Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Bài Tập Lớn môn Kinh tế ngoai thương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.91 KB, 29 trang )

BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

MỤC LỤC
 
I.
II.

Lời mở đầu
Nội dung
Chương 1.Khái quát về hàng thủ công mĩ nghệ ở Việt Nam.
1.Đặc điểmcủa hàng thủ công mĩ nghệ
2.Tiềm năng phát triển ngành thủ công mĩ nghệ
3.Các mặt hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam
3.1.Hàng gốm sứ
3.2.Hàng mây tre đan
3.3.Hàng gỗ thủ công
3.4.Hàng thêu ren
3.5.Hàng thổ cẩm
4.Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ đối với phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam
5.Những yếu tố tác động đến hàng thủ công mĩ nghệ
5.1.Nguồn nguyên liệu
5.2.Nguồn vốn
5.3.Nhu cầu của thị trường dối với hàng thủ công mĩ nghệ
5.4.Các đối thủ cạnh tranh
5.5.Các chính sách của nhà nước liên quan đến hàng thủ công mĩ
nghệ
Chương 2.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ năm 2006-2010
1.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam năm
2006-2010
2.Cơ cấu mặt hàng thủ công mĩ nghệ


2.1.Nhóm hàng gốm sứ
2.2.Nhóm hàng mây tre đan
2.3.Nhóm gỗ thủ công
2.4.Nhóm hàng thêu ren
2.5.Nhóm hàng thổ cẩm
3.Các thị trường xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ tiềm năng của
Việt Nam
3.1. Mĩ
3.2.EU
3.3. Nhật
Chương 3.Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ.
1.Về phía Nhà nước
1.1. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng
1.2. Thành lập các hiệp hội ngành nghề
1.3. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
xuất khẩu

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

1


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

2.Về phía Doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng thủ
công mĩ nghệ
2.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường
2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu
2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng
2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm

bạn hàng mới
2.5. Quản lý chặt chẽ trong khâu thanh toán
2.6. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu
2.7. Tạo thương hiệu và không ngừng nâng cao uy tín thương hiệu
trên thị trường quốc tế
2.8. Thành lập sàn giao dịch hàng thủ công mỹ nghệ trên mạng
Internet
III.
Kết luận

I. LỜI MỞ ĐẨU
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

2


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa –hiện đại hóa hướng về xuất
khẩu, tận dụng mọi nguồn lực sẵn có đồng thời từng bước tham gia hội nhập nền
kinh tế khu vực , kinh tế thế giới thì việc tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có
trong nước để phất triển những mặt hàng xuất khẩu là hết sức quan trọng hiện
nay.
Trong “ Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010” của Bộ Thương mại,
định hướng phát triển nhóm hàng thủ công mĩ nghệ (TCMN) có vị trí hết sức quan
trọng. Hàng thủ công mĩ nghệ sản xuất chủ yếu bằng nguồn lực có sẵn trong nước,
nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm trong sản phẩm thấp :3-5% giá trị xuất khẩu . Vì
vậy , TCMN là một trong số những ngành được đánh giá có tiềm năng phát triển
bền vững , xuất khẩu lớn và tỉ suất lợi nhuận cao , không chỉ mang lại lợi ích thiết
thực mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội lớn.

Chính sách mở cửa nền kinh tế và tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hóa ,
toàn cầu hóa đã mở ra nhiều cơ hội cho hàng thủ công mĩ nghệv i ệ c x u ấ t k h ẩ u
h à n g TCMN đã thật sự thổi một luồng sinh khí mới vào các làng nghề
truyền thống, tạo côngăn việc làm cho hàng triệu lao động đồng thời duy trì và
phát triển được các ngànhnghề truyền thống với các nghệ nhân, thợ giỏi góp phần
vào việc duy trì các di sản văn hoá dântộc từ đời này qua đời khác. Trải qua những
bước thăng trầm, hàng TCMN của Việt Namhiện đã có mặt
trên 163 nước và
vùng lãnh
thổ trên thế giới, được nhiều người ưa chuộng.Tuy nhiên mức độ
phát triển của ngành thủ công mĩ nghệ vẫn còn hạn chế so với tiềm
năng của nó: dặc biệt những năm gần đây doanh thu xuất khẩu hàng thủ
công mĩ nghệ mặc dù có tăng trưởng nhưng vẫn không đạt được chỉ
tiêu đề ra , ngoài ra một số mặt hàng gốm sứ mĩ nghệ , các mặt hàng
TCMN còn lại đã bộc lộ nhiều điểm yếu như mẫu mã chậm cải tiến,
thiếu mặt hàng mới, kiểu dòng sản phẩm không theo kịp tập quán và
thói quen của thị trường xuất khẩu…
Xuất phát từ ý tưởng đó cùng những kiến thức học ở trường , em đã
chọn đề tài “ Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt
Nam giai đoạn 2006-2010 và những giải phấp thúc đẩy xuất khẩu
hàng TCMN” làm đề tài cho bài tập lớn môn Kinh tế ngoại thương.
Do trình độ còn hạn chế và việc thu thập thong tin từ nhiều nguồn
khác nhau nên không thể tránh được những thiếu sót mong thầy (cô )
thông cảm. Cuối cùng , em xin chân thành cảm ơn!

II.NỘI DUNG
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

3



BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Chương 1
Khái quát chung về hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam.
1.Đặc điểm của hàng thủ công mĩ nghệ (TCMN).
Không giống như những nhóm hàng hóa khác, hàng thủ công mỹ nghệ có
những đặc điểm riêng của mình đó là sự khác biệt trong mục đích tiêu dùng sản
phẩm TCMN:
Thứ nhất, Hàng TCMN có xu hướng tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa nhu cầu vừa
dùng lại vừa chơi. Nghĩa là, người tiêu dùng quan tâm cả đến mặt thẩm mỹ lẫn
lợi ích sử dụng của sản phẩm. Tính chất mỹ thuật của loại sản phẩm này được
tạo nên bởi hình dáng sản phẩm, những đường nét và họa tiết trên mặt sản phẩm.
Còn tính chất sử dụng được người tiêu dùng lựa chọn căn cứ vào công dụng,
kích cỡ, hình dáng của sản phẩm. Với đôi bàn tay khéo léo và óc sáng tạo của
các thế hệ thợ thủ công đã tạo nên những sản phẩm TCMN đậm nét độc đáo,
tinh xảo, hoàn mỹ.
Thứ hai, Hàng TCMN thiên về tính nghệ thuật, hơn nữa người tiêu dùng
coi trọng tính thẩm mỹ của sản phẩm này hơn: 1 chiếc giỏ tre treo trên tường
hay 1 pho tượng gốm Phật bày trong tủ… tất cả tăng vẻ sang trọng, lịch sự và
nghệ thuật của căn phòng, ngôi nhà, khách sạn.Vậy là, hàng TCMN trở thành
vật trang trí nội thất hay thú chơi sưu tập của một số người vốn yêu thích các sản
phẩm truyền thống của Việt Nam. Tại sao người tiêu dùng lại đề cao tính thẩm
mỹ của nghành hàng này vậy? Lí do là chính các sản phẩm TCMN mang đậm
chất văn hóa. Nó thường biểu đạt phong cảnh sinh hoạt, con người, cảnh quan
thiên nhiên, lễ hội truyền thống, quan niệm về tự nhiên…Những nét chấm phá
nghệ thuật trên tranh sơn mài, khảm trai, tranh lụa…đã thể hiện đất nước con
người và tâm hồn tình cảm Việt Nam.
Thứ ba, Hàng TCMN để dùng nhiều hơn chơi. Việc các sản phẩm làm ra ngoài
việc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài còn để tiêu dùng trong nước. Bộ

ấm chén, bát đĩa, bình đựng rượu, rổ, bàn ghế, lụa…thể hiện rõ công dụng của
nó hàng ngày. Vậy là, hàng TCMN không phải chỉ để ngắm, thưởng thức mà
còn đi sâu vào đời thường. Với nguyên liệu như mây, tre,…có ở trong nước,
hàng TCMN được tập trung ở các làng nghề, sản xuất theo lối truyền thống, quy
trình sản xuất đơn giản, chi phí sản xuất thấp, giá thành không quá cao so với
thu nhập của người tiêu dùng Việt Nam. Do vậy, các mặt hàng như gốm sứ, đồ
gỗ, hàng mây tre đan, hàng thổ cẩm…luôn song hành trong cuộc sống cùng con
người.
2.Tiềm năng phát triển của nghành hàng TCMN
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt sau thời kỳ đổi mới khi mọi đơn vị
sản xuất kinh doanh được phát huy quyền tự chủ, các mặt hàng TCMN truyền
thống không những không mất đi mà còn đứng vững, một số mặt hàng có thể
mở rộng quy mô sản xuất. Thời gian qua Nhà Nước cũng đã quan tâm, khuyến
khích phát triển các làng nghề, thợ thủ công giỏi để khôi phục các làng nghề
truyền thống.

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

4


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Mang đậm nét truyền thống, văn hóa dân tộc, các sản phẩm TCMN đáp
ứng được nhu cầu về thưởng thức những tinh hoa văn hóa của dân tộc, các khu
vực địa lý. Sự giao lưu kinh tế và văn hóa, du lịch giữa các nước ngày càng phát
triển là những cơ hội rất tốt để giới thiệu, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng
TCMN.
Khi đánh giá tiềm năng phát triển sản phẩm cần phải nhìn nhận một cách
thỏa đáng. Tiềm năng phát triển cần dựa trên tiềm năng tiêu thụ của sản phẩm.

