Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TIỂU LUẬN QUAN điểm TRIẾT học mác lê NIN về NGUYÊN tắc THỐNG NHẤT GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN và vận DỤNG của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.59 KB, 35 trang )

3

MỞ ĐẦU

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản nhất của triết học Mác - Lênin. Đây là nguyên tắc được thể hiện trong
mọi mặt của đời sống, giúp con người tránh khỏi bệnh kinh nghiệm giáo
điều, đồng thời có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của thực tiễn cũng
như lý luận.
Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận
của mình, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn vận dụng triệt để nguyên lý
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong toàn bộ quá trình của cách mạng
Việt Nam. Thời kỳ đổi mới đặt ra những thay đổi cơ bản về cả lý luận và thực
tiễn trong đường lối lãnh đạo của Đảng cũng như trong sự phát triển mọi mặt
của đời sống xã hội. Thực tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần về cơ bản đã đặt ra những thay đổi to lớn về
kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải có sự thay đổi về nhận thức cho phù hợp. Yêu
cầu đặt ra là cần phải vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn để lý luận không chỉ phản ánh chân thực đúng đắn thực
tiễn mà còn có vai trò tác động tới thực tiễn, định hướng cho thực tiễn vận
động theo đúng đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi
mới. Giải quyết vấn đề này mang ý nghĩa hết sức cấp thiết và quan trọng, bởi
vận dụng nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn luôn là một quá trình
lâu dài, đòi hỏi sự sáng tạo linh hoạt và cần luôn được điều chỉnh để duy trì
được sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy, em chọn vấn đề: “Quan điểm triết học Mác - Lênin về
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa phương pháp luận
và sự vận dụng của Đảng ta” làm bài thu hoạch 4a môn học “Chủ nghĩa duy
vật biện chứng - lý luận và vận dụng”.



4

NỘI DUNG

I. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Phạm trù lý luận
Phạm trù lý luận là phạm trù mang tính trừu tượng, vì vậy từ trước đến
nay, đã có rất nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về lý luận. Xuất hiện
ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới ra đời, lúc đầu lý luận được hiểu là
những tri thức thuần túy. Trải qua quá trình nhận thức lâu dài cùng với sự
xuất hiện của các ngành khoa học thì tri thức lý luận hình thành và ngày càng
mang tính khái quát trừu tượng hóa cao.
Theo “Từ điển triết học”: “Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát
trong ý thức của con người, là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ
thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của
khái niệm cái lôgíc khách quan của sự vật” 1. Nói cách khác, lý luận là hệ
thống những tri thức được hệ thống hóa, khái quát hóa từ những tài liệu của
thực tiễn, kinh nghiệm lịch sử phản ánh mối liên hệ bản chất những quy luật
của thế giới khách quan cũng như sự phát triển của tư duy con người. Chính
vì thế mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong quá trình lịch sử”2.
Như vậy, để hình thành lý luận, con người phải trải qua quá trình nhận
thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp
lại, diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là
tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông
thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường
được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người. Nó
giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình

1

Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1986, tr.242-243.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.497.

2


5

tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá
trình thực nghiệm khoa học. Nó đòi hỏi chủ thể phải tích luỹ một lượng tri thức
nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể
hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp
các nhà khoa học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của
tri thức nhưng ở trình độ thấp. Thế nhưng nó là cơ sở hình thành lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao nhất của nhận thức, của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong bộ não con người. Cho nên, bản chất của lý luận là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Nhận thức là cả một quá trình biện chứng từ chưa biết đến biết, từ biết ít
đến biết nhiều, từ nông cạn đến sâu sắc, từ hiện tượng đến bản chất … Đúng
như V.I.Lênin nhận xét: “Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các
lĩnh vực khác của khoa học cần suy luận một cách biện chứng nghĩa là đừng
giả định rằng nhận thức chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn mà phải phân
tích xem xét sự hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không
chính xác trở thành đầy đủ và chính xác hơn như thế nào”3.
Như vậy có thể thấy, nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra rất
phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ, vòng khâu và hình thức khác
nhau. Tuỳ theo tính chất nghiên cứu mà quá trình đó được phân chia thành
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện ở ba hình thức cơ bản là cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc
của mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng
thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật, hiện
tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác.
3

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb, Tiến bộ Mátxcơva, 1981, tr.117.


