1
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA HIÊN NAY.
MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, lao động, vật tư, công nghệ, khoa học, và quản
lý là một trong năm nhân tố cơ bản chứa đựng những sức mạnh tiềm tàng to
lớn cần phải tìm mọi cách để phát huy đầy đủ trong quá trình thực hiện bất cứ
nhiệm vụ quan trọng nào của cách mạng. Các thành tựu nghiên cứu giáo dục
đã thừa nhận quản lý giáo dục (QLGD) là nhân tố then chốt bảo đảm sự thành
công của phát triển giáo dục. Vì thông qua QLGD mà việc thực hiện mục tiêu
đào tạo, các chủ trương chính sách giáo dục quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu
tư cho giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục...mới được triển khai và thực
hiện có hiệu quả. Chính vì thế, để xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân
mới, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở nước ta trong vòng 15 - 20 năm tới, Nghị quyết (NQ) của Bộ chính
trị (BCT) về cải tạo giáo dục đã nêu lên các biện pháp lớn cần phải tiến hành
là: Xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên XHCN; tăng cường cơ sở vật
chất - kỹ thật của các trường học; cải tiến chương trình học, sách giáo khoa;
đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học giáo dục; kiện toàn tổ chức quản lý
và cải tiến công tác quản lý của ngành giáo dục, xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) XHCN. Báo cáo của Chính phủ về
tình hình giáo dục (10/2004) đặt ra nhiệm vụ “Cải tiến công tác quản lý,điều hành,
tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm
vụ trọng tâm”.
Những tầm nhìn mới, hiện đại về giáo dục và QLGD đang phát triển mạnh
mẽ và tạo nên những thay đổi đáng kể cho diện mạo giáo dục thế giới, tạo thời cơ
cho giáo dục nói chung và QLGD nói riêng ở nước ta tiếp thu thành tựu và kinh
2
nghiệm tiên tiến của thế giới trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ QLGD cũng như
nghiên cứu khoa học QLGD; Giáo dục Việt Nam một mặt khác phải khắc phục
những điểm yếu kém bất cập, khắc phục sự mất cân đối giữa phát triển quy mô và
bảo đảm chất lượng, giữa phát triển quy mô và điều kiện còn hạn chế giữa yêu cầu
tạo chuyển biến cơ bản với giữ vững ổn định tương đối của hệ thống giáo dục để
thu hẹp dần khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang phát triển.
Chính vì vậy, đổi mới GD - ĐT ở nước ta hiện nay vừa là một nhiệm vụ chiến
lược, lâu dài nhưng cũng là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong đó đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác QLGD đóng vai trò then chốt bảo đảm sự thành công của phát triển
giáo dục.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học (QLGDĐH) ở nước
ta hiện nay phải xuất phát từ cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn QLGD nước nhà
trong giai đoạn mới, đó là: Phải xuất phát từ lý luận khoa học QLGD và thực trạng
công tác QLGD, thì mới đề r a được những giải pháp sát, đúng đạt hiệu quả cao.
Trong khuôn khổ tiểu luận, tác giả sẽ khái quát lý luận khoa học QLGD,
nêu lên thực trạng công tác QLGD, đồng thời mạnh dạn đề ra một số biện
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLGD ở nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
1. Khái lược về Quản lý, Khoa học quản lý giáo dục và Quản lý giáo dục.
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt
động của con người. Khi xã hội loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với
xã hội và cả quan hệ giữa con người với chính bản thân mình xuất hiện theo. Điều
này nảy sinh nhu cầu về quản lý. Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xã hội
lạc hậu đến xã hội văn minh, trình độ sản xuất, tổ chức, điều hành xã hội cũng phát
triển theo. Ngày nay, thực tiễn chứng minh rằng quản lý trở thành nhân tố của sự
phát triển xã hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh
3
vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người. C.Mác coi quản lý là một đặc điểm
vốn có, bất biến về mặt lịch sử của đời sống xã hội. Ông viết: “bất cứ lao động xã
hội trực tiếp hay lao động xã hội chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn
đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân. sự chỉ
đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ sự
khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận động cá nhân
của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sỹ độc tấu thì
tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”1.
* Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát tuy nhiên, từ
những ý nghĩa chung nhất và xét quản lý với tư cách là một hành động, có thể
định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra. Định nghĩa này chỉ rõ:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng
quản lý, đây là quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động, mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược
lại.
* Mục tiêu của quản lý: là cần tạo dựng một môi trường mà trong đó mỗi
người có thể hoàn thành được mục đích của mình, của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
* Đối tượng của quản lý: là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa
người và người trong quản lý, quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
1
.Theo Macco – Maccop: Chủ nghĩa xã hội và quản lý, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr.24.
4
Quản lý nghiên cứu các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động của con
người, của tổ chức; Quản lý nghiên cứu các mối quan hệ này nhằm tìm ra
quy luật và cơ chế vận dụng quy luật đó trong quá trình tác động lên con
người, thông qua đó tác động lên các yếu tố vật chất và phi vật chất khác như
vốn, vật tư, trang thiết bị, công nghệ, thông tin...một cách có hiệu quả. Khoa
học quản lý sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho nghiên cứu
sâu về các môn học về quản lý tổ chức theo lĩnh vực hoặc theo ngành chuyên
môn từ quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý nhân lực, quản lý tài
chính...Quản lý có nhiệm vụ tìm ra quy luật và tính quy luật của hoạt động
quản lý, từ đó xác định các nguyên tắc, chính sách, công cụ, phương pháp và
các hình thức tổ chức quản lý để không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất
lượng quản lý.
* Khoa học quản lý ngày càng phát triển và được khẳng định là một môn
khoa học độc lập vì nó có cơ sở lý luận là những khái niệm, phạm trù, tính quy
luật và quy luật khách quan để từ đó những người nghiên cứu và các nhà thực tiễn
nắm lấy, vận dụng nhằm đưa ra các quyết định phù hợp với điều kiện khách quan.
Quản lý là một khoa học nhưng mang tính nghệ thuật. Kiến thức làm cơ sở cho
quản lý là một khoa học, còn vận dụng kiến thức đó để quản lý lại là nghệ thuật
* Quản lý có hai thuộc tính cơ bản: Thuộc tính tổ chức - kỹ thuật và
thuộc tính kinh tế xã hội; Quản lý cũng có những quy luật khách quan riêng
của nó, muốn quản lý tốt thì người quản lý phải hiểu và vận dụng được quy
luật của quản lý; ngày nay nhiều nước trên thế giới đã mở các trường đại học
và các bậc cao hơn chuyên đào tạo nghề quản lý, như vậy quản lý đã trở thành
một nghề, một nghề quan trọng trong xã hội.
