Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề CHIẾN TRANH THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH ý NGHĨA của CUỘC CHIẾN TRANH HIỆN đại NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.8 KB, 18 trang )

1

VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. Ý NGHĨA
CỦA CUỘC CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI NGÀY NAY
MỞ ĐẦU:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…Trong đó tư
tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là một trong những nội dung cơ
bản. Đó là sự đúc kết tinh hoa văn hoá quân sự Việt Nam và tinh hoa quân sự
nhân loại, kinh nghiệm và truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông ta từ bao
đời nay, đặc biệt là trong chiến tranh vũ trang.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội là sự vận dụng phát
triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin về chiến tranh
và quân đội nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của thực tiễn chiến tranh
giải phóng, chiến tranh bảo vệ tổ quốc và vấn đề tổ chức và xây dựng quân đội
nhân dân Việt Nam.
Trải qua hơn 70 năm, dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Đảng của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, quân đội nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân tộc đã tiến hành
cuộc cách mạng chống lại thực dân và bọn đế quốc, đã giành được thắng lợi này
đến thắng lợi khác và có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng thế giới. Từ quá trình
nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là nghiên cứu những vấn đề về
chiến tranh và quân đội, Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất, tính chất chính trị
xã hội của chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa
thực dân. Hồ Chí Minh đã làm rõ nguồn gốc, bản chất của quân đội, của chiến


2



tranh từ đó Người cho rằng bản thân chủ nghĩa thực dân đã là bạo lực rồi mà để
chống lại bạo lực phản cách mạng thì phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại,
chứ không thể đấu tranh trên nghị trường được. Với phương châm xây dựng
quân đội của dân, do dân, vì dân, sẵn sàng chiến đấu vì sự nghiệp của dân, đây là
tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội
kiểu mới của giai cấp vô sản, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, của
nhà nước trong sự nghiệp chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, Chủ
nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
với bản chất hiếu chiến của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ chưa từ
bỏ âm mưu làm bá chủ thế giới, tham vọng sen đầm quốc tế, chúng luôn tìm mọi
cách xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước còn lại trong đó Việt Nam là
một trọng điểm. Bằng nhiều thủ đoạn và các chính sách ngày càng thâm độc và
xảo quyệt, chính sách “nhân đạo”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo, chống khủng
bố, lôi kéo kích động làm mất ổn định về tình hình chính trị, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, bằng các thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn, chúng ngày
càng điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, để nhằm che đậy bản chất của
chúng. Hiện nay với quan điểm của chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh không cần
khói súng, mà chiến tranh bằng những viên thuốc bọc đường, một mặt chúng tìm
bằng mọi cách xuyên tạc lý luận nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, một
mặt chúng ra sức tăng cường sức mạnh quân sự để răn đe, nếu có thể đánh đòn
phủ đầu, tạo áp lực để các nước phải theo chúng, một mặt dùng chính sách kinh
tế để áp lực về chính trị, chúng tuyên bố theo chúng thì tồn tại bằng không thì sẽ
chết.


3


Trong tình hình hiện nay, cần phải nhận thức đúng đắn lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội, vạch trần bản
chất chiến tranh, âm mưu thủ đoạn của chúng, để từ đó có biện pháp giáo dục rèn
luyện xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, sẵn
sàng đập tan sự chống phá của kẻ thù. Để nhận thức sâu sắc nguồn gốc bản chất
chiến tranh theo lý luận chủ nghĩa mác, và sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí
Minh về chiến tranh và quân đội cần tập trung làm rõ các vấn đề đó là:
1. Cơ sở hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và
quân đội
Thứ nhất, Kế thừa kinh nghiệm truyền thống đánh giặc chống ngoại xâm
của ông cha ta
Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đánh thắng
nhiều đạo quân xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Lịch sử hào hùng của
dân tốc ta đã ghi lại biết bao chiến công hiển hách. Lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm đã trở thành truyền thống vô cùng quý
báu của dân tộc ta. Dưới các triều dại phong kiến, kẻ thù bên ngoài đã xâm lược
nước ta đều xuất phát từ một quốc gia phong kiến, cùng một phương thức sản
xuất phong kiến, một nền nông nghiệp lạc hậu. Với đường lối toàn dân đánh
giặc, trên dưới một lòng, lấy chí nhân thay cường bạo…ông cha ta đã đập tan âm
mưu xâm lược của kẻ thù. Chính từ thực tiễn sinh động đó, đã hun đúc nên
truyền thống và kinh nghiệm quí báu, trở thành những tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt quá trình đấu tranh của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam đã sáng tạo nên những
kinh nghiệm truyền thống đánh giặc, tạo được sức mạnh của cả dân tộc, với tư
tưởng lấy dân làm gốc, tập hợp lực lượng ở trong nhân dân, trong thời bình cũng
như thời chiến luôn chăm lo cho sức dân, giáo dục, rèn luyện cho dân đánh giặc.
Hồ Chí Minh đã kế thừa kinh nghiệm nghệ thuật dựng binh và dùng binh của