6

Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật, hiện tượng vào các
giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích bên ngoài thành
yếu tố của ý thức. Theo V.I.Lênin “cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”4. Cảm giác mới nhận thức từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật,
hiện tượng. Muốn hiểu bản chất của sự vật hiện tượng thì phải nắm được một
cách tương đối toàn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó. Nhận thức
chuyển sang tri giác.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác, nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh
hơn về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp các cảm
giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính,
nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn. Tuy
nhiên, nhận thức ở cấp độ tri giác cũng chỉ cho chúng ta biết về hình ảnh chủ
quan và tương đối toàn diện về đối tượng. Trong khi đó nhận thức không phải
lúc nào cũng đòi hỏi các sự vật xuất hiện trước các giác quan, mà nhiều khi nó
xuất hiện một lần rồi biến mất, nhưng con người vẫn phải nhận thức nó. Như
vậy ở đây xuất hiện một mâu thuẫn mới sự vật, hiện tượng có trong thực tế

với thực tế sự vật không hiện có trước các giác quan của con người. Khi giải
quyết mâu thuẫn này nhận thức chuyển sang cấp độ cao hơn là biểu tượng.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ, sự tiếp xúc
trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại cho chúng ta những ấn tượng, những
hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến
mức có thể hiện lên trong kí ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở
trước mắt. Đó chính là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những
nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó.
Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động kích thích đến trí
nhớ con người. Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng, sự
tưởng tượng đã mang tính chủ động sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò to lớn
4

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb, Tiến bộ Mátxcơva, 1981, tr.138.


7

trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật. Biểu tượng tuy vẫn
còn mang tính chất cụ thể sinh động của nhận thức cảm tính, song bắt đầu
mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức
trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý
tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ
phát triển cao hơn, đó là nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính hay còn gọi là tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp
theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở
nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con
ngưòi sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu
được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị hàng hoá, quan hệ giai cấp,
hình thái kinh tế xã hội… Muốn hiểu được cái đó phải nhờ đến sức mạnh

của tư duy trừu tượng.
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát gián tiếp hiện thực khách
quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ, ngôn
ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy. Tư duy có tính chất năng động sáng tạo, nó
có thể phản ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên bên trong của sự vật, do đó
phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Nhận thức lý tính được thể hiện ở
ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niện là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những
mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật
hiện tượng nào đó. Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa
học. Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là
những phương tiện để con người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri
thức với nhau.
Khái niệm có tính chất khách quan bởi nó phản ánh những mối liên hệ,
những thuộc tính khách quan của sự vật hiện tượng trong thế giới. Vì vậy khi
vận dụng khái niệm phải chú ý tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm


8

một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện. Như V.I.Lênin
nhận xét: “những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng
của chúng, trong sự tách rời của chúng nhưng là khách quan trong chỉnh thể,
trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”5.
Chúng ta cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của chúng khi
vận dụng khái niệm. Phải mài sắc gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung những
nội dung mới cho các khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ bằng khái
niệm mới để phản ánh hiện thực mới phù hợp với thực tiễn mới.
Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng liên kết các khái
niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của

hiện thực khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm.
Phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng trong ý thức của con người.
Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm
tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự quan hệ và
phụ thuộc lẫn nhau. Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các
mệnh đề theo những quy tắc trong những văn phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng, trong đó, xuất phát từ một
hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói
cách khác suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán
tiền đề. Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm thì suy lý là sự
liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu
tượng thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận
thức những cái chưa biết một cách gián tiếp. Có thể nói, toàn bộ các khoa học
được xây dựng trên hệ thống suy lý và nhờ suy lý mà con người ngày càng
nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Tuy nhiên để phản
ánh đúng hiện thực khách quan trong quá trình suy lý phải xuất phát từ những
tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lôgíc. Do đó nếu những tiền đề
5

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb, Tiến bộ Mátxcơva, 1981, tr.223.