Nếu chúng ta xem quản lý là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi
hoạt động xã hội, thì quản lý giáo dục (QLGD)cùng là một thuộc tính tất yếu
của mọi hoạt động giáo dục có mục đích.
5
Có nhiều quan niệm khác nhau về QLGD, song thường người ta đưa ra
quan niệm QLGD theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô. Quản lý vĩ mô sẽ
tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống giáo dục) và quản
lý vi mô sẽ tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường.
Ở cấp vĩ mô: QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
Ở cấp vi mô: QLGD được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản
lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Từ những khái niệm nêu trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô, chúng ta có thể
thấy QLGD gồm 4 yếu tố, đó là: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể
quản lý và mục tiêu quản lý. Bốn yếu tố này có mối quan hệ tương tác gắn bó
chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Chủ thể quản lý tạo ra những tác nhân
tác động lên đối tượng quản lý, nơi tiếp nhận tác động lên đối tượng quản lý,
nơi tiếp nhận tác động của chủ thể quản lý và cùng với chủ thể quản lý hoạt
động theo một quỹ đạo nhằm cùng thực hiện mục tiêu của tổ chức. Khách thể
quản lý nằm ngoài hệ thống hệ QLGD. Nó là hệ thống khác hoặc các ràng buộc
của môi trường...Nó có thể chịu sự tác động hoặc tác động trở lại đến hệ thống
giáo dục và hệ QLGD. Vấn đề đặt ra đối với chủ thể quản lý là làm như thế nào
để cho những tác động từ phía khách thể quản lý đến giáo dục là tích cực, cùng
nhằm thực hiện mục tiêu chung.
* Đặc điểm quản lý giáo dục:
6
Từ những khái niệm nêu trên, dù ở cấp độ vĩ mô hay vi mô, ta có thể
nhận thấy một số đặc điểm chung của QLGD:
Một là, quản lý giáo dục bao giờ cũng có chủ thể và đối tượng bị quản
lý. Chủ thể ở đây có thể là một cá nhân (như hiệu trưởng, giám đốc nhà
trường, học viện...) cũng có thể là một tổ chức hay tập thể ( Bộ, Sở, Phòng
giáo dục - đào tạo...). Còn đối tượng quản lý ở đây những nhân tố mà chủ thể
quản lý tác động đến - đó là những nhân tố trong quá trình giáo dục - đào
tạo(GD - ĐT), là những ai thực hiện hoặc nhận sự GD - ĐT.
Hai là, quản lý giáo dục là một quá trình truyền đạt thu nhận và xử lý
thông tin một cách tích cực. Chủ thể quản lý muốn tác động lên đối tượng
phải đưa ra các thông tin (nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, chương
trình...)đó chính là các thông tin điều khiển. Sau đó chủ thể quản lý phải
thường xuyên theo dõi, thu nhận các thông tin phản hồi về kết quả thực hiện
các nhiệm vụ GD - ĐT của đối tượng quản lý. Còn đối tượng quản lý tiếp
nhận các thông tin điều khiển của chủ thể để định hướng hoạt động, xác định
kế hoạch hoạt động và tự điều khiển mình nhằm thực thi các chỉ thị, mệnh
lệnh yêu cầu chủ thể quản lý.
Ba là , quản lý giáo dục vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Để có những
tác động quản lý hợp quy luật, phát huy được hiệu quả và chất lượng của các
nguồn lực giáo dục, đòi hỏi nhà quản lý phải có tri thức quản lý, có những quan
điểm tiếp cận thực tiễn quản lý đúng đắn, có những phương pháp quản lý cụ thể
phù hợp với thực tiễn. Nói cách khác, hoạt động quản lý là một khoa học, cần
được đối xử một cách khoa học, nhà quản lý không thể mang tác phong tuỳ tiện,
đơn giản, chủ quan. QLGD đồng thời còn là một nghệ thuật, vì QLGD là quản lý
quá trình đào tạo, hình thành và hoàn thiện nhân cách, nó đòi hỏi nhà quản lý
muốn đạt được chất lượng và hiệu quả quản lý cao luôn luôn phải trau dồi tài
7
nghệ, bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ và phong cách công tác chuẩn mực cùng với
phong cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo với con người.
* Đối tượng của Khoa học quản lý giáo dục và Quản lý giáo dục
Cần phân biệt sự khác nhau giữa đối tượng của Khoa học quản lý giáo dục
(KHQLGD) và đối tượng của QLGD với tư cách là một hoạt động của chủ thể
quản lý (mặc dù có điểm trùng khớp nhau). Trong giáo dục, đối tượng quản lý
bao gồm: Hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống QLGD, các quan hệ quản lý,
các chủ thể quản lý cấp dưới, tập thể và cá nhân giáo viên và học sinh,...
Nhưng đối tượng của KHQLGD thì lại khác. Đó là các quan hệ quản lý
giáo dục. Tại sao nói quan hệ QLGD là đối tượng của KHQLGD.
Giáo dục là một hệ thống hoạt động phức tạp với những hành vi có mục
đích. Sự phát triển của hệ thống giáo dục là kết quả của sự tác động qua lại giữa
những con người (người giáo dục và người được giáo dục, người quản lý và
người bị quản lý) được kết hợp thành những nhóm, những tổ chức riêng biệt.
Song những cá nhân và những nhóm xã hội riêng lẻ không có vai trò như nhau
và đồng đều trong hệ thống giáo dục. Đó là lý do xuất hiện cơ chế điều khiển và
các cơ quan đặc thù để tổ chức, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra các hoạt động
giáo dục. Những mối quan hệ giữa các cơ quan đó là tất yếu khách quan và
thuộc phạm vi những quan hệ quản lý.
* Phương pháp luận nghiên cứu khoa học quản lý giáo dục. Với tư cách là
một ngành khoa học, KHQLGD có phương pháp luận nghiên cứu của nó đó là Chủ
nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin đóng vai trò phương pháp luận quan
trọng đối với khoa học nói chung và KHQLGD nói riêng. KHQLGD nghiên cứu
những quy luật riêng, có tính đặc thù của nó và những quy luật này cũng thuộc
phạm trù của những quy luật của khoa học xã hội, thì chức năng phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với KHQLGD là điều tất yếu khách quan.