Hàng TCMN không những tiêu thụ tốt trong nước mà còn được mở rộng ra cả ở
nước ngoài.
Đối với thị trường trong nước, khi cuộc sống của người dân được nâng
cao, sức mua được cải thiện, điều mà con người hướng tới là sự quay lại với tự
nhiên, gắn bó với truyền thống. Đó là một quy luật phổ biến không chỉ đối với
tầng lớp trung lưu mà với mọi tầng lớp dân cư. Vì vậy, sản phẩm TCMN không
chỉ phục vụ cho mục đích nghệ thuật, trang trí nội thất mà nó còn rất hữu dụng
cho cuộc sống của người Việt Nam.
Đối với thị trường nước ngoài, hiện nay người phương Tây dần dần bị nét
đẹp kín đáo, duyên dáng, thanh lịch của Phương Đông quyến rũ. Những vật
dụng mang tính hiện đại như ti vi, máy tính…đôi khi làm cho cuộc sống con
người trở nên nặng nề, căng thẳng thì người nước ngoài lựa chọn các sản phẩm
thủ công để tô điểm cho cuộc sống của họ giường như là một cách làm cho cuộc
sống thêm ngọt ngào, lãng mạn hơn.
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với rất nhiều nước trên thế
giới. Cùng với việc thâm nhập và khai thác các thị trường mới như: EU, Mỹ,
Canada, Hàn Quốc, Arập Xê út…chúng ta cũng đang khôi phục lại những thị
trường truyền thống như: Nga, các nước SNG và Đông Âu. Việc gia nhập
ASEAN, tham gia vào diễn đàn Châu Á Thái Bình Dương ( APEC ) và việc kí
kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra cho các doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh hàng TCMN những thị trường tiềm năng.
Do vậy, những năm gần đây nhu cầu các hàng TCMN không ngừng được
tăng lên. Mục tiêu mà Đảng và Nhà Nước ta về một số hàng TCMN trong 5 năm
tới đây ( kim ngạch xuất khẩu - đơn vị: triệu USD )
- Gốm sứ mỹ nghệ từ 250 - 300 ( trong khi đó năm 2000 là 100 – 130 )
- Gỗ mỹ nghệ từ 120 – 150 ( trong khi đó năm 2000 là 50 – 60 )
- Mây tre đan từ 60 – 80 ( trong khi đó năm 2000 là 30 –40 )
- Thêu ren thổ cẩm từ 20 – 25 ( trong khi đó năm 2000 là 10 )
Trong khi nhu cầu lao động năm 2005 là 1,8 đến 2 triệu người, đây là
bằng chứng rõ nhất về tiềm năng phát triển của nghành TCMN trong tương lai.

3. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ được sản xuất từ rất nhiều loại nguyên
liệu khác nhau và mỗi sản phẩm được tạo ra bằng các quy trình hoàn toàn
khác nhau. Dù thế nào các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có một nét chung
là kết quả của lao động nghệ thuật với tay nghề điêu luyện, trí tuệ sáng tạo
độc đáo của các tay thợ tài ba.
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

5


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vô cùng phong phú và đa
dạng. Có thể kể đến, đó là: hàng gốm sứ, hàng đúc đồng, hàng mây tre đan, hàng
thêu ren, hàng thổ cẩm, hàng gỗ, hàng sơn mài, hàng kim hoàn, hàng rèn, hàng
đá và một số hàng nổi tiếng như nón, tranh dân gian, giấy dó ở các làng nghề
truyền thống… Dưới bàn tay khéo léo và khối óc tài hoa của những người thợ
thủ công, từ các nguyên liệu thô sơ, họ đã tạo ra biết bao thành phẩm không
những có giá trị về kinh tế mà có giá trị về nghệ thuật. Các mặt hàng thủ công
mỹ nghệ được sản xuất ra đã có sức thu hút lớn không chỉ với người tiêu dùng
Việt Nam mà còn được người tiêu dùng nhiều nước ưa chuộng. Nhiều sản phẩm,
mặt hàng đã được xuất khẩu ra thị trường ngoài nước. Dưới đây, khoá luận xin
nêu ra một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
3.1. Hàng gốm sứ
Gốm sứ là loại hàng phổ biến trong cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư.
Sản phẩm của nghề này có thể dùng phổ biến trong cuộc sống hàng ngày (bát
đĩa, ấm chén, nồi, chum vại…), trong xây dựng (chân sứ, vật cách điện…) hay
làm đồ thờ (bát hương, lọ đựng hương, các tượng, lọ hoa…), tranh tượng và đồ

lưu niệm… Gốm sứ được sản xuất ở mọi nơi trên đất nước ta.
Các làng nghề truyền thống sản xuất gốm sứ nổi tiếng là Bát Tràng (Hà
Nội), làng Cậy (Hải Dương), Thổ Hà (Bắc Ninh), Móng Cái (Quảng Ninh), Hương
Canh, Hiến Lễ (Vinh Phú), Thanh Hoá, Phước Phú (Huế), Thanh Hà (Quảng
Nam), Đồng Nai, Sông Bé, Thủ Dỗu Một… Các sản phẩm nổi truyền trong dân
gian là “Sứ Móng Cái, vại Hương Canh” hay “chiếu NgaSơn, gạch Bát Tràng”…
Gốm sứ có nhiều loại: men ngọc, men nâu (hay hoa nâu) xuất hiện từ thời Lý, hoa
lam (đời Trần)… Kỹ thuật làm gốm sứ vẫn xoay quanh hai vấn đề lớn là kỹ thuật
bàn xoay và lò nung. Ngoài lò hộp (nung bằng than) và lò vồng (nung
bằng củi) hiện nay đã xuất hiện kiểu lò tunel đốt gas.
Sản phẩm gốm sứ không những tràn ngập trong nước mà còn rất có giá trị ở nước
ngoài. Cách đây 200 năm, khúc sông xã Bát Tràng còn có một bến cảng chở đồ
gốm sứ sang Nhật Bản. Ngày nay nhiều mặt hàng bị nhái, làng nghề lan tỏa nhưng
ở những làng truyền thống vẫn giữ được bí quyết của mình đối với những mặt
hàng tinh xảo chẳng hạn Thổ Hà vẫn giữ được sành nâu, Hương Canh, Phù Lãng
vẫn giữ được gốm da lươn, Chu Đậu (Hải Dương) vẫn giữ được men hoa lam,
gốm Tức Mặc (Nam Định) gọi là “Thiên tường phủ chế”…, gốm Bát Tràng giữ
được men ngọc, men rạn.
3.2. Hàng mây tre đan
Mây, tre, song rất gần gũi với người Việt Nam. Từ lâu các nghệ nhân đã tạo
nên rất nhiều sản phẩm mỹ nghệ độc đáo từ những nguyên liệu sẵn có này

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

6


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

(giường, bàn, ghế, lẵng hoa, hình các con vật, đồ lưu niệm..)

Hàng mây, tre của làng Phú Vinh (Hà Tây) có tới 500 mẫu mã khác nhau Hàng
mây tre đan được phát triển trong cả nước, nổi tiếng là làng Phú Vinh (HàTây),
Ngọc Động (Hà Nam), Thượng Hiền (Thái Bình), Hoà Bình (Bình Định),Vĩnh Ba
(Phú Yên), Yên Sở (Hà Tây), Nho Quan (Ninh Bình).
Nghề mây tre đan ở Phú Nghĩa, Chương Mỹ đã thu hút 80-85% lao động. Ở làng
Phú Vinh có 8000 người làm nghề đan lát, thu nhập lên tới 2,2 tỷ đồng/năm. Có
thể nói nghề này đã thu hút hút một khối lượng lớn những người lao động, tạo
công ăn việc làm, nâng cao đời sống người dân.
3.3. Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ
Loại hàng này đã xuất hiện từ lâu đời vì gỗ là đồ dùng thông dụng khắpmọi
nơi. Người dân Việt Nam dùng sản phẩm đồ gỗ cho thờ cúng (Hoành phi,câu đối,
ngai, tượng, mâm bồng, bàn thờ, ống hương…) và gỗ để làm giường tủ, sập, bàn
ghế hay tranh gỗ, các con vật bằng gỗ…
Hàng Tiện xưa là nơi buôn bán các hàng tiện gỗ như mâm bồng, ống
hương, đài rượu, khuôn oản… do người làng Nhị Khê làm (nay là Hàng Hành, phố
Tô Tịch ). Phố Hàng khay chuyên bán sản phẩm đồ gỗ của làngĐồng Kỵ.Chạm
khắc gỗ nổi tiếng ở Việt Nam có làng Phù Khê, Hương Mạc,Đồng Kỵ, Đồng
Quang (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Vân Hà (Hà Nội),Võ Lăng (Hà Tây), Lý
Nhân (Hà Nam), La Xuyên (Nam Định), làng Sinh,Kim Bồng (Quảng Nam), Nhạn
Tháp (Bình Định), Phú Lộc (Ninh Bình), Bảo Hà (Hải Phòng), Mỹ Xuyên (Huế).
Trong các cơ sở nổi tiếng trên, Đồng Kỵ là cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ lớn nhất ở
nước ta.
Mặt hàng của đồ gỗ rất phong phú, nghề mộc là nghề phổ biến trong dân gian. Các
thợ sau khi học được nghề có thể tách nhóm để làm ăn ở nơi khác vì mọi nơi đều
cần đồ gỗ. Tại những nơi mới đó, người thợ vừa học, vừa làm và lại có cơ hội tách
nhóm. Không giống các nghề khác, nghề này được nhân rộng rất nhanh. Quá trình
lao động cần cù say mê đó đã tạo nên các lớp thợ giỏi, sáng tạo… (“nhất nghệ
tinh, nhất tinh vinh”) và từ đó nhiều mẫu mã hàng mới xuất hiện. Quá trình phát
triển của nghề này gắn liền với sự ra đời của nghề điêu khắc, khảm trai. Nhiều
mẫu mã của sản phẩm đồ gỗ được lấy từ Trung Quốc, đặc biệt là các hàng gắn với