9

của chúng ta là đúng và nếu chúng ta vận dụng một cách chính xác những quy
luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì kết quả phải phù hợp với hiện thực.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế
giới khách quan, lý luận được hình thành không phải nằm ngoài thực tiễn mà
trong mối liên hệ với thực tiễn.

Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ
bản là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chúc năng phương pháp
luận cho hoạt động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng
những quy luật chung nhất. Tri thức kinh nghiệm cũng như tri thức lý luận
đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những phạm vi lĩnh vực và trình
độ khác nhau. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp
luận nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan bằng hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, lý luận là một công cụ tư tưởng sắc bén có vai trò rất to lớn
đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với sự định hướng về nhận thức.
Lý luận giúp cho con người thấy được những ưu điểm và hạn chế trong việc
biến đổi những quá trình đối tượng hoá khách thể. Tự nhiên luôn cần đến
những bàn tay con người, và cũng chính tự nhiên quyết định cho con người
những trình tự tất yếu để trong quá trình tồn tại, con người tự bổ sung, hoàn
thiện cách thức cải tạo tự nhiên. Lý luận luôn đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo ra sự liên kết gắn bó giữa chủ thể tự nhiên và chủ thể nhận thức. Lý
luận cũng có quá trình hình thành và phát triển của nó, không phải lý luận có
khi con người xuất hiện, mà con người phải phát triển đến một giai đoạn
nhất định nào đó lý luận mới được xuất hiện. Lý luận không phải sinh ra vốn
đã hoàn thiện mà nó được bổ sung và hoàn thiện dần dần theo tiến trình phát
triển của lịch sử xã hội. Hay nói cách khác, lý luận mang tính lịch sử xã hội,
có những lý luận đúng ở quá khứ nhưng ở hiện tại và tương lai nó không còn
phù hợp nữa.


10

1.2. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là một trong những vấn đề trung tâm của triết học. Từ xưa các
nhà triết học duy vật trước Mác đã tìm hiểu đời sống hiện thực của con người,
đã cố gắng tìm kiếm phương pháp để giải thoát con người thoát khỏi kiếp

“trần ai khổ cực”. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót,
trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy đựơc vai trò của hoạt động thực tiễn
đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan.
Chính vì vậy, C.Mác đã đánh giá: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ
nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc - là sự
vật hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác
của con người, là thực tiễn”6.
Ph.Bêcơn (1561 - 1626) nhà triết học duy vật Anh, người đặt nền
móng cho sự phát triển của chủ nghĩa duy vật siêu hình thể kỷ XVII XVIII, khi đề cao vai trò của tri thức ông đã nhấn mạnh nhiệm vụ của triết
học là tìm ra con đường nhận thức giới tự nhiên. Theo ông, quá trình nhận
thức phải kiên quyết chống chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa kinh viện.
Nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm xuất phát từ giới
tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân quả, phát hiện và kiểm
tra chân lý. Có thể nói Bêcơn là nhà triết học đầu tiên thấy được vai trò của
thực tiễn, của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong quá
trình hình thành tri thức.
Đến Phoiơbắc (1804 - 1872), nhà triết học duy vật Đức thế kỉ XIX đã đề
cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật
chất cảm tính, có tính năng động như con người. Do đó, ông đã coi thường
hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì có tính chất con buôn bẩn thỉu,
ông không thấy được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với nhận thức và cải
6

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.9.


