Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN DUY vật BIỆN CHỨNG vận DỤNG NGUYÊN tắc THỐNG NHẤT GIỮA lý LUẬN và THỰC TIỄN vào CÔNG tác tư TƯỞNG lý LUẬN TRONG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.7 KB, 26 trang )

1

BÀI TIỂU LUẬN
-------------HỌC PHẦN CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ đề: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ
LUẬN TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là cơ sở phương
pháp khoa học trực tiếp đối với công tác tư tưởng, lý luận trong quân
đội. Quán triệt sâu sắc nguyên tắc này sẽ góp phần tích cực nâng cao
chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
I. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin
* Cơ sở của nguyên tắc
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của triết
học Mác - Lênin là một trong những nội dung tạo nên cuộc cách mạng trong
lịch sử triết học. Điều đó xuất phát trước hết từ mục đích của triết học Mác.
Trong tác phẩm luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã chỉ rõ: “Các nhà triết học
đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới”1. Nó cũng xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với lý luận và vai trò
của lý luận đối với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí minh thường căn dặn chúng ta:
học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Người nhấn
mạnh rằng, lý luận không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không có
lý luận là thực tiễn mù quáng.

1

C.Mác và Ph.Ănghen, toàn tập, tập3, Nxb CTQG, H. 1995, tr12.



2

Lênin đã khái quát con đường biện chứng của quá trình nhận thức
chân lý là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý,
của sự nhận thức thực tại khách quan.” 2 Lý luận là sản phẩm của quá trình
nhận thức, là sự phản ánh gián tiếp, khái quát, trừu tượng về hiện thực khách
quan. Nó là trình độ cao của nhận thức khoa học. Tri thức lý luận dựa trên
một loạt các thao tác lôgíc phức tạp của tư duy con người và các phương
pháp nhận thức khoa học như đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, khái quát
hóa, trừu tượng hóa, lôgíc và lịch sử… Tri thức lý luận mặc dù không phải
là sản phẩm của nhận thức lý tính thuần tính mà là kết quả của sự hoạt động
tích cực của cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, trong đó ưu thế
thuộc về các hình thức của nhận thức lý tính. Lý luận phản ánh hiện thực có
thể đúng hoặc sai, nhưng vì không phải là phản ánh trực tiếp hiện thực khách
quan nên lý luận luôn có khuynh hướng tự phát thoát ly quá xa thực tiễn,
thậm chí rơi vào giáo điều kinh viện. Cho nên đòi hỏi lý luận phải luôn bám
sát thực tiễn, quay về với thực tiễn.
Trong xã hội thường có sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn. Sự lạc
hậu này trước hết bắt nguồn từ sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội. Lý luận không thể phản ánh được chính xác, đầy đủ sự phong phú đa
dạng của tất cả các mối liên hệ, các thuộc tính, quy luật, khả năng, khuynh
hướng của hiện thực. Thực tiễn đã chứng minh những nguyên lý căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn, nhưng con đường cụ thể của sự
vận động của lịch sử của các dân tộc lại rất phong phú đa dạng vì vậy không
có đáp án sẵn cho mọi vấn đề của quá trình đó, đặc biệt là quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước khác nhau.
Mặt khác trong đời sống hiện thực luôn tồn tại một khoảng cách nhất
định giữa lý luận mới và việc thực hiện chúng trong thực tiễn. Lý luận muốn

2

V. I. Lênin, toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ M. 1980, tr 167.


3

trở thành hiện thực trước hết nó phải phản ánh đúng đắn quy luật của sự phát
triển xã hội và lợi ích của đông đảo quần chúng. Lý luận ấy phải được thâm
nhập vào đông đảo quần chúng và biến thành mục đích, nội dung chương
trình, kế hoạch, phương pháp hành động của quần chúng. Tổ chức chỉ đạo
hành động thực tiễn của quần chúng. Tự bản thân lý luận không thể là hiện
thực, để biến lý luận thành hiện thực đòi hỏi vừa phải có thời gian, vừa phải
có những phương tiện và phương pháp thực tiễn. Trong đời sống xã hội
không phải ở đâu và mọi lúc con người cũng giải quyết được đầy đủ mọi vấn
đề do cuộc sống đặt ra. Trên thực tế, có những lý luận khoa học, đường lối
chính sách đúng đắn nhưng chậm được thực hiện, hoặc khi thực hiện chúng
thì đã bị biến dạng không còn đúng như nguyên mẫu ban đầu nữa.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn cũng chứa đựng tính phức tạp và mâu
thuẫn. Điều đó được quy định bởi cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái tích
cực và cái tiêu cực, cái tự giác và cái tự phát, cái đang nảy sinh và cái đang lụi
tàn. Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay đã chứng minh điều đó, rất
nhiều chủ trương quyết sách đúng đắn nhưng vẫn không đi vào được cuộc sống,
hoặc đi vào cuộc sống thì đã bị méo mó biến dạng vì lực cản của những cái cũ,
cái lạc hậu, cái bảo thủ còn quá mạnh. Ngay cả bản thân lý luận và thực tiễn
cũng chữa đựng những mâu thuẫn bên trong của chính mình. Trong lý luận đôi
khi có sự không ăn khớp giữa tri thức mới và tri thức cũ. Còn trong thực tiễn con
người hành động không chỉ bằng những tri thức khoa học, sự quyết tâm, tính
tích cực tự giác mà còn có cả những kinh nghiệm thường ngày và những phẩm
chất tiêu cực (tính bảo thủ, thói quen cũ, tính tự phát, mê tín, ích kỷ, chủ quan,

vô trách nhiệm…) từ đó làm xuất hiện những mâu thuẫn giữa các hình thức hoạt
động của thực tiễn: giữa hoạt động kinh tế với hoạt động văn hóa xã hội, giữa
phát triển kinh tế với hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái, …điều đó đòi hỏi
phải có lý luận khoa học, chính sách đúng đắn và những biện pháp thực tiễn phù
hợp để điều chỉnh, định hướng các hình thức hoạt động thực tiễn theo cùng chiều
cùng hướng với sự phát triển của xã hội.