8
Tinh thần của Chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa những quy luật
xã hội khách quan và hoạt động tự giác của con người có ý nghĩa lớn lao đối với
lý luận và thực tiễn quản lý trong đó có QLGD; Phép biện chứng mác xít của cái
khách quan và cái chủ quan, các quy luật triết học duy vật biện chứng là cơ sở
phương pháp luận quan trọng của lý luận về quản lý; KHQLGD còn có cơ sở
phương pháp luận quan trọng là đường lối phát triển kinh tế - xã hội, đường lối
quản lý xã hội nói chung, nhất là đường lối quan điểm về giáo dục của Đảng,
Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tính quy luật của giáo dục, phản ánh
lĩnh vực hiện thực, cần cho hoạt động quản lý và lý luận quản lý.
* Phương pháp nghiên cứu Khoa học quản lý giáo dục. Cũng như các
ngành khoa học khác KHQLGD cũng có phương pháp nghiên cứu đặc trưng
riêng. Phương pháp nghiên cứu KHQLGD có thể nêu bốn nhóm phương pháp
sau: phương pháp logic, phương pháp hệ thống, phương pháp mô hình hoá và
phương pháp thực nghiệm. Mỗi phương pháp có ví trí vai trò riêng nhưng là
một thể thống nhất có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, khi
nghiên cứu KHQLGD cần phối hợp, vận dụng các phương pháp một cách linh
hoạt, sáng tạo tuỳ theo từng điều kiện cụ thể để phát hiện ra những quy luật
hoặc tính quy luật của sự hình thành và phát triển của các tổ chức giáo dục
trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể cùng những phương pháp, kể cả
nghệ thuật của những người tham gia QLGD phù hợp với các quy luật đó,
nhằm đạt được những mục tiêu quản lý một cách có hiệu quả.
Quản lý giáo dục là một quá trình vì quản lý là một hoạt động mang tính
hướng đích, là sự vận động, sự nối tiếp các trạng thái, có độ dài về thời gian, chịu
tác động của nhân tố bên trong và bên ngoài, tuân theo những quy luật khách
quan, biểu hiện thông qua hoạt động của con người. Quá trình QLGD là hoạt
động của các chủ thể và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu
9
nhất định nhằm đạt mục đích đề ra của quản lý bằng cách thực hiện các chức năng
nhất định và vận dụng các biện pháp, nguyên tắc, công cụ quản lý thích hợp.
Quá trình quản lý được bắt đầu từ việc phân tích thông tin về trạng thái
của hệ thống bị quản lý. Thông tin này có thể biểu hiện dưới hình thức là
những chỉ tiêu chất lượng và số lượng đặc trưng cho trạng thái của hệ thống bị
quản lý tại thời điểm trước khi ra quyết định. Thông tin phải được nêu lên dự
trên cơ sở những mục tiêu cụ thể đặt ra cho hệ thống bị quản lý. Giai đoạn tiếp
theo là chủ thể quản lý xây dựng quyết định quản lý dựa trên những thông tin
thu nhận được. Quyết định quản lý là phương tiện chủ yếu để chủ thể quản lý
tác động vào hệ thống bị quản lý, hướng các tổ chức vào việc phấn đấu đạt mục
tiêu giáo dục, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Quyết định quản lý phải bảo đảm
tính tối ưu. Những yếu tố cấu thành quyết định quản lý là: Vạch ra kế hoạch
chiến lược; xác định mục tiêu, chỉ tiêu và kết quả của quyết định; giải pháp và
biện pháp cụ thể; thu thập thông tin cần thiết về diễn tiến của đội tượng quản
lý;...
Giai đoạn thứ ba là dựa trên cơ sở quyết định đã chọn, chủ thể quản lý
dùng những biện pháp tác động đến đối tượng bị quản lý, làm cho nó chuyển từ
trạng thái này sang trạng thái khác bảo đảm việc thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Giai đoạn cuối cùng, Chủ thể quản lý thu thập thông tin về trạng thái của
đối tượng bị quản lý sau tác động. Từ đó có quyết định điều chỉnh hoặc
chuyển sang quá trình kế tiếp. Các giai đoạn của quá trình QLGD là một chu
trình từng mắt, khâu trong từng giai đoạn, giữa các giai đoạn với nhau có
quan hệ chặt chẽ tác động biện chứng với nhau thành một quá trình vận động
và phát triển theo quy luật, theo định hướng nhất định của nhà quản lý nhằm
đạt mục tiêu đề ra.
2. Thực trạng công tác quản lý giáo dục đại học ở nước ta hiện nay.
10
Cũng như các nước trên thế giới, chất lượng GD - ĐT, QLGD là một trong
những mối quan tâm của toàn xã hội và là vấn đề trọng yếu trong chính sách giáo
dục được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đã xác định rõ: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật để bảo
đảm sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu quả đáp ứng nhu cầu về
con người và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Chiến
lược phát triển giáo dục Việt Nam 2001 - 2010 cũng khẳng định yêu cầu các cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục cần: “Tập trung làm tốt ba nhiệm vụ chủ yếu:
Xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển giáo dục; xây dựng cơ chế
chính sách và quy chế quản lý nội dung và chất lượng đào tạo; tổ chức kiểm tra và
thanh tra, Đặc biệt chú trọng công tác thanh tra giáo dục và bảo đảm chất lượng
giáo dục thông qua việc tổ chức và chỉ đạo hệ thống kiểm định chất lượng. Báo cáo
của Chính phủ về tình hình giáo dục (10/2004) đặt ra nhiệm vụ “Cải tiến công tác
quản lý, điều hành, tập trung vào chức năng quản lý nhà nước, lấy việc quản lý chất
lượng làm nhiệm vụ trọng tâm”.
Chính vì vậy, đổi mới GD - ĐT ở nước ta hiện nay vừa là một nhiệm
vụ chiến lược, lâu dài nhưng cũng là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong đó
đổi mới, nâng cao chất lượng công tác QLGD đóng vai trò then chốt bảo đảm
sự thành công của phát triển giáo dục.
Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự chỉ đạo sâu sát quyết liệt của Chính
phủ, sự quan tâm hợp tác tích cực của các Bộ, Ngành từ Trung ương đến chính
quyền các cấp và quyết tâm của ngành giáo dục trong những năm qua công tác đổi
mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả GD - ĐT, công tác QLGD đã thu được
những thành tựu đáng khích lệ như:
- Về pháp lý, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý nhà
nước, ngày 17/9/2001 Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã ra quyết định
phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2010
11
với mục tiêu chung sau : “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”. Đồng thời đề ra các mục tiêu
cụ thể như: hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách, phù
hợp với thời kỳ CNH,HĐH đất nước, cơ cấu gọn nhẹ, thủ tục hành chính
công khai, đơn giản, nền hành chính hiện đại hoá từng bước rõ rệt...Chính phủ
cũng đề ra 5 giải pháp; chương trình hành động gồm 7 nội dung. Chính phủ
nhấn mạnh trong lĩnh vực giáo dục, các mục tiêu, yêu cầu, nội dung cải cách
hành chính có mối quan hệ gắn bó với nhiệm vụ, nội dung đổi mới quản lý
nhà nước về giáo dục, đặc biệt là trong các lĩnh vực hoàn thiện thể chế, chính
sách, tổ chức bộ máy giáo dục các cấp, các quy trình, thủ tục hành chính trong
giáo dục, kết quả của cải cách hành chính là một trong những yếu tố quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả đổi mới quản lý giáo dục từ QLGD ở
tầm vĩ mô đến QLGD ở cấp vi mô. Bổ sung, hoàn thiện Luật giáo dục; khẩn
trương triển khai thực hiện nghị định 166/2004/NĐ - CP ngày 16/9/2004 về
quy định trách nhiệm QLNN về giáo dục, từ trung ương đến địa phương và cơ
sở, nâng cao chất lượng công tác pháp chế và thanh tra trong ngành giáo dục
và đào tạo, tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch phát triển giáo dục...Đặc biệt là triển khai đề án đào tạo, bồi dưỡng có
hệ thống đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục các cấp nhằm nâng cao chất lượng
QLGD - Thành lập Học viện QLGD Quốc gia.
- Đã khẳng định được vị trí, vai trò giáo dục, hoạch định được các chính
sách hữu hiệu trong thời kỳ đổi mới đất nước, tiếp tục đổi mới chính sách
giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới hệ thống giáo dục.
12
- Đổi mới công tác kế hoạch hoá giáo dục; lập kế hoạch chiến lược của
giáo dục và QLGD.
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ quản lý và giáo viên trong giáo dục.
- Tiếp tục tăng cường đầu tư cho giáo dục.
- Tăng cường kiểm định, kiểm tra và thanh tra chất lượng, bước đầu đã
thông qua và xây dựng được các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục cho
từng cấp học, bậc học, từng ngành nghề...(tuy chưa hoàn chỉnh) nhưng bước
đầu ở nhiều cơ sở GD - ĐT đã khẳng định chất lượng giáo dục với xã hội,
được xã hội và thị trường chấp nhận.
- Với chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Chính phủ đã tạo điều
kiện cho việc tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về giáo dục đào tạo
hiệu quả nếu thực hiện theo các hướng như: Tăng cường tính tự chủ và tính
trách nhiệm xã hội cho nhà trường trong hợp tác giáo dục đào tạo (GD ĐT)...Mở dịch vụ đào tạo thu hút học sinh sinh viên đến Việt Nam học
tập...Hiện đại hoá GD - ĐT tiếp cận với các nền GD - ĐT tiên tiến trên thế giới.
Đảm bảo chủ quyền và bản sắc văn hoá dân tộc trong hợp tác đối ngoại và thu
nạp những kinh nghiệm giáo dục quốc tế đã thu được những kết quả khả quan.
- Ngành GD - ĐT đã đẩy mạnh công tác đổi mới quản lý, tăng cường trật tự,
kỷ cương, xây dựng, củng cố nền nếp dạy và học trong các cơ sở giáo dục tập
trung vào công tác kiểm tra, thanh tra giải quyết các vấn đề nổi cộm, lập lại trật
tự kỷ cương, đẩy lùi tiêu cực, chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan;
Các cơ quan thanh tra giáo dục đã có một số biện pháp tích cực trong việc đấu
tranh nhằm chấn chỉnh tệ nạn sử dụng văn bằng, chứng chỉ không hợp pháp và
cấp phát văn bằng, chứng chỉ sai quy định (9/1999 đã phát hiện 5.742 trường
hợp sử dụng văn bằng không hợp pháp; xử lý buộc thôi việc 275 cán bộ, công
chức). Thực hiện tương đối có hiệu quả cuộc vận động “hai không” trong giáo
dục.
13
Tuy nhiên, công tác GD - ĐT, QLGD ở nước ta trong những năm qua vẫn
còn một số hạn chế, bất cập nhất là trong công tác QLGD.
Đánh giá về vấn đề này các NQ của Đảng, Nhà nước cũng nhắc tới
những yếu kém của giáo dục nói chung, nhất là QLGD. Có thể tóm tắt:
QLGD kém hiệu quả, một số hiện tượng tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp
thời, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan quản lý chưa rõ, còn hiện
tượng chồng chéo, trình độ quản lý chưa theo kịp với thực tiễn với sự nghiệp
đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, chậm đổi mới cả tư duy và phương
thức quản lý, chậm đề ra các định hướng chiến lược và các chính sách vĩ mô
đúng đắn để xử lý quan hệ giữa quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục, tổ
chức giáo dục còn “khép kín” không tạo sự liên thông giữa các cấp, các ngành
học, chưa quan tâm đến những vấn đề lý luận phát triển giáo dục trong giai
đoạn mới, năng lực cán bộ quản lý còn thấp...Những yếu kém bất cập này
biểu hiện cụ thể trên các mặt như:
- Về quản lý vĩ mô, tính kế hoạch chiến lược chưa hoàn thiện, chưa đồng
bộ còn mang tính chất “ăn đong”, “thời vụ”, dẫn đến mỗi nơi làm một kiểu,
chưa đề ra qui chế về quản lý phù hợp với điều kiện nước ta, mà tiếp thu các
kinh nghiệm, mô hình quản lý khi thì của phương Đông, lúc lại của phương
Tây một cách máy móc; có những chính sách về giáo dục chưa được xã hội
đồng tình như đề ra mục tiêu phải đào tạo hai vạn tiến sỹ trong khi qua đánh
giá khi so sánh với Thái Lan thì kết quả là số lượng tiến sỹ ở nước ta nhiều hơn
nhưng số công trình khoa học được công bố trên thế giới lại ít hơn của Thái
Lan, như vậy chất lượng đào tạo tiến sỹ của ta còn thấp , còn chạy theo số
lượng.
- Cơ chế tổ chức quản lý còn bất cập chưa đồng bộ và thống nhất, sự liên
kết còn lỏng lẻo theo ngành dọc từ bộ GD - ĐT đến các cơ sở đào tạo, mối kết
hợp ngang giữa các Sở, Ban; giữa các cơ sở đào tạo ...với nhau gây ra tình trạng
14
chồng chéo, “dẫm chân” nhau chức năng, nhiệm vụ, về cách thức quản lý trong
khi cơ sở pháp lý không rõ, không đầy đủ nên hiệu quả quản lý chưa cao.