điển tích như tùng cúc trúc mai, long ly quy phượng, ngai thờ, các loại tượng, tủ
chè, sập gụ…Từ các đường lèo, các hoạ tiết khác thường được nảy sinh trong sáng
tạo của các nghệ nhân… Vì vậy, trình độ sáng tạo nhanh được nhân lên ở các tay
thợ cả, các nghệ nhân. Khi kết hợp với nghệ thuật khảm trai, ốc, giá trị của sản
phẩm được tăng lên gấp bội. Khảm trai, ốc làm nổi bật các đường nét của các tác
phẩm, đặc biệt là các tác phẩm mang điển tích. Thị trường về sản phẩm gỗ mỹ
nghệ lại rất rộng và triển vọng ở nước ngoài. Ngày nay nhiều khâu nặng nhọcnhư
pha cắt gỗ, bào… được cơ giới hoá làm cho năng suất lao động nâng cao và phần
quan trọng còn lại dành cho các khâu tinh chế với tài năng sáng tạo của các nghệ
nhân. Trong điều kiện khan hiếm về nguyên liệu, ở một số sản phẩm có thể phải
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

7


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

thay thế nguyên liệu nhưng cần lưu ý là giá trị sản phẩm sẽ tăng khi được đầu tư
thoả đáng về chất xám. Từ đó, cần có kiến thức toàn diện ở nhiều lĩnh vực cho
việc tạo nên một sản phẩm hoàn thiện hơn (tạodáng, hoạ tiết…)
3.4. Hàng thêu ren
Thêu ren là một nghề thủ công truyền thống đặc biệt ở nước ta mà mọi
sản phẩm của nó đều là những tác phẩm nghệ thuật do bàn tay khéo léo của thợ
thủ công tạo nên. Dụng cụ của nghề rất đơn giản nhưng sự khéo léo, sự kiên trì và
sáng tạo là vô hạn.
Ngày nay ở một số nước, người ta dùng máy trong nghề này mang lại năng suất
lao động rất cao, nhưng máy cũng chỉ là máy, chỉ có bàn tay khéoléo của con
người mới làm nên những sản phẩm kỳ diệu. Những sản phẩm đồng loạt có thể
dùng máy (như thêu chữ, thêu cờ, thêu biểu tượng, khăn…nhưng nếu muốn có sản
phẩm độc nhất vô nhị… thì phải cần đến bàn tay vàng của các nghệ nhân.

Hàng thêu ren nổi tiếng ở Lý Nhân, Thanh Liêm (Hà Nam), Minh Lãng(Thái
Bình), Văn Lam (Ninh Bình), Quất Động, Ninh Hải… ở các vùng dân tộc thiểu số,
các bà mẹ, cô gái thường thêu những sản phẩm cho riêng mình. Thêu ren là một
nghề sớm có ở nước ta, phạm vi sản xuất khá hạn hẹp, thị trường tiêu thụ lại nhỏ
so với khả năng sản xuất nên lượng hàng tồn đọng nhiều.
3.5. Hàng thổ cẩm
Đây là một loại hàng đặc biệt của đồng bào dân tộc thiểu số. Sản xuất ra hàng
thổ cẩm có người Chăm ở Chương Mỹ (Ninh Thuận), Phan Hoà (BìnhThuận). Dệt
vải Riêng của người Cà Ho (Lâm Đồng), người Thái, Mường, Tày,Dao, Lự ở miền
Bắc, người Khơ me, Xê đăng, Gia rai, Bana, Chăm, Ê đê, Giả -Triêng ở miền Nam
đều có nghề dệt gia đình. Ở Miền Bắc nổi tiếng dệt thổ cẩm với các làng nghề Nà
phồn, Xâm Khoè, Mai Tịch, Chiềng Châu (Hoà Bình) của dân tộc Thái; 4 làng nổi
tiếng của dân tộc Mường là Mường Bí, Mường Vang, Mường Thành, Mường Đậu
(Hoà Bình).
Hàng mỹ nghệ thổ cẩm có rất nhiều loại: quần áo, túi xách, ví… với rất nhiều
kiểu dáng kích cỡ khác nhau, tiêu dùng nội bộ theo tập tục của các đạo giáo trong
các lễ hội là chủ yếu. Nghề thổ cẩm phát triển với những bước thăng trầm và thị
trường hạn hẹp, người thợ thủ công chỉ tận dụng thời gian những lúc nông nhàn.
Thu nhập của họ chủ yếu là từ nông nghiệp. Vì vậy, chỉ có những người yêu nghề
hơn yêu mình mới gắn bó với nghề.
Trong khi đó, nghề này tương đối phát triển ở ngoài Bắc (ở Hoà Bình).Sản phẩm
được bán ở các chợ và nhiều người nước ngoài có mặt tại các điểm du lịch thường
say sưa ngắm nhìn và mua sắm loại sản phẩm này.
4.Vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ trong phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam.
Xuất khẩu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội. Xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề, điều kiện cho quy mô và
tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Trong quá trình công nghiệphoá, hiện đại hoá
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1


8


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

đất nước, hoạt động xuất khẩu càng có nghĩa thiết thực hơn.Điều này, không
những thu về cho đất nước một nguồn ngoại tệ lớn, mà quan trọng hơn còn là cơ
hội để chúng ta phát huy các lợi thế so sánh của đất nước, mở rộng các ngành nghề
sản xuất, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Với ý nghĩa đó, việc đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ - một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của nước ta, có một vai trò vô cùng to lớn đối với phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam.
4.1 .Thúc đẩy công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước.
4.2 .Tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân
dân.
4.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
4.4. Góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
4.5. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
4. 6. Duy trì các ngành nghề truyền thống, tăng cường giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc.
5. Những yếu tố tác động đến hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ.
5.1. Nguồn nguyên liệu
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ sử dụng nguồn nguyên liệu chính là nguyên
liệu trong nước, đa phần được lấy từ thiên nhiên và khá sẵn có. Đó là các nguyên
liệu như: mây, tre, nứa, lá, giang, bông, gỗ, đay, cói, dừa, vỏ ốc,vỏ trứng... Đây là
một trong những thuận lợi lớn vì những nguyên liệu này thường sẵn có trong tự
nhiên hoặc có thể trồng khá dễ dàng ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, do sự khai
thác bừa bãi, không có kế hoạch nên các nguồn nguyên liệu này cũng đã dần dần
bị giảm cả về số lượng và chất lượng. Nếu như không có sự quan tâm đồng bộ kể

cả từ phía người dân lẫn Nhà nước để bù đắp lại số nguyên liệu được dùng cho sản
xuất thì trong tương lai tất cả các nguồn nguyên liệu đều có nguy cơ thiếu hụt.
Khi bước sang cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã gặp phải không ít khó
khăn khi vẫn áp dụng lối làm ăn cũ theo kiểu “có gì bán nấy”.Giờ đây, trước nhu
cầu vô cùng đa dạng của thị trường thế giới, doanh nghiệp không chỉ sản xuất
những mặt hàng chỉ sử dụng những nguồn nguyên liệu trong nước mà còn phải
nhập về một số nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ cho xuất khẩu. Điều này
cũng gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp khi nguồn nguyên liệu phải
phụ thuộc vào nước ngoài. Các doanh nghiệp thường phải nhập khẩu một số
nguyên liệu như phẩm nhuộm, bột màu, sơn, dầu bóng, len chất lượng cao, chỉ
màu, sợi....Đơn cử về thực trạng nguồn nguyên liệu gốm sứ. Hiện nay nhiều nhà
sản xuất gốm sứ trong nước vẫn còn phải nhập nguyên liệu cao lanh, đất sét,
men, tràng thạch… trong khi trữ lượng nguyên liệu trong nước cao gấp nhiều lần
nhu cầu. Riêng năm 2000, kim ngạch nhập khẩu các nguyên liệu trên khoảng gần
50 triệu USD. Nguyên nhân chính là do trong mấy năm qua, chúng ta chỉ tập trung
xây dựng các nhà máy sản xuất gốm sứ hiện đại với tốc độ sản lượng tăng chóng
mặt nhưng lại chưa quan tâm đến đầu tư khai thác,chế biến nguyên liệu. Theo hiệp
hội gốm sứ Việt Nam, với sự phát triểnnhanh chóng của ngành công nghiệp gốm
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

9


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

sứ hiện nay, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất không ngừng tăng lên. Nếu như năm
2002 là 960.000 tấn nguyên liệu và 52.000 tấn men màu thì dự báo năm 2005 sẽ là
1.4 triệu tấn nguyên liệu, 80.000 tấn men màu và năm 2010 sẽ lên đến 1.7 triệu tấn
nguyên liệu và100.000 tấn men màu.
Phần lớn mỏ nguyên liệu ở nước ta có trữ lượng lớn nhưng lại chưa được khai

thác hợp lý. Công nghệ khai thác, chế biến còn quá lạc hậu, chủ yếu khai thác thủ
công, bán cơ giới, phân tán và manh mún, chưa đáp ứng được nhu cầu công nghệ
sản xuất gốm sứ hiện đại. Phần lớn nguồn nguyên liệu khi đưa vào nhà máy sản
xuất đều tiếp tục phải gia công xử lý.
Về cao lanh, ta có 105 mỏ với trữ lượng 639 triệu tấn, nhưng đến nay chỉ có 20
mỏ đang khai thác với công suất nhỏ từ 10.000 – 30.000 tấn/năm với công nghệ
khai thác, tuyển lọc cao lanh ở mức thấp, chất lượng chưa cao,lẫn nhiều tạp chất.
Về men màu, các cơ sở sản xuất trong nước tự sản xuất mới chỉ đáp ứng 10 %
nhu cầu và các doanh nghiệp đang phải nhập khẩu với giá đắt.
Nguyên liệu không đáp ứng nhu cầu là một nguyên nhân đẩy giá thành gốm, sứ
nước ta lên cao. Nếu giải quyết được vấn để này ngành gốm sứ mới có thể nâng
cao được chất lượng, hạ giá thành.
Có thể nói, nguyên liệu chính là một trong những bộ phận mấu chốt cấu thành nên
giá trị của sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ. Những nguyên liệu tốt, đủ tiêu chuẩn
kết hợp với bàn tay tài hoa của người thợ sẽ cho ra đời những sản phẩm có giá trị
cao.
Nhưng có một điều đáng mừng là giờ đây các nguồn nguyên liệu ngoại nhập cũng
rất sẵn có trên thị trường nên chỉ cần đặt hàng là có thể mua được với số lượng
lớn, giá cả cũng phải chăng.
5. 2. Nguồn vốn
Nhìn chung, các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa số là quy mô vừa,
nhỏ và thiếu vốn. Những mặt hàng khác nhau sẽ yêu cầu đòi hỏi vốn đầu tư khác
nhau. Những mặt hàng cần nhiều vốn chủ yếu là gốm sứ, sơn mài, mĩ nghệ vì phải
đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ để làm ra các sản phẩm thô, sản
phẩm sơ chế. Các khâu sản xuất còn thủ công, nhiều khi tạo ra sản phẩm thô, mộc
nên chất lượng sẽ không đảm bảo khi sản xuất đại trà. Nếu như muốn sản xuất với
quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao vào các khâu sản xuất sơ chế, mở rộng nhà
xưởng, tuyển thêm nhân công thì nguồn vốn cho đầu tư sản xuất là vô cùng cấp
thiết. Nhu cầu sử dụng vốn rất lớn nhưng việc huy động vốn hiện nay gặp rất
nhiều khó khăn. Các Ngân hàng có lúc thừa vốn nhưng các doanh nghiệp lại