11

tạo thế giới. Đối với ông chỉ có hoạt động lý luận mới quan trọng, mới là hoạt

động đích thực của con người.
Các nhà triết học duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sang tạo
trong hoạt động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tướng,
thái quá. Chẳng hạn Hêgghen (1770 - 1831), nhà triết học duy tâm Đức cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, ông cho rằng chủ thể tự “ nhân đôi” mình, đối
tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài, nhưng ông chỉ
giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với ông thực tiễn là
một suy lý lôgíc. Như vậy quan niệm của ông cũng chỉ hiểu thực tiễn là hoạt
động tinh thần chứ không phải là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm
tính của con người.
Dựa vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên
nói riêng, cùng với việc kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố hợp lý
trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước và khắc phục
những yếu tố sai lầm của những quan niệm cũ về thực tiễn, cùng với những
hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận thức
luận. Không những thế, cả lý luận và thực tiễn đều được các ông nâng lên
trình độ mới: Thực tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn
bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với
việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong
nhận thức luận nói riêng. V.I.Lênin nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống,
về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”7.
Theo quan điểm của triết học mácxít: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
7

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.167.



12

Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh
thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động
mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng vật chất nhất
định nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người. Con người sử dụng các
phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và mức độ khác
nhau tuỳ thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực
tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá
nhân và cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động sáng tạo, là hoạt
động được đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật
chất. Bởi hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể
trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức
khách thể. Vì vậy thực tiễn là khâu trung gian nối liền ý thức con người với
thế giới bên ngoài. Như vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của
con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một
cách thụ động với thế giới bên ngoài thì con người nhờ vào thực tiễn như là
hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình để cải tạo thế giới nhằm thoả
mãn nhu cầu mình thích nghi một cách chủ động tích cực với thế giới và làm
chủ thế giới. Để thoả mãn nhu cầu của mình con người phải tiến hành sản
xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình và nhờ đó con người tạo nên những
vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Như vậy, không có hoạt động thưc
tiễn con người và xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy có thể nói:
Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương
thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới. Mỗi hoạt
động của con người đều mang tính lịch sử cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai
đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình hình thành phát triển và kết thúc hoặc
chuyển hoá sang giai đoạn khác, không có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh



13

viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử
cả về đối tuợng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.
Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng nhóm
người nhưng hoạt động thực tiễn của từng cá nhân, từng nhóm người lại
không thể tách rời quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục đích, đối tượng
phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó hoạt động thực
tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng đồng,
vì cộng đồng và do cộng đồng.
Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu đã có nhận thức, đã
có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối
tượng…, đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục đích
của hoạt động thực tiễn là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của cá
nhân và xã hội. Mỗi hoạt động đều có mục đích khác nhau để giải quyết nhu
cầu cụ thể, không có hoạt động nào không có mục đích, mặc dù kết quả của
hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng diễn ra phù hợp với mục đích
của con người.
Hoạt động thực tiễn rất phong phú đa dạng, song có thể chia làm ba hình
thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp của con người tác
động vào giới tự nhiên, cải tạo tự nhiên bằng các công cụ vật chất nhằm tạo ra
của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phái triển của con người và của xã
hội. Vì vậy hoạt động sản xuất vật chất được xem là động lực phát triển của
xã hội biến đổi con người theo trạng thái phát triển tích cực về mặt thể chất
lẫn tinh thần. Bởi thông qua lao động con người mới phát huy hết tiềm năng
của mình. Ph.Ăngghen đã viết: “Trước hết là lao động và đồng thời với lao

động là ngôn ngữ; đó là hai thứ có sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến
bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của


