác phẩm kinh
điển, cuốn sách chuẩn mực cho các khóa học văn học Mỹ. Trong đó chương Đại địa
luân lí học (Land Ethics) biểu đạt tư tưởng cốt lõi của ông: con người và đất đai, nước,
thực vật và động vật tồn tại mối quan hệ luân lí. Xét trên lập trường nhân loại, động thực vật khác trên trái đất chỉ là tài sản. Mối quan hệ giữa người và đất đai vẫn thuần là
kinh tế, con người chỉ có quyền lợi mà không có nghĩa vụ đối với đất đai. Thuật ngữ
quan trọng nhất để Aldo Leopold giải thích là “cộng đồng” (Community), ông cho rằng
mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường xã hội, trở thành một bộ phận cùng nương
tựa nhau để tồn tại trong cộng đồng này. Phạm vi đạo đức trước đây giới hạn trong
“cộng đồng nhân loại” (Humman Community), mối quan hệ này chỉ coi trọng quan hệ
con người và con người, con người với xã hội, còn “luân lí môi trường” mở rộng ra
Cộng đồng sinh vật (Biotic Community) bao gồm cả cỏ cây, sông nước, động vật… thế giới của muôn loài. Quan niệm Đại địa luân lí học làm thay đổi vai trò nhân loại
trong văn minh truyền thống phương Tây. Con người, từ kẻ chinh phục, kẻ thao túng tự
nhiên trở thành một thành viên trong đó. Con người phải có sự tôn trọng thích đáng đối
với tất cả các thành viên thuộc giới hữu tình và vô tình, và cùng sinh tồn với các loài
khác hợp thành một cộng đồng rộng lớn, con người có nghĩa vụ trách nhiệm bảo vệ
“cộng đồng sinh vật” được hài hòa, ổn định, và đẹp đẽ “Hành vi mà có thể bảo hộ tính
chỉnh thể, tính ổn định, và vẻ đẹp của Cộng đồng sinh vật là đúng, trái ngược lại với

điều đó là hành vi sai trái” [153, 26].
Những tư tưởng của sinh thái học như: Cộng đồng sinh vật (Biotic
Community), Ý thức sinh thái (Ecological conscience), Đại địa mĩ học (Land aesthetic)
mà Aldo Leopold đề xuất chủ yếu để thay đổi thế giới quan nhân loại trung tâm
(human-centred) trong văn minh truyền thống Kitô giáo phương Tây, phá bỏ sự cách
biệt giữa con người và thiên nhiên để nhận thức Vạn vật bình đẳng. Lương tâm sinh
thái xuất phát từ thái độ con người thay đổi thế giới quan, từ mối quan tâm con người
với con người kéo dài ra đến con người và vạn vật trên trái đất. Chỉ khi con người nhận
thức được loài vô tình hay giới hữu tình trong Đại địa đều là một phần tử của Cộng
đồng sinh vật thì nhân loại mới có thể tôn trọng và bảo vệ chúng được.
Như vậy, đạo đức môi trường đã mở rộng ra từ quyền con người sang quyền của
thiên nhiên. Cuối thế kỉ XX là thời kì khởi phát phong trào bảo vệ sinh thái. Ngoài


9
những phong trào bảo vệ môi trường thực tế, các phong trào xuất phát từ nền tảng tư
tưởng lí luận triết học trong việc chăm sóc sinh thái rất đáng lưu tâm vì thực chất vấn
đề sinh thái mà chúng ta đang đối mặt còn nằm ở văn hóa của chúng ta – cách hành xử
của chúng ta đối với tự nhiên. Bảo vệ sinh mệnh tự nhiên là sự tiến bộ của nhân loại.
Tôn trọng sinh mệnh, yêu quý sinh mệnh không phải là con người ban tặng một cách
khẳng khái cho vật có sinh mệnh khác mà là nhu cầu của sự tiến bộ tự thân nhân loại
“Mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn cho chúng ta, về lâu về dài, nếu chúng ta biết tự nhận diện
chính mình như là những sinh vật tự nhiên mà chúng ta đang dần dần phá hủy – những
cái cây, những dòng sông, đất đai, và ngay cả không khí của chúng ta… Chúng ta chỉ
là một phần nhỏ bé trong toàn bộ hệ sinh thái ấy” [147, 160].
Trở về với tư tưởng văn hóa phương Đông cổ đại là một khuynh hướng quan
trọng của của phê bình sinh thái hiện nay. Nếu như phê bình sinh thái cứ mãi là “lí
thuyết về sự sụp đổ” (Theories of breakdown) [159] thì sẽ dẫn đến bế tắc, nhiều nhà
tư tưởng và triết gia sinh thái đều nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của trí tuệ sinh thái
phương Đông cổ đại để giải quyết được những khó khăn về lý luận. Nhà xuất bản

Đại học Harvard liên tục xuất bản nhiều chuyên luận bàn về giá trị to lớn của tư
tưởng sinh thái phương Đông cổ đại đối với trào lưu văn hóa sinh thái [theo 139].
Rõ ràng, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên được triết học, văn chương
và mĩ thuật bàn đến cách đây hàng nghìn năm. Các nhà tư tưởng Trung Hoa xem con
người mang bản chất của tự nhiên nên con người cần sống hòa hợp với tự nhiên,
sống thuận theo tự nhiên. “Thiên nhân hợp nhất” - tư tưởng Chu Dịch đã trở thành
tiền đề cơ bản trong cách ứng xử, nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương
Đông. Điều đó khẳng định sự thống nhất giữa con người và tự nhiên, con người là
một phần của tự nhiên, giữa con người và tự nhiên có mối liên quan, dung hòa nhau.
Khổng Tử yêu cầu tôn trọng, gìn giữ môi trường, mùa xuân vào rừng không được
đốn cây lớn, bắt cá phải dùng mắt lưới to. Lão Tử cho rằng con người gắn với tự
nhiên, là một bộ phận không tách rời tự nhiên: “Đạo sinh ra một, một sinh ra hai,
hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật”, cho nên mọi vật đều sinh ra từ Đạo, là biểu hiện
của Đạo do vậy “trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một”. Tự nhiên có
trước con người, tồn tại và vận động theo quy luật khách quan, con người theo quy
luật của tự nhiên để hành động cho hợp lẽ “Thiên nhiên và hoạt động tự nhiên, sự
âm thầm diễn ra của các biến cố đời đời kiếp kiếp, sự tuần hoàn của bốn mùa, sự
vận chuyển uy nghi của tinh tú, đó là cái đạo mà ta thấy trong mỗi dòng suối, mỗi
phiến đá, mỗi ngôi sao, đó là cái luật của vũ trụ, vô tư, vô ngã, mà lại hợp lí, và loài
người phải hành động theo luật ấy nếu muốn sống khôn ngoan và yên ổn” [25, 53].
Bởi vậy, người phương Đông thường lựa chọn cách sống hài hòa với tự nhiên để


10
được thanh thản, đủ đầy. Vì con người xa rời Đạo, đánh mất đi sự hồn nhiên chất
phác của mình nên sinh ra loạn lạc, vì vậy con người cần giữ gìn bản chất tự nhiên,
nhu thuận cũng chính là gìn giữ và nuôi dưỡng bản tính trẻ thơ của mình. Thuyết
Đồng tâm cho rằng những áng văn chương hay nhất trong thiên hạ chưa bao giờ lại
không nảy sinh từ trái tim trẻ thơ (Lí Chất).
Trong các sử thi phương Đông, còn có những bài học về sự hòa hợp tự nhiên.