- Công tác quản lý nhà nước về GD - ĐT chưa chặt chẽ; phân cấp quản
lý và công tác bảo đảm cho các trường còn chồng chéo, phân tán. Quy hoạch
tổ chức hệ thống nhà trường chưa ổn định. Tổ chức biên chế nhiều trường
chậm được kiện toàn và chưa bảo đảm tính thống nhất ảnh hưởng rất lớn đến
công tác QLGD. Vai trò tự chủ của các nhà trường còn hạn chế chưa sát với
điều kiện của các nhà trường ở các vùng, miền, địa phương khác nhau nên
công tác quản lý gặp rất nhiều khó khăn.
- Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền đã được khắc
phục một bước song vẫn còn mất cân đối bất cập. Các cơ sở giáo dục, nhất là
giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp tập trung quá nhiều vào các thành
phố lớn, khu công nghiệp lớn. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
cấc dân tộc thiểu số còn khó khăn; về chương trình, sách giáo khoa ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa cũng giống như ở thành phố là chưa hợp lý vì điều
kiện học tập khác nhau nên trình độ cũng có sự chênh lệch nên hiệu quả giáo
dục chưa cao, chưa đều và ngày càng bị nới rộng khoảng cách trình độ học
sinh giữa các vùng, miền rất khó đánh giá chính xác kết quả học tập.
- Việc tăng quy mô đào tạo trong những năm gần đây chủ yếu là diễn ra
ở bậc đại học; tỷ lệ học sinh, sinh viên cao đẳng kỹ thuật,công nghệ, trung
học chuyên nghiệp và học nghề còn thấp và tăng chậm. Công tác dự báo, quy
hoạch định hướng ngành nghề đào tạo chưa tốt. Học sinh, sinh viên chưa
được nhà trường hướng dẫn đầy đủ về nghề nghiệp và tạo khả năng tự lập
nghiệp.
- Đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD (CBQLGD) thiếu về số lượng và nhìn
chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được với yêu cầu vừa phải tăng nhanh
quy mô vừa phải bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, QLGD.
15
Đặc biệt đội ngũ CBQLGD còn nhiều người chưa được đào tạo bài bản về
chuyên ngành. Nhà nước chưa có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp
cán bộ hợp lý, quy chế chưa rõ ràng nên nên còn lẫn lộn giữa cán bộ quản lý với
cán bộ chuyên môn, chưa phân biệt được cấp nào cần cán bộ chuyên môn, cấp
nào cần cán bộ quản lý để sắp xếp cho phù hợp tránh chéo giò không phát huy
hết khả năng trí tuệ của cán bộ dẫn đến kém hiệu quả trong công tác quản lý. Đội
ngũ CBQLGD và giảng viên các trường đại học ít có điều kiện thường xuyên
tiếp cận, cập nhật tri thức và những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế
giới.
- Có đầu tư các cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật cho các nhà trường
nhưng chưa đồng bộ và hiện đại, chưa mạnh dạn áp dụng những thành tựu
công nghệ thông tin trong tổ chức quản lý điều hành GD - ĐT và nhất là chưa
xây dựng được một hệ thống lý luận quản lý về GD - ĐT.
- Công tác QLGD còn kém hiệu quả. Một số hiện tượng tiêu cực, thiếu
kỷ cương trong giáo dục chưa được ngăn chặn kịp thời. Các hiện tượng
“thương mại hoá giáo dục” như mua bằng, bán điểm, tuyển sinh vượt chỉ tiêu,
thu chi sai nguyên tắc làm ảnh hưởng tới uy tín của nhà trường, của nhà giáo.
Hiện tượng gian lận trong kiểm tra thi cử của học sinh, sinh viên ảnh hưởng
đến nhân cách và thái độ lao động của người học sau này. Ma tuý và các tệ
nạn xã hội đã xâm nhập vào nhà trường.
Đánh giá chung của Chính phủ là chất lượng giáo dục nhìn chung còn
thấp một mặt chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến trong khu vực và trên
thế giới, mặt khác chưa đáp ứng với các ngành nghề trong xã hội. Học sinh,
sinh viên tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng thực
hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự lập nghiệp còn hạn chế.
Chất lượng, hiệu quả đào tạo của giáo dục đại học (GDĐH) ở Việt Nam
đều thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực... Có
16
lẽ đó là những nhận định được thống nhất cao trong số gần 1.000 đại biểu
tham dự hội thảo “Đổi mới giáo dục ĐH VN: Cơ hội và thách thức” do Bộ
GD-ĐT tổ chức tại Hà Nội hôm 30/3/2009.
“Giáo dục đại học Việt Nam (VN) chưa đạt chuẩn hội nhập quốc tế,
thiếu liên tục, tuyển sinh bất cập và tốn kém, chất lượng và hiệu quả kém”.
Đó là đánh giá khái quát của ông Nguyễn Văn Ân, cố vấn trưởng Công ty
IBMI (Mỹ) về những yếu kém của hệ thống GDĐH VN hiện nay.
Tương tự, nhiều cán bộ quản lý giáo dục cũng cho rằng một trong những
nguyên nhân quan trọng khiến GDĐH VN yếu kém, hạn chế trong chất lượng
đào tạo ĐH là do cung cách quản lý của Bộ GD-ĐT đã hạn chế quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của các trường.
“Cho đến nay, trong nhiều hoạt động tác nghiệp, các trường ĐH không
được tự điều hành quản lý mọi công việc của mình và vẫn đang chịu sự chi
phối của Bộ GD-ĐT. Do bộ thực hiện các hoạt động tác nghiệp của các
trường ĐH nên các trường trở nên thiếu chủ động...” - PGS.TS Ngô Doãn
Đãi, phó trưởng ban đào tạo (ĐHQG Hà Nội), nhận xét.
Ông Đãi dẫn chứng cụ thể: các trường ĐH trong cả nước đang ở tình
trạng bị động trong công tác tuyển sinh, ở hầu hết các khâu: ngày tổ chức kỳ
thi, việc phát hành hồ sơ đăng ký dự thi, nhận hồ sơ, hình thức ra đề, xây
dựng điểm chuẩn, xét tuyển... đều do bộ qui định, điều hành.
Các trường không được tự thiết kế và ấn hành văn bằng và nhiều loại giấy
tờ, hồ sơ khác cho SV. Trong khi đó các nước phát triển và nhiều nước đang
phát triển đều coi đây là những việc riêng của các trường ĐH vì mỗi trường có
cách tuyển chọn thí sinh, điều kiện tuyển chọn và mẫu đơn tuyển sinh riêng.