không vay được. Sau một số vụ đổ bể thất thoát như Minh Phụng,EPCO… ngành
ngân hàng đã tỏ ra thận trọng hơn đối với việc cho vay. Ngoài tài sản thế chấp,
cầm cố, ngân hàng còn kiểm tra cả phương án kinh doanh, phương thức kinh
doanh rất cụ thể rồi mới cho vay.
Vì vậy, doanh nghiệp đã phải tìm mọi cách để huy động được nguồn vốn đầu tư
cho sản xuất. Ngoài nguồn vốn của bản thân người chủ doanh nghiệp, còn có
nguồn vốn của cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, của các xã viên trong hợp
tác xã và thậm chí cả những khoản ứng trước của kháchhàng.
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

10


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

5. 3. Nhu cầu thị trường đối với hàng thủ công mỹ nghệ
Trong những năm qua, ngành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đã tạo được nhiều
thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Đài Loan, Bắc Mỹ. Ngoài ra, Nga, Đông Âu…
cũng được coi là những thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam . Hàng thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam đến nay đã có mặt tại hơn 50 nước và lãnh thổ ở khắp các
châu lục của thế giới . Thị trường xuất khẩu loại hàng này trong mấy chục năm
qua có những giai đoạn thăng trầm, nhưng nhìn chung những năm gần đây có
chiều hướng phát triển tốt, có nhiều chủng loại hàng hoá mới và mở rộng thị
trường theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thị trường với các nước
trên thế giới .Tuy nhiên, trong xuất khẩu những loại hàng hoá này, chúng ta phải
đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có nhiều tiềm năng và kinh nghiệm như
Trung Quốc, Indonesia,Philippines, Thái Lan… Để nâng cao sức cạnh tranh, cần
phải tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, thủ pháp kỹ thuật trong sản xuất
kinh doanh và các chính sách giải pháp liên quan của từng nước. Đồng thời, với
chất liệu và kỹ xảo riêng, phải sáng tạo ra được những mẫu hàng hoá đáp ứng nhu

cầu, thị hiếu của từng thị trường, bảo đảm sản phẩm của Việt Nam có sức cạnh
tranh. Mặc dù thị trường rộng như vậy nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được
nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn. Cái khó là phải làm sao
tiếp cận với thị trường mới và tranh thủ mọi cơ hội để khai thác sâu them các thị
trường có nhu cầu lớn và thường xuyên. Thị trường lớn nhất trong xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam phải kể đến EU. Kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang khu vực thị trường này tăng khá nhanh, hiện chiếm tỷ trọng gần 1/4
trong tổng kim ngạch xuất khẩu . Đây cũng là khu vực Việt Nam thường xuất
được nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ và có nhiều triển vọng mở rông, đẩy mạnh
tiêu thụ một số loại hàng có khả năng phát triển. EU cũng được được đánh giá là
một trong các thị trường trọng điểm cho đồ gỗ chế biến của Việt Nam . Bên cạnh
đó, các mặt hàng gốm, sứ mỹ nghệ cũng là nhóm hàng đang tiêu thụ mạnh sang thị
trường này. Thông qua hội chợ Frankfurt hàng năm tại Đức, một số công ty của
Việt Nam đã thành công trong việc nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, ký
được nhiều hợp đồng xuất khẩu hàng gốm sứ mỹ nghệ. Có thương nhân Đan Mạch
đã chuyển toàn bộ đơn hàng gốm sứ từ các nước xung quanh Việt Nam để tập
trung đặt hàng tại Việt Nam và hứa hẹn giúp đở đầu tư mở rộng sản xuất , tăng
lượng hàng cung ứng cho thị trường này lên 2-3 lần so với hiện nay. Cùng với
hàng gốm sứ mỹ nghệ của Đồng Nai, Bình Dương, Bát Tràng, từ năm 1998 có
thêm Vĩnh Long đã xuất khẩu mạnh sang khu vực Tây, Bắc Âu. Ngoài ra, các mặt
hàng như mây, tre, hàng thêu ren … cũng xuất khẩu được sang khu vực thị trường
này với khối lượng đáng kể : Xí nghiệp Rapexco xuất khẩu hàng song mây tre của
Nha Trang, hợp tác xã mây tre Hàng Kênh ( Hải Phòng) có nhiều mặt hàng mây
tre xuất sang Tây Âu; các mặt hàng thảm, đệm ghế cói của Thái Bình xuất sang
Hà Lan, Tây Ban Nha, Italy… hay công ty Barotex trong năm 1999 cũng đã xuất
khẩu 2,5 triệu chiếc nón lá buông sang Tây Ban Nha và Italy.
5. 4. Các đối thủ cạnh tranh
Hiện tại hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với hàng
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1


11


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc, Thái Lan, Singapore … Tuy nhiên, theo đánh
giá của nhiều chuyên gia thì hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nhiều lợi thế
hơn nhờ độ tinh xảo và khéo léo thể hiện trên từng đường nét sản phẩm. Hơn nữa
nhiều mặt hàng của ta vượt trội về chất lượng cũng như mẫu mã. Song để nâng
cao sức cạnh tranh cần có những sản phẩm đặc trưng, đa dạng hơn về mẫu mã,
kiểu dáng. Bên cạnh việc phát huy những lợi thế của những sản phẩm làm bằng
tay có độ tinh xảo cao, cần đầu tư các phương tiện thiết bị máy móc và công nghệ
hiện đại để tạo nên những sản phẩm có chất lượng đồng đều và ổn định. Một kinh
nghiệm từ các nhà sản xuất Trung Quốc là để đưa ra được nhiều sản phẩm của
mình vào thị trường Nhật Bản là họ đã mời các chuyên gia Nhật sang tư vấn và
tham gia điều hành sản xuất để sản phẩm làm ra phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng Nhật Bản.
5. 5. Các chính sách của nhà nước liên quan đến hàng thủ công mỹ nghệ
Thời gian gần đây chính phủ đã có nhiều tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ngày 24/1/2000,Thủ tướng chính
phủ đã ra Quyết định 132/2000/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn, trong đó nội dung chủ yếu là đẩy mạnh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ. Quyết định này đã có những qui định cụ thể đối với từng
lĩnh vực như đất đai xây dung cơ sở sản xuất kinh doanh, phát triển khai thác
nguyên liệu phục vụ sản xuất, các chính sách về đầu tư, tín dụng, thuế, lệ phí, hỗ
trợ xúc tiến thương mại… Hiện nay,một số bộ, ngành liên quan đang cụ thể hóa về
mức độ và thủ tục thực hiện.Theo Thông tư số 61 của Bộ tài chính, kể từ ngày
1/1/2002 các doanh nghiệpsẽ được Nhà nước hỗ trợ chi phí hoạt động xúc tiến
thương mại bằng 0,2% kim ngạch xuất khẩu thực thu trong năm. Tiếp theo đó,
Thông tư số 62 củaBộ Tài chính cũng tháo gỡ các khó khăn của doanh nghiệp về

chi hoa hồng môi giới xuất khẩu. Theo đó, các khoản chi này sẽ được hạch toán
vào chi phí bán hàng của doanh nghiệp, đối tượng hưởng hoa hồng xuất khẩu gồm
cả các doanh nghiệp, các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, khó khăn về vay vốn ưu đãi đã được Chính phủ “khai thông” qua
Quyết định 02/2001/QĐ-TTg ngày 2/1/2001 về chính sách hỗ trợ đầu tư từ Quỹ hỗ
trợ phát triển đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuấtkhẩu và sản xuất nông
nghiệp. Như vậy, theo qui định hiện hành (kể cả các qui định vừa bổ sung nêu
trên), các dự án đầu tư sản xuất chế biến hàng xuất khẩu ngoài các ưu đãi như
giảm miễn tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp... còn được
vay vốn tín dụng đầu tư từ Quỹ hỗ trợphát triển với lãi suất ưu đãi và điều kiện dễ
dàng hơn trước.
Có thể nói, các cơ chế, chính sách mới thông thoáng đã tạo điều kiện thuận lợi,
tiếp sức cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Vấn đề còn lại là tổ chức thực
hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp được đề ra. Tuy nhiên, trong thực tế
vẫn còn không ít trường hợp chậm triển khai hay thực hiện chưa đồng bộ giữa các
bộ, ngành tạo rào cản không đáng có đối với doanh nghiệpxuất khẩu.
Tóm lại, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có một vai trò hết sức quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Hướng tới mục tiêu công nghiệp hoá và hiện
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

12


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

đại hoá đất nước vào năm 2020, việc xuất khẩu mặt hàngnày càng có ý nghĩa thiết
thực hơn. Tuy nhiên, để làm tốt công tác xuất khẩu,chúng ta cần nắm bắt, phân
tích kỹ lưỡng thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua. Vì
vậy, tìm hiểu những điều cơ bản, khái quát nhất về mặt hàng này là điều rất cần
thiết. Có thể nói, những điều mà ta đã nghiên cứu trong chương 1 chính là điều

kiện, cơ sở để tiếp tục việc nghiên cứu tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
sẽ trình bày ở chương 2.