4


ông cha ta trong việc tập hợp lực lượng, lựa chọn sử dụng nhân tài, cách thức tổ
chức quân đội, với các thứ quân khác nhau, nghệ thuật nắm tình hình đánh giá
đúng, chế tạo vũ khí tìm cách đánh phù hộ để giành thắng lợi, đặc biệt là nghệ
thuật so sánh và chuyển hoá lực lượng của ông cha ta thể hiên nét độc đáo “lấy
nhỏ thắng lớn” “lấy ít địch nhiều” “toàn dân vi binh” “dĩ đoản chế trường”
Thứ hai, Tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về
chiến tranh và quân đội
Vào thế kỷ XIX, tình hình nước Việt Nam đã thay đổi, nước ta từ một
nước nông nghiệp lạc hậu với chế độ phong kiến lỗi thời, lại phải đương đầu với
kẻ thù hoàn toàn khác trước. Chúng là chủ nghĩa thực dân đế quốc, xuất phát từ
một quốc gia tư bản, có nền công nghiệp phát triển, có đội quân nhà nghề vũ khí
trang bị hiện đại. Với truyền thống yêu nước đánh giặc chống ngoại xâm, các sĩ
phu đã lãnh đạo nhân dân dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng cuối cùng các
cuộc khởi nghĩa đều thất bại, sự thất bại đó có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên
nhân cơ bản đó là thiếu đường lối lãnh đạo đúng đắn. Lịch sử đòi hỏi phải có
đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng đắn, phù hợp với những biến đổi
của tình hình, mới có thể giành được thắng lợi. Bế tắc đường lối dân tộc vẫn
không có đường ra, đất nước vẫn không thoát khỏi thân phận của một nước
thuộc địa dưới sự thống trị của thực dân đế quốc.
Chính trong bối cảnh lịch sử ấy, Hồ Chí Minh đã không theo lối mòn của
những người đi trước, quyết ra đi tìm con đường cứu nước. Từ chủ nghĩa yêu
nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường đúng đắn,
con đường đánh bại chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đó là con đường cách mạng vô
sản, con đường gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội , gắn cách mạng Việt
Nam gắn cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc gắn sức mạnh thời đại,
bằng việc tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ


5


nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách
mạng và khoa học, là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản trong sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân loại thoát khỏi áp bức bóc lột. Trên lập trường
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin
đã luận giải một cách đúng đắn và khoa học về hiện tượng chiến tranh và quân
đội, đã vạch rỗ nguồn gốc bản chất, tính chất chính trị xã hội của chiến tranh, qui
luật tiến trình và kết cục chiến tranh, vạch rõ nguồn gốc bản chất quân đội các
tiềm lực tạo nên sức mạnh chiến dấu của quân đội. Vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể ở nước ta, Hồ Chí Minh
từng bước nhận biết các qui luật khách quan của lịch sử, đúc kết kinh nghiệm từ
hoạt động thực tiễn cách mạng để hoạch định chiến lược giải phóng dân tộc tiến
hành lãnh đạo cuộc chiến tranh cho phù hợp đặc điểm, điều kiện của đất nước
mình.
Học thuyết Mác-Lênin, đặc biệt là những lý luận về chiến tranh và quân
đội, là cái cẩm nang thần kỳ đã đưa Chủ Tịch Hồ Chí Minh trở thành người cộng
sản chân chính, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam và nhân dân yêu
chuộng hoà bình trên thế giới. Từ việc nhận thức đúng đắn chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có chỉ nam. Chủ nghĩa chân chính nhất chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin”1. Đồng thời Hồ Chí Minh còn
khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác –Lênin làm nền tảng, làm lý luận dẫn
đường cho cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh viết “Đảng ta có chủ nghĩa Mác-Lênin
là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất” 2. Chính sự bắt gặp lý luận chủ nghĩa
mác mà người đã thấu hiểu được con đường giành chính quyền, con đường đấu
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H1995 tr 10
Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trangcủa đảng Nxb st, H1980 tr85