14

con người”8. Sự phát triển của xã hội càng cao thì cách thức con người sáng
tạo ra công cụ lao đông ngày càng tinh vi, hiệu quả hơn, góp phần vào việc
tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng, mẫu
mã được nâng lên. Như vậy tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
V.I.Lênin khẳng định: “Việc anh ta sống anh ta hoạt động kinh tế, anh ta
sinh đẻ con cái và anh ta chế tạo ra các sản phẩm, làm nảy sinh một chuỗi tất
yếu khách quan gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc
vào ý thức xã hội của anh ta và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn
vẹn các chuỗi đó”9.
Đồng thời sản xuất vật chất là cơ sở hình thành xã hội và các thiết chế xã
hội khác nhau. Tất cả quan điểm về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ
thuật tôn giáo… các quan hệ xã hội như gia đình, chủng tộc, dân tộc, quốc tế
và các thiết chế xã hội như tòa án, nhà thờ… Đều được hình thành và phát
triển trên cơ sở sản xuất vật chất. Bên cạnh đó sản xuất vật chất còn là cơ sở
cho tiến bộ xã hội.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người nhằm cải tạo,
biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội, như đấu tranh
giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới vì
sự tiến bộ xã hội loài người, đấu tranh chống ô nhiễm môi trường bảo vệ cân
bằng sinh thái, đấu tranh chống các thảm họa do các dịch bệnh gây ra.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các ngành khoa học
tác động làm cải biến những đối tượng nhất định trong một điều kiện nhất
định, theo một mục đích nghiên cứu nhất định, đây là dạng đặc biệt của hoạt
động thực tiễn bởi vì nó được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo nhằm

tạo những luận cứ khoa học và để phục vụ cho hoạt động nhận thức và hoạt
động làm biến đổi giới tự nhiên, xã hội của con người.
8

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.646.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 4, Nxb, Tiến bộ Mátxcơva, 1977, tr.403.

9


15

Ngoài các hoạt động thực tiễn cơ bản nêu trên, còn có các hoạt động phát
sinh trong các lĩnh vực đạo đức, nghệ thuật, y tế, giáo dục,… các loại hoạt
động này nảy sinh trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, có
tác dụng bổ sung làm phong phú thêm những dạng hoạt động thực tiễn của
con người.
Như vậy mỗi hình thức hoạt động cơ bản có một chức năng quan trọng
khác nhau, không thể thay thế được cho nhau. Song giữa chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó hoạt động sản xuất vật chất là
hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.
Bởi vì nó là hoạt động nguyên thuỷ nhất, tồn tại một cách khách quan, thường
xuyên nhất trong cuộc sống của con người và nó tạo ra những điều kiện, của
cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh tồn và phát triển của con người
và xã hội. Nếu không có hoạt động sản xuất vật chất thì không thể có các hình
thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy cho cùng cũng xuất
phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt động sản xuất vật
chất của con người. Nhưng như vậy không có nghĩa là các hình thức hoạt
động chính trị xã hội và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động lệ thuộc
một chiều vào hoạt động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có thể tác động

kìm hãm hoặc thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất phát triển. Chẳng hạn nếu
hoạt động chính trị - xã hội mang tính chất tiến bộ cách mạng và nếu hoạt
động thực nghiệm khoa học mà đúng đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất vật
chất phát triển. Còn nếu hoạt động chính trị - xã hội mà lạc hậu phản cách
mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà sai lầm không khoa học sẽ kìm hãm
sự phát triển của sản xuất vật chất.
Tóm lại, hoạt động thực tiễn là một phạm trù không thể thiếu đối với
nhận thức khoa học, với quá trình hoạt động trong lĩnh vực lý luận, nghiên
cứu lý luận cần phải hiểu rõ và nắm chắc được tính đúng đắn của thực tiễn đó
là yêư tố góp phần làm nên thành công trong công việc của mỗi người.


16

1.3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản
của triết học Mác - Lênin nói chung và lý luận nhận thức mác xít nói riêng.
Quán triệt mối quan hệ đó có ý nghĩa qua trọng đối với nhận thức khoa học và
hoạt động thực tiễn cách mạng.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa con
người và thế giới khách quan. Con người luôn tác động tích cực vào thế giới
khách quan, tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực tiễn.
Trong quá trình đó sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi thế giới
khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và cộng đồng.
Giữa lý luận và thực tiễn giường như hai mặt tương đối độc lập với nhau
nhưng lại có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó
thực tiễn luôn luôn giữ vai trò quyết định. Để khẳng định vấn đề này
V.I.Lênin đã nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) vì nó có
ưu điểm không những có tính phổ biến mà của cả tính hiện thực trực tiếp”10.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đựơc thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của
con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như
thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các
yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Qúa
trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận
đã đựơc khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh
những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông
qua đó, lý luận được bổ sung, mở rộng.
10

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.230.