4

* Nội dung của nguyên tắc
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ quan hệ giữa con
người và thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động tích cực vào thế
giới khách quan - tự nhiên và xã hội, nhằm cải biến thế giới khách quan bằng
thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển của nhận thức con người và sự
biến đổi của thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Thực chất nội dung
nguyên tắc của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là: thực tiễn nào thì lý
luận đó, lý luận nào thì vận dụng vào thực tiễn ấy và khi thực tiễn đã thay đổi
thì lý luận cũng phải thay đổi theo. Cụ thể là:
Thứ nhất, lý luận chỉ trở thành khoa học khi xuất phát từ thực tiễn,
được thực tiễn kiểm nghiệm. Điều này được V. I. Lênin khẳng định: “Thực
tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) không những của tính phổ biến, mà cả của
tính hiện thực trực tiếp”3. Vai trò thực tiễn với nhận thức, với lý luận trước hết
được thể hiện: thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu, trực tiếp của
nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý.
Thực tiễn là cái được phản ánh, lý luận là cái phản ánh. Để hiểu được
thực tiễn dưới dạng hình tượng lôgíc nhất thiết phải xây dựng lý luận. Bản
thân thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển và biến đổi. Quá trình đó diễn ra
hết sức phức tạp. Để hình thành lý luận, nhận thức phải bám sát quá trình đó.
Bám sát thực tiễn để phản ánh đúng thực tiễn đương đại đã hết sức khó khăn,

nhưng điều quan trọng hơn là phải so sánh, đối chiếu phân tích để chọn lọc
những thực tiễn mang tính khách quan, mang tính quy luật làm cơ sở cho quá
trình hình thành lý luận. Nếu lý luận nào đó phản ánh không đúng nhu cầu
của thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn thì sớm hay muộn lý luận đó cũng
bị bác bỏ. Kinh nghiệm hoạt động của con người là cơ sở để hình thành lý
luận. Đó là tri thức trực tiếp góp phần tích cực vào quá trình tồn tại của loài người.
Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của loài người thì mới có tính khoa học
và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý
3

. V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1984, tr. 230


5

luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn là
tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của nó. tính toàn
vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát triển và
chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào
đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào
phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
Quá trình phát triển nhận thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình
thành lý luận. Đó không chỉ là sự tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà
còn từ nhu cầu thực tiễn. Thực tiễn phong phú đa dạng luôn vận động và biến
đổi, nhưng để hình thành lý luận, trước hết lý luận phải đáp ứng thực tiễn.
Con người nhận thức hiện thực khách quan để giải quyết những vấn đề con
người quan tâm. Năng lực của con người ngày càng được nâng cao chính nhờ
khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành tri thức lý luận lý
luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan con người không hề

choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức theo định hướng mục đích.
Thông qua tính mục đích đó mà lý luận được hình thành. Loài người có khả
năng trở thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách
quan, nhưng để đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích lũy lý luận, mà
trước hết là những lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người. Đó là những lý luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo hiện
thực khách quan. Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt hiệu quả cao. Lý
luận trước hết phải đáp ứng mục tiêu đó. Quan hệ giữa người với người, giữa
người với tự nhiên đòi hỏi con người phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con
người hình thành lý luận chủ yếu để làm phương pháp cho hoạt động trong đó có
hoạt động sáng tạo tri thức, phát minh, sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu
sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng tạo của con người, do đó hệ thống lý
luận nào góp phần giải quyết đúng đắn, phù hợp mục đích của con người thì


6

được con người quan tâm khái quát. Vì vậy, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát
triển của thực tiễn.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự khái quát từ thực tiễn phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong những giai đoạn khác nhau của
lịch sử vì vậy mà nội dung của nó cũng được bổ sung và phát triển cho phù
hợp với thực tiễn của từng thời kỳ lịch sử. Mác, Ăngghen, Lênin là những
người trực tiếp hoạt động trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân,
biết tổng kết những tri thức kinh nghiệm và những tri thức lý luận trên các
lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên một hệ thống lý luận khoa học hoàn chỉnh và
không ngừng phát triển. Trên cơ sở trung thành và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh Việt Nam
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể để đề ra đường lối chiến lược và sách lược
cho đúng đắn cách mạng Việt Nam trong cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân

dân. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến thắng lợi trong
khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 và thắng lợi của hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ đại hội đảng toàn quốc lần
thứ VI (1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiên cứu kinh nghiệm
thực tiễn Việt Nam và thế giới để tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là thể hiện sinh động tính
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
hình thành trên những nét cơ bản. Đảng ta chỉ rõ những đặc điểm cơ bản về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là : “Con đường đi lên của nước ta là
sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng


7

tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.”4
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và tổng kết 20 năm
đổi mới, tiếp thu kinh nghiệm của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới, Đại hội lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Trong
quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới
không phải tù bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới

không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động cách mạng.”5 Trong quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới, chúng ta đã nhận thức rõ hơn những đặc trưng chủ yếu của xã
hội mà chúng ta đang xây dựng là: “Xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Động sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.”6Đây là kết quả của cả một quá trình trăn trở tìm tòi, suy tư, thể nghiệm
và đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn đảng,
4
5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H. 2001, tr. 84.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H. 2006, tr.70.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H. 2006, tr.17 18.
6