Các anh hùng của người Ấn trong Ramayana, Mahabrahata trước khi lên ngai vàng
trị vì đất nước đều vào sâu trong núi hành hương, học bài học triết lí về nhân sinh
bằng cách tĩnh tâm, hòa mình sống với thiên nhiên. Trước khi trở thành đấng Giác
Ngộ, Đức Phật đã trải qua kiếp sống không chỉ là con người, thần linh mà cả là chim
chóc, muông thú để có thể hiểu về cuộc đời của muôn loài bình thường, với đủ mọi
quan hệ thế tục. Đức vua Trần Nhân Tông sau khi thực hiện xong việc thế sự, xuất
gia vào núi sâu để được trong sạch, giác ngộ tràn đầy. Thiên nhiên, do đó là người
thầy minh triết vĩnh cửu trong tâm thức của người phương Đông.
1.1.2.2. Sự phát triển của phê bình sinh thái
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã tạo ra số của cải vật chất khổng lồ, đưa
đến cho con người nhiều tiện nghi, nhưng nó cũng khiến cho con người “đang đi
trên con đường dẫn đến sự đối đầu trực tiếp với thiên nhiên” [49, 42]. Hiện tại, con
người bắt đầu hiểu ra là cần phải thương yêu và che chở thiên nhiên, nếu không sẽ
phải gánh chịu sự thua thiệt, tuy nhiên, vì lòng tham, vì sự không biết lo xa chúng ta
chưa thực sự có những hành động thiết thực. Trước bối cảnh khủng hoảng môi
trường đó, để thể hiện sự quan tâm đến các vấn đề sinh thái nhằm thức tỉnh nhân
loại trước những nguy cơ đe dọa của khủng hoảng môi trường, những ngành khoa
học nhân văn khác như lịch sử, triết học, luật pháp, xã hội học và tôn giáo đã
“nghiên cứu xanh” (green study) từ những năm 1970. Các nhà sử học kêu gọi “đừng
coi tự nhiên như là sân khấu cho vở diễn của con người, mà là mô ôt diễn viên ngang
hàng trong tấn kịch ấy. Họ tìm thấy nguồn gốc của các mối quan hệ giữa hoàn cảnh
môi trường với các phương thức sản xuất kinh tế và các ý tưởng văn hóa xuyên thời
gian” [151, xxi]; các nhà nhân loại học chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và địa
lí; các nhà tâm lí học thừa nhận sự bất hòa giữa con người và thiên nhiên là nguồn
gốc của các căn bệnh xã hội, bệnh tâm lí “khám phá ra sự nối kết giữa hoàn cảnh
môi trường và sức khỏe tinh thần, một số liên quan đến sự xa rời hiện tại đối với tự
nhiên như căn bệnh cơ bản của tâm lí và xã hội chúng ta” [151, xxi]; thậm chí, các
nhà thần học xác quyết môi trường là một vấn đề của tôn giáo “cố gắng tìm kiếm
các cứ liê ôu trong kinh thánh chứng minh con người đã từng làm chủ trái đất mô ôt
cách khôn ngoan, hợp lý” [151, xxi], họ cũng tìm đến những tôn giáo của người Mỹ



11
bản địa hay các tôn giáo Phương Đông được coi là “hê ô thống tôn giáo chứa đầy các
tín điều sáng suốt về tự nhiên và thế giới tinh thần” [151, xxi].
Trong khi đó văn học được đánh giá là “phản ứng chậm” vì hình như vẫn bỏ
ngỏ mối quan tâm đến môi trường. Những nghiên cứu của văn học thế kỉ XX vẫn là
những mối bận tâm đến con người: phê bình nữ quyền, phê bình phân tâm học, phê
bình Macxit, lí thuyết tiếp nhận… mà bỏ ra ngoài một sự thực: trái đất đang lâm nguy.
Dù vậy, từ những năm bảy mươi của thế kỉ XX có một số nhà nghiên cứu văn học và
văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện sinh thái. Tuy nhiên các
nghiên cứu của họ được coi là những “nghiên cứu trước tác về tự nhiên” (the study of
nature writing) tản mát dưới những tên gọi khác nhau như chủ nghĩa đồng quê, sinh
thái học con người, chủ nghĩa địa phương, khoa học và văn học, tự nhiên trong văn
học, phong cảnh trong văn học... Ngay từ khi xuất hiện, phê bình sinh thái đã không
thuần nhất, bởi vậy, định danh khái niệm cũng là một vấn đề. Nếu như ở Anh người ta
thường sử dụng thuật ngữ “nghiên cứu xanh” (green study) thì ở Mỹ lại thích sử dụng
thuật ngữ “phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ khác cũng thường được sử
dụng như “thi pháp sinh thái” (ecopoetics), “phê bình văn học môi trường”
(environmental literary criticism), hay “nghiên cứu (văn hóa) xanh”
(green(cultural)studies), sáng tác tự nhiên (nature writing), sinh thái học lãng mạn
(Romantic Ecology)… Chúng tôi đồng ý với Cheryll Glotfelty và nhiều học giả khác
về việc thống nhất thuật ngữ ecocritism (phê bình sinh thái) vì nó ngắn gọn và có thể
dễ dàng tạo thành dạng thức khác là ecocritical (tính chất phê bình sinh thái) và
ecocritic (nhà phê bình sinh thái). Hơn nữa, tiền tố “eco-” (sinh thái) hay hơn tiền tố
“enviro-” (môi trường) bởi vì tương tự khoa học sinh thái học, phê bình sinh thái
nghiên cứu mối quan hệ giữa các sự vật, trong trường hợp này, giữa văn hóa và thế giới
tự nhiên. Mặt khác, tiền tố “enviro-” (môi trường) ngụ ý rằng, con người chúng ta là
trung tâm, tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta là môi trường. Ngược lại, tiền tố “eco-”
(sinh thái) ám chỉ các cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, những hệ thống hòa hợp và sự kết

nối mạnh mẽ giữa các bộ phận cấu thành [xem thêm 151, xx].
Khởi nguyên của thuật ngữ ecocritism xuất phát từ cuốn Hài kịch của sự sinh
tồn: nghiên cứu trong sinh thái học văn học (The Comedy of Survival: Studies in
Literary Ecology, 1972), Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học
(literary ecology) ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất
hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá
ra vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của loài người” [151, xx]. Thuật
ngữ ecocriticism có lẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi William Rueckert
trong một khảo luận tên là Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong phê