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

13


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Chương 2
Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam
giai đoạn 2006-2010
1.Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam năm
2006- 2010.
*Kinh ngạch xuất khẩu
Từ thế kỉ 11, hàng TCMN của Việt Nam đã được xuất khẩu qua cảng Vân Đồn,
Vạn Ninh. Trải qua bao thăng trầm đén sau ngày đất nước thống nhất (1975), xuất
khẩu hàng TCMN bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của mình. Bình quân
trong 10 năm (1976-1985) , hàng TCMN chiếm khoảng 40% giá trị tổng kinh
ngạch cả nước, đỉnh cao là năm 1979 chiếm 53,4%. Xuất khẩu đã thổi một luồng
sinh khí vào các làng nghề truyền thống như sơn mài Hạ Thái ( Hà Tây), chạm
khắc gỗ Sơn hà, thêu ren Sơn Tây, thảm len Hàng Kênh ( Hải Phòng)…. Sau khi
mất thị trường Đông âu và Liên Xô năm 1991 , hàng TCMN đã trải qua bao gian
truân vất vả trong cơ chế mới để tổ chức sản xuất – kinh doanh , chuyển đổi thi
trường, tìm kiếm và xây dựng lại quan hệ bạn hàng. Nhờ sự đổi mới tích cực đó
mà những năm sau đó , hàng TCMN đã trở lại thời hoàng kim của mình. Liên tục
những năm gần đây hàng TCMN đều có mức tăng trưởng khá cao, bình quân 20%
trên 1 năm, với kinh ngạch xuất khẩu có những bước tiến dài và được xếp vào top
1 trong 10 mặt hàng xuất khẩu tiềm năng, dự báo sẽ tiếp tục tăng mạnh trong

những năm tiếp theo.
Trong "Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010" của Bộ Thương mại,
định hướng phát triển nhóm hàng TCMN chiếm một vị trí rất quan trọng. Đây là
một trong số ngành được đánh giá là có nhiều tiềm năng phát triển bền vững, xuất
khẩu lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao.
Ước đoán kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ từ năm 20062010:
Đơn vị (triệu USD)
2006

2007

Nguồn: Bộ Thương mại
2008

2009

2010

Giai đoạn
2006-2010

Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
KN
KN
KN
KN

KN
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
662 16,3 821 24,0 997 21,5 1.214 21,7 1511 24,5 5.024
KN

Tăng
(%)
21,6

Cơ cấu nhóm hàng:

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

14


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Nhóm hàng
Mây tre, cói, lá thảm
Gốm sứ
Đá, kim loại quý

Thực hiện năm 2006
191,6 tr USD tỷ trọng 30,4%
274,3

4,3%
164,5
26%

Dự kiến năm 2010
450 tr USD tỷ trọng 30%
660
44%
390
26%

Những mục tiêu trên thực sự có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp , nó giúp cho
các doanh nghiệp xác định được phương hướng và kế hoạch phát triển của mình
để đạt được mục tiêu chung đề ra.
Thực tế qua các năm:
Tổng kinh ngạch xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ

giai đoạn 2005-2010.
Đơn vị: triệu USD

Nguồn: Bộ Thương mại

2005
2006
KN Tăng KN Tăng
(%)
(%)

2007
KN


2008
2009
2010
Tăng KN Tăng KN Tăng KN
(%)
(%)
(%)

Tăng

565

752

19,4

36,1

6%

630

11,5

910

21

1102 21


1500

Trên thực tế , kinh ngạch xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ qua các năm 2006-2010 đều
tăng nhưng đều chưa đạt dược mục tiêu đề ra. Kế hoạch năm 2006 hàng thủ công mỹ
nghệ dự kiến là 660 triệu USD, nhưng thực tế đạt được khoảng 630,4 triệu USD, tăng
trưởng có 10,8% so với dự kiến là 16,3%. Những năm kế tiếp cũng tương tự, năm 2007
mục tiêu là 812 triệu USD nhưng chỉ đạt được 752 triệu USD tăng 19,4 % so với năm
trước đó. Năm 2008, mục tiêu là 997 triệu USD , kết quả đạt được là 930 triệu USD mặc
dù vậy vẫn tăng so với năm 2007 là 21%. Vẫn giữ được mức độ tăng trưởng 21% ở năm
2009, nhưng kết quả đạt được cũng chỉ là 1102 triệu USD thấp hơn mức chỉ tiêu đề ra là
1214 triệu USD. Bước sang năm 2010, đã có sự tăng trưởng vượt bậc trong kinh ngạch
xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ đạt con số là 36,1% nhưng trên thực tế kết quả đạt được
là 1500 triệu USD thấp hơn mục tiêu đè ra hơn 11 triệu USD.

Nhìn vào những con số cụ thể cho ta thấy các doanh nghiệp cần phải có các chiến
lược cụ thể nhằm thúc đẩy và phát triển xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ , đồng
thời nhà nước cũng cần có những chính sách thích hợp nhằm đạt được các mực
tiêu đề ra.

2.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Hiện nay, các mặt hàng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam gồm rất
nhiều chủng loại phong phú. Song, chủ yếu tập trung vào 4 nhóm mặt hàng chính
là: hàng gốm sứ, hàng mây tre đan, đồ gỗ, thuê ren thổ cẩm
2.1. Nhóm hàng gốm sứ mĩ nghệ.
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

15



BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Gốm sứ là một mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam với
hàng trăm năm lịch sử phát triển. Các mẫu hàng gốm sứ của Việt Nam mang tính
đa dạng, được hoàn thiện từ chính nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các
loại men của Việt Nam cũng rất độc đáo và mang tính chất truyền thống. Mỗi cơ
sở sản xuất đều có cách pha men riêng với những chi tiết tinh tế và kỹ thuật pha
chế luôn được cải tiến. Sự phong phú về kỹ thuật pha men đã tạo nên nét độc đáo
về sản phẩm của từng địa phương.Trong nhóm hàng này có các mặt hàng như:
tượng phật Tam Đa, bình lọ hoa, chân nến, ấm chén, bình trà, con giống…
Ngày nay, trình độ bắt chước về mẫu mã sản phẩm rất nhanh và điều quan
trọng là sự cải tiến các mẫu mã đó rất phát triển ở mọi cơ sở sản xuất. Vì vậy các
mẫu mã gốm sứ vô cùng phong phú về loại hình, công dụng, kích cỡ, hình dáng và
chỉ cần thay đổi chút ít về đường nét uốn lượn hay hoạ tiết là đã có thể cho ra đời
một sản phẩm mới. Chính vì vậy, các loại hình sản phẩm sản gốm sứ liên tiếp
được bổ sung trên thị trường. Tính chất mỹ thuật của sản phẩm này được tạo nên
bởi hình dáng sản phẩm và những đường nét hoạ tiết trên mặt sản phẩm. Người
tiêu dùng thường lựa chọn sản phẩm theo công dụng, kích cỡ,chất men và hình
thức cũng như dáng dấp nhái cổ của sản phẩm.
Đây cũng là nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện đang được thị
trường nước ngoài ưa chuộng và có nhiều khả năng phát triển trong tương lai.
Hiện nay gốm sứ Việt Nam, nhất là những sản phẩm gốm ngoài vườn làm bằng
tay đang rất được ưa chuộng trên thị trường châu Âu, vốn là thị trường tiêu thụ lớn
nhất thế giới. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ được phê chuẩn, gốm sứ
Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển mạnh tại thị trường Bắc Mỹ. Theo các thương
nhân nước ngoài, chất lượng gốm sứ Việt Nam không thua kém các cường quốc
sản xuất khác như Italia,Trung Quốc, Malaysia. Do trình độ điêu khắc, tạo dáng
sản phẩm tuyệt vời, có khách hàng so sánh mặt hàng gốm đất đỏ của Việt Nam là
“ Saigon Italia”. Ngoài ra, với ưu điểm được làm bằng tay, chủng loại và chất liệu
phong phú cho phép người mua hàng có nhiều lựa chọn từ hàng men, không men,

đất đỏ… Các sản phẩm cũng đa dạng như chậu tròn, oval, vuông, chữ nhật, hình
thú, đôn, hũ, bình… Điều này giúp khách hàng có một bộ sưu tập đầy đủ trong khi
họ chỉ có thể mua hàng đất đỏ tại Trung Quốc, hàng men dạng tròn tại Malaysia và
hàng cao cấp tại Italia.
Hàng gốm sứ cũng có nhiều loại: không kể gốm sứ xây dựng và gốm sứ kỹ thuật,
các loại gốm dân dụng và gốm mỹ nghệ cũng có nhu cầu ngày càng tăng cho thị
trường trong nước và xuất khẩu.Trong sản xuất gốm sứ mỹ nghệ dù có ứng dụng
một số quy trình công nghệ và sử dụng một số thiết bị máy móc hiện đại ở một số
khâu nhất định, thì sản phẩm của ngành này vẫn chứa đựng đậm nét của sản phẩm
thủ công truyền thống có tính văn hoá và mỹ thuật cao. Khách hàng nước ngoài
thích sản phẩm này nhờ vào sự độc đáo lạ mắt mang đậm tính văn hoá của người
phương đông nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Những năm trước đây,
sản phẩm gốm của ta rất khó cạnh tranh với hàng Trung Quốc - đất nước khá nổi
tiếng với thế giới về hàng gốm sứ. Song gần đây do người nghệ nhân có nhiều
sáng tạo, làm ra nhiều sản phẩm lạ mắt mang tính truyền thống dân tộc và các
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

16


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

doanh nghiệp cũng như các tổ chức đã có nhiều cố gắng để giới thiệu mặt hàng
này ra thị trường nước ngoài nên trị giá xuất khẩu của mặt hàng này tăng rất nhanh
qua các năm và hiện nay trở thành mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của nước ta.
2.2. Nhóm hàng mây tre đan
Với đặc điểm gọn nhẹ, xinh xắn, dễ thay đổi kiểu, khá bền và giá tương đối rẻ
so với đồ gỗ, hàng mây tre lá đã có bước phát triển khá vững chắc. Từ một số ít
mặt hàng bàn ghế theo mẫu từ xa xưa, đơn giản. Gần đây những mặt hàng mây tre