17

Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là
nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm
phương pháp cho hoạt động. Thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng
kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Quá trình
đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động con người không
bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn đã thúc đẩy
một ngành khoa học mới ra đời - khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người,
nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con

người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thoả mãn nhu
cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên
những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi trong tự nhiên
và xã hội theo mục đích của con người, đó thực chất là mục đích của lý luận.
Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận
chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn
của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm.
Chính vì thế mà C.Mác nói: “Vấn đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt
đến chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là
một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý…”11. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ
sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn
11

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.10.


18

thì tiếp tục điều chỉnh bổ sung hoặc nhận thức lại giá trị của lý luận nhất thiết
phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn.
Tuy thực tiễn là tiêu chẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi
thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý
luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là
thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và chuyển hoá. Đó
là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác
nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của

thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản
ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà
V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu
lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng lôgíc. Những
hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công
lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần ấy12.
Quá trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy rõ
điều đó. Sau khi giành được chính quyền, những người vô sản tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hôi với cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp thông qua
hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình thức sở
hữu đó là hai hình thức kinh tế quốc doanh và tập thể. Thời kì đầu chủ nghĩa
xã hội đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từ đây chúng ta cho rằng cơ chế
đó, hai thành phần kinh tế đó và những lý luận ra đời trên nền tảng ấy vừa
khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định lý luận xây
dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn khoa học. Khủng hoảng của chủ nghĩa xã
hội từ những năm 70 của thế kỷ XX dẫn đến sụp đổ một loạt nước xã hội chủ
nghĩa vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ đó chứng tỏ thực
tiễn của chủ nghĩa xã hội chưa bộc lộ hết, chưa phát triển toàn vẹn nên lý luận
chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan.
12

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.234.


19

Tuy xét đến cùng thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận,
nhưng vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời thực tiễn cũng rất
phong phú và đa dạng, do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những
tiêu chuẩn khác như tiêu chuẩn lôgíc, tiêu chuẩn giá trị… Song các tiêu chuẩn

đó vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy chúng ta có thể nói khái
quát thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự
hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận
thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng, luôn
vận động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải
đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thúc hiện thực khách quan để giải quyết
những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được
nâng cao chính nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát
thành tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan,
con người không hề choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức.
Loài người có khả năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận
của hiện thực khách quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn của con
người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo
hiện thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả
cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục đích đó. Quan hệ giữa người với
người, giữa người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về
chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho
hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh sáng chế những tư liệu sản xuất, tư
liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người. Do đó hệ
thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con
người thì được con người quan tâm khái quát. Vì lẽ đó lý luận phải đáp ứng
nhu cầu phát triển của thực tiễn.


20

Thực tiễn chỉ đạo lý luận, ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực
tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. C.Mác đã từng nói, người
thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ nhưng người thợ xây hơn

hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công trình họ đã hình thành được
hình tượng của công trình ấy trong đầu họ. Tức là hoạt động của con người là
hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ
đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình.
Thông qua đó, con người khái quát thành lý luận. Từ đó những hoạt động của
con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường hoạt động
thực tiễn của con người mới trở thàng tự giác, có hiệu quả và đạt được mục
đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu xác định lực lượng biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo
được những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế những thất bại có thế có trong
quá trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động
hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt
động của con người. Mặt khác lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý
tưởng liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh to lớn của
quần chúng trong cải taọ tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã
khẳng định “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng”13.
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao song nó còn có tính lịch sử, cụ
thể. Do đó khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi
tình hình cụ thể. Nếu vận dụng máy móc giáo điều, kinh viện thì chẳng những
13

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.


