Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIÊU LUẬN TRIẾT học GIÁ TRỊ và hạn CHẾ của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY tâm của hê GHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.53 KB, 17 trang )

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
TÂM CỦA HÊGHEN
MỞ ĐẦU
Là nhà biện chứng lỗi lạc của triết học cổ điển Đức, Hêghen cho rằng
“nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối. Từ
xuất phát này ông đã xây dựng một hệ thống triết học duy tâm khách quan”. Triết
học theo Hêghen là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ, “không thừa nhận
bất kỳ năng lực tinh thần nào của con người, đặt biệt năng lực quan trọng nhất là
lý tính”. Đối tượng của triết học theo ông là trùng với đối tượng của tôn giáo đó là
khách thể tuyệt đối vô hạn Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con
người khác với động vật. Thành tựu quan trọng của triết học Hêghen là phương
pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về phép biện chứng.
Đề tài tiểu luận này mục đích để nhận thức đúng những nét đặc thù đồng thời
cũng là để đánh giá chính xác hơn ý nghĩa của triết học Hêghen đối với sự phát
triển của tư tưởng triết học nói chung, một khi chúng ta tính đến kinh nghiệm lịch
sử từ lúc xuất hiện triết học đó cho đến nay. Đương nhiên khi xem xét các quan
điểm của những nhà triết học nổi tiếng qua các thời đại trước đây, chúng ta tuyệt
nhiên không được tô vẽ, không được hiện đại hóa quan điểm của họ. Đồng thời
chúng ta cũng không được ca ngợi, không được biện hộ một chiều các quan điểm
đã lỗi thời hoặc bị hạn chế bởi những điều kiện của lịch sử. Một mặt, khi xem xét
di sản của một nhà triết học thì không bỏ qua những hạn chế lịch sử những khiếm
khuyết sai lầm của nhà tư tưởng đó, phải đặt nó trong điều kiện lịch sử cụ thể để
có được những đánh giá khách quan và chính xác nhất. Làm tốt được điều trên đối
với hệ thống triết học Hêghen không phải dễ dàng, bởi vì triết học Hêghen không
những quá đồ sộ và uyên bác về nhiều mặt mà còn chứa đựng trong chính nó
không ít những mâu thuẫn, những xu hướng khác nhau, và đó là lý do em chọn đề
tài này.


NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN


CHỨNG DUY TÂM CỦA HÊGHEN
1.1. Khái lược về triết học cổ điển Đức và điều kiện ra đời của phép biện
chứng duy tâm của Hêghen
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức
Khái niệm “Triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước
Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học
của Cantơ (1724 - 1804) trải qua Phíchtơ (1762 - 1814), Senlinh (1775 - 1854) đến triết
học duy tâm của Hêghen (1770 -1831) và triết học duy vật của Phơbach (1804 - 1872).
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng
Tây Âu và thế giới cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kì triết
học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Thời kì
cuối thế kỉ XVIII, cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ,
và Hêghen là một người tán dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này
với những điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất
tiểu tư sản, thỏa hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức.
Do điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng, nhưng
hình thức của nó thì cực kì “rối rắm” và có tính chất bảo thủ.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức
vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước rất lạc hậu về kinh tế và
chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh và Pháp. Đó còn là một quốc gia phong
kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình
thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình
đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vinhem (1770 – 1840) vẫn tăng cường quyền lực duy
trì chế độ quân chủ phong kiến, cản trở đất nước Đức phát triển theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Đây
là một trong những thời kì hèn kém nhất trong lịch sử nước Đức (Ăngghen).
Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Italia,

Anh, Pháp…, đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có. Ở nước Pháp đã tiến
hành cuộc cách mạng tư sản, ở nước Anh thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm
rung chuyển cả châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương
của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của giai cấp tư sản
Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức và
những lực lượng tiến bộ khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ


bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư
sản trong thực tiễn, mà chỉ tiến hành cuộc cách mạng về phương diện tư tưởng. Họ
muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong
việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nước.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kì này đạt được sự phát triển
chưa từng có về triết học, văn hóa và nghệ thuật. Đây là quê hương của nhiều nhà tư
tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như Hecđơ, Gớt, Sinlơ, Cantơ… Họ, một mặt,
tiếp thu những di sản tư tưởng và văn hóa Đức truyền thống, kế thừa các quan niệm của
Nicôlai Kudan, Lepnit…, mặt khác, được sự cổ vũ to lớn của tư tưởng Khai sáng và văn
hóa Pháp thế kỉ XVIII. Cách mạng tư sản Pháp (1789 -1794) là hậu thuẫn thực tiễn thức
tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức. Thể hiện nguyện
vọng đó của giai cấp tư sản, các tác phẩm của Gớt, Sinlơ, Cantơ, Phíchtơ… đều toát lên
một tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất công của xã hội Đức thời đó.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các
nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện, phát hiện
ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie, việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhuc, định
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lômônôxốp, học thuyết về dưỡng khí của
Pritski và Sielo...
Bối cảnh chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức
lúc đó chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý
giải bản chất của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự

nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai
trò của con người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.