Vì các trường ĐH ở các nước được chủ động tuyển sinh theo cách của
mình nên việc tuyển sinh nhẹ nhàng mà chính xác, không làm cả xã hội căng
17
thẳng như kỳ thi tuyển sinh ĐH của ta. Ôm đồm như vậy nhưng Bộ GD-ĐT
quản lý như thế nào?
“Bộ GD-ĐT đang là một cơ quan độc chiến, thiên về giải quyết những
tình huống cụ thể nảy sinh... GDĐH thì chỉ tập trung lo thi tuyển đầu vào từng
năm một...” - đó là nhận xét của TS Nguyễn Mậu Dững (phân viện Đà Nẵng
thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
GS.TSKH Vũ Ngọc Hải - người đã từng nhiều năm làm công tác quản lý
GDĐH - cũng phải thừa nhận: một trong những giải pháp chủ yếu để cải cách
GDĐH hiện nay là phải cải cách thể chế quản lý theo hướng xác định tư cách
tự chủ của trường ĐH trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học, tài chính,
nhân sự..., xác định cơ chế điều tiết thị trường của GDĐH để trường ĐH liên
hệ trực tiếp với xã hội và thị trường lao động và chịu sự giám sát của xã hội
về giá trị văn bằng, chất lượng đào tạo.
Về vấn đề Trường ĐH “khép kín” với các “thợ dạy”.
Mời các giảng viên nước ngoài giảng dạy cũng là một trong những
hướng nâng cao chất lượng đào tạo ĐH . Nhưng “Phần lớn các trường ĐH
VN ở trong tỡnh trạng khộp kớn, khộp kớn giữa cỏc trường ĐH với nhau và
khép kín giữa trường ĐH với thực tiễn cuộc sống” - đó là đánh giá của một
“người trong cuộc”, TS Đỗ Huy Quang (ĐH Sư phạm Hà Nội).
Theo TS Quang, biết bao vấn đề từ nền kinh tế xã hội chưa được các
trường ĐH đón nhận, xông vào giải quyết. Nhiều trường ĐH mở rộng quan hệ
với các địa phương nhưng là để mở các hệ tại chức, không chính qui...
Nhiều trường chỉ tiêu đào tạo không chính qui cao hơn cả hệ chính qui,
trong khi số lượng giảng viên lại được khoán rất hạn chế (chỉ tính theo chỉ
tiêu chính qui), khiến ở hầu hết các trường ĐH, người giảng viên phải tập
trung cho việc giảng dạy với cường độ lớn. Giảng viên phải dạy hai ca, thậm
chí ba ca ở các hệ đào tạo khác nhau, vượt gấp mấy lần định mức...
18
“Một khi người giảng viên ĐH trở thành những người “thợ dạy”, chỉ có
dạy và dạy, dạy nhiều đến mức không còn thời gian tự bồi dưỡng và nghiên
cứu khoa học thì vấn đề chất lượng giảng dạy, chất lượng sản phẩm đào tạo
thấp cũng không phải là điều khó hiểu”.
Nhưng mặt khác, ông Quang cũng nêu lên một thực tế: “Để các trường
ĐH trở thành những trung tâm nghiên cứu khoa học, lấy nghiên cứu khoa học
làm động lực để nâng cao chất lượng giảng dạy, nâng cao trình độ cán bộ,
nâng cao giá trị sản phẩm đào tạo đối với xã hội, chắc chắn giá trị của nghiên
cứu khoa học phải cao hơn so với giảng dạy tại chức, luyện thi ĐH... mới có
thể khích lệ cán bộ nhiệt tình đầu tư cho nghiên cứu. Còn hiện tại, điều đó
chưa đạt được”.
Thực tế ấy khiến TS Quang đặt câu hỏi: “Giả sử cứ kéo dài tình trạng
như hiện nay thì diện mạo của các trường ĐH sẽ như thế nào trong tương
lai?”. Câu hỏi này không biết liệu một cuộc hội thảo diễn ra trong hai ngày
này có đưa ra được lời giải đáp trọn vẹn?
Trên đây chỉ là một số vấn đề hạn chế, bất cập trong GD - ĐT và nhất là
trong công tác QLGD mà tác giả đã tổng hợp được từ các văn kiện của Đảng,
nhà nước và một số tài liệu của một số các nhà khoa học, nhà chuyên môn,
cán bộ QLGD...và trong thực tiễn của mình cùng với ý kiến của các nhà khoa
học, CBQLGD tại cuộc hội thảo gần đây nhất, chủ đề “Đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam: Cơ hội và thách thức” (ĐHVN), do Bộ GD-ĐT tổ chức tại Hà
Nội ngày 30/32009.
Những hạn chế bất cập này ảnh hưởng không nhỏ đến GD - ĐT, QLGD
của nước ta cho nên trong những năm qua chất lượng, hiệu quả nâng cao dân
trí,đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cồn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của
đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
* Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập.
19
- Trước hết là do yếu tố chủ quan, quan điểm “giáo dục là quốc sách
hàng đầu” của Đảng và nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thực sự chỉ
đạo hành động trong một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản ,lý các cấp. Giáo dục
vẫn được xem là công việc riêng của ngành giáo dục, chưa tạo ra được sự liên
kết, phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các lực lượng xã hội và ngành
giáo dục để phát triển sự nghiệp giáo dục; việc kết hợp giáo dục nhà trường
với giáo dục gia đình và giáo dục ngoài xã hội chưa được quan tâm đúng
mức. Trình độ năng lực cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng, nhà
nước về GD - ĐT còn hạn chế; trình độ QLGD chưa theo kịp thực tiễn và nhu
cầu phát triển của kinh tế - xã hội của đất nước; chưa phối hợp tốt và sử dụng
có hiệu quả nguồn lực của nhà nước và của xã hội; chậm đổi mới về cả tư
duy và phương thức quản lý; chậm đề ra các định hướng chiến lược và chính
sách vĩ mô đúng đắn để xử lý mối tương quan giữa quy mô, chất lượng và
hiệu quả trong giáo dục. Các văn bản pháp quy về giáo dục chưa được ban
hành kịp thời. Công tác thanh tra giáo dục còn yếu và chưa được quan tâm
đúng mức. Những vấn đề về lý luận phát triển giáo dục trong giai đoạn mới
chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức để định hướng các hoạt động thực
tiễn. Năng lực của CBQLGD các cấp chưa được chú trọng nâng cao. Một số
CBQLGD và giáo viên suy giảm về phẩm chất đạo đức.