21


hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch
sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của nhận thức lâu dài và khó khăn của con
người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy đa dạng phong
phú nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn
được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là
phương pháp mà còn là định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định
hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối
quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý luận còn định hướng
mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn,
trước hết từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích khác
nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ lực lượng
tiến hành và những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các
nhân tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là lôgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu hơn so với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn
biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý
luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn còn được làm sáng tỏ cụ thể hơn
khi xem xét nó từ quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Thực tiễn là khâu trung
gian cơ bản giữa chủ thể và khách thể, thực tiễn là hình thức liên hệ thực tại
khách quan nhờ đó chủ thể tự đối tượng hóa bản thân, các ý định, các mục
đích của mình. Điều này cho thấy thực tiễn và lý luận không thể tuyệt đối độc
lập với nhau. Bởi vì quan hệ lý luận giữa con người và khách thể không bao giờ
tách rời, biệt lập với thực tiễn. Hơn nữa, lý luận bao giờ cũng phục tùng thực
tiễn, phục vụ thực tiễn và lý luận bao giờ cũng phát triển trên cơ sở cải tạo thực
tiễn của xã hội. Vì vậy không có sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn, tính độc lập
của lý luận chỉ là tương đối, lý luận cách mạng không phải hoàn toàn là thực tiễn



22

cách mạng, tuy nhiên do lý luận được sinh ra bởi các nhu cầu của thực tiễn xã
hội nên lý luận cách mạng trở thành một bộ phận của thực tiễn xã hội.
Tóm lại, quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một quá trình mang tính
lịch sử xã hội cụ thể. Đây là quan hệ thống nhất biện chứng nắm bắt được tính
biện chứng của quá trình đó là tiền đề quan trọng bậc nhất giúp chúng ta có
một lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng ,máy móc
và lý luận suông. Có thể nói rằng, C.Mác là người đầu tiên đưa phạm trù thực
tiễn vào nhận thức luận, nhờ đó ông đã làm nên cuộc cách mạng thực sự trong
tư duy cũng như trong hoạt động. Đến V.I.Lênin đã phát triển và nâng cao vai
trò của thực tiễn trong lý luận nhận thức. V.I.Lênin có công to lớn trong việc
làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, về học thuyết
chân lý trên cơ sở khoa học hiện đại.
II. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN - Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA
ĐẢNG TA
2.1. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn hiện
2.1.1. Lý luận phải ánh nhu cầu của thực tiễn, khái quát được những
kinh nghiệm của thực tiễn
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là sự thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới đất nước của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lịch sử phát triển
của chủ nghĩa xã hội thế giới, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đặc
biệt tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã

thông qua những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội nước ta. Quan điểm


23

này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”14.
Vấn đề nghiên cứu để luận chứng khoa học cho lý luận về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục trong quá trình khái quát
những kinh sự nghiệm thực tiễn. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX đánh giá: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển và
yêu cầu của cách mạng”15. Về vấn đề này, khi đánh giá những thành tự, hạn
chế trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội X, Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Công tác nghiên lý luận, tổng kết
thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức trên nhiều
vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác
dự báo trong nhiều lĩnh vực còn yếu”16.
Chính vì vậy, vấn đề tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần
làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đối mới đất nước
hiện nay là một vấn đề quan trọng.
2.1.2. Thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải phù hợp
với điều kiện lịch sử - cụ thể
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt
Nam. Kiên định lập trường đó, các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc đảng Cộng
sản Việt nam khẳng định: “Đảng và nhân ta quyết tâm xây dựng đất nước

14

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.84.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2002, tr.133.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.179.
15


24

Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”17. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận
không chỉ được hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư
bản những năm bốn mươi của thế kỷ thứ XIX, mà còn có nguồn gốc lý luận
từ triết học Cổ điển Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội không
tưởng Pháp, Anh thế kỷ thứ XVIII nửa đầu thế kỷ thứ XIX và sự phát triển
của khoa học tự nhiên thế ký thứ XI mà còn được khái quát từ thực tiễn phong
trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới của quần chúng nhân dân lao
động phù hợp với thực tiễn của thời đại.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải dựa vào khuynh
hướng cơ bản của lý luận để bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội
phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta và xu hướng của thời đại. Vì vậy, khi
vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt
nam phải quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể, đồng thời, chúng ta cần tiếp
thu những thành tựu của tri thức khoa học, nhất là khoa học côn nghệ đối với
sự nghiệp đổi mới đất nước để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng và văn minh.
Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa với ý nghĩa bỏ qua chế độ chính trị của chủ nghĩa tư
bản. Nhưng trong điều kiện chủ trương một kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm phát huy mọi
tiềm năng các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để
xây dựng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, từng bước xã hội hóa xã hội chủ
nghĩa. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần
kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình
17

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.83.