1.2. Sơ lược về triết học Hêghen
Hêghen sinh ngày 27.08.1770 tại Stuttgart. Ông rất được cưng chiều trong
một gia đình ngoan đạo, có lẽ “bởi vì ông học giỏi”. Mới 3 tuổi đã đi học trường
tiếng Đức, lên 5 học trường tiếng Latin. Năm 1788 Hêghen bắt đầu học tại chủng
viện Tubingen, tại đây ông đã hoàn tất cao học về triết học năm 1790 và 3 năm
sau đó, tốt nghiệp về thần học. Năm 1793 Hêghen quyết định không đi theo
nghiệp tu sĩ và trở thành gia sư tại Bern, để có nhiều thời gian hơn cho việc
nghiên cứu triết học. Năm 1797 Hêghen đã làm gia sư tại Frankfurt. Hêghen thực
sự tìm thấy hứng khởi với cộng đồng trí thức trong “Hiệp hội các trí tuệ” và ngay
trong năm đó ông đã hoàn tất tác phẩm Cương lĩnh hệ thống xưa nhất của chủ
nghĩa duy tâm Đức (Das alteste Systemprogramm des Deutschen Idealismus).
Năm 1801 Hêghen đã về trường Đại học Jena. Những khóa giảng đầu tiên của
ông rất ít người tham dự. Tuy vậy Hêghen đã được phong giáo sư vào năm 1805.
Khi quân đội Napoleon chiếm đóng, ông đã nhanh chóng rời Jena. Năm 1807 ông


đảm nhận chức chủ bút tờ Bamberger Zeitung và xem như lần đầu tiên ông thoát
khỏi cảnh túng thiếu tài chính kinh niên. Tại đây tác phẩm nền tảng Hiện tượng
học Tinh thần của ông ra đời. Năm 1808 Hêghen được cử làm hiệu trưởng trường
trung học Egidyen tại Nuremberg. Cảm thấy nhàm chán, ông khuyến khích học
sinh đặt câu hỏi giữa tiết học và dịch các bài vở của học sinh sang tiếng Hy Lạp
cổ. Năm 1811 ông cưới cô Marie von Tucher chỉ vừa tròn 20 tuổi. Năm 1816
Hêghen được phong giáo sư tại Đại học Heidelberg, nơi ông cộng tác trong ban
biên tập của tờ Niên giám văn học Heidelber. Năm 1817 ông công bố bộ Bách
khoa thư các khoa học triết học. Năm 1818, Bộ trưởng Văn hóa Vương quốc Phổ
là Von Altenstein đã đích thân mời ông về Đại học Berlin. Cao điểm danh vọng
của ông là tước vị Hiệu trưởng Đại học Berlin vào năm 1829 trước khi ông mất

năm 1831.
Ông là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ
điển Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy tâm. Triết học của Hêghen là
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức cuối thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19. Nguyên lí xuất
phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn
tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện của “lí
tính thế giới” hay “tinh thần thế giới” mà Hêghen gọi là “ý niệm tuyệt đối”. “Ý
niệm tuyệt đối” có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển
lịch sử - tự nhận thức về bản thân, Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là
phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen
vẫn là “người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái
vận động chung của phép biện chứng” (Mac). Hêghen có những đóng góp to lớn
trong địa hạt lí luận về nhận thức, trong cuộc đấu tranh chống “thuyết không thể
biết” (bất khả tri luận). Bên cạnh đó, hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả
tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính
chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị của Hêghen cũng phản ánh
tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với
các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà
nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.
Triết học Hêghen là một trong những nguồn gốc lí luận trực tiếp của chủ
nghĩa Mac. Các tác phẩm chủ yếu: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Khoa học
lôgic” (1812 - 16), “Bách khoa thư về khoa học triết học” (1817, 1830), “Những
nguyên lí triết học của pháp luật” (1821). Những thành tựu trong sự nghiệp triết
học của Hêghen gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội cũng như những đặc điểm
của nền triết học cổ điển Đức thời bấy giờ.