8

toàn dân và toàn quân ta trong nhiều thập kỷ. Đặc biệt trong phát triển khoa
học xã hội đến năm 2010. Đảng ta xác định: Thường xuyên tổng kết thực tiễn

để phát triển lý luận; dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu
vực và trong nước, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, công tác lý luận tư
tưởng của Đảng có lúc, có mặt chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới: “Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt trong việc giải quyết
các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…”7. Từ những phân tích nói trên,
chúng ta thấy rõ vai trò to lớn của thực tiễn đối với quá trình hình thành và
phát triển lý luận. Chỉ khi có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới có thể hình
thành nên thế giới quan, phương pháp luận, nhận thức luận đúng đắn. Quan
điểm thực tiễn là quan điểm cơ bản và quan trọng nhất trong triết học Mác Lênin.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn chỉ đạt mục đích khi được lý luận soi đường.
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn là
mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong
lịch sử luôn được lý luận khái quát. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới
dạng quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực
tiễn. C.Mác đã từng nói, người thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong
xây tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây một công
trình, họ đã hình thành được hình tượng của công trình đó trong đầu họ. Tức
là, hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của
con người chưa có lý luận chỉ đạo, nhưng con người phải hoạt động để đáp
7

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H. 2006, tr. 69.


9


ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con người khái quát thành lý
luận. Từ đó, những hoạt động của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải
có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới trở thành tự giác,
có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng” và “chỉ một đảng nào có được một lý luận tiên phong
hướng dẫn thì mới có thể làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong ” 8. Lý luận đóng
vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu,
xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được hả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được
những rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, thất bại có thể có trong quá trình
hoạt động. Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả mà
còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con
người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu lý tưởng, liên kết
các cá nhân trong cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần
chúng trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã cho
rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào
quần chúng”9.Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, nhưng nó có tính lịch
sử cụ thể. Do đó, khi vận dụng lý luận chúng ta cần phân tích một cách cụ thể
mỗi tình hình cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì
chẳng những hiểu sai lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai
lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận hình thành là kết
quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở hoạt
động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng nhưng không
phải không có tính quy luật. tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới
8
9


V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1977, tập 6, tr 30.
C. .Mác và Ph..Ănghen toàn tập, tập1, Nxb CTQG, H. 1995, tr 580.


10

hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn
định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử
dụng lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực
tiễn. Không những thế, lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết từ lý luận xây dựng
mô hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự
báo các diễn biến, cá mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phát sinh của
nó trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế những
yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là lôgíc của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực
tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của
thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc
có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực
tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có thể không, hoặc kết quả chưa rõ
ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định . Tính
năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Công cuộc đổi mới toàn diện vì chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ lý luận
của toàn Đảng. Nếu lý luận không được phát triển, bổ sung để soi đường dẫn
dắt cho sự nghiệp đổi mới thì khó tránh khỏi mò mẫm, sai lầm và tổn thất.
Tốc độ, nhịp điệu và hiệu quả của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc rất nhiều vào
sự phát triển lý luận, vào đổi mới tư duy lý luận. Để phát huy vai trò của lý
luận trong thời kỳ đổi mới, lý luận phải thật sự làm cơ sở khoa học cho sự

lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Lý luận của Đảng ta “đã cung
cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối
đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng
thuận trong xã hội”10. Muốn phát huy tốt vai trò là cơ sở khoa học cho sự lãnh
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa IX, Nxb.CTQG, H. 2002, tr.
64.
10


11

đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước thì lý luận phải cung cấp những căn cứ
khoa học đáng tin cậy cho việc hoạch định chủ trương đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. để lý luận thực sự có tác dụng làm cỏ sở
khoa học cho đường lối đổi mới của Đảng và quản lý của Nhà nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước cần coi trọng lý luận, coi trọng đội ngũ cán bộ làm công tác
lý luận, cán bộ khoa học, biết sử dụng họ vào công tác nghiên cứu, đề xuất các
chủ trương, đường lối, chính sách. Nghiên cứu lý luận phải dựa trên cơ sở tổng
kết thực tiễn, coi đó là mắt khâu đầu tiên của quy trình hoạch định đường lối,
chính sách. Lý luận phải định hướng cho hoạt động thực tiễn của cán bộ Đảng
viên, góp phần dự báo xu hướng vận động phát triển của sự nghiệp đổi mới, lý
luận phải làm cơ sở khoa học cho việc định hướng xã hội chủ nghĩa của công
cuộc đổi mới.
* Yêu cầu của nguyên tắc
Để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn,
trước hết phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
mọi hành động. Cùng với yêu cầu đó, mỗi chủ thể nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải nắm chắc lý luận của các môn khoa học cụ thể cùng các môn khoa học
chuyên ngành, từ đó vận dụng sáng tạo trong điều kiện, tình hình cụ thể.

Phải có quan điểm thực tiễn đúng đắn, tích cực hoạt động thực tiễn; rèn
luyện khả năng, trình độ nắm bắt các yêu cầu thực tiễn và nâng cao hiệu quả
hoạt động thực tiễn. Lý luận cần bám sát thực tiễn, vận dụng và cụ thể hoá
sáng tạo. Đồng thời, trên cơ sở thực tiễn phải thường xuyên sơ kết, tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn, khái quát và bổ sung phát triển lý luận; luôn có sự kết
hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Kiên quyết
khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm trong nhận
thức và thực tiễn. Chủ nghĩa kinh nghiệm là sự tuyệt đối hóa những kinh
nghiệm trước đây và áp dụng một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã


12

thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường.
Tri thức kinh nghiệm thông thường là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ
khái quát thức tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn giản hạn chế. Tri thức kinh
nghiệm thông thường góp phần tạo nên những thành công không nhỏ trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong nền kinh tế truyền thống.
Những thành công đó củng cố giá trị của các kinh nghiệm. Trong điều kiện có
một số lĩnh vực biến đổi chậm chạp, việc tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm
cũ vào hiện tại vẫn tạo nên những thành công đã tự phát hình thành chủ nghĩa
kinh nghiệm. Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công
nghệ thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống, nền kinh tế chỉ
dựa vào những kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình
thức dân gian. Điều đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của
người Việt Nam chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong
những nguyên nhân sâu xa của bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hóa, tập
trung quan liêu bao cấp được thực hiện một thời gian dài ở nước ta đã triệt tiêu
tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỷ lại, dựa dẫm là một trong

những nguyên nhân của kinh nghiệm chủ nghĩa, căn bệnh tuyệt đối hóa kinh
nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên.
Kinh nghiệm là rất quý, nó đã góp phần tạo nên những thành công trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và là cơ sở để khái quát nên lý luận.Tuy
nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm ở một nơi, một lúc nào đó, xem thường lý
luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi điều kiện, hoàn
cảnh đã thay đổi. Vì vậy, chúng ta cần phải khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm.
Để khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm có hiệu quả, Chúng ta vừa phải
quán triệt triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nghĩa
là phải bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung
vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, phải hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường luôn vận động biến
đổi, nhất là khi Nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới và hội nhập sâu


13

vào nền kinh tế thế giới. Nó đòi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế
phải năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó, để
chủ động về quyết sách kinh doanh cho phù hợp. Trong thị trường, không có chỗ
cho bệnh kinh nghiệm tồn tại. Khi thị trường hóa toàn bộ các yếu tố của quá
trình sản xuất sẽ góp phần khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Trái với chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều lại tuyệt đối hóa lý
luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh nghiệm thực
tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến điều kiện lịch sử cụ
thể mỗi nơi, mỗi lúc.
Biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều trước hết ở việc học tập lý luận tách
rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở, câu chữ, tầm chương
trích cú… Mặt khác nó còn biểu hiện ở chỗ áp dụng rập khuôn máy móc kinh
nghiệm của nước khác, của nơi khác vào nước mình, địa phương mình.

Căn nguyên sâu xa của chủ nghĩa giáo điều trước hết là do hiểu lý luận
nông cạn, chưa nắm chắc thực chất lý luận, lý luận chưa được vận dụng, kiểm
nghiệm và khái quát từ thực tiễn, cho nên lý luận xa rời thực tiễn, là lý luận
suông và rơi vào giáo điều. Mặt khác, cũng do tính tập trung hóa cả trong lĩnh vực
lý luận đã làm mất đi tính sáng tạo của lý luận. Quá trình đó diễn ra trong một thời
gian dài trở thành đường mòn trong tư duy của cán bộ kể cả cán bộ khoa học.
Những gì trên chưa có ý kiến hoặc chưa được bổ sung bởi cơ quan có thẩm quyền
đều bị phủ quyết tạo cho cán bộ rơi vào bệnh giáo điều. Thứ nữa do vận dụng sai
lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn là một trong
những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đồng
thời cũng là quá trình vận dụng cái chung vào cái riêng một cách linh hoạt. Bệnh
giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận dụng lý luận nhưng không quan tâm
đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận cho phù hợp với sự phát triển của
thực tiễn. Chính vì vậy, lý luận chưa phát huy vai trò tiên phong, chưa thực sự
định hướng cho sự phát triển, chưa thực sự trở thành phương pháp luận cho hoạt
động thực tiễn, đó cũng là căn bệnh của giáo điều.


14

Chủ nghĩa điều đặc biệt nguy hại. Do giáo điều mà lý luận không mang
lại hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trò của
lý luận nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.
Để khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn,
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng phát
triển sáng tạo cùng thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận

mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.”11
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nội
dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của triết học Mác - Lênin
nói riêng. Đây không chỉ là nguyên tắc được đề xuất trong nhận thức luận mà
còn là lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin cho quá trình hình thành tri thức
khoa học, tri thức lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo hiện
thực khách quan vì mục đích tiến bộ xã hội.
1.2. Đặc thù nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
lĩnh vực quân sự
* Lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự
Lĩnh vực quân sự là một hiện tượng xã hội mang tính đặc thù. Nó xuất
hiện và mất đi gắn liền với giai cấp, nhà nước. Lĩnh vực quân sự bao gồm
toàn bộ hoạt động thực tiễn quân sự và nhận thức quân sự, có tác động ảnh
hưởng qua lại đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hoá, tư
tưởng, khoa học, v.v.. Đặc thù của hoạt động trong lĩnh vực quân sự thể hiện
tập trung ở các mối quan hệ giữa con ngưngười với con ngngười trong sử
dụng công cụ đặc biệt là vũ khí, trang bị kỹ thuật nhằm tiêu diệt đối phư ơng,
sử dụng biện pháp đặc biệt là biện pháp bạo lực; ở khả năng chuyển hoá,
11

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H. 1995, tập 8, tr. 496.


15

biến động nhanh của môi trường hoạt động, chứa đựng sự hy sinh, gian khổ,
ác liệt và ở tính chất đối kháng giai cấp. Lĩnh vực quân sự còn chứa đựng
nhiều yếu tố bất ngờ, nhiều hiện tượng “đánh lừa” bản chất, là “vương quốc
của các ngẫu nhiên”, nên đòi hỏi cao đối với con ngưngười và tổ chức về
khả năng vận dụng thống nhất lý luận và thực tiễn.