6

tranh cách mạng, hiểu rõ nguồn gốc bản chất chủ nghĩa đế quốc vì vậy có thể
khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận trực tiếp hình thành những tư
tưởng của Hồ Chí Minh đặc biệt về chiến tranh và quân đội.
Thứ ba, Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm chiến
tranh, xây dựng quân đội của các nước trên thế giới, đặc biệt tư tưởng quân sự
truyền thống đánh giặc của các nước á đông, như của Trung quốc, Người nắm và
kế thừa những tư tưởng quí trong 13 chương của binh pháp tôn tử. Hồ Chí Minh
ch rằng “Nguyên tắc của Tôn Tử chẳng những dùng về quân sự đúng mà dùng về
chính trị cũng hay”3. Khi phân tích chương 3 “Đánh bằng mưu” Người viết “cho
nên biết sức ta, biết sức địch thì trăm trận đều thắng, biết sức ta mà không biết
sức địch thì một thắng bại. Không biết ta không biết địch thì trận nào cũng
thua”4.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tổng kết các kinh nghiệm chiến tranh du kích
của Tàu, Pháp, Nga, trong thời kỷ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khi nghiên
cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong lời hiệu triệu Người viết “ Kinh nghiệm
của Trung Quốc bày cách thực hành trường kỳ kháng chiến và toàn dân kháng
chiến bằng quân sự (dũng cảm, kỷ luật) bằng chính trị (đoàn kết kỷ luật) bằng
kinh tế (tăng gia, sản xuất) bằng ngoại giao (thêm bạn bớt thù) trước hết là bằng
tinh thần, bại không nản, thắng không kiêu, thua trận này đánh trận khác, được
trận này không chểnh mảng, chung sức, đồng tâm, nhất trí, giữ gìn trật tự, tuân
theo mênh lệnh của chính phủ.
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm truyền
thống chiến tranh giữ nước của dân tộc và những tinh hoa quân sự của nhân loại.

3
4

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 Nxb CTQG,H tr 513

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 Nxb CTQG,H tr 519


7

Nhân tố trực tiếp quyết định đến sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh và quân đội. Quá trình hình thành ấy qua ba giai đoạn
Giai đoạn 1, Tổ chức xây dựng lực lượng để tiến hành vũ trang, ngay sau
khi người chỉ đạo tổ chức ra chính đảng, người đã tuyển chọn những thanh niên
ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài sau đó về nước là những cốt cán để tuyên truyền
vận động quần chúng nhân dân xây dựng lực lượng chuẩn bị để khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền
Giai đoạn 2, Tiến hành chiến tranh giải phóng, giai đoạn này Hồ Chí Minh
tập trung giải quyết vấn đề chuyển hoá lực lượng, giành thắng lợi từng bước ,
sau đó giành thắng lợi hoàn toàn
Giai đoạn 3, Giai đoạn bảo vệ tổ quốc, phát triển lý luận bảo vệ tổ quốc
bước đầu hình thành lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh
nhân dân.
2. Vấn đề nguồn gốc, bản chất chiến tranh, mối quan hệ chiến tranh và
chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Nguồn gốc, bản chất chiến tranh :
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã
hội mang tính lịch sử được thể hiện bằng đấu tranh vũ trang giữa các tập đoàn
người trong một nước, hoặc liên minh các nước nhằm đạt tới những mục đích
chính trị nhất định. Như vậy theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, chiến tranh
là một hiện tượng chính trị xã hội mang tính lịch sử, đó là kết quả của sự quan hệ
giữa người với người trong xã hội, và đó là đối lập về lợi ích. Với thế giới quan
và phương pháp luận duy vật duy vật biện chứng, cùng với sự kết hợp sáng tạo
phương pháp lô gíc và phương pháp lịch sử, Mác và Ph.Ăngghen lần đầu tiên
trong lịch sử đã luận giải một cách đúng đắn về nguồn gốc xuất hiện của chiến

tranh, chủ nghĩa mác-Lênin khẳng định : Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ


8

chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc kinh tế, nguồn gốc sâu xa,
suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện tồn tại chiến tranh. Đồng thời, sự xuất hiện
và tồn tại của các giai cấp đối kháng là nguồn gốc xã hội trực tiếp dẫn đến sự
xuất hiện tồn tại của chiến tranh.
Bản chất chiến tranh là một trong những vấn đề quan trọng nhất của học
thuyết Mác-Lênin về chiến tranh và quân đội.Trước Mác đã có nhiều nhà tư
tưởng bàn tới vấn đề này, song đáng chú ý nhất là tư tưởng của Claudơvít (17801831). Claudơvít viết : chiến tranh chỉ là sự kế tục đơn thuần của chính trị bằng
những biện pháp khác. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng đó
nhưng đã thể hiện sự khác nhau về chất ở chỗ Clau dơ vít hiểu chính trị như là trí
tuệ của quốc gia được nhân cách hoá và chính trị mà chiến tranh kế tục chỉ là
đường lối đối ngoại, rõ ràng đó là quan điểm suy tâm, siêu hình phản khoa học.
Không thấy được nguồn gốc kinh tế của chính trị. Claudơvít đã không phát hiện
được sự thống nhất giữa đường lối đối ngoại và đường lối đối ngoại, dẫn dế phủ
nhận tính chất giai cấp của chính trị, phủ nhận các cuộc chiến tranh giữa các tập
đoàn người, giữa các giai cấp trong nội bộ một quốc gia dân tộc, phủ nhận những
cuộc chiến tranh do các giai cấp bị áp bức bóc lột đứng lên chống lại giai cấp
thống trị, tự giải phóng cho mình, vì vậy nó không thể tiếp cận đúng đắn bản
chất chiến tranh, đặc biệt là cuộc chiến tranh hiện đại ngày nay. Chủ nghĩa MácLênin đã khắc phục được những hạn chế sai lầm đó và đã khẳng định, chính trị là
sự phản ánh tập trung của kinh tế, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp dân
tộc, chính trị là sự thống nhất giữa đường lối đối nội và đường lối đối ngoại.
Đường lối đối ngoại chỉ là sự kéo dài của đường lối đối nội. Quan điểm duy vật
biện chứng về chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin đã đem lại một cuộc cách
mạng trong việc nhận thức bản chất chiến tranh. Lênin đã chỉ ra : chiến tranh chỉ
là một sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo



9

lực). Luận điểm chỉ rõ chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ phận của chính
trị, nó không làm gián đoạn chính trị, ngược lại mọi chức năng nhiệm vụ của
chính trị đều được thực hiện trong chiến tranh. Đương nhiên. sự thực hiện đó chủ
yếu bằng bạo lực vũ trang. Chính trị mà chiến tranh kế tục, chiến tranh tiếp tục
luôn luôn là một chỉnh thể bao gồm cả quan hệ chính trị, ý thức chính trị…nhưng
tất cả đều phản ánh lợi ích của nhà nước, giai cấp nhất định. Đường lói chính trị
là nơi biểu hiện một cách đầy đủ nhất, tự giác nhất các quyền lợi cơ bản lâu dài
của các nhà nước, giai cấp đó. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra bản chất chiến tranh
được cấu thành bởi hai mặt cơ bản: đường lối chính trị của một giai cấp , nhà
nước nhất định và sự tiếp tục chính trị ấy bằng bạo lực vũ trang. Trong đó,
đường lối chính trị là yếu tố cơ bản nhất, là mục đích của bạo lực vũ trang, quyết
định chiến lực và thông qua chiến lược tác động đến chiến dịch và các hình thức
chiến thuật. Đồng thời bạo lực vũ trang là phương tiện chủ yếu, một yếu tố
không thể thiếu trong bản chất chiến tranh
Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng Hồ Chí Minh luận giải một cách
đúng đắn khoa học về bản chất qui luật của chiến tranh và sự tác động của nó
đến đời sống xã hội. Nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, của bọn đế quốc
thực dân Hồ Chí Minh đã chỉ ra ở đâu dù chính quốc hay thuộc địa thì giai cấp tư
sản với mọi âm mưu thủ đoạn xảo trá chúng bóc lột hà hiếp quần chúng nhân
dân lao động nhằm vơ vét cho lợi ích của chúng cho nên chủ nghiã đế quốc một
mặt bóc lột ở nước chính quốc, mặt khác chúng ra sức khai thác vơ vét của cải ở
thuộc địa, chính sự phát hiện này Hồ Chí Minh đã cho rằng, chủ nghĩa đế quốc
như con đỉa hai vòi, một cái vòi hút máu của giai cấp vô sản ở các nước chính
quốc, một cái vòi hút máu nhân dân thuộc địa, vì vậy để giết con vật này đòi hỏi
cần phải cắt bỏ cả hai cái vòi của nó, chính sự bóc lột đó đã làm cho nhân dân và
giai cấp vô sản ngày càng bị bần cùng hoá, ngày càng trở nên nghèo túng, và bị