1.2. Nội dung phép biện chứng duy tâm của Hêghen
1.2.1. Tiền đề ra đời phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Một là, Phép biện chứng cổ điển của Hêraclit

Heraclit (540 - 480 tr.CN) là nhà triết học có tư tưởng biện chứng điển hình
của triết học phương Tây cổ đại. Mà theo đánh giá của Mác - Lênin thì Heraclit là
người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép
biện chứng dựa trên lập trường duy vật. Mặc dù sau Heraclit nhiều nhà triết học
khác cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng biện chứng của ông, và Hêghen cũng
đã chịu ảnh hưởng không ít của những tư tưởng biện chứng đó (điển hình là tư
tưởng của Kant - ông tổ của triết học cổ điển Đức) tuy nhiên tư tưởng biện chứng
trong triết học của Heraclit vẫn được xem là tiền đề quan trọng nhất cho phép
biện chứng duy tâm của Hêghen sau này.
Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống
các luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng
được đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng
biện chứng của Heraclit được thể hiện như sau:
Một là: Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo ông thì
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất
cả đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá. Ông nói: “Chúng ta không thể tắm
hai lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông”; Ngay cả
mặt trời cũng mỗi ngày một mới”. Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là
bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng. Đồng thời lửa cũng là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng khác
nhau của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hoá của lửa mà thôi.
Hai là: Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong phỏng đoán về vai trò của
các mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về “sự trao đổi của những
mặt đối lập”, về “sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập”. Ông nói: “cùng
một cái ở trong chúng ta – sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này
biến đổi cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này...” Heraclit đã
phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đổi lập. Lênin viết: “ Phân
đôi cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó là thực chất của phép
biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng

Heraclit”. Nhận định của Lê-nin đã chứng minh cho quan điểm và đóng góp của
Heraclit trong tư tưởng này.


Ba là: Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan, là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học
thuyết của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người
nào càng tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu.
Lý luận nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai
nhưng cơ bản là đúng. Chính những tư tưởng biện chứng sơ khai của Heraclit sau
này đã được các nhà biện chứng cổ điển Đức mà điển hình là Hêghen kế thừa,
phát triển và được các nhà sáng lập triết học Mac đánh giá cao.
Hai là, Tư tưởng triết học duy tâm tại Đức - nguồn gốc lịch sử của duy tâm
tuyệt đối Hêghen
Biện chứng pháp duy tâm của Hêghen là kết quả của quá trình xây dựng
phương pháp biện chứng trong triết học Đức mà khởi đầu là Cantơ (Kant). Quá
trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông
qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư sản Đức. Ưu điểm lớn nhất của Kant là đã
đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động
ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế giới của tư sản, thế giới trao đổi
hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những vật làm ra chủ yếu là để sử
dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa phương nhỏ hẹp, với quan
niệm ban ơn. Với kinh tế tư sản, quan hệ chính trong xã hội là quan hệ trao đổi
hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở đây chỉ là hình thức, chỉ để
che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong - hàng hóa là sản sinh ra trong một quá
trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Như vậy là tính chất lao động
sáng tạo đã được thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin rằng
thế giới của loài người - cái thế giới hàng hóa - là do con người tạo ra.
Nhưng vật chất mà tư sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chưa phải là vật

chất thực sự lao động tức là con người lao động. Giai cấp tư sản chỉ giữ lại phần
lao động trí óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ
phần lao động thực sự tức là con người sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính
chất hạn chế của tư tưởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình
hiểu biết và xây dựng thế giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần,
do hoạt động của tinh thần mà thế giới bên ngoài được xây dựng và có được tính
chất khách quan.
Vì vậy, đặc điểm của tư tưởng duy tâm Đức là đã xây dựng được một khái
niệm về chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao
động xây dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.


Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật
của phương thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức được
là do sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm
đó phản ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy
mới chỉ là hình thức kỹ thuật sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự.
Kant mới phản ánh phương thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant
chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực
tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn
toàn cái thế giới mới, Fichte đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte
nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây
dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào
khác.
Fichte đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp
biện chứng. Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới
được sáng tạo, giữa cái “tôi” và cái “không phải là tôi”. Tôi chỉ là một vật thể
trong thế giới tự nhiên và thế giới đó ảnh hưởng đến tôi. Nhưng mặt khác, cái chủ
quan của tôi đã đặt ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã được Fichte biểu diễn

trong hai mệnh đề: về quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi
quy định); và trên quan hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy
định).
Phương pháp mâu thuẫn này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái
khách quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái
không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là
tuyệt đối.
Với Schelling, phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa. Phương pháp
mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và bao gồm cả tự nhiên.
Theo Schelling, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự nhiên xuất phát là từ cùng một
nguồn gốc: đó là “Tuyệt đối”. Tự nhiên không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách
quan không nằm trong chủ quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối.
Tư tưởng của Schelling đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ “lung tung” sau khi
chế độ mới của giai cấp tư sản đã được thực hiện, quan hệ tư bản trước kia còn là
lý tưởng nay đã thành sự thực và phát triển một cách “lung tung”.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó, và xây dựng
một chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu cầu mới đó được phản
ánh trong triết học của Hêghen.


Triết học của Hêghen vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện
chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của
mâu thuẫn. Phương pháp của Hêghen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực
tế, cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh
quá trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hêghen lại nói rằng quá trình
phát triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêghen chỉ trông thấy
hiện tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh
thần sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hêghen phản ánh một chân lý: đó là
con người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm
trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của

con người lao động thực sự. Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải
là vật chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa
dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm
tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. Tuy nhiên, những phạm trù về tinh
thần và luận lý học của Hêghen không chỉ là những khái niệm trừu tượng như của
Kant mà bao gồm cả những nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hêghen
không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết được và trình
bày theo quá trình biện chứng của nó.
1.2.2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Một là, Phương pháp luận biện chứng
Hêghen phê phán những chủ nghĩa triết học trước bằng cách coi những hình
thái ý thức không phải là lý luận triết học như ông ta quan niệm (ví dụ: cảm giác,
tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh rằng
mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt
buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ như thế đi đến hình thái triết học
của Hêghen.
- Khi trình bày về “ ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển , Hêghen cho
rằng đó là sự vận động nội tại của “ ý niệm tuyệt đối”. Tự vận động tức là thay
đổi hình thức phát triển khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”. Lenin cũng đã tìm thấy
hạt nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hêghen là sự tự vận động. Nội
dung hợp lý và sâu sắc này trong quan điểm của Hêghen theo Lenin là mối liên hệ
tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau. Khi trình bày sự phát triển
của “ý niệm tuyệt đối” Hêghen thừa nhận tồn tại, khái niệm, bản chất là ba sự quy
định, ba hình thức biểu hiện chủ yếu trong quá trình phát triển. Điều này phù hợp
với quá trình suy nghĩ, nhận thức của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại,
đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi nắm được bản chất ta rút ra khái niệm.


Phương pháp tư duy này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay ở tất cả các bộ
môn khoa học khác nhau. Điều này sẽ được trình bày rõ ràng hơn trong phần sau:

“Giá trị và hạn chế của phép Biện chứng Duy tâm của Hêghen”.
Hêghen không phải là người đầu tiên xây dựng nên phép biện chứng song
qua tư tưởng và quá trình hoạt động của mình, Hêghen đã khiến nó trở nên hoàn
thiện hơn và mang lại cho phép biện chứng một vị trí quan trọng trong triết học.
Ông quan niệm, phép biện chứng: “ nói chung là nguyên tắc của mọi sự vận động,
mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Ông coi biện chứng cũng
là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính”. Với tư tưởng như vậy, ông
đã xem xét mọi sự vật hiện tượng, ý thức dưới cái nhìn biện chứng. Và về cốt lõi,
phương pháp biện chứng của ông cũng bao gồm 02 nội dung cơ bản:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau,
ràng buộc nhau (cái toàn thể và cái bộ phận...).
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh
hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện
tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải
quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy phương pháp biện chứng của Hêghen cũng đã thể hiện tư duy mềm
dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái
“hoặc là... hoặc là...” còn có cả cái “vừa là... vừa là...” nữa; thừa nhận một chỉnh
thể trong lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó; thừa nhận cái khẳng định và cái
phủ định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó với nhau.
Như vậy, mặc dù chưa đạt được tính triệt để trong phép biện chứng như chủ
nghĩa Mác, chưa trình bày phương pháp biện chứng dưới một hệ thống của gồm 2
nguyên lý (nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3
quy luật cơ bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt ối lập, quy luật từ
những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật
phủ định của phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật không
cơ bản(cái chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và kết quả;
bản chất và hiện tượng; tất nhien và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực). Song
phép biện chứng của Hêghen đã đạt được những thành tựu cơ bản của nó và trở
thành hạt nhân hợp lý cho phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác-xít.