12
bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism). Phê bình
sinh thái (ecocriticism) theo Rueckert có nghĩa là “việc ứng dụng sinh thái học và các
thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học” [151, 105]. Định nghĩa của Rueckert
có liên quan đặc biệt với khoa học sinh thái học và theo đó đã giới hạn lại thành một
thuật ngữ để chỉ tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên. Do vậy, phê
bình sinh thái không được thừa nhận như một phong trào phê bình rõ rệt.
Tuy nhiên, trong những năm này đã xuất hiện một số tác phẩm quan trọng đối
với lịch sử của phong trào phê bình sinh thái. Công trình của Joseph Mecker là Hài
kịch của sự sinh tồn (The Comedy of Survial, 1974) đã đưa ra vấn đề tranh luận cơ bản:
chính văn hóa phương Tây với nền tảng tư tưởng của thuyết con người là trung tâm đã
khiến cho môi sinh trở nên khủng hoảng. Năm 1985, Frederick Owaage biên tập cuốn
sách mang tên Giảng dạy văn học môi trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng
phát triển (Teaching Environmental Literature: Materials, methods, Resources) bao
gồm nhiều chiều hướng của mười chín nhà nghiên cứu khác nhau. Năm 1989, Alicia
Nitecki viết Bản tin văn học Mĩ về đề tài tự nhiên (The American Nature Writing
Newsletter) mục đích của bà là để công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách và những
thông tin liên quan đến nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trường.
Mãi đến những năm 1990, phê bình sinh thái mới thực sự phát triển. Các hội

nghị khoa học về vấn đề môi trường và văn học được tổ chức hằng năm. Phiên họp
đặc biệt nổi tiếng nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) vào năm
1991 được thành lập bởi Harold Fromm có chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa
nghiên cứu văn học” đã thực sự tạo được tiếng vang và thúc đẩy hướng nghiên cứu
này phát triển mạnh mẽ. Năm 1994, Kroeber cho xuất bản chuyên luận Phê bình
văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần (Ecological
literary criticism; romantic imagining and the Biology of mind, Columbia
University Press, 1994), đề xướng "phê bình văn học sinh thái" (ecological literary
criticism), "Phê bình mang khuynh hướng sinh thái" (ecological oriented criticism).
Năm 1995, Lawrence Buell khoa Anh văn đại học Harvard cho xuất bản chuyên
luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của
văn hóa Mĩ (The Enviromental Ima gination: Thoreau, Nature Writing, and the
Formation of American Culture, Harvard University Press, 1995). Khi nghiên cứu
về Thoreau từ góc độ sinh thái cung cấp cho "văn học xanh" một số chỉ đạo có tính
tổng thể về phương pháp luận và lí luận. Nghiên cứu của ông là một dấu mốc cho
phê bình sinh thái. Một tác phẩm rất quan trọng và có ảnh hưởng trong lĩnh vực này
- đây là cuốn sách phổ biến về phê bình sinh thái.
Tuy nhiên, để nhận thức rõ ràng về phê bình sinh thái phải kể đến người có công


13
phát triển phong trào phê bình sinh thái là Cheryll Glotfelty, đã đồng biên tập với Harold
Fromm một tuyển tập cốt yếu các bài viết có tính định hướng quan trọng là Tuyển tập
Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism
Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, 1996). Năm 1992
bà cũng là nhà sáng lập ra Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường - ASLE (the
Association for the Study of Literature and Environment) . Hiệp hội này trở thành tổ
chức có hàng nghìn thành viên ở Mỹ, sau đó các chi nhánh mới thành lập ở Anh và tiếp
theo là nhiều nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada… Năm 1993 Patrick
Murphy đã xuất bản tạp chí mới, là Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường ISLE (Interdisciplinary Studies in Literature and Environment) để cung cấp một diễn

đàn nghiên cứu phê bình văn học quan tâm tới lí do môi trường.
Phong trào phê bình sinh thái ở Anh và Mĩ có đôi chút khác biệt. Phê bình
sinh thái, hay phê bình xanh của Anh quốc lại được sinh thành từ phong trào Lãng
mạn Anh của thập kỷ chín mươi thế kỷ 18 (1790) hơn là từ phong trào Tiên nghiệm
Mỹ trong thập kỷ bốn mươi thế kỷ 19 (1840). Người tiên phong của phong trào này
là nhà phê bình Jonathan Bate, tác giả cuốn Sinh thái học Lãng mạn: Wordsworth
và Truyền thống (văn học) Môi trường ( Romantic Ecology: Wordsworth and the
Environmental Tradition, Routledge, 1991).Tuyển tập các công trình phê bình sinh
thái đáng chú ý nhất tại Anh là cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ chủ nghĩa lãng
mạn tới phê bình sinh thái (The Green Studies Reader: From Romanticism to
Ecocriticism, Routledge, 2000) do Laurence Coupe biên tập. Nếu như phê bình sinh
thái Mỹ thiên về ca tụng tự nhiên thì phê bình sinh thái Anh lại thiên về cảnh báo về
môi trường,Thành phố và Nông thôn (The Country and the City (Chatto & Windus,
1973) của Raymond William đã thể hiện rõ điều đó
Như vậy, phê bình sinh thái từ những nghiên cứu riêng lẻ, khó nhận diện đã
có một tổ chức riêng thu hút giới nghiên cứu trên trên toàn thế giới, có một tạp chí
riêng của Hội. Đồng thời phong trào này cũng lan ra các trường đại học, một vài
trường đã bắt đầu đưa vào trong các khóa văn học của họ chương trình giảng dạy về
nghiên cứu môi trường; một số học viện về tự nhiên và văn hóa được thành lập; một
số khoa tiếng Anh yêu cầu những chương trình nhỏ về văn học môi trường. Nhờ đó,
phê bình sinh thái đã chính thức trở thành một phong trào nghiên cứu hàn lâm.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả được công bố.
Một trong những dấu mốc chứng tỏ sự phát triển của phê bình sinh thái là sự xuất
hiện trong các cuốn giáo trình giới thiệu các trường phái lí thuyết văn học. Giáo trình
Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa (Beginning Theory: An
Introduction to Literary and Cultural Theory, Manchester University press) tái bản năm