đã cải tiến, có thêm nhiều kiểu dáng đẹp mắt theo mẫu mã nước ngoài. Nguồn
nguyên liệu làm hàng này rất phong phú: từ mây tre, trúc, lá buông đến xơ dừa, lục
bình, dứa dại…dưới bàn tay khéo léo của những người thợ cũng có thể trở thành
những mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Mặt hàng này không đòi hỏi trình độ kĩ thuật
cao, lao động tương đối đơn giản. Có nhiều cơ sở đã dùng mây tre lá kết hợp với
thủy tinh, gốm, gỗ, kim loại để tạo ra nhiều sản phẩm có kiểu dáng đặc biệt. Trong
nhóm hàng này có các mặt hàng như chiếu, làn đi chợ...với kiểu dáng đẹp, đa
dạng. Nguyên liệu sản xuất ra nhóm hàng này khá dồi dào ở đồng bằng sông
Hồng, vì vậy giá đầu vào tương đối rẻ. Đây là mặt hàng dễ sản xuất, hầu như
người thợ thủ công nào cũng có thể sản xuất mặt hàng này.
Hàng mây tre đan xuất khẩu của Việt Nam khi mới giới thiệu ra thị trường
thế giới đã tạo được sự hấp dẫn của các khách hàng ở nhiều quốc gia, nhất là các
nước công nghiệp phát triển. Mức thu nhập bình quân của người dân các nước này
cao hơn lao động nước ta đến vài chục lần và đôi khi cảm thấy nhàm chán với các
sản phẩm sản xuất hàng loạt mang tính chất công nghiệp. Do vậy họ sẵn sàng bỏ
ra một khoản tiền rất nhỏ so với thu nhập để mua các hàng hoá được làm bằng lao
động thủ công và nguyên liệu từ thiên nhiên (cây cỏ…). Những mặt hàng này đã
đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ trang trí là chính chứ không cần quan tâm nhiều đến giá
trị sử dụng.
Hàng mây tre đan xuất khẩu của Việt Nam trước đây chủ yếu được xuất sang
Đông Âu và khối SEV theo các hiệp định thương mại trao đổi hàng hoá song
phương, mà chủ yếu là với các nước trong khối XHCN.Trong hơn một thập kỷ
qua, thị trường ưu ái đó không còn nữa, sau một thời gian chơi vơi, ngành nghề
mây tre đan mỹ nghệ của Việt Nam ổn định trở lại và chuyển hướng phát triển thị
trường đa phương, đang từng bước xâm nhập vào các thị trường khác như EU,
Hoa Kỳ, Liên bang Nga, Nhật Bản và Đông Nam Á.
Hàng mây tre đan của Việt Nam khi tiếp cận các thị trường này đang gặp phải
các đối thủ cạnh tranh lớn như Inđônêxia, Thái Lan, Tây Ban Nha cả về mẫu mã,
chất lượng, kiểu dáng cũng như kinh nghiệm tiếp thị.
Theo báo cáo của các thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài thì hiện nay

aPhilipin xuất khẩu loại hàng này đạt khoảng 100-120 triệu USD/năm, Indonexia
xuất khẩu khoảng 50 triệu USD/năm, Trung Quốc xuất khẩu nhóm hàng thảm ren
và sản phẩm đan từ các loại cây đạt kim ngạch trên dưới 1 tỷ USD/năm.
Hàng mây tre đan đòi hỏi rất cao về tính độc đáo trong kiểu dáng, mẫu mã,
màu sắc và tiết tấu. Yếu tố này trong hàng hoá xuất khẩu mây tre đan của Việt
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

17


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Nam còn rất nhiều hạn chế. Chúng ta chào hàng và bán loại sản phẩm mà chúng ta
tạo ra nó chứ chưa nâng lên được đến trình độ là chúng ta làm và bán loại sản
phẩm mà khách hàng đang ưa chuộng. Điều này được chứng minh khá rõ khi
chúng ta nghiên cứu và sản xuất hàng mây tre đan theo mẫu mã của bạn hàng thì
thấy hàng được khách tìm đến và bàn bạc hợp đồng ngay vì nó có kiểu dáng phù
hợp với tư duy thẩm mỹ của họ. Trong khi đó các mặt hàng chúng ta cho là có
“kiểu dáng” và “thanh tao” theo kiểu tư duy Á Đông thì vẫn khó bán vì nó lại có
thể là “khó cảm nhận” với khách hàng nước ngoài.
2.3.Nhóm hàng gỗ mĩ nghệ
Sản phẩm đồ gỗ đã có một truyền thống lâu đời trong tâm trí của mỗi người
Việt. Mộc là một nghề phổ biến trong nông thôn Việt Nam. Rừng của Việt Nam
có nhiều gỗ quý. Đó là những cơ sở bảo đảm cho sự phát triển của nghề mộc.
Trong quá trình lao động sáng tạo, hệ thống công cụ của nghề mộc ngày một hoàn
thiện, trình độ tay nghề của thợ mộc ngày càng được nâng cao.Từ những nguyên
vật liệu thông thường, các thế hệ thợ mộc đã thổi hồn mình vào đó và tạo ra những
sản phẩm tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mặt hàng đồ gỗ bao gồm các sản phẩm gỗ hoàn chỉnh, chủ yếu là đồ gỗ gia
dụng và đồ gỗ mỹ nghệ. Đồ gỗ gia dụng có nhiều loại, chủ yếu là sản phẩm của

những lao động thủ công có tay nghề cao, các khâu sản xuất công nghiệp có sử
dụng máy móc thiết bị là khâu xử lý nguyên liệu đầu vào tương tự như khâu xử lý
đất sét, cao lanh trong ngành đồ gốm. Mặt khác đồ gỗ gia dụng nếu được sản xuất
chế biến thêm các khâu trạm khảm, sơn mài thì lại trở thành đồ gỗ mỹ nghệ. Đồ gỗ
mỹ nghệ bao gồm tranh gỗ, tượng gỗ, hàng sơn mài…là nhóm hàng hiện nay đang
có tỷ trọng xuất khẩu cao nhất trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và cũng là
mặt hàng có thế mạnh trong tương lai. Vì vậy cần xếp các sản phẩm này vào nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ để tận dụng các chính sách khuyến khích, ưu đãi của nhà
nước. Trước đây, chúng ta chủ yếu xuất khẩu hàng ra nước ngoài theo công thức
hàng đổi hàng và tính cạnh tranh của mặt hàng này chưa cao nên sản phẩm còn
quá đơn điệu về mẫu mã, kiểu dáng ít thay đổi và chất lượng chưa cao. Các
chuyên gia trong ngànhcho biết thật ra sự tăng trưởng của ngành chế biến và sản
xuất mới nhảy vọt trong khoảng 10 năm gần đây. Trên thị trường xuất khẩu đồ gỗ
thế giới trước đây Việt Nam luôn xếp hạng sau các quốc gia khác trong khu vực
như Malaysia, Indonesia, Thái Lan… Thậm chí đối với một số mặt hàng, Việt
Nam chỉ là nơi chuyên nhận gia công cho các hợp đồng của những công ty Thái
Lan, Malayxia…
Nhưng đến nay, với mẫu mã, chất lượng và giá thành đã được điều chỉnh cho
phù hợp với nhu cầu thị trường, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã có thể cạnh
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

18


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

tranh với các quốc gia này. Không những thế, ở một số mặt hàng nhất định, hàng
gỗ xuất khẩu của ta còn vượt qua cả Trung Quốc về kiểu dáng và chất lượng. Nhờ
khả năng có thể đảm nhận được những đơn hàng phức tạp, hoa văn tinh xảo, sản
phẩm chuyên sâu… mà doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định được vị trí của

mình. Nhiều khách hàng nước ngoài đã chuyển địa chỉ đến các doanh nghiệp Việt
Nam.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong ngành cũng đang đối mặt với những khó
khăn. Một số doanh nghiệp có tiềm năng phát triển muốn đầu tư xây dựng dây
chuyền chế biến gỗ xuất khẩu đều rơi vào tình hình chung: thiếu vốn đầu tư. Tính
trung bình để có thể xây dựng được một khu nhà xưởng có diện tích khoảng 4000
m2 với đầy đủ máy móc, thiết bị cần thiết, doanh nghiệp phải có trong tay hàng
trăm nghìn USD. Các đối tác đặt hàng nhiều và yêu cầu của họ cũng vì thế mà cao
hơn, đa dạng hơn. Vì vậy mà các doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam cần phải
tăng cường thêm khả năng đáp ứng, mở rộng nhà xưởng, thuê thêm nhân công,
đầu tư thêm máy móc…
Bên cạnh đó, phần lớn đồ gỗ xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa
chủ động được phần thiết kế kiểu dáng. Hầu hết đơn đặt hàng của đối tácluôn kèm
theo các kiểu dáng mà họ đã lựa chọn. Đây là một khó khăn mà việc khắc phục
không phải dễ. Một vị Giám đốc trong ngành đã phân tích: trước tiên để bán được
một mặt hàng ra nước ngoài thì nhà thiết kế phải hiểu rõ tâm lí tiêu dùng, tập quán
sử dụng… của khách hàng nước ngoài.
2.4.Nhóm hàng thêu ren thổ cẩm
Các mặt hàng từ xưa đã có lịch sử phát triển lâu dài và trở thành những
sản phẩm quen thuộc gắn bó với đời sống con người. Cùng với sự phát triển của
xã hội, nghề thêu ren đã được ra đời và phát triển, trở thành ngành nghề truyền
thống của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Mỗi sản phẩm thêu ren ra đời đều
phản ánh nét văn hoá nghệ thuật riêng của quốc gia, dân tộc sản xuất ra nó.
Hàng thêu ren được sản xuất ra chủ yếu từ các loại vải cộng với bàn tay
khéo léo, trí sáng tạo của người thợ thêu. Do tính chất đặc biệt của loại hàng này
mà nghề thêu ren chỉ được phát triển ở một số quốc gia như: Trung Quốc, Thái
Lan, Nhật, Campuchia, Hàn Quốc, Singapore, Việt Nam, Ấn Độ. Những nước này
có nghề thêu ren phát triển khá lâu đời.Trong số đó Trung Quốc, Thái Lan, Việt
Nam là những nước có sản phẩm sản xuất lớn, đặc biệt là Trung Quốc, có thể nói
là cường quốc về sản xuất và xuất khẩu hàng thêu ren.