Phương pháp biện chứng của Hêghen là phương pháp suy ngẫm về thế giới.
Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không
phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể.


Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học
của ông đầy mâu thuẫn giống như sự mâu thuẫn của cả xã hội Đức nói chung, của
nền triết học Đức lúc bấy giờ nói riêng. Nếu phương pháp biện chứng của ông là
hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết
học duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên
trong vốn có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội.
Hai là, Hệ thống các phạm trù, quy luật
Trong khuôn khổ phép biện chứng duy tâm của mình, Hêghen không chỉ
trình bày các phạm trù: như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến
các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và ngược lại”, “phủ định của phủ định”
và “quy luật mâu thuẫn”. Các cặp phạm trù này được Hêghen đặc biệt nhắc đến ở
nội dung Logic học của ông. Trong Logic học ở phần tồn tại, Hêghen đã diễn đạt
các phạm trù vật chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hoá từ
lượng đến chất và ngược lại. Ở phần bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và
thực hiện, nguyên nhân và kết quả, và phần trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn
gốc của sự phát triển. Ở phần khái niệm của học thuyết Logic, Hêghen đã diễn đạt
phạm trù về cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp,
đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại các quan niệm phát triển với tư cách là phủ
định của phủ định. Đồng thời trong khoa học logic phương pháp biện chứng của
Hêghen còn được thể hiện ở chỗ: Ông đặt ra vấn đề sự thống nhất quá trình logic
với quá trình lịch sử; logic học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình
lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của logic hình thức và đòi hỏi một logic có nội
dung thực tế, sinh động; ông nêu lên những tư tưởng thống nhất giữa phép biện
chứng, logic học và lý luận nhận thức.

II. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM
CỦA HÊGHEN
2.1. Giá trị của phép biện chứng duy tâm của Hêghen
2.1.1. Tiến bộ hơn những tư tưởng triết học cùng thời
Có thể khẳng triết học Hêghen là đỉnh cao của triết học Tây Âu thời kỳ cận
đại đúng như ông đã từng thừa nhận. Và cốt lõi để tạo nên sự tiến bộ ấy chính là
phép biện chứng của ông.
Mặc dù phương pháp tư duy siêu hình trong thời kỳ phục hưng là một tiến bộ
lớn để chống lại những tư tưởng của thần quyền. Tuy nhiên, đến thời kỳ cận đại,
cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản và của khoa học tự nhiên, Triết học
Tây Âu đã quá coi trọng tư duy siêu hình, đề cao phương pháp thực nghiệm. Điều


này khiến cho triết học Tây Âu cận đại sa vào bế tắc khi giải quyết một số vấn đề
mang tính chất thời đại lúc bấy giờ. Điển hình như quan điểm siêu hình không thể
lý giải nổi những biến động đang diễn ra trong nền kinh tế, không thấy được
nguyên nhân và xu thế của các các cuộc các mạng tư sản Tây Âu.... Hêghen với
phương pháp biện chứng của mình mà chủ yếu là tư tưởng về sự vận động và phát
triển đã lý giải nguyên nhân đồng thời đưa ra những xu hướng phát triển cho giới
tự nhiên và xã hội. Ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch
sử và tinh thần dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng
vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy. Ví dụ: Bản thân
ông cũng đã từng ví triết học của mình là đỉnh cao bởi ông cho rằng các triết học
trước bản thân chúng cũng có sự mâu thuẫn và luôn có sự đấu tranh thay thế để
đạt đến đỉnh cao. Và đỉnh cao đó chính là Triết học Hêghen. Mặc dù sự tự phong
này là mâu thuẫn với tư duy về sự vận động phát triển của mình song qua cách lý
giải đó có thể thấy được cách thức giải quyết các vấn đề hóc búa của triết học thời
kỳ đó của Hêghen là hợp lý.
2.2.2. Tạo tiền đề cho triết học Mác - Lênin
Triết học Mác - Lênin với phương pháp biện chứng duy vật là đỉnh cao của