14
2002 do Peter Barry soạn thêm một chương mới là "Phê bình sinh thái" (bản xuất bản

năm 1995 chưa có chương này). Chương sách giới thiệu một khái quát sự ra đời, cách
hiểu hàm nghĩa tự nhiên/văn hóa, thành tựu chủ yếu, nhiệm vụ của phê bình sinh thái, và
thực tiễn phê bình sinh thái. Giới thiệu Phê bình đầu thế kỉ XXI (Introducing Criticism at
the Twenty-First Century, 2002) do Julian Wolfreys biên tập, Chương 7 của tuyển tập
"Phê bình sinh thái" do Kate Rigby viết đã giới thiệu một cách rõ ràng về phê bình sinh
thái: từ việc phê phán những tư tưởng khiến cho tình trạng sinh thái lâm vào khủng
hoảng hiện nay, tìm về các văn bản về tự nhiên để tái cấu trúc lại văn bản, nhìn lại về văn
học lãng mạn; tái cấu trúc tính xã hội và tính sinh thái, khẳng định có một mối liên hệ
giữa các vấn đề tự nhiên và xã hội, gắn với các vấn đề giai cấp, chủng tộc, giới tính; Phê
bình sinh thái cần phải đặt lại nền tảng ngôn ngữ.
Một trong những hướng quan trọng của phê bình sinh thái là nhìn lại những
diễn ngôn lãng mạn về tự nhiên. Gifford Terry phát triển mô hình 3 lớp của kịch:
đồng quê, phản đồng quê và hậu đồng quê để viết về thể loại Đồng quê
(Pastoral (Routledge, the Critical Idiom series, 1999) đả phá vào thể loại đồng quê.
Năm 2000, Bài ca trái đất (The Song of the Earth, Massachusetts, Harvard
University Press) là công trình của nhà phê bình văn học sinh thái nổi tiếng
Jonathan Bate đã ứng dụng nguyên lý phê bình hiện tượng học, chủ nghĩa sinh thái
học lãng mạn của Heidegger, lý thuyết về trạng thái tự nhiên của Jean Jacques
Rousseau để so sánh thơ ca và tiểu thuyết lãng mạn của Jane Austen và Thomas
Hardy, Mary Shelley, William.H.Hudson và Elizabeth Bisho.
Năm 2004, Grey Garrard (đại học Bath Spa, Anh) xuất bản chuyên luận Phê
bình sinh thái (thuật ngữ phê bình mới) (Ecocriticism (The New Critical Idiom) bàn về
diễn ngôn chủ yếu của phê bình sinh thái từ 8 phương diện như ô nhiễm, nơi chốn, điền
viên, hoang dã, tận thế (thảo luận về Kitô giáo), cư trú, động vật, trái đất. Từ cái nhìn
của phê bình sinh thái, tác giả đã chất vấn và khéo léo đưa người đọc qua những cạm
bẫy của lí thuyết, đào sâu vào những tranh luận chính của phê bình sinh thái hôm nay.
Chuyên luận phê bình sinh thái thứ 3 của Lawrence Buell mang tên Tương
lai của phê bình môi trường: khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học (The
Future of Environmental Criticism: Environmental Crisis and Literary Imagination,
2005). Buell đặt phê bình sinh thái vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa và văn học để

khảo sát, chỉ ra một cách rõ ràng "sự chuyển hướng của sinh thái môi trường trong
những nghiên cứu về văn học và văn hóa" (the environment turn in literary and
cultural studies), "diễn ngôn sinh thái của văn học" (literary ecodiscourse) được sử
dụng rộng rãi hơn, hình thành hệ thống toàn cầu hóa hơn, được thảo luận liên ngành


15
nhiều hơn, được cấu thành từ nhiều phương diện hơn.
Một cuốn sách cũng cần được nhắc đến ở đây là Sự mơ hồ sinh thái: Khủng
hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Ecoambiguity: Environmental
Crises and East Asian Literatures, 2012) của Karen Thronber. Mở rộng diện quan
tâm của phê bình sinh thái ra khỏi các nước ngoài phương Tây: Trung Hoa, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, bà đã đưa ra một khái niệm quan trọng "mơ hồ sinh thái"
khi nhận định rằng tình yêu thiên nhiên trong các văn bản văn chương Đông Á ẩn
dấu những ngộ nhận không nhỏ dẫn đến những bất công môi trường.
Phê bình sinh thái đã mở rộng phạm vi tới Shakespear học. Etock (trong
công trình Shakespear ecocritisim) cho rằng phê bình sinh thái không chỉ nghiên
cứu tự nhiên hay hiện hữu tự nhiên trong văn học, mà hơn thế nó là bất cứ nào liên
hệ chặt chẽ đến biến đổi môi trường. Từ đó, mở ra một cách tiếp cận chức năng của
sinh thái học văn hóa (culture ecology).
1.1.3. Phê bình sinh thái - một khuynh hướng nghiên cứu văn học
Phê bình sinh thái với tư cách là một kiểu tiếp cận văn chương mới, khuynh
hướng phê bình văn học ra đời trong bối cảnh giới học thuật phản ứng trước nguy
cơ môi sinh bị hủy hoại do chính con người. Thông qua văn học để thẩm định lại
toàn bộ văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán tư tưởng, chính sách, mô hình xã
hội... đã ảnh hưởng như thế nào đến thái độ đối với tự nhiên, khiến cho môi trường
lâm vào tình trạng suy thoái hiện nay.
1.1.3.1. Phê bình sinh thái trong thời đại khủng hoảng môi trường
Cheryll Glotfelty trong bài giới thiệu “Nghiên cứu văn học trong thời kì khủng
hoảng môi trường” của Tuyển tập Phê bình sinh thái, các mốc quan trọng trong sinh

thái học đã tỏ ra hết sức sốt ruột vì văn học dường như vẫn thờ ơ với những mối bận
tâm về môi trường trong khi hành tinh duy nhất của chúng ta đang lâm nguy:
Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng chủng tộc, giai cấp, và giới tính trở
thành những vấn đề nóng bỏng vào những năm cuối thế kỉ XX. Thế nhưng, bạn
cũng sẽ không bao giờ biết được rằng sự sống của Trái đất - cái nền tảng đang
làm nhiệm vụ chống đỡ tất cả những hệ thống ấy - là cái đang nằm sâu bên dưới
tất cả những giao tranh căng thẳng đó. Thật vậy, có thể bạn sẽ không bao giờ
biết được rằng, dù thế nào, trên tất cả những điều ấy, là chúng ta chỉ có duy nhất
một Trái đất mà thôi [151, xviii].
Nhiệm vụ trọng tâm của phê bình sinh thái là qua văn học thể hiện thái độ
của mình về văn hóa ứng xử của con người đối với tự nhiên, các nhà sinh thái đi tìm
câu trả lời và giải pháp về mặt tư tưởng: văn hóa xã hội quyết định thái độ, hành vi
của của con người đối với tự nhiên. Nhiệm vụ đó được Donald Worster chỉ ra:
Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải đối mặt