Với ý nghĩa là giai đoạn cao của quá trình nhận thức trong lĩnh vực
quân sự, lý luận quân sự mang tính chất khái quát hoá, trừu tượng hoá cao,
vạch ra bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, các quá trình quân sự.
Lý luận quân sự chỉ có ý nghĩa hiện thực khi thấm sâu vào thực tiễn quân sự.
Ngược lại, thực tiễn quân sự chỉ đạt được mục đích khi được lý luận quân sự
dẫn dắt. Cũng như các lĩnh vực khác, trong lĩnh vực quân sự, nếu tuyệt đối
hoá lý luận sẽ rơi vào lý luận suông, giáo điều hoặc chủ nghĩa kinh viện, làm
cho lý luận quân sự trở thành các luận điểm không có sức sống. Song, tuyệt
đối hoá thực tiễn sẽ rơi vào phiêu lưu, mù quáng.
Thực tiễn trong lĩnh vực quân sự là toàn bộ hoạt động vật chất diễn ra gắn
liền với thời gian, không gian, điều kiện hoàn cảnh quân sự cụ thể, bao gồm thực
tiễn chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật quân sự, thực tiễn công tác chính trị, tư tưởng. Trong đó,
thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu là những hình thức cơ bản nhất. Các
hoạt động đó với tư cách là hoạt động thực tiễn quân sự luôn luôn được lý luận,
tư tưởng quân sự dẫn dắt.
* Biểu hiện đặc thù của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong lĩnh vực quân sự
Một là, sự thống nhất giữa tính vận dụng sáng tạo, linh hoạt lý luận quân sự
với tính khẩn trương, mau lẹ trong khái quát kinh nghiệm thực tiễn quân sự.
Lĩnh vực quân sự là lĩnh vực xã hội đặc thù, ở đó luôn diễn ra sự đọ sức
quyết liệt về vật chất và tinh thần giữa các bên tham chiến. Điều này đã quy
định sự nỗ lực trong vận dụng lý luận quân sự vào thực tiễn quân sự, giảm


16

thiểu sự hy sinh xương máu và hao tổn về của cải. Hơn nữa, lĩnh vực này chứa
đựng đầy những yếu tố biến động khôn lường. Cho nên, lý luận quân sự được
vận dụng trong thực tiễn quân sự yêu cầu phải có tính sáng tạo.

Trong lĩnh vực quân sự, chủ thể các bên tham chiến luôn có sự năng
động rất lớn trong việc tìm kiếm và thay đổi về phương thức, cách đánh, nghệ
thuật tổ chức… Để sự năng động đó có hiệu quả, có cơ sở khoa học và đáp
ứng trước sự biến động của thực tiễn quân sự đòi hỏi chủ thể quân sự phải
thường xuyên, mau lẹ bám nắm tình hình, khái quát kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vừa đòi hỏi cao ở tính sáng tạo trong vận dụng lý luận quân sự, vừa thể hiện
tính khẩn trương, mau lẹ trong khái quát kinh nghiệm thực tiễn quân sự.
Hai là, sự thống nhất giữa tính sáng tạo với tính nguyên tắc của lý luận và
thực tiễn quân sự.
Nhờ tính sáng tạo mà lý luận quân sự có được khả năng giải quyết tốt
các vấn đề đòi hỏi cao về năng lực chuyên môn quân sự, có được khả năng
giải đáp đúng đắn các tình huống phức tạp, có vấn đề, kể cả các "bài toán"
mới lạ về mặt nguyên tắc, chưa có lời giải sẵn. Song, đối tượng nhận thức
trong lĩnh vực quân sự vốn đã phức tạp lại luôn có xu hướng ngày càng phức
tạp hơn, hơn nữa trong quá trình thực hành chiến đấu có liên quan đến sinh
mệnh con người, nên tính sáng tạo của lý luận quân sự phải được kết hợp chặt
chẽ với tính nguyên tắc và kỷ luật cao nhất.
Tính sáng tạo của lý luận quân sự và tính nguyên tắc, kỷ luật có sự thống
nhất biện chứng. Tính sáng tạo của lý luận quân sự biểu hiện ở việc khám phá, tìm
ra cái mới về kỹ, chiến thuật quân sự, ý định và kế hoạch của từng trận đánh,
phương pháp để giải quyết nhiệm vụ phức tạp v.v.. Song, sự sáng tạo đó phải tuân
theo phương pháp luận khoa học, phục tùng nguyên tắc chỉ đạo tác chiến, tuân thủ
điều lệnh, điều lệ và những quy định khác. Có như vậy, tính sáng tạo của lý luận
quân sự mới có định hướng chính trị đúng đắn, có sự lãnh đạo, chỉ huy và tinh