Ở nước ta thêu ren là một trong những ngành nghề thủ công truyền thống
của nhân dân. Qua quá trình phát triển và truyền tụng từ đời này qua đời khác,các
sản phẩm thêu ren ngày nay của nước ta đa dạng về mẫu mã, chủng loại đã được
mang đi giới thiệu và gây được sự quan tâm chú ý của nhiều thị trường trên thế
giới.
Chủ trương của Đảng và Nhà Nước ta là khuyến khích sản xuất và phát triển
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống trong đó có mặt hàng thêu ren.Việc

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

19


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

sản xuất hàng thêu ren không cần vốn đầu tư ban đầu lớn, nó khắc phục khó khăn
ban đầu của ta là thiếu vốn.
Hàng thêu, ren, khăn trải bàn, ga trải giường, áo gối thêu, trước đây ta cũng
xuất khẩu với số lượng lớn vào thị trường Liên Xô và Đông Âu. Sau năm 1990
xuất khẩu hàng hoá này giảm nhiều. Tuy nhiên nhu cầu thị trường thế giới đối với
hàng thêu thủ công và hàng ren có nhưng không ổn định, tăng giảm thất thường.
Hiện nay có xu hướng giảm đi rất nhiều do thị trường xuất khẩu bị thu hẹp.

3.Các thị trường xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ chính của Việt
Nam.
Thị trường quốc tế của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã thay đổi nhiều
trong vài thập kỷ gần đây. Trước đây, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của
Việt Nam được xuất khẩu sang các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu, các nước
láng giềng như Lào, Campuchia và Thái Lan (năm 1996 xuất khẩu sang 50 nước
và vùng lãnh thổ, năm 2000 là 90 nước và vùng lãnh thổ, năm 2004 là trên 100

nước và vùng lãnh thổ, năm 2005 là 133 nước và vùng lãnh thổ), thì hiện nay các
sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang được bán ở hầu hết trên thị trường
thế giới.
Liên minh châu Âu (EU) đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm 2005,
trong số 15 thị trường xuất khẩu chính của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thì
có tới 7 nước của EU, chiếm tỷ trọng 42%, tương đương khoảng 241 triệu USD và
gấp 4 lần lượng xuất khẩu sang Nhật Bản hay Hoa Kỳ.
Trước đây, thị trường Nhật Bản được xếp thứ nhất trong số những thị trường xuất
khẩu mục tiêu lớn, nhưng hiện nay vị trí dẫn đầu đang thuộc về Pháp và Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ vẫn được xem là thị trường có sức tăng trưởng ấn tượng trong thời kỳ
1999 - 2005 và thị trường này cũng vẫn còn nhiều tiềm năng tăng trưởng trong
tương lai.
Trong các nước Đông Á thì thị trường Đài Loan, Hàn Quốc cũng là thị trường
tiềm năng. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào 2 thị trường này
cũng tăng mạnh, kim ngạch xuất khẩu vào Đài Loan năm 2005 tương đương với
thị trường Pháp, Hoa Kỳ. Trung Đông hiện là khu vực thị trường giàu tiềm năng
nhưng Việt Nam vẫn chưa khai thác được để đẩy mạnh xuất khẩu.
Ba thị trường mục tiêu chính
3.1.Hoa Kì
Những năm gần đây, Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu khoảng 13 tỷ
USD/năm hàng thủ công mỹ nghệ. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam năm 2005 vào Hoa Kỳ chỉ chiếm 1,5% kim ngạch nhập khẩu của nước này.
Bộ Thương mại đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ trong kim
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

20


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG


ngạch nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Hoa Kỳ lên 3% (đạt kim ngạch trên
0,4 tỷ USD). Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vào thị
trường Hoa Kỳ khoảng 76,4 triệu USD, chiếm tỷ trọng 0,97% kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, trong đó 36,8% triệu USD hàng gốm sứ, tăng
27,6% so với năm 2005 và tăng gấp 7 lần so với năm 2002 (Thống kê của Hải
quan Việt Nam).
3.2.EU
Thị trường EU có nhu cầu nhập khẩu trong những năm gần đây khoảng 7 tỷ
USD/năm, trong số đó, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 chỉ chiếm 5,4% kim
ngạch nhập khẩu của khu vực này. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ vào Pháp đạt 81,8 triệu USD; Đức đạt 62,5 triệu USD; Bỉ đạt 36 triệu
USD; Anh 21,4 triệu USD; Hà Lan 18,9 triệu USD; Italia 16,2 triệu USD; Tây
Ban Nha 18,8 triệu USD... Theo nhận định của Bộ Thương mại, trong tương lai,
đây là khu vực thị trường có khả năng tiêu thụ mạnh nhiều mặt hàng thủ công mỹ
nghệ của Việt Nam. Vì vậy, mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 sẽ nâng tỷ lệ này lên
trên 6,4% (đạt kim ngạch trên 0,6 tỷ USD).
3.3.Nhật Bản
Đối với thị trường Nhật Bản, nhu cầu nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
khoảng 2,9 tỷ USD/năm, trong đó hàng từ Việt Nam năm 2005 mới chỉ chiếm
1,7% kim ngạch nhập khẩu của nước này. Theo thống kê của Hải quan Việt Nam,
năm 2006, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản khoảng 70,14 triệu USD
hàng thủ công mỹ nghệ, chiếm tỷ trọng 1,34% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào Nhật, trong đó 30,8 triệu USD hàng gốm sứ. Dự kiến đến năm 2010, tỷ lệ
hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sẽ đạt trên 4% (tương đương kim ngạch
khoảng 150 triệu USD) tổng kim ngạch nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của thị
trường này.
Ngoài các thị trường chính này ra thì xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt
Nam vẫn tiếp tục xuất sang các thị trường truyền thống như Nga, Đông Âu và
đồng thời mở hướng phát triển sang các thị trường mới tiềm năng như Đài Loan
Hồng Kông, Trung Quốc….Nhưng vẫn xác định rõ ba thị trường trên là ba thị

trường trọng điểm.

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

21


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

Chương 3
Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mĩ nghệ của Việt Nam
Bộ NN&PTNT vừa phê duyệt Ðề án Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ giai
đoạn 2010-2015, đặt mục tiêu phấn đấu đến hết năm 2015, kim ngạch xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ đạt 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp trong ngành hàng này vẫn gặp nhiều khó khăn, để thực hiện được
các mục tiêu trên đòi hỏi những nỗ lực của các ban, ngành cũng như của chính
bản thân các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Nhằm đạt
được mục tiêu đề ra, chính phủ cần có những biện phấp chính sách thiết thực
nhằm thúc đẩy sản xuất cũng như xuất khẩu mặt hàng TCMN đầy tiềm năng này.
Dưới đây là một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng TCMN:
1.. Về phía Nhà nước
Luật doanh nghiệp ra đời và được đưa vào áp dụng đã tạo ra một sân chơi bình
đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động
sản xuất kinh doanh. Đối với Chính phủ thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện
nay là tích cực tạo ra môi trường thúc đẩy nâng cao năng suất. Trong lĩnh vực này
(như hàng rào thương mại, định giá…) Chính phủ cần phải giảm bớt sự can thiệp,
nhưng ở lĩnh vực khác (như bảo vệ cạnh tranh, tiến hành giáo dục và nâng cao tố
chất) thì Chính phủ cần phải phát huy vai trò tích cực của mình. Nghĩa là Chính
phủ cần phải tạo ra môi trường tốt cho cạnh tranh, chứ không phải là trực tiếp
tham gia cạnh tranh. Về thực chất, Chính phủ có thể được coi như một vị trọng tài

trên sân cỏ, tức là người giám sát những người tham gia cuộc chơi phải chơi cho
đúng luật và tạo điều kiện thuận lợi như nhau cho tất cả các “cầu thủ” được thể
hiện mình.
1.2. Thành lập các hiệp hội ngành nghề
Các doanh nghiệp sản xuất – xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam phần lớn
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy mô không lớn. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ
gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào thị trường rộng lớn trên toàn thế giới. Tuy
vậy, các doanh nghiệp hoàn toàn có thể hợp nhau lại trong một hiệp hội, nâng cao
sức mạnh đoàn kết và cũng chính là không ngừng củng cố sức mạnh của bản thân
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp còn có thể hợp tác với nhau dưới hình thức “Tập hợp
ngành”. Tập hợp ngành chính là sự gắn kết thực thể Chính phủ, công ty, hãng
cung ứng và các thể chế địa phương với nhau xoay quanh chương trình nghị sự
chung có tính chất xây dựng và khả thi. Đến khi đó, một tập hợp ngành sẽ tạo ra
một số ưu thế cho các doanh nghiệp thành viên khi tham gia cạnh tranh. Các
doanh nghiệp khi tham gia vào một hiệp hội ngành nghề sẽ được chia sẻ các thông
tin về thị trường, khách hàng, nguồn hàng, sẽ được tìm hiểu các kinh nghiệm của
các doanh nghiệp khác cùng hoạt động trong lĩnh vực của mình. Khi gặp tranh
chấp, các doanh nghiệp sẽ không phải đơn thương độc mã đối phó với các doanh
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