16
có nguồn gốc không phải ở bản thân hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hóa
của chúng ta. Muốn vượt qua nguy cơ này, tất yếu phải ra sức lí giải minh bạch
ảnh hưởng của văn hóa của chúng ta đối với tự nhiên. Nhà sử học, nhà phê
bình văn học, nhà nhân loại học, nhà triết học nghiên cứu quan hệ giữa văn
hóa và sinh thái, tuy không thể trực tiếp thúc đẩy cách mạng văn hóa, nhưng lại
có thể giúp chúng ta lí giải, mà sự lí giải này chính là tiền đề của cách mạng
văn hóa [ theo 151, xxi].
Phê bình sinh thái phê phán thuyết con người là trung tâm (Anthropocentrism)
tồn tại trong tư tưởng nhân loại, nhất là từ sau phong trào Khai sáng, cùng với sự hưng
khởi của tư tưởng nhân bản thì nhân sinh quan đã có một sự thay đổi rất lớn. Địa vị con
người trong thế giới cũng được xác lập lại. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên
nghiêng về sự đối lập nhị nguyên. Từ người con của thiên nhiên trở thành chủ nhân của
trái đất. Con người không phải phục tùng, kính sợ tự nhiên nữa mà ngược lại, vạn vật trở

thành sản phẩm tiêu dùng của nhân loại. Do vậy, việc con người chinh phục tự nhiên là
một quyền lợi hiển nhiên. Trong các loài, con người là kiểu mẫu, là sinh vật cao cấp,
bằng trí tuệ và khả năng của mình, con người có thể làm chủ và cải tạo được thế giới.
Văn học từ xưa đến nay ngợi ca bao hình tượng đều là những người khẳng định vị thế
chúa tể muôn loài bằng khát vọng chinh phục tự nhiên. Vậy nên văn học cũng có lỗi
trong việc khiến cho trái đất đang ngày một kiệt quệ. Bởi vậy, sự thay đổi trong suy nghĩ
liên quan đến con người với môi trường cần được đổi thay từ chính văn học, nơi thích
hợp để phản biện lại những thói quen của tư duy. Tư tưởng này vấp phải một rào cản
đã tồn tại một cách thâm căn cố đế trong tư tưởng truyền thống phương Tây coi con
người là tinh hoa “Con người là kiểu mẫu của muôn loài”. Điều này đã được Joseph
Meeker chỉ ra trong công trình Hài kịch của sự sinh tồn: nghiên cứu trong sinh thái học
văn học (The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology), về sau vấn đề này trở
thành cốt yếu của phê bình sinh thái và triết học môi trường: cuộc khủng hoảng môi sinh
chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống văn hóa phương Tây vốn chia tách văn hóa ra khỏi tự
nhiên và dành cho văn hóa thế ưu trội.
Thế kỉ XXI là thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng con người phải đối
mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất nhưng đồng thời đây cũng là thế kỉ sẽ nảy nở
và phát triển các trào lưu sinh thái. Phê bình sinh thái xuất hiện và cảnh tỉnh con
người về sự khai thác quá mức khiến cho Trái đất ngày một kiệt quệ “đẩy sinh
quyển vào tình trạng hiểm nghèo”. Hầu hết tác phẩm phê bình sinh thái đều có
chung một động cơ: “đó là nỗi day dứt rằng chúng ta đã đi tới thời đại môi trường
cạn kiê ôt, mô ôt thời đại mà hâ ôu quả hành đô ông của con người đang tàn phá hành
tinh. Chúng ta đã tới thời đại đó. Hoă ôc là chúng ta phải thay đổi chính mình hoă ôc


17
sẽ phải đối mă ôt với thảm họa toàn cầu. Con người đang tàn phá vẻ đẹp tự nhiên và
đẩy vô vàn sinh vâ ôt đến bên bờ tuyê ôt chủng trong cuô ôc chạy đua điên rồ của chúng
ta tới ngày tâ ôn thế” [151, xxi]. Biến đổi khí hậu, sự khủng hoảng môi trường tự
nhiên, đó là điểm mà phê bình sinh thái bắt đầu để nhắc nhở con người về vị trí của

mình trong sinh quyển. Do vậy, phê bình sinh thái đặt ra những vấn đề trực diện của
khủng hoảng môi sinh: “thảo luận công khai về các vấn đề môi trường, ví dụ như
việc đánh mất sự đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu” [116]
Từ đó, nhấn mạnh trở lại cho chúng ta thấy rằng, tự nhiên vận hành theo những
quy luật riêng của nó, và con người trong sự hữu hạn của mình không thể chống chọi
được “một thực tế là, mặc dù hơn bao giờ hết, bề mặt trái đất gần đây đang càng ngày
càng bị biến đổi nhanh chóng hơn bởi công nghệ kĩ thuật; thì điều ấy cũng không có
nghĩa là những thực thể tự nhiên đã không còn tồn tại. Tất cả những gì con người làm
ra, bao gồm cả việc làm biến đổi phần nhiều là vô ý thức (hay nói đúng hơn là sự tàn
phá) hệ sinh thái trên trái đất cũng vẫn phải phụ thuộc vào những quá trình vật lí tự
nhiên hiện tồn trước đó. Những quá trình ấy vượt hẳn lên trên giới hạn nhận thức cũng
như giới hạn quyền lực của con người. Tất cả loài người, trong khi đó, lại chỉ đơn thuần
tồn tại trong một trạng thái lẫn lộn hỗn độn (mặc dù thường là một cách vô hình) với
cuộc sống vô hạn của thế giới phi nhân” [100]. Tự nhiên luôn nhắc nhở cho con người
thấy “một thứ địa vị thật sự thông qua mỗi trận động đất, mỗi lần núi lửa phun trào,
những ngôi sao chổi vụt qua, cũng như việc không ai có thể dự đoán được một cách
chính xác sự thay đổi bất thường của thời tiết” [100]. Theo cách nói của Bate, Phê bình
sự nóng lên toàn cầu (Global warming criticism) “đưa ra định đề về một thế giới tự
nhiên không còn bị xem là thụ động hay được sắp xếp theo trật tự định sẵn và chỉ biết
phục tùng. Ngược lại, tự nhiên được nhìn như một cái gì bất định, không thể đoán
trước và có sự phản ứng lại trước mọi sự can thiệp của chúng ta, theo cách mà chúng ta
không thể lường trước, cũng không thể kiểm soát được” [141, 439].
Cho dù có lẽ nhiều người sẽ đồng tình với phái phê bình sinh thái học lạc quan
(light Greens) khi tin rằng chúng ta có thể cứu trái đất bằng cách thận trọng hơn trong
cách sản xuất, tiêu dùng. Và thật khó đồng tình với những nhà phê bình sinh thái bi
quan (dark Greens) khi phải thừa nhận loài người chúng ta do bị đầu độc bởi những
thành tựu về khoa học kĩ thuật và công nghệ đã nghĩ rằng con người có khả năng cải
tạo được thế giới. Khoa học kĩ thuật chính là nguyên nhân hủy hoại môi trường do đó
nó không thể nào là giải pháp cho vấn đề môi trường mà bằng cách nào đó con người
phải quay trở lại tự nhiên. Thì một sự thực đang tồn tại: môi trường toàn cầu đang ngày