17

thần tự giác cao. Sáng tạo mà không đi đôi với tổ chức, kỷ luật dễ dẫn tới chệch

khỏi mục tiêu chính trị. Vì vậy, giữa tính sáng tạo với tính nguyên tắc, tính kỷ luật
có sự thống nhất cao. Đây là một trong những biểu hiện đặc thù của nguyên tắc
thống nhất lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự.
Ba là, yêu cầu cao của sự thống nhất giữa kỹ năng, kỹ xảo với phương
pháp luận khoa học trong lý luận và thực tiễn quân sự.
Yêu cầu chớp thời cơ giành thắng lợi trong thực tiễn quân sự không cho
phép chậm trễ, thiếu chính xác về nhận thức và thao tác tư duy. Vì vậy, giải quyết
tốt mối quan hệ thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự phải
đạt được trình độ kỹ xảo, kỹ năng không chỉ trong thực tiễn chiến đấu, trong tình
huống gay go, phức tạp, mà cả trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Cùng với
sự biến động của tình hình kinh tế - chính trị - xã hội nói chung, cũng như lĩnh vực
quân sự nói riêng đang đặt ra yêu cầu cao về kỹ xảo, kỹ năng trong các hoạt động
của quân nhân. Song, các phẩm chất kỹ xảo, kỹ năng phải được đặt trong mối liên
hệ thống nhất với phương pháp luận khoa học. Qua đó, bảo đảm cho sự “thuần
thục”, “tự động hoá” trong nhận thức đi đúng hướng và phát triển. Đồng thời, việc
giải quyết mối quan hệ thống nhất giữa kỹ năng, kỹ xảo với phương pháp luận
khoa học sẽ vừa bảo đảm chớp được thời cơ, vừa bảo đảm độ chính xác, tin cậy
của lý luận quân sự trong quan hệ với thực tiễn quân sự.
Bốn là, yêu cầu cao về sự kết hợp giữa trí nhớ và khả năng trực giác trong
xử lý chính xác, mau lẹ các tình huống quân sự.
Lĩnh vực quân sự với tất cả các loại hình hoạt động của nó luôn có sự biến
động cao trong điều kiện, hoàn cảnh phức tạp; cho nên chủ thể quân sự phải có
tốc độ ghi nhớ và khả năng tái hiện tốt để có hiệu quả trong thu thập và xử lý
thông tin đáp ứng kịp thời các tình huống.
Cùng với trí nhớ, nhận thức trong lĩnh vực quân sự cũng cần quan tâm
đến khả năng trực giác. Qua trực giác sẽ tạo khả năng nhanh chóng phân tích
những tình huống phức tạp từ những tài liệu cảm tính, “bỏ qua” một số khâu


18


thao tác tư duy, trực tiếp rút ra kết luận và cách giải quyết đúng đắn theo "đường tắt". Đây là phẩm chất cần thiết của tư duy quân sự. Phrunde đã viết:
“Trong lĩnh vực chính trị thuần tuý cũng như trong lĩnh vực quân sự muốn
trở thành nhà chiến lược giỏi thì phải có những phẩm chất riêng biệt, trong đó
phẩm chất quan trọng nhất là cái mà ngưngười ta gọi là trực giác…”12.
Năm là, đòi hỏi cao về sự kết hợp giữa tính chủ động, tích cực với sự
kiên nhẫn trong nhận thức và hành động quân sự.
Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng, giữa lý luận và thực tiễn không
hoàn toàn tương ứng về trình độ phát triển, luôn có "khoảng cách". Trong lĩnh vực
quân sự, sự không tương ứng này thể hiện rõ nét và có "biên độ" biến động lớn,
cho nên đòi hỏi vận dụng lý luận và thực tiễn quân sự phải có tính chủ động và
kiên nhẫn cao. Nói cách khác, môi trường hoạt động quân sự vừa là điều kiện đặc
thù, vừa đòi hỏi cao tính chủ động và lòng kiên nhẫn ở chủ thể nhận thức, thiếu
chủ động, kiên nhẫn, hoặc tách rời những phẩm chất này đều dẫn tới sai lầm. Chỉ
có trên cơ sở yêu cầu cao về sự kết hợp chặt chẽ giữa tính chủ động và sự kiên
nhẫn trên cơ sở mối quan hệ lý luận và thực tiễn mới giải quyết được sự phong
phú, phức tạp và những diễn biến khôn lường của tình hình. Tính chủ động, kiên
nhẫn của mối quan hệ lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực quân sự được thể hiện ở
tinh thần tích cực, tự giác cùng với tính kiên trì, bền bỉ trong nghiên cứu về đối
tượng và các vấn đề có liên quan để chỉ đạo thực tiễn quân sự.
II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VÀO CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN TRONG
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
2.1. Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay
* Vị trí, vai trò công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội
Công tác tư tưởng lý luận trong quân đội là một bộ phận hữu cơ trong
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, là một mặt cơ bản cấu thành hoạt động
12

Phrumde, Xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu, Nxb QĐND, H. 1974, tr..266.



19

công tác đảng, công tác chính trị. Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quyết
định trong việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tạo nên sức mạnh
chính trị, tinh thần của quân đội, đảm bảo cho quân đội luôn luôn là công cụ
bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà
nước và nhân dân, thật sự là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất và đội
quân công tác, góp phần làm cho các nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực
cách mạng sinh động. Thực tiễn đã khẳng định vai trò to lớn của công tác tư
tưởng, lý luận đối với sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta.
* Nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay
Nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiên nay được thể
hiện trên một số vấn đề cơ bản.
Một là, nghiên cứu một cách có hệ thống, có chiều sâu lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với các quan điểm, tư tưởng
khoa học khác có ý nghĩa là phương pháp luận khoa học đối với cách mạng
Việt Nam, đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải giúp lãnh đạo, chỉ huy
các cấp xác định đúng hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản và cấp bách làm căn
cứ xây dựng, hoạch định các chủ trương, biện pháp liên quan đến xây dựng
các đơn vị, trước hết là nhiệm vụ xây dựng quân đội về chính trị.
Hai là, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải tập trung quán triệt sâu
sắc các Nghị quyết của Đảng, của Ban chấp hành Trung ương, của Đảng bộ quân
đội và Đảng uỷ quân sự Trung ương; thực hiện có hiệu quả chỉ thị của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng về công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội. Những nội dung đó
phải được quán triệt và tổ chức thực hiện tốt ở mọi cấp, mọi thành phần, lực lượng
và phải được cụ thể hoá sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Ba là, công tác tư tưởng, lý luận phải tập trung bồi dưỡng phẩm chất,

đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Trong quân đội, công tác tư tưởng, lý
luận phải hướng vào việc xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ thế giới quan Mác-