- Về mặt khách quan, thực tiễn đất nước trong quá trình đổi mới, phát
triển, dân số và dân trí tăng nhu cầu học tập của nhân dân rất lớn đang gây
nên một sức ép lớn lên ngành giáo dục nhưng lao động thừa nhiều, khả năng
sử dụng lao động của nền kinh tế còn hạn chế, khả năng đầu tư cho giáo dục
còn hạn hẹp, mặt trái của kinh tế thị trường đang làm thay đổi thang giá trị xã
hội, phẩm chất người lao động...Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng
phát triển nhân cách người học. Giáo dục nước ta chưa có những biện pháp
hiệu quả để tác động tích cực đến những thay đổi đó. Những chậm trễ trong
20
cải cách hành chính nhà nước, trong việc đổi mới quản lý kinh tế, tài chính,
sử dụng lao động, chính sách tiền lương...cũng là yếu tố cản trở việc giải
quyết có hiệu quả những vướng mắc của ngành giáo dục trong việc huy động
sức mạnh của toàn xã hội vì sự nghiệp phát triển giáo dục để tạo một sự tăng
trưởng nhanh chóng đáp ứng những nhu cầu rất cao của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân trên tuy chưa đầy đủ, toàn diện
có lĩnh vực chưa sâu nhưng là những vấn đề quan trọng đây chính là những
thách thức lớn đối với công tác quản lý giáo dục, bởi nó thuộc chủ quan của
ngành giáo dục và đổi mới quản lý giáo dục là khâu đột phá có ý nghĩa hết
sức quan trọng hiện nay để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
Từ nghiên cứu lý luận khoa học quản lý giáo dục, từ thực trạng công tác
QLGD ở nước ta hiện nay tác giả đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm đổi
mới, nâng cao hiệu quả công tác QLGD như sau.
3. Những biện pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục ở
nước ta hiện nay.
3.1. Quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo
dục; tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục.
Cần quán triệt sâu, rộng các quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục
như Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992); Luật giáo
dục (2005), Nghị quyết (NQ) của Đảng (NQ 4 TƯ khoá VII, NQ 2 TƯ khoá
VIII, NQ đại hội X,...); của Quốc hội (NQ 40 của Quốc hội tại kỳ họp thứ tám
khoá X), của Chính phủ (Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010, ban
hành ngày 28/12/2001) cho toàn dân nhất là cho đội ngũ cán bộ chủ chốt từ
trung ương đến cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực GD
- ĐT. Mọi người phải nhận thức sâu sắc quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
ở nước ta là: Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục là nền tảng,
21
nguồn nhân lực chất lượng cao một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp CNH,HĐH, là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững; Phải xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại theo định hướng XHCN; Phát triển giáo dục phải gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ, củng cố
quốc phòng, an ninh và giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Từ quán triệt quan điểm giáo dục của Đảng, nhà nước đến nhận
thức được thực tiễn nền giáo dục nước ta hiện nay đối với giáo dục và QLGD
trong hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hoá, trong bối cảnh đó giáo dục phải
được đổi mới mạnh mẽ, trước hết là đổi mới tư duy một cách triệt để, toàn
diện. Cần nhận thức sâu sắc hơn mục tiêu giáo dục trong thời kỳ mới là phát
triển con người Việt Nam có đức có tài, dân tộc và hiện đại, đáp ứng những
đòi hỏi của công cuộc CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; Nền giáo dục
Việt Nam là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân hướng tới một xã hội học
tập; xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để phát triển giáo dục; giáo dục
Việt Nam phải tăng cường hợp tác quốc tế và giáo dục phải thường xuyên cập
nhật các thành tựu mới về khoa học và công nghệ. Với tư duy mới đó, để tạo
ra sự chuyển biến cơ bản và vững chắc, rút ngắn khoảng cách so với các nền
giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, giáo
dục nước ta cần phải tiếp tục đổi mới theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã
hội hoá; mà một trong những nội dung quan trọng là cần đột phá đổi mới
trong QLGD.
3.2. Cải cách triệt để công tác hành chính trong giáo dục; tăng cường
hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục.
Phải quán triệt sâu sắc và kiên quyết thực hiện cho được mục tiêu xây
dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,
hiện đại hoá hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước
22
pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng...Thủ tục hành chính quan
liêu, rườm rà vòng vèo...chính sản phẩm của lối tư duy cũ, là điểm yếu chí
mạng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đổi mới đất nước, hội nhập theo định
hướng XHCN nói chung và đối với lĩnh vực QLGD nói riêng. Muốn cải cách
hành chính hiệu quả trước hết phải hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ
chế, chính sách phù hợp với thời kỳ phát triển mới của đất nước; xoá bỏ cơ
bản thủ tục hành chính mang tính quan liêu rườm rà, hoàn thiện các thủ tục
hành chính mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân; các cơ
quan trong hệ thống hành chính được xác định chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền rõ ràng, cơ cấu gọn nhẹ, hợp lý và nền hành chính được hiện đại hoá
một bước rõ rệt.
Đổi mới, cải cách hành chính nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước đồng thời tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLGD. Trong lĩnh vực
này cần tiếp tục hoàn thiện và triển khai trong thực tế hệ thống pháp luật và
các văn bản pháp quy về giáo dục nói chung và quản lý nhà nước (QLNN) về
giáo dục (GD) nói riêng. Một trong những giải pháp quan trọng và cấp bách
hiện nay để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác QLNN về GD là thực hiện
việc phân cấp và phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và các điều kiện thực
thi quyền hạn ở các cấp QLGD từ trung ương đến địa phương; Phân cấp
QLNN về GD phải bảo đảm tương ứng giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách
nhiệm, nguồn lực tài chính, nhân sự, đào tạo, tuyển sinh và các điều kiện cần
thiết để thực hiện các công việc được phân cấp, để các cơ sở GD chịu trách
nhiệm chính và trực tiếp với sản phẩm đào tạo của mình. Nâng cao trách
nhiệm của các cơ quan QLGD các cấp trong công tác quản lý, giám sát triển
khai và tổ chức thực hiện Điều lệ nhà trường các cấp đã được Chính phủ và
Bộ GD & ĐT ban hành.