10

chà đạp lên phẩm giá con người. Hồ Chí Minh đã chỉ ra chừng nào chủ nghĩa đế
quốc còn tồn tại thì nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại, Người cũng đã vạch trần bộ
mặt của chủ nghĩa đế quốc, bởi chúng cho rằng sự xâm lược của chúng là để
khai hoá văn hoá, nhưng thực chất chúng coi những người An Nam như những
xúc vật, phải điều khiển bằng roi vọt, chúng không chú ý đến lĩnh vực giáo dục
thực dân Pháp không cho xây dựng trường học mà chúng chỉ cho chỉ dùng thuốc
phiện, rượu chè bê tha, cứ trong 1000 làng đã có 1500 đại lý rượu và thuốc phiện
mà trường học chỉ có vẻn vẹn 10 cái trường học, mỗi năm người ta đã đầu độc
dân bản xứ cả đàn bà lẫn trẻ con bằng vài chục nghìn lít rượu và hơn 100.000 ki
lô gam thuốc phiện, từ những vấn đề đó cho thấy bản chất của chủ nghĩa đế quốc
và cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Hồ Chí Minh vạch mặt cuộc chiến tranh ăn cướp, phi nghĩa của Mỹ ở
Đông dương với bản chất thống trị bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế
quốc mỹ ra sức đàn áp đồng bào miền nam, chúng đã dựng lên chính phủ bù
nhìn để đàn áp, bắn giết đồng bào ta chúng áp đặt nền văn minh kiểu Mỹ đối với
Việt Nam, làm cho nhân dân ta lỗi khổ cực, chính vì vậy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
“Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi Miền nam nước ta chưa giải
phóng được ách thống trị tàn bạo của Mỹ Diệm thì nhân dân ta chưa thể ăn ngon
ngủ yên được”5. Hồ Chí Minh luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của các Đảng cộng
sản và coi cuộc đấu tranh vì hoà bình là nhiệm vụ hàng đầu của mình, coi đó là
cuộc đấu tranh cho chính nghĩa cho hoà bình anh ninh của tất cả các dân tộc trên
thế giới, là cuộc đấu tranh cho thắng lợi của sự nghiệp vĩ đại của chủ nghĩa MácLênin là giải phóng giai cấp, nhân loại ra khỏi sự áp bức bóc lột và bất công,
mang lại sự ấm no tự do hạnh phúc cho mọi người.

5

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập1 Nxb CTQG,H 2002 tr 385



11

Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng của các nhà kinh điển về qui luật
của chiến tranh, Người đã khẳng định qui luật của chiến tranh là mạnh được yếu
thua. Song mạnh ở đây theo Hồ Chí Minh phải đánh giá đầy đủ toàn diện trên
tất cả các mặt, và luôn quan tâm đến sự chuyển hoá biện chứng trong sức mạnh
để tiến hành chiến tranh đặc biệt sự chuyển hoá giữa thế, thời và lực, chỉ ra mối
quan hệ giữa thế thời và lực, Người cho rằng nay tuy châu chấu đá voi, nhưng
mai kia voi sẽ bị lòi ruột ra. Từ sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa MácLênin và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định
chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân. Đây là
những tư tưởng quí báu của Người và được thể hiện sâu sắc trong lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”6. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ quá trình chiến tranh
thì không chỉ chuẩn bị riêng về mặt quân sự mà nó có cả tất cả các mặt, cả chính
trị, kinh tế, ngoại giao…đó là cuộc chiến tranh toàn diện.
2.2. Mối quan hệ chiến tranh với chính trị
Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của nhân tố chính trị tinh thần trong
chiến tranh nhân dân, đây là một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất khi
nghiên cứu chiến tranh, bởi nó không chỉ giúp con người nhận thức sâu sắc vấn
đề chiến tranh mà giúp con người có thái độ đúng với chiến tranh của mỗi bên
tham chiến. Nghiên cứu chiến tranh và chính trị là nghiên cứu giữa hai hiện
tượng xã hội mà mỗi hiện tượng đó tồn tại như một thực thể, bao gồm cả lực
lượng vật chất và lực lượng tinh thần, cả tư tưởng và tổ chức..Chính trị không
6