22


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

nghiệp nước ngoài mà sẽ luôn nhận được sự hỗ trợ từ phía hiệp hội và các doanh
nghiệp trong nước khác.
1.3. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu
Do đặc điểm và khó khăn trong sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ

như đã trình bày ở trên (cơ sở sản xuất kinh doanh các loại hàng này chủ yếu là
các đơn vị nhỏ, ít vốn, hàng hoá thường là loại cồng kềnh, giá trị thấp, không dễ
bán và vận chuyển, giao hàng...) nên Nhà nước có thể có chính sách hỗ trợ một
phần chi phí xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu. Mặt khác,
trong thương mại quốc tế, không có hoặc ít thấy nước nào không dành một phần
kinh phí nhất định của ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho công tác xúc tiến thương
mại nhất là cho việc khuyếch trương xuất khẩu. Trong lĩnh vực xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ, Nhà nước có thể hỗ trợ dưới các hình thức sau:
- Hỗ trợ 50% chi phí thuê gian hàng cho cơ sở sản xuất kinh doanh hàng thủ
công mỹ nghệ tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài, 50% chi phí còn lại được hỗ
trợ nếu trong quá trình hội chợ triển lãm đơn vị ký hợp đồng xuất khẩu với giá trị
trên 20.000 USD. Việc hỗ trợ này có thể thực hiện trực tiếp đối với các doanh
nghiệp từ một trung tâm xúc tiến thương mại hoặc thông qua các công ty quốc
doanh được giao nhiệm vụ tổ chức tham gia hội chợ triển lãm quốc tế.
-

Cho thành lập thêm một số trung tâm xúc tiến thương mại (chủ yếu là
khuyếch trương xuất khẩu) tại một số nơi ở nước ngoài tương tự như “Việt
Nam square” tại Osaka, Nhật (có thể thêm ở vùng Trung Đông, Pháp,
Đức, Nga, Mỹ hoặc Canada, mỗi nơi một trung tâm).
- Phục vụ lễ hội của các nước trên thế giới là một hướng quan trọng thúc đẩy
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Trên thế giới hàng năm có rất nhiều lễ hội
của các dân tộc, nếu nắm bắt nhu cầu, thiết kế mẫu mã hàng phù hợp nhu cầu
của từng lễ hội về ăn mặc, trò chơi giải trí, vật lưu niệm... thì có thể có nhiều
loại hàng để bán, nhất là các loại hàng thủ công mỹ nghệ, kể cả hàng thổ cẩm
của các đồng bào dân tộc ở nước ta.
- Cho phép các tổ chức, cá nhân được nhận tiền thù lao hoặc tiền hoa hồng
môi giới và cho phép các công ty xuất khẩu được trả các khoản tiền này theo mức
thoả thuận khi ký và thực hiện được hợp đồng xuất khẩu.
- Ngoài ra, theo viện nghiên cứu thuộc liên minh các hợp tác xã Việt Nam cho

biết, hội đồng hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế thường có mời nghệ nhân ngành
nghề thủ công của các nước tham gia hội thảo, biểu diễn thao tác nghề nghiệp. Hội
bảo trợ thợ thủ công ở Mỹ có chương trình hỗ trợ 10.000 làng nghề của thế giới và
thường có mời nghệ nhân của các nước sang Mỹ biểu diễn thao tác nghề nghiệp.
Tại Arhentina vào tháng tư hàng năm có tổ chức hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ,
có năm mời đến 700 nghệ nhân của các nước tham gia biểu diễn thao tác nghề, có
gian trưng bày miễn phí cho nghệ nhân. Ta nên có chính sách khai thác các hoạt
động quốc tế này mở rộng phát triển ngành nghề truyền thống của ta phục vụ đẩy
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

23


BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

mạnh xuất khẩu. Tuỳ theo trường hợp cần thiết Nhà nước hỗ trợ chi phí cho các
nghệ nhân của ta tham gia các hoạt động này, kết hợp với việc giới thiệu mẫu mã
hàng, nghệ nhân có thể chào bán ký hợp đồng xuất khẩu theo uỷ nhiệm của các
công ty sản xuất kinh doanh ở trong nước và nghệ nhân được hưởng thù lao hoặc
hoa hồng theo kết quả chào bán và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu ký được
thông qua các hoạt động này.
2. Về phía các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ (gọi chung là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
xuất khẩu)
2.1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường
Trong kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, việc phân đoạn thị trường
theo các tiêu thức địa lý, theo đó chia toàn bộ thị trường của các đơn vị thành các
khu vực địa lý (thị trường châu Á + thị trường Bắc Âu, thị trường Trung Đông,…)
là hợp lý bởi các nước trong cùng một khu vực thị trường có những đặc điểm
tương đồng trên nhiều phương diện: Nền văn hoá, các tràolưu nghệ thuật, các yếu

tố chính trị, trình độ phát triển kinh tế và thu nhập,…có ảnh hưởng lớn tới việc
hình thành nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, sự phân chia đó quá
khái quát, không nhận thức được thị trường trọng điểm mà các đơn vị cần tác động
gây nhiều lãng phí vô ích về chi phí xuất khẩu, đặc biệt bỏ qua nhiều cơ hội có thể
khai thác tiềm năng thị trường. Vì vậy, trong việc tìm kiếm nghiên cứu và lựa
chọn thị trường mục tiêu các đơn vị cần phải nghiên cứu và phân tích sâu hơn nữa.
Trải qua một số bươc như:
-Nghiên cứu nhu cầu thị trường
- Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
- Lựa chọn thị trường trọng điểm
- Lựa chọn mặt hàng chiến lược và nâng cao chất lượng sản phẩm
-Lựa chọn mức giá tối ưu
2.2. Kết hợp sản xuất với xuất khẩu
Để tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như nâng cao hiệu quả xuất khẩu các đơn
vị nên kết hợp sản xuất với xuất khẩu thông qua việc hình thành các xưởng sản
xuất. Sự kết hợp này cho phép nâng cao hiệu quả kinh doanh vì các đơn vị có thể
thu lợi nhuận từ hai nguồn: sản xuất + xuất khẩu. đồng thời với sự kết hợp này cho
phép tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu bởi những lý do sau:
- Đáp ứng tốt, kịp thời nhu cầu thị trường: qua hoạt động xuất khẩu các đơn
vị nắm được khách hàng với nhu cầu thị hiếu và thói quen tiêu dùng của họ từ đó
có cơ sở để tổ chức sản xuất.
- Tạo được nguồn hàng chất lượng ổn định, mẫu mã phù hợp với nhu cầu
thị trường.
- Chủ động về mặt hàng: vì trực tiếp sản xuất nên các đơn vị có thể chủ
động về số lượng, chất lượng, giá cả. Có khả năng cải tiến kỹ thuật mặt hàng để
PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

24



BÀI TẬP LỚN MÔN KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG

phù hợp với từng thị trường riêng biệt.
- Hình thành xưởng sản xuất không đòi hỏi chi phí nhiều về cơ sở vật chất,
trang bị, chi phí đào tạo không nhiều và thời gian đào tạo không lâu.
Về địa điểm, xưởng sản xuất có thể đặt tại Hà Nội, hoặc cũng có thể ở các
vùng có sẵn nguyên liệu. Nếu xưởng đóng ở Hà Nội thì phải có tổ chức cung ứng
vật tư nguyên vật liệu kịp thời cũng như bảo đảm dự trữ đầy đủ, đồng bộ. Nếu
xưởng sản xuất đóng tại các tỉnh xa thì phải làm tốt công tác quản lý và tổ chức
sản xuất, để đảm bảo vừa tổ chức sản xuất trực tiếp vừa có sự chỉ đạo trực tiếp, hỗ
trợ sản xuất của các đơn vị. Xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất có chức năng:
+ Nghiên cứu sáng tác, cải tiến những công nghệ kĩ thuật sản xuất các mặt
hàng mỹ nghệ, tạo ra nhiều đề tài mẫu mã mới.
+ Quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
+ Tổ chức sản xuất kinh doanh.
2.3. Tạo nguồn hàng kịp thời và có chất lượng
Việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt góp phần đáp ứng kịp thời chính xác
nhu cầu của thị trường, thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt.
Kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ của các đơn vị chỉ phát triển, đạt hiệu quả
cao khi các đơn vị có những biện pháp đồng bộ, cân đối từ thu mua, thực hiện hợp
đồng, thanh toán, giao hàng.Trong đó khâu tạo nguồn hàng, ổn định có chất lượng
là khâu cực kỳ quan trọng và là khâu đầu tiên, khâu quyết định trong quy trình
nghiệp vụ, đồng thời chứng tỏ liệu các đơn vị có khả năng phát triển ở giai đoạn
sau hay không. Như vậy để tạo được nguồn hàng ổn định có chất lượng các đơn vị
phải có mối quan hệ tốt với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Mối quan
hệ này phải dựa trên cơ sở bình đẳng, hợp tác tương trợ lẫn nhau trên cơ sở cùng
có lợi.
Các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đa phần là thiếu vốn. Để đảm bảo
cho các cơ sở sản xuất có thể cung ứng vốn cũng như máy móc thiết bị cần thiết.
Trên cơ sở có vốn, cơ sở sản xuất mua được nguyên liệu chất lượng cao và ổn

định, máy móc thiết bị sẽ cho phép tăng năng suất lao động và ổn định chất lượng.
Cùng với việc cung ứng là cải thiện chế độ thu mua. Các đơn vị cần áp dụng giá
mua như như thế nào cho hợp lý đồng thời giải quyết được vấn đề lãi của đơn vị
với tạo động lực khuyến khích người lao động sản xuất. Đối với những cơ sở sản
xuất mà đơn vị có quan hệ thường xuyên lâu dài cần phải nhận được sự quan tâm
giúp đỡ của các đơn vị về cải tiến mẫu mã cho phù hợp nhu cầu thị trường. Đồng
thời có chế độ kiểm tra chặt chẽ mặt chất lượng đúng như cam kết. Tạo được mối
quan hệ tốt như vậy giữa các đơn vị và các nguồn hàng kịp thời và có chất lượng
là một sự thành công chắc chắn.
2.4. Duy trì, củng cố quan hệ làm ăn với bạn hàng cũ và tìm kiếm bạn hàng
mới
Trong quá trình kinh doanh, việc thực hiện một số hợp đồng với các điều kiện
về cơ bản là tương đương nhau, chỉ khác một phần là một chủ thể của hợp đồng là

PHẠM THỊ HUỀ - KTN51DH1

25


×