một tồi tệ đi nhưng chúng ta vẫn chưa có những chính sách mang tính toàn cầu và toàn
diện để thay đổi điều đó. Để giải quyết khủng hoảng con người phải nhìn lại phương


18
thức sống, xem xét lại văn minh văn hóa để đề xuất, đánh giá lại thái độ của mình với
Trái Đất. Điều này dẫn đến cuộc cách mạng thế giới quan của con người mà văn
học phải tham dự vào như một cách đề nghị, như một lời cảnh báo: “hầu hết tác
phẩm phê bình sinh thái chia sẻ một động cơ chung: sự lo lắng về việc chúng ta đã đi
đến giới hạn của thời đại môi trường, thời điểm mà những hậu quả của hành vi con
người đang tàn phá hệ thống sự sống cơ bản của hành tinh” [151, xxii].
1.1.3.2.“Phê bình sinh thái đảo lộn truyền thống phê bình”
Đây là nhận định của Peter Barry, trong tuyển tập giới thiệu những lí thuyết
văn học và văn hóa Nhập môn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa
(Beginning Theory: An Introduction to Literary and Cultural Theory), ở phần đánh
giá của ông về phê bình sinh thái [140, 251]. Đó cũng là cách mà Glotfelty nhận
diện về hướng nghiên cứu này, là phân biệt nó với các phương pháp phê bình khác.
Các nhà phê bình sinh thái cho rằng phê bình văn học trước đây quá chú tâm
vào con người – khai thác tính cách, tâm lí, tình cảm, hành động, nội tâm… mà bỏ
qua mối quan hệ giữa nhân vật và thế giới. Barry phân tích về một tác phẩm của
Edgar Allan Poe Ngôi nhà của Usher và chỉ ra rằng, các nhà nghiên cứu dường như
chỉ quan tâm đến căn bệnh kì quái của nhân vật, khai thác tâm lí nhân vật mà bỏ
quên khung cảnh xung quanh tòa lâu đài - sự tách biệt, nặng nề, “quỷ ám” của nó là
căn nguyên của bệnh trạng nhân vật.
Tôi muốn minh họa bước chuyển biến quan trọng này sự từ chối việc ưu tiên
biểu hiện cái bên trong hơn là cái bên ngoài. Văn bản tôi sử dụng ở đây là truyện ngắn
nổi tiếng của Edgar Allan Poe nhan đề Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher ('The Fall of the
House of Usher'). Trong truyện, Rod-crick Usher và chị anh ta, Madeline, trải nghiệm
một dạng cầm tù tự nguyện trong ngôi nhà cổ, đổ nát, cách biệt với thế giới bên ngoài,
dựng kề một cái hồ trông đầy tội nghiệp, quỷ ám: "một cái hồ đen thẫm và khủng khiếp

nằm lặng yên trong vẻ lộng lẫy điềm tĩnh bên cạnh căn nhà". Người chị mắc phải một
căn bệnh kỳ lạ khiến người dần dần héo mòn, còn bản thân Usher, một kẻ mắc bệnh "lý
tưởng chủ nghĩa, kiêu ngạo", đau buồn bởi "sự nhạy cảm đến mức bệnh tật của các
giác quan"- cái khiến anh ta không thể chịu đựng được bất cứ giao tiếp nào với thế
giới tự nhiên, mùi thơm của những bông hoa trở nên ngột ngạt, mắt của anh ta bị tra
tấn bởi thậm chí chỉ ánh sáng ban ngày mờ nhạt. Mối liên hệ duy nhất của anh ta với
thế giới là thông qua nghệ thuật (...) Ngôi nhà của Usher, do vậy, không phải là một
phần của hệ thống sống; không có nhân tố nào đến từ bên ngoài để tiếp thêm sinh lực
cho nó và nó cũng không thể góp phần cho hệ thống khác; nó là một ánh sáng đã lụi
tàn, một dòng suối đã ngừng trôi. Sự tách biệt kiểu Narciss của nó khỏi dòng chảy
cuộc sống rộng lớn xung quanh đã biến nó thành như một kiểu hố đen. Nó đã trở


19
thành một cơn xoáy lốc nuốt trọn và hủy diệt năng lượng của chính mình(...) Đáng sợ,
Usher là tất cả "văn hóa", không "tự nhiên", anh ta là "kẻ sợ ánh sáng" (nhạy cảm với
ánh sáng) và không thể chịu đựng ánh sáng tự nhiên, thích ánh sáng thể hiện trong
những bức tranh, anh ta không thể chịu đựng âm thanh tự nhiên, chỉ "xử lí âm thanh"
của âm nhạc. Những gì được tưởng tượng ở đây là một hệ thống sinh thái hư hỏng
không thể sửa chữa và trong cái chết đau đớn của nó: đây là cuộc sống trên một hành
tinh lạnh lẽo, là hệ thống tắc nghẽn, cắt lìa những gì thanh lọc và tái sinh. Ở sự đọc
này, trọng tâm của câu chuyện không phải là đêm tối của tâm hồn, mà là những thảm
họa sinh thái cố ý, mùa đông hạt nhân, năng lượng mặt trời hoặc kiệt sức. Đây là một
câu chuyện đáng sợ hơn so với cách đọc thông thường tạo ra, khi kể chuyện chạy khỏi
ngôi nhà bị sụp đổ nhưng không có nơi nào cho anh ta chạy tới cả. [140, 257]
Phê bình sinh thái đã thay đổi một cách cơ bản cách nhìn nhận, tiếp cận đối
tượng. Các phong trào nghiên cứu văn học từ trước đến nay đều lấy “con người làm
trung tâm” (human-centred), còn phê bình sinh thái quan niệm đặt trái đất lên trước hết
(Putting the Earth first). Bởi vậy, phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm (earthcentered approach) để nghiên cứu văn học của phê bình sinh thái đã chỉ trích lí tưởng
đề cao cá nhân, từ đó tạo ra một phản đề đối với tư tưởng đã ăn sâu cắm rễ vào tư duy