20

Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh những phẩm chất chính trị tinh thần,
tâm lý, phẩm chất đạo đức và sức chiến đấu cao kịp thời đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội. Công tác tư tưởng, lý
luận trong quân đội có nhiệm vụ xây dựng bản lĩnh cách mạng, lòng trung
thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Bốn là, công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải đẩy mạnh nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu lý luận quân sự và tổng
kết thực tiễn quân sự . Đây vừa là những nhiệm vụ cơ bản, vừa là yêu cầu cấp
bách của công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội trong những năm tới. Cần
phải coi trọng công tác lãnh đạo, định hướng tư tưởng cả trong nghiên cứu lý
luận và trong tổng kết thực tiễn để rút ra các bài học kinh nghiệm thiết thực
nhằm phát triển lý luận, nâng cao chất lượng lãnh đạo.
Năm là, nâng cao tinh thần và hiệu quả, chủ động, nhạy bén đấu tranh
làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” quân đội của các
thế lực thù địch. Công tác tư tưởng, lý luận phải đi vào từng đối tượng cán bộ,
chiến sĩ làm cho mỗi người nhận thức đầy đủ và cảnh giác cao độ trước những
âm mưu và thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc của kẻ thù.
2.2. Một số yêu cầu vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn đối với công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận trong
quân đội hiện nay, cần phải quan tâm đến cả mặt lý luận khoa học, mặt thực
tiễn và giải quyết tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Trước hết, nâng cao tính khoa học cho công tác tư tưởng, lý luận trong

quân đội hiện nay.
Nội dung công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải có cơ sở khoa
học, phải có chiều sâu về mặt lý luận; phải trên cơ sở nắm vững bản chất cách
mạng, khoa học và nắm vững các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -


21

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải xuất phát từ quan điểm, đường
lối của Đảng và cụ thể hoá sáng tạo bằng các nội dung cụ thể. Nội dung công
tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải thường xuyên được cập nhật, bổ sung
những tri thức mới; có khả năng giải đáp được các vấn đề mới mà cuộc sống
đang đặt ra; không ngừng đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng lý luận, đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình.
Thứ hai, thường xuyên nâng tầm trí tuệ của các cấp ủy đảng và đội ngũ
cán bộ, đảng viên, trước hết và quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ chuyên
trách trên mặt trận tư tưởng - văn hoá trong quân đội.
Tư duy khoa học có vai trò to lớn trong tiến hành công tác tư tưởng lý luận. C. Mác đã nhấn mạnh yêu cầu phát triển lý luận trong đấu
tranh tư tưởng. Do vậy, hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, mà trực tiếp là đội
ngũ cán bộ chuyên trách cần nắm và vận dụng linh hoạt phương pháp tư
duy khoa học, khắc phục phương pháp siêu hình trong công tác tư tưởng,
lý luận.
Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tư tưởng – lý luận phải thường
xuyên được bồi dưỡng, nâng tầm trí tuệ, phải có khả năng tốt đảm nhận
công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận cho cán bộ, chiến sĩ. Đây là lực
lượng nòng cốt trong nghiên cứu lý luận, góp phần tích cực vào việc bảo vệ
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, củng cố, tăng cường vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong
quân đội. Để làm tròn trách nhiệm ngưngười chiến sĩ tiên phong trên mặt
trận tư tưởng, lý luận của Đảng, của quân đội, mỗi cán bộ làm công tác tư
tưởng, lý luận cần phải nỗ lực, phấn đấu học tập, rèn luyện, nâng cao trình

độ lý luận khoa học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Thứ ba, tập trung nâng cao tính Đảng trong công tác tư tưởng, lý
luận của quân đội hiện nay.


22

Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay cần tập trung quán triệt
nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân theo quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; quán triệt phương
hướng xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Nâng cao tính Đảng trong
công tác tư tưởng, lý luận hiện nay yêu cầu phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của địch trên mặt trận chính trị, tư tưởng.
Thứ tư, thường xuyên nâng cao tính thực tiễn cho công tác tư tưởng, lý
luận trong quân đội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải tiến hành sát đối tượng;
biết vận dụng sáng tạo quan điểm biện chứng trong nhận thức và tiến hành công
tác tư tưởng, lý luận cho các đối tượng. Công tác tư tưởng, lý luận cần gắn với
từng đối tượng cụ thể, gắn với vị trí xã hội, trình độ học vấn, gắn với nhiệm vụ,
chức năng của mỗi ngngười và quan tâm tới đặc điểm, tâm tư, tình cảm, đặc
điểm tâm lý của các thành phần, đối tượng cụ thể. Từ đó có nội dung, hình thức,
phương pháp và những điều kiện phù hợp cho công tác tư tưởng, lý luận.
Công tác tư tưởng, lý luận cần quan tâm sâu sát, nắm thực trạng nhận
thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội để bảo đảm cho việc vạch ra
những nội dung, hình thức, phương pháp sát thực. Trong điều kiện kinh tế xã hội
ngày nay, công tác tư tưởng, lý luận phải quan tâm tới vấn đề lợi ích. Sự hy sinh,
sự cống hiến là vinh dự và nghĩa vụ căn bản, tối cao của mỗi quân nhân cách
mạng. Tuy vậy, trong điều kiện hiện nay không thể coi nhẹ lợi ích về vật chất và

tinh thần của mỗi quân nhân. Tuỳ mỗi đối tượng, cần phải nắm chắc những đặc
điểm chung, riêng, phải quan tâm tới những vấn đề bức xúc trước sự tác động
phức tạp của thực tiễn - xã hội hiện nay.
Công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội phải thường xuyên bám sát
nhiệm vụ chung của quân đội và nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị. Công tác t-