25

thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh
tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất
định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất
kinh tế do sự tác động của nhiều hệ thống qui luật kinh tế. Đó là hệ thống các
qui luật kinh tế xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất, hệ thống các qui luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các qui
luật kinh tề tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế
sản xuất hàng hóa nhiều thành phần thì sự quản lý của nhà nước không chỉ bó
hẹp trong trong kinh tế quốc doanh mà phải bao quát tất cả các thành phần
kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa với tất cả các thành
phần kinh tế khác phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân. Trong đó kinh tế quốc doanh bao giờ cũng giữ vai trò chủ

đạo, quyết định đối với quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng xã hội
chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ,
kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng kinh tế
góp phần vào quá trình phát triển kinh tế.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng
định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư
tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nước pháp quyền, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1.3. Phê phán bệnh (chủ nghĩa kinh nghiệm) kinh nghiệm và bệnh (chủ
nghĩa giáo điều) giáo điều
Bệnh (chủ nghĩa kinh nghiệm) kinh nghiệm và bệnh (chủ nghĩa giáo
điều) giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
*Bệnh kinh nghiệm (chủ nghĩa kinh nghiệm)


26

Bệnh kinh nghiệm là sự cường điệu hoặc tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi
kinh nghiệm là “chìa khoá vạn năng” trong việc giải quyết những vấn đề của
cuộc sống đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao
kinh nghiệm cảm tính (tri thức khinh nghiệm), coi thường tri thức lý luận, tri
thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thực tiễn
một cách máy móc, dẫn đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm thông
thường góp phần tạo nên những thành công nhất định, trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế truyền thống.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và khoa học công
nghệ còn thấp. Đó là trực trạng một nền kinh tế truyền thống - nền kinh tế dựa
chủ yếu vào kinh nghiệm. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy của con người

Việt Nam vốn mang đậm nét “tư duy kinh nghiệm”. Truyền thống đó, là một
trong những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. cơ chế kế hoạch hoá,
tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng
tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỷ lại, bảo thủ, trì trệ làm ảnh hưởng
đến quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn
khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, một mặt lý luận phải ánh
nhu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn, mặt
khác thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, vận dụng lý luận phải phù hợp với
điều kiện lịch sử - cụ thể. Hơn nữa phải hoàn thiện cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phải thấy được mối quan hệ qua lại và sự thống nhất
biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận. Phải bám sát thực tiễn, khái quát
thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng được chiến lược phát triển đúng đắn,
phù hợp với từng thời kỳ lịch sử ở nước ta, nhất là trong sự nghiệp đổi mới
đất nước hiện nay.
*Bệnh giáo điều (chủ nghĩa giáo điều)


27

Bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi
tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận dụng một cách máy móc những tri thức
đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không
tính đến tính lịch sử - cụ thể. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh
giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận. Do đó, dẫn đến hạn
chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và
không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng như biện
chứng của lịch sử xã hội. Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở
việc áp dụng cái chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp
đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp dụng một lý thuyết, một mô hình chưa

được kiểm nghiệm thực sự bởi thực tiễn.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù
của Việt Nam. Nhưng khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa
chữa, nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước.
Đó là một trong những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng về kinh tế, xã hội những năm tám mươi của thế kỷ XX. Với tinh
thần cách mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay,
chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh
hướng tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật
trong việc giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, vốn là những
bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất
đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào đó, những căn bệnh này
vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới của chúng ta.
Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là
quá trình xoá bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải
xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình


×