nhân loại, để đề xuất quan niệm đề cao tính tương quan giữa cá nhân và môi trường.
Và như vậy phê bình sinh thái cũng mong muốn chấm dứt tình trạng li khai hàng
nghìn năm nay giữa văn hóa và tự nhiên. Chủ nghĩa nhân văn sinh thái do phê bình
sinh thái đề xuất không tách rời thiên nhiên và văn hóa mà nối lại mạch sống ngàn đời
của con người với tự nhiên, coi con người là một phần cộng sinh của tạo hóa.
Don R. Adams phân tích bài thơ Bụi hoa (The Tuft of Flowers) của Robert
Frost để thấy cá nhân trong sự nối kết với con người và môi trường tự nhiên mà
trong đó họ sống và chết đi. Bài thơ nói về một nông dân làm việc ngoài đồng một
mình vào một ngày nọ. Một nông dân khác đã cắt cỏ trên đồng vào buổi sáng sớm,
và tác giả bài thơ đang quan sát người nông dân này vào lúc trễ hơn trong ngày, khi
ông ta đang lật cỏ cho khô dưới ánh mặt trời và cất trong kho cho gia súc ăn vào
mùa đông. Ông thấy công việc thật là cô đơn và đống cỏ đã cắt gợi về cái chết,
khiến ông thấy buồn. Nhưng rồi ông ta phát hiện thấy một "bụi hoa" mà người cắt
cỏ buổi sáng đã không cắt, có lẽ là vì vẻ đẹp của nó. Những bông hoa đã thu hút
một con bướm, và con bướm thì thu hút sự chú ý của người nông dân. Bỗng nhiên,
thay vì cảm thấy buồn và cô đơn, người nông dân thấy gắn kết về phương diện môi
trường với con bướm, bông hoa và người cắt cỏ đã làm việc trước đó và đã để lại
bụi hoa xinh đẹp này cho ông thấy và thưởng thức. Thế rồi ông ấy gởi một lời chúc
đến người nông dân vắng mặt: Con người làm việc cùng nhau/ Tôi nói với ông ấy


20
bằng cả trái tim mình/ Cho dù họ làm việc với nhau hay riêng lẻ [2, 184]. Ý tưởng
về việc con người sống, làm việc và nối kết với nhau qua vẻ đẹp của một bụi hoa là
ý tưởng sâu sắc về mạng lưới sinh thái mà con người và tự nhiên gắn kết với nhau
trong một vòng tuần hoàn bất tận.
Như vậy, phê bình sinh thái thực hiện hai bước thay đổi, thứ nhất, chuyển
hướng trung tâm từ con người ra nghiên cứu bối cảnh xung quanh con người, cái
nền tảng làm môi trường của nhân vật. Điểm thứ hai là từ cái nhìn “sinh thái trung
tâm”, phạm vi thế giới sẽ được mở rộng, không phải chỉ là phạm vi xã hội mà toàn

bộ sinh quyển “Lí thuyết văn học, nhìn chung, nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà
văn, văn bản và thế giới. Trong hầu hết các lí thuyết văn học, “thế giới” đồng nghĩa
với xã hội – phạm vi xã hội. Phê bình sinh thái mở rộng khái niệm “thế giới”
bao gồm toàn bộ sinh quyển” [151, xvii].
1.1.3.3. Các hướng nghiên cứu sinh thái cụ thể
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng thực chất, hiện tại phê bình sinh thái đang
trong trạng thái “trăm hoa đua nở” [Theo 139], “rộng, mơ hồ, nhiều hàm ý, mở”
[151, xxii ] hơn là đang được đúc kết vững vàng. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể khái
quát những hướng cơ bản của phê bình sinh thái.
Thời kì đầu, phê bình sinh thái dựa vào lý thuyết sinh thái học bề sâu (deep
ecology), thường đi theo cách tiếp cận sinh học trung tâm luận (biocentric) xem xét
tự nhiên được mô tả như thế nào trong văn học. Họ tìm đến các mẫu lặp đi lặp lại
trong văn chương về cái hoang dã, tự nhiên trong thơ trữ tình, vai trò của bối cảnh
tự nhiên trong cốt truyện, nhà văn nam và nhà văn nữ viết về tự nhiên như thế nào.
Đồng thời, phê bình sinh thái cũng khôi phục lại các thể loại viết về tự nhiên đã bị
bỏ quên, như thể loại phi hư cấu viết về tự nhiên (nonfictional natural writing) như
Lịch sử tự nhiên của Selbourne (A Nature History of Sebourne) do Gilbert White
viết năm 1789; nghiên cứu các xu hướng thể loại, nhận dạng các tác giả mà tác
phẩm của họ thể hiện ý thức sinh thái. Ở đây, phê bình sinh thái cũng xem xét lại
các thể loại viết về tự nhiên như văn học đồng quê, văn học lãng mạn…
Tiếp theo, thế kỉ XXI, phê bình sinh thái theo quan điểm nhân chủng học, đặt
bình diện xã hội làm trung tâm “tái kết nối tính xã hội và tính sinh thái”. Xu hướng
tìm kiếm và khai thác các sáng tác mang chủ đề thiên nhiên hoặc có sự tập trung
mạnh mẽ vào thiên nhiên như mục ca lãng mạn (romantic pastoral) dần chuyển sang
phê bình sinh thái – xã hội (eco-social); chuyển hướng nghiên cứu về thành phố,
công nghiệp hóa và môi trường, cùng những vấn đề liên đới như sắc tộc, bản địa,
hậu thực dân, cộng đồng lưu vong, sinh thái nữ quyền, di sản văn hóa và môi
trường, nhiễm độc môi trường, sự tưởng tượng văn chương về các mối quan hệ giữa
con người và thú vật… Có thể nói, phê bình sinh thái là sự giao cắt với chính trị, nó