23

ư tưởng, lý luận phải luôn quán triệt sâu các quan điểm, tư tưởng, đường lối của
Đảng và Đảng uỷ Quân sự Trung ương; quán triệt, nắm vững nguyên tắc xây
dựng quân đội về chính trị, chỉ thị hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị
của cấp trên phù hợp với các đối tượng và nhiệm vụ cụ thể. Công tác tư tưởng,
lý luận cần bám sát diễn biến của đời sống xã hội và quân đội; bám sát nhiệm vụ,
tình hình tư tưởng của bộ đội; bám sát cơ sở và nhạy bén xử lý những nảy sinh
về tư tưởng ở cơ sở, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, lý luận ở cơ sở.
Công tác tư tưởng, lý luận phải biết kết hợp giữa xây và chống, lấy xây làm
chính. Công tác tư tưởng, lý luận phải bám sát yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân
đội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong bối cảnh tình
hình thế giới có những diễn biến phức tạp.
Các hoạt động của công tác tư tưởng, lý luận cần tập trung phục vụ nhiệm
vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh
chiến đấu của quân đội; cần tập trung cho việc chuẩn bị về tiềm lực chính trị,
tinh thần, phẩm chất đạo đức, ý chí quyết đánh và quyết thắng, sự mưu trí, sáng
tạo, dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu; tập trung trong việc xây dựng niềm
tin vào cách đánh, tin vào trang bị, kỹ thuật và sự thắng lợi trong cuộc chiến đấu
chống chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Công tác tư tưởng, lý luận góp phần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ xác
định rõ kẻ thù, đối tượng tác chiến; đấu tranh giữ vững trận địa tư tưởng, lý
luận của Đảng trong quân đội; đấu tranh chống các quan điểm sai trái phản

động. Công tác tư tưởng, lý luận cần chú trọng xây dựng nội bộ trong sạch,
vững mạnh, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến” của các đối tượng, nhất là đối
với cán bộ cao cấp, cán bộ ở những cơ quan trọng yếu.
Thường xuyên quan tâm tới số lượng, chất lượng của công cụ, phương
tiện vật chất tiến hành công tác tư tưởng, lý luận. Biết kết hợp giữa các công
cụ, phương tiện truyền thống với những công cụ, phương tiện hiện đại; biết
khai thác, tận dụng, sử dụng có hiệu quả các công cụ, phương tiện hiện đại


24

trong việc đổi mới nội dung, biện pháp, cách thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội. Qua việc sử dụng tốt các công cụ, phương tiện sẽ
góp phần tích cực tăng sức thuyết phục và sự hấp dẫn của việc truyền bá lý tưởng cộng sản cho các đối tượng trong quân đội.
Cùng với công cụ, phơng tiện vật chất cần phải thường xuyên quan tâm tới
việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác tư tưởng, lý luận.
Các hoạt động này giúp cho cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị cảm nhận một cách trực
tiếp, sinh động những nội dung khoa học của công tác tư tưởng, lý luận. Tuy nhiên,
tính thực tiễn của công tác tư tưởng, lý luận không có nghĩa là quá trình tiến hành
công tác này nằm ngoài sự chỉ đạo của lý luận khoa học.
Thứ năm, giải quyết tốt mối quan hệ lý luận và thực tiễn trong công tác
tư tưởng, lý luận trong quân đội hiện nay.
Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của mọi cấp, mọi
thành phần lực lượng. Qua đó góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về chiến tranh
quân đội, vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước, nhiệm vụ chính
trị của quân đội và của từng đơn vị. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển
lý luận có ý nghĩa thiết thực trong việc khắc phục bệnh giáo điều, kinh
nghiệm chủ nghĩa. “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo
luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ
thực tiễn”13 Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải bám sát đường lối

chính trị, quân sự của Đảng, thực tiễn hoạt động của quân đội, cung cấp nhiều
luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng, bổ sung phát triển đường lối
quân sự, quốc phòng của Đảng, góp phần quan trọng xây dựng lực lượng vũ
trang, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Qua đó đội ngũ làm công
tác nghiên cứu lý luận có bước trởng thành và phát triển cả về số lượng, chất
lượng.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr.
141.
13


25

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức;
khắc phục sự tách rời hai nhiệm vụ này, khắc phục tình trạng công tác lý luận
chưa theo kịp yêu cầu của cách mạng; công tác tư tưởng chưa gắn với công tác tổ
chức.
Có thể nói công tác tư tưởng đã tập trung cho mặt lý luận, tinh thần. Công
tác tổ chức – vấn đề cơ bản của nó là hiện thực hoá tinh thần, lý luận khoa học
trong các tổ chức và thực tiễn cách mạng. Như vậy, giải quyết tốt mối quan hệ lý
luận và thực tiễn của công tác tư tưởng, công tác lý luận phải biết kết hợp công
tác tư tưởng và công tác tổ chức. Việc xây dựng lý tưởng, bản lĩnh, tinh thần và
trí tuệ cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải trên cơ sở, phải biết kết hợp tốt
với việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên.
Tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận là một trong các yêu
cầu cơ bản của sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong công tác tư tưởng, lý luận hiện nay. Tích cực, chủ động tiến công trên
mặt trận tư tưởng, lý luận làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của địch. Đồng
thời, đấu tranh khắc phục có hiệu quả các căn bệnh nảy sinh từ mặt trái kinh tế
thi trường như: chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, suy thoái đạo đức, lối

sống… Kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, khuynh hướng tự do
tư sản, cơ hội chính trị, nâng cao cảnh giác, làm thất bại chiến lược “diễn biến
hoà bình” trên mặt trận tư tưởng – văn hoá và trên các lĩnh vực khác. Nghiên
cứu, xác định các thiết chế, cơ cấu để hình thành phong trào toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân tham gia đấu tranh đẩy lùi các tệ nạn xã hội.


×