Hồ Chí Minh Toàn tập, tập4 Nxb CTQG,H 2002 tr 480


12

chỉ là ý thức chính trị, tổ chức chính trị, mà còn có các lực lượng chính trị, các
chủ thể chính trị cùng các quan hệ, các hoạt động của họ hướng tới việc giành,
giữ và sử dụng chính quyền nhà nước. Chiến tranh không chỉ có bạo lực vũ
trang, mà còn có các hoạt động kinh tế, văn hoá, tư tưởng…Vì vậy mối quan hệ
chiến tranh và chính trị là mối quan hệ nhiều chiều, đan xen và tác động lẫn
nhau. Tuỳ mục đích nghiên cứu và phương pháp tiếp cận mà sẽ hình thành nên
các khái quát khác nhau. Từ lời dạy của Lênin “Mọi cuộc chiến tranh đều gắn
với chế độ chính trị đã sinh ra nó” 7. Chúng ta có thể thấy rằng mối quan hệ giữa
chiến tranh và chính trị là mối quan hệ nhân quả, trong đó chiến tranh như sự tập
trung của chính trị, rõ nhất của mối quan hệ này là mối quan hệ chủ thể và
phương tiện, trong đó chính trị đóng vai trò làm chủ thể. Chủ thể đó chuẩn bị, tổ
chức, điều khiển mọi quá trình chiến tranh, quyết định những vấn đề cơ bản nhất
của chiến tranh như mục đích phương hướng tiến hành chiến tranh, phương thức
tiến hành chiến tranh, thời cơ, phương thức mở đầu và kết cục chiến tranh. Chính
trị tạo ra, môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội ở trong nước và quốc tế để chiến
tranh xuất hiện và tồn tại, chỉ đạo các hoạt động đấu tranh kinh tế, tư tưởng
ngoại giao…nhằm hỗ trợ chiến tranh, chính trị chủ động dự kiến và sử dụng kết
quả của chiến tranh.
Ngược lại, chiến tranh là một bộ phận một phương tiện của chính trị, là kết
quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Nên nó là thử thách toàn
diện đối với chế độ chính trị, thậm chí nó sẽ thủ tiêu chế độ đó khi nó không còn
có khả năng tồn tại. Vì chiến tranh làm thay đổi mọi tổ chức, cơ chế, hoạt động
của các tổ chức chính trị, từ nhà nước, đảng phái, cho đến các đoàn thể quần
chúng, thông qua chiến tranh làm thay đổi tương quan lực lượng chính trị, tính


7

V.I. LÊnin,Toàn tập, tập 32, bản tiếng Việt,NxbTB,M1981,tr 100


13

chất mâu thuẫn của chính trị, từ đó có thể làm xuất hiện hoặc mất đi tình thế, thời
cơ cách mạng.
Nhìn lại quá khứ cho chúng ta rằng, lịch sử của các cuộc chiến tranh là
lịch sử của mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị. Trong cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam (1954-1975) thì cuộc chiến tranh lâu dài, tệ hại nhất này
trong lịch sử nước Mỹ đã chứng minh rõ vai trò quyết định của chính trị đối với
chiến tranh. Đường lối chống cộng cùng âm mưu trở thành sen đầm quốc tế đã
quy định mục đích can thiệp của chúng nhằm dựng lên ở miền nam Việt Nam
nước ta chế độ tay sai của Mỹ, biến miền nam Việt Nam thành căn cứ đầu cầu
chống cộng sản. Nhưng so sánh lực lượng chính trị lúc đó thì không cho phép
quân Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh tổng lực, ồ ạt, mà buộc chúng phải sử dụng
phương thức vừa đánh vừa thăm dò, để tạo thời cơ leo thang từng bước, chúng
không tổ chức thành một trung tâm chỉ huy để điều khiển hoạt động mà chúng tổ
chức thành nhiều bộ chỉ huy độc lập với nhau. Như Lênin đã chỉ ra rút cuộc mọi
cuộc chiến tranh thắng lợi hay thất bại tuỳ thuộc vào tâm trạng của người lính
cầm súng trên chiến trường, yếu tố tinh thần đóng vai trò hết sức to lớn của mọi
cuộc chiến tranh. Như vậy mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị là mối quan
hệ cơ bản xuyên suốt của mọi cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, cũng như mọi sự vật
hiện tượng khác, mối quan hệ giữa chiến tranh và chính trị cũng mang tính lịch
sử cụ thể, luôn vận động và phát triển, do đặc điểm của chính trị và chiến tranh
cùng điều kiện lịch sử của mỗi cuộc chiến tranh là không hoàn toàn giống nhau.
Hồ Chí Minh luôn nhận thấy vai trò của nhân tố chính trị tinh thần trong chiến
tranh nhân dân, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng mỗi khi được giáo dục, được

giác ngộ toàn dân nhất tề đứng lên giết giặc thì không có thế lực nào ngăn cản
được, Người viết “Mặc dù quân Pháp có đủ khí giới tối tân, tôi biết chắc chúng
không bao giờ cướp được nước chúng ta đâu.Từ Nam, chí Bắc đồng bào ta luôn