21
nhanh chóng kết hợp với các vấn đề xã hội, toàn cầu hóa, và tính thời sự hiện nay:
hậu thực dân, hậu hiện đại, giới, tính dục... Do vậy, kiểu phê bình này không đơn
giản, “trong trẻo” mà kì thực rất nhạy cảm.
Tính đến nay, theo tổng kết của Karen Thornber, cả hai khuynh hướng phê
bình sinh thái này đã tạo được những đột phá quan trọng, trong đó có cả việc chúng
đã phát hiện lại tầm quan trọng của những thể loại và thể tài văn chương gần như bị
quên lãng như các sáng tác về đề tài thiên nhiên, các tự sự về tình trạng bị nhiễm
độc của môi trường và con người, thơ ca và kịch sinh thái (ecopoetry/ ecodrama) –
những thể tài quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh
họ. Phê bình sinh thái cũng diễn dịch lại sự cấu thành các hệ đề tài liên quan đến
môi trường như đề tài mục ca, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc gắn với môi trường, tư
tưởng tận thế gắn với môi trường (ecoapocalypticism). Đồng thời nó cũng phát hiện
những nội dung “ngầm” về môi trường trong một loạt các văn bản nghệ thuật. Gần
đây nhất, phê bình sinh thái đã chú ý đến những thể loại và hình thức truyền thông
đa dạng khác ngoài văn bản viết, gồm cả truyện tranh, phim hoạt hình, mỹ thuật
sinh học (bioart), kiến trúc xanh, các nguồn dữ liệu kỹ thuật số – điều này đã làm
thay đổi cách các học giả nghĩ về nội dung của phê bình sinh thái [Theo 117].
Đúng như Chellry Glofelty đã dự đoán từ năm 1996, phê bình sinh thái đã
trở thành một khuynh hướng nghiên cứu “liên ngành, đa văn hóa và mang tính quốc
tế” [151, 25]. Tương lai của phê bình sinh thái gắn với toàn cầu hóa. Do vậy, trước
hết phê bình sinh thái bắt đầu rời địa hạt trung tâm, tìm đến những văn bản ngoài
Âu Mĩ để khai mở những tiềm năng lý thuyết mới của phê bình sinh thái. Khi tìm
hiểu các văn bản ngoài phương Tây, các nhà phê bình sinh thái đã phát hiện ra diễn
ngôn mơ hồ trong tình yêu thiên nhiên của các văn bản Đông Á (Karen Thornber).
Nhưng mặt khác, trở về các diễn ngôn phương Đông, phê bình sinh thái kết nối với
các tư tưởng triết học sinh thái môi trường hiện đại để đề xuất một xách ứng xử mới
với tự nhiên, tìm về các tư tưởng văn hóa phương Đông (Nho giáo, Đạo giáo, Phật
giáo) để tái thiết sinh thái [139].

Xuất phát từ bối cảnh toàn cầu hóa, phê bình sinh thái đề xuất những khái
niệm mà như Patrick Murphy kêu gọi “lí thuyết phê bình sinh thái xuyên quốc gia”.
Từ nhận thức ấy, các nhà phê bình sinh thái kêu gọi “ý thức hành tinh” (planetary
conciousness) trong việc nhìn nhận các vấn đề môi trường, Ursula Heise đã đặt ra
thuật ngữ “chủ nghĩa thế giới sinh thái” (ecocosmopolitan). Các nhà sinh thái cũng
muốn có “mạng lưới đề tài”, dựa vào cơ sở một đề tài, so sánh xuyên quốc gia,
xuyên thể loại (tham chiếu ở văn bản văn chương và văn bản phi văn chương).
Những nỗ lực đó có hạt nhân hợp lí ở chỗ vấn đề biến đổi khí hậu không phải là vấn


22
đề của riêng mỗi quốc gia dân tộc. Hơn nữa, chính ý niệm hiện tại về vùng lãnh thổ
lại đang là rào cản cho vấn đề giải quyết khủng hoảng sinh thái toàn cầu. Kate
Rigby cho rằng “Một chiến lược khác để mở rộng từ địa phương ra toàn cầu tái khái
niệm nơi chốn như một nốt trong mạng lưới toàn cầu (…) từ điểm nhìn này sự quan
sát những hiện tượng địa phương như là sự di trú của chim hay những biểu hiện của
quá trình biến đổi khí hậu trở thành một điểm bắt đầu để tìm hiểu và liên cảm với
các quá trình sinh thái toàn cầu. Tương tự như vậy, những cảm quan và trải nghiệm
về hiểm họa môi trường xuyên biên giới nổi lên như một bản lề kết nối các kiểu cư
trú địa phương với các kiểu cư trú xuyên quốc gia” [116].
Phê bình sinh thái không hề có một khuôn khổ đông cứng về đối tượng,
phương pháp cũng như các vấn đề chính, mà nó càng ngày càng mở rộng và phức
tạp tuy vậy, sứ mệnh của nó là bất biến: việc phát triển hướng nghiên cứu sinh thái
đưa ra những đề xuất mà dựa vào đó có thể thay đổi thái độ của nhân loại với tự
nhiên thông qua hệ thống lí thuyết của nó.
1.2. Lịch sử phê bình mối quan hệ con người với tự nhiên trong văn học
Việt Nam
1.2.1.Các công trình nghiên cứu
Trước khi xuất hiện phê bình sinh thái, vấn đề con người trong mối quan hệ
với tự nhiên đã được nghiên cứu. Trong lịch sử, con người đã trải qua nhiều cảm thức

trong mối quan hệ với tự nhiên. Cảm thức kính sợ tôn sùng tự nhiên trong văn học cổ
đại (thần thoại, sử thi). Trong văn học dân gian, mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên biểu hiện ở những công trình nghiên cứu về các loài vật, cây cỏ… như nghiên
cứu biểu tượng con cò, con rùa, hoa nhài… trong Thi pháp ca dao (Nguyễn Xuân
Kính), Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền Người Việt (Đỗ Thị Hòa), …
Trong văn học trung đại, đó là cảm thức hòa điệu: sự ca tụng thiên nhiên,
xem thiên nhiên là nơi lánh trú của tâm hồn, lí tưởng hóa sự tương tác giữa con
người và môi trường (thơ sơn thủy, điền viên, thơ Haiku, thể loại mục ca…). Các
nghiên cứu về con người trong mối quan hệ với thiên nhiên được các tác giả quan
tâm như thiên nhiên trong thơ trong thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… ở các công trình như Phong cách
Nguyễn Du trong truyện Kiều (Phan Ngọc), Thi pháp Truyện Kiều (Trần Đình Sử),
Người mở đầu cho thi học Thiền gia (Phương Lựu), Tư tưởng sùng thượng thiên
nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (Lê Nguyên Cẩn), Thơ đăng lãm của Nguyễn Du
cuộc hoàn nguyên và đối thoại siêu việt thời gian (Qua một số tác phẩm Bắc hành
tạp lục và Đường thi) (Phạm Ánh Sao), Thơ đề vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức
Quốc âm thi tập (Trần Quốc Dũng), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến (Biện


×