23
3.3.Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực quản lý và phẩm
chất của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Hiện nay, đội ngũ QLGD ở nước ta vừa thiếu lại vừa hạn chế về trình độ,
năng lực và chưa đồng bộ, do hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như giáo
viên, giảng viên, cán bộ từ các nguồn khác chuyển sang...phần đông lại chưa
được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về kiến thức về quản lý nói chung, kiến thức
QLGD nói riêng. Vì vậy, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ,
năng lực quản lý và phẩm chất đội ngũ CBQLGD là hết sức quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác QLGD.
Trước hết phải xây dựng và triển khai thực hiện tốt Đề án kiện toàn và
phát triển đội ngũ CBQLGD đảm bảo cả về số lượng và cơ cấu. Đào tạo và
bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQLGD các cấp về kiến thức, kỹ năng
quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức, Thực hiện tốt quy trình, kế hoạch
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBQLG theo tiêu chuẩn chức danh.
Phân công phân cấp hợp lý giữa các cấp, các ngành về trách nhiệm, quyền
hạn quản lý đồng thời điều chỉnh, sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù
hợp với năng lực và phẩm chất của từng người. Tăng cường các biện pháp
giáo dục đạo đức nghề nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm và tác phong
của người cán bộ quản lý. Bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách về đãi
ngộ, khen thưởng, bảo đảm điều kiện làm việc và sinh hoạt, đồng thời kiên
quyết loại ra khỏi hàng ngũ những cán bộ quản lý không đủ năng lực, vi phạm
nguyên tắc, kỷ luật của tổ chức, suy thoái về phẩm chất đạo đức.
3.4. Đổi mới quản lý chất lượng giáo dục.
Chất lượng giáo dục do nhiều yếu tố tạo nên, nhưng trước hết, chất
lượng giáo dục phải là kết quả của của quá trình GD - ĐT và được thể hiện
trong hoạt động nghề nghiệp của người tốt nghiệp, khả năng thích ứng với thị
trường lao động, chính sách sử dụng và bố trí công việc của nhà nước và
24
người sử dụng lao động...do vậy đổi mới quản lý về chất lượng giáo dục cần
phải: Xây dựng và sớm hoàn thiện hệ thống đánh giá và bảo đảm chất lượng
cho các cấp học, bậc học và các loại hình đào tạo (hệ thống này từng bước
tiến tới phù hợp với hệ thống chất lượng, thị trường các nước trong khu vực
và thế giới tất nhiên chỉ một số mặt, một số ngành nhất là các ngành khoa học
tự nhiên, khoa học công nghệ...Còn vẫn phải theo những nét đặc thù của nền
văn hoá Việt Nam như các tiêu chí về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
truyền thống dân tộc...) đảm bảo cho người học được hưởng một nền giáo dục
toàn diện, hình thành những giá trị nhân cách, phẩm chất, kỹ năng, thái độ và
kiến thức hoàn chỉnh để thực hiện tốt vị trí xã hội nghề nghiệp mà mình đảm
nhiệm; Quản lý chất lượng giáo dục là phải quản lý toàn diện các hoạt động
giáo dục, trong đó trọng tâm là quản lý quá trình dạy và học, gắn quá trình
dạy học của nhà trường và cơ sở giáo dục với thực tiễn phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho người học có thể thích ứng được với thị trường sức lao động
luôn biến đổi và có tính năng động cao. Đổi mới quản lý chất lượng giáo dục
phải tăng cường kiểm định, kiểm tra và thanh tra chất lượng thông qua xây
dựng các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục cho từng cấp học, bậc học,
cho từng ngành nghề và tạo điều kiện để từng trường học, từng cơ sở giáo dục
xây dựng thương hiệu của chính mình thông qua sự khẳng định chất lượng
giáo dục đối với xã hội, được xã hội và thị trường chấp nhận.
3.5. Tích cực đẩy mạnh đổi mới công tác kiểm tra, thanh tra.
Để đẩy mạnh đổi mới công tác quản lý, tăng cường trật tự, kỷ cương,
xây dựng củng cố nền nếp dạy và học trong các cơ sở giáo dục cần phải tăng
cường, đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra toàn diện trong toàn ngành giáo
dục. Đây là một trong những khâu quan trọng, không thể thiếu của quy trình
quản lý, không kiểm tra, thanh tra là không quản lý. Trước hết phải kiện toàn
bộ máy thanh tra giáo dục các cấp. Lựa chọn từ những người có kinh nghiệm,
25
đã kinh qua công tác quản lý, có phẩm chất tốt, có năng lực xem xét kết luận,
kiến nghị biện pháp giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn quản lý
biên chế đủ cho các cơ quan (Sở, Phòng) theo biên chế. Bên cạnh đội ngũ
thanh tra chuyên trách các Sở lựa chọn bổ nhiệm cộng tác viên thường xuyên
(thanh tra viên kiêm nhiệm) để đủ lược lượng tiến hành các hoạt động đánh
giá giáo viên và phân loại trường học và các cơ sở giáo dục khác theo trách
nhiệm quản lý được quy định tại Luật Giáo dục.
Kiện toàn hoặc thành lập mới bộ phận thanh tra trong các cơ sở giáo dục
đại học theo quy định tại điều lệ trường đại học do Thủ tướng Chính phủ ban
hành. Ban hành các quy định về chức năng, lề lối làm việc, hướng vào trọng
tâm công tác là giám sát hoạt động công tác đào tạo, đề xuất, xem xét, kết
luận các vụ việc, kiến nghị biện pháp giải quyết khiếu nại, tố cáo, giúp thủ
trưởng tiếp công dân theo quy định của Luật Khiếu nại tố cáo. Xây dựng mô
hình hệ thống bộ máy thanh tra độc lập, chuyên trách các cấp theo luật bảo
đảm phân cấp mạnh, tinh gọn nhưng hiệu quả.
Ngoài ra còn phải tăng cường đầu tư và ứng dụng phương tiện kỹ thuật
hiện đại cho công tác QLGD như điều hành huấn luyện, phát, thu nhận thông
tin nắm tình hình xử lý thông tin, xử lý tình huống kịp thời.
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng phát triển các
phần mềm quản lý chuyên dụng để quản lý chặt chẽ, khoa học công tác giáo
dục, đào tạo các cấp.
Trên đây chỉ là những biện pháp cơ bản mà tác giả mạnh dạn đề xuất.
Mỗi nội dung, biện pháp này có vị trí, vai trò khác nhau tác động vào hệ
thống, quá trình QLGD ở những góc độ khác nhau và tác dụng không ngang
bằng nhau nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, hỗ trợ
nhau. Muốn đổi mới năng cao hiệu quả QLGD ở nước ta hiện nay phải tiến
hành đồng bộ những biện pháp này và nhiều biện pháp khác nữa tạo thành