14

luôn sẵn sàng. mười triệu người như một, quyết tâm đánh tan quân cướp nước.
Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh
của toàn thể một dân tộc”8. Như vậy dù khó khăn đến đâu nhưng với ý chí quyết
tâm cao, đoàn kết chặt chẽ đồng sức đồng lòng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Thể
hiện sự chuyển hoá yếu tố tinh thần thành sức mạnh vật chất, do vậy Hồ Chí
Minh chỉ ra muốn cuộc chiến tranh giành thắng lợi trước hết phải lấy được lòng
dân, tập hợp được lực lượng, xây dựng được ý chí quyết tâm, tinh thần quả cảm
sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy Người đã chỉ ra “Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa
đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một
nàn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khan, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”9.
Như vậy mối quan hệ chiến tranh và chính trị trong thời đại ngày nay
không hề thay đổi. Vai trò quyết định của chính trị đối với chiến tranh, chiến
tranh tác động trở lại chính trị trong thể thống nhất biện chứng vẫn giữ nguyên
giá trị. Nhưng do sự tác động của tình hình chính trị và sự vận động phát triển
của chiến tranh và mối quan hệ chiến tranh và chính trị có những bước phát triển
mới, theo hướng chính trị tác động đến chiến tranh phải rộng hơn, nhanh chóng
hơn, nhưng đồng thời phải thận trọng hơn trong suốt cả quá trình chuẩn bị, tiến
hành và kết thúc chiến tranh. Vì ngày nay, chiến tranh nổ ra ở bất cứ nơi nào trên
thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến lợi ích kinh tế của nhiều nước.
Sự xung đột các quốc gia dân tộc các cg là sự xung đột các tập đoàn các quốc gia
dân tộc có lợi ích liên quan. Đồng thời, do việc sử dụng vũ khí công nghệ cao

nên phải chi phí lớn , phải chấp nhận tổn thất cao, nhất là phải có các cơ sở hậu
8
9

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập4 Nxb CTQG,H 2002 tr 77
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập6 Nxb CTQG,H 2000 tr 171


15

cần kỹ thuật phục vụ trên một không gian rộng lớn trải dài trên nhiều khu vực,
thậm trí trên nhiều quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã khẳng định: kết hợp kinh tế –xã hội với quốc phòng an ninh
theo phương châm phát triển kinh tế-xã hội là nền tảng để bảo vệ tổ quốcc, ổn
định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững mạnh là diieù kiện để phát
triển kinh tế-xã hội. Đảng và nhà nước phải bảo đảm tốt hơn đời sống vật chất
tinh thần của lực lượng vũ trang, đáp ứng tốt hơn về vũ khí, trang bị, phương tiện
kỹ thuật…
3. ý nghĩa của vấn đề và sự cần thiết xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam
vững mạnh toàn diện
Nghiên cứu nguồn gốc, bản chất chiến tranh, mối quan hệ chiến tranh với
chính trị, cho chúng ta thấy xem xét đánh giá các vấn đề chiến tranh, quân sự
phải xuất phát từ chính trị đồng thời từ các vấn đề chiến tranh, quân sự phải rút
ra những kết luận chính trị. Đây là hai mặt của quá trình nhận thức gắn bó chặt
chẽ với nhau. Bởi chính trị là gốc là nền tảng, là điểm xuất phát, là bản chất của
mọi vấn đề chiến tranh và quân sự. Quân sự phải phục tùng chính trị là yêu cầu
mạng tính nguyên tắc chỉ đạo mọi quá trình nhận thức và tiến hành các hoạt
động chiến tranh và quân sự. Nó không chỉ có ý nghĩa chiến lược trong việc định
ra đường lối quân sự, mà còn có ý nghĩa trong xây dựng quân đội và lực lượng
vũ trang nói chung.

Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội
hiện thực lâm vào thoái trào, so sánh lực lượng hiện nay có lợi cho chủ nghĩa đế
quốc. Với bản chát chống chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới,
nhân cơ hội này Mỹ mưu đồ thiết lập thế giới một cực do Mỹ đứng đầu, đe doạ
độc lập dân tộc và chủ quyền của các quốc gia. Trong tình hình hiện nay do tận
dụng được thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chủ


16

nghĩa dế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ từng bước điểu chỉnh thích nghi và thu
được những kết quả to lớn về mặt kinh tế, chúng ra sức tuyên truyền chống phá
nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, đế quốc Mỹ ngày càng bộc lộ
bản chất hiếu chiến và tham vọng bá chủ thế giới, với chủ trương thế giới đa cực
thành thế giới một cực do Mỹ đứng đầu.
Từ khi Liên Xô tan rã, thế đối đầu hai cực trên thế giới mất đi. Trong
nhiều nước và khu vực, những mâu thuẫn về dân tộc và tôn giáo, sắc tộc.. có
điều kiện bùng phát. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vì lợi ích của
chúng đã lợi dụng tình hình để can thiệp vào các cuộc xung đột đó. Trong nhiều
trường hợp, để tạo cớ, chúng tìm cách kích động gây mất ổn định các quốc gia,
do đó nguy cơ mất ổn định của các nước ra tăng.
Khu vực châu Á-Thái Bình Dương trở thành nơi tập trung nhiều mâu
thuẫn giữa các nước lớn, giữa các nước lớn với các nước trong khu vực. Đế quốc
Mỹ đã bất chấp luật pháp quốc tế, sẵn sàng tiến công can thiệp vào các quốc gia
độc lập, có chủ quyền nhưng không theo ý đồ của Mỹ. Chúng dùng nhiều thủ
đoạn ngày càng tinh vi và xảo quyệt, lấy danh nghĩa liên hợp quốc để hợp thức
hoá cuộc chiến tranh ăn cướp của mình. Vì vậy xem xét nguồn gốc, bản chất,
tính chất các cuộc chiến tranh trong thời đại ngày nay phải đứng vững trên lập
trường quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để nắm vững bản chất thâm độc của chúng.

Trước công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của
đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, tình
hình kinh tế đất nước có nhiều thuận lợi, và từng bước phát triển, thế và lực của
chúng ta ngày càng được khẳng định, tình hình chính trị-xã hội ổn định, văn hoá
phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững, quan hệ ngoại giao được mở
rộng…tuy nhiên cũng có nhiều khó khăn phức tạp đang trở ngại đến con đường


17

cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những nguy cơ mà đảng ta nhận định vẫn đang là
lực cản đến sự phát triển toàn diên của đất nước. Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tiêm nhiễm tư tưởng
lệch lạc, giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng quan liêu, tiêu cực mơ hồ mất
cảnh giác, thiếu sót làm lộ bí mật quân sự quốc gia. Mâu thuẫn trong nội bộ nhân
dân xảy ra ở nhiều nơi, tác động tới tình hình an ninh trật tự và ổn định xã hội.
Tình hình tranh chấp, khiếu kiện tập thể xảy ra ở nhiều nơi. Một số phần tử xấu,
bất mãn có những hành vi phạm pháp gây hậu quả nghiêm trọng. Nền quốc
phòng toàn dân tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và vững chắc. Chậm
hình thành chiến lược thống nhất gắn quốc phòng-an ninh với phát triển kinh tế.
Chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ có địa phương còn hạn chế. Khả năng
chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức cơ động chưa cao, còn mất cảnh giác,
còn để bị bất ngờ, về chiến thuật xử lý còn lúng túng trong một số tình huống cụ
thể.
Trong tình hiện nay để xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính qui
tinh nhuệ từng bước hiện đại đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức sâu sắc
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, từ đó thấy được bản chất của chiến tranh, nhận
thức đầy đủ nguồn gốc, bản chất của chiến tranh và thấy rõ chừng nào còn chủ
nghĩa đế quốc chừng đó nguy cơ chiến tranh vẫn xảy ra. Để sẵn sàng đập tan
những âm mưu chống phá của kẻ thù, đòi hỏi mỗi chúng ta phải không ngừng

học tập về chuyên môn nghiệp vụ, có phương pháp tư duy khoa học, phương
pháp luận biện chứng, đồng thời cần trang bị cho lực lượng quân đội có sức
mạnh một cách toàn diện.
Trong tình hiện nay, để đánh thắng kẻ thù với vũ khí công nghệ cao, thì
yếu tố tinh thần thôi thì chưa đủ mà đòi hỏi quân đội phải được trang bị đầy đủ
cả về vật chất và tinh thần, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, nền quốc


18

phòng toàn dân, để có được lực lượng quân đội mạnh mẽ, không phải chỉ ở góc
độ quốc phòng mà đòi hỏi ở các cấp các ngành, cả hệ thống chính trị, các cấp cần
quan tâm hơn nữa cho việc đầu tư về vật chất và quan tâm tới mặt tinh thần, đầu
tư đúng mức cho tiềm lực quốc phòng, nghiên cứu và ứng dụng những phương
tiện kỹ thuật cho quốc phòng an ninh. Ở mỗi cấp, mỗi ngành phải thường xuyên
chăm lo tới việc giáo dục chính trị, củng cố mặt trận tư tưởng làm cho mọi người
có trách nhiệm trước Đảng, nhà nước, với tổ quốc. Với tư tưởng mới của Đảng
về nhiệm vụ của quân đội, đó là lực lượng nòng cốt của Đảng, của nhà nước, của
nhân dân, để bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền , thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước…Đòi hỏi quân đội không ngừng phấn đấu vươn lên đáp ứng trước yêu cầu
nhiệm vụ nặng nề đó. Không ngừng xây dựng quân đội cách mạng chính qui,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.



×