triết học của thời đại ngày nay. Và chính những người sáng tạo nên hệ thống triêt
học đó đã thừa nhận sự kế thừa và phát triển cái nhân hợp lý trong triết học của
Hêghen. Cái nhân ấy chính là phép biện chứng, là hệ thống các quan điểm của
ông. C.Mác không những chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của
Hêgen mà còn cải tạo phép biện chứng đó xây dựng nên phép biện chứng duy vật
duy nhất và thực sự khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu
của ông - bộ “Tư bản”. C.Mác viết: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã
mắc phải ở trong tay Hêgen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêgen trở thành người
đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động
chung. Phép biện chứng ấy ở Hêgen là phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống
đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng
sau lớp vỏ thần bí”.
Nhiều nhà triết học đã đánh giá: nếu loại bỏ đi cái xuất phát điểm trong thế
giới quan duy tâm của Hêghen, người ta sẽ không thể phân biệt được đâu là triết
học Mác đâu là triết học Hêghen. Mặc dù việc phát triển của triết học Mác không
đơn thuần là “chỉ cần dựng nó lại” nhưng hệ thống triết học rõ ràng và khoa học
của Hêghen cũng chính là cái hệ thống cơ bản để triết học Mác hoàn thiện nên
phương pháp biện chứng duy vật với dưới một hệ thống của gồm 2 nguyên lý
(nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển), 3 quy luật cơ


bản (quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt ối lập, quy luật từ những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của
phủ định) và 6 cặp phạm trù với tính cách là những quy luật không cơ bản(cái
chung và cái riêng; nội dung và hình thức; nguyên nhân và kết quả; bản chất và
hiện tượng; tất nhiên và ngẫu nhiên; khả năng và hiện thực).
2.1.3. Ý nghĩa của phép biện chứng duy tâm của Hêghen đối với sự phát
triển của các khoa học khác
Cho dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hêghen song không
thể phủ nhận được rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết

học của ông chính là phép biện chứng mà thực chất đó là học thuyết về sự phát
triển toàn diện với tư cách là sự vận động tiến tới và sự chuyển hoá về chất, với tư
cách là sự đi lên theo thang bậc lôgíc có tuần tự về tính chất mâu thuẫn của sự
phát triển bao gồm sự tương tác giữa các mặt đối lập sự phủ định tồn tại hiện có
và đồng thời là sự giữ lại cái tích cực từ quá khứ.
Hệ vấn đề phép biện chứng hiện nay trở nên đặc biệt cấp bách là do tính chất
biện chứng trong sự phát triển của xã hội và của sự nhận thức khoa học hiện đại
ngày càng bộc lộ rõ nét hơn. Những chuyển biến mang tính lịch sử toàn cầu và vô
cùng đa dạng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong đời sống xã hội trên khắp hành
tinh chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó trong sự phát triển của mình khoa học tự
nhiên hiện đại cũng đang vấp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự
phát triển. Giờ đây sự tiến hoá của giới tự nhiên đang được nghiên cứu ở mọi cấp
độ cấu trúc. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đã xâm nhập vào nhận thức
khoa học tự nhiên cả ở mức độ vĩ mô lẫn mức độ vi mô. Nguyên tắc phát triển
thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học.
Sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của sinh học mấy năm gần đây
đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật
trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất
về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với
tư tưởng về sự phát triển và sự tự phát triển.
Bí mật của sự tự phát triển của các cơ thể sống đang dần dần được mở ra qua
những thành công của kỹ thuật di truyền của công nghệ sinh học. Công nghệ nhân
bản vô tính, công nghệ tế bào phôi.. tạo ra sự phát triển mạn mẽ trong việc chữa
bệnh cho con người. Cơ sở phân tử và dưới phân tử của sự phát triển cá thể và của
sự tiến hoá nói chung vì vậy đang thù hút mạnh mẽ trí tuệ của nhiều nhà sinh học
và nhiều phòng thí nghiệm lớn của thế giới.


Nguyên tắc phát triển đang trở thành nguyên tắc cơ bản của toàn bộ nhận
thức sinh học hiệp đại. Vai trò to lớn của của tư tưởng phát triển đối với sự tiến bộ

của khoa sinh thái học và của thực tiễn sinh thái ngày càng rõ nét hơn và hiển
nhiên hơn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc
lộ những mâu thuẫn của sự tiến bộ mà trong quá khứ thường được xem như là sự
làm chủ của con người đối với các lực lượng tự phát của tự nhiên như là sự thống
trị của con người đối với giới tự nhiên. Tiếc rằng trên thực tế sự làm chủ đó sự
thống trị đó không chỉ đem lại toàn những cái hay những điều tốt mà còn gây nên
cả những tổn thất không nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi
con người không kiểm soát được nó. Đồng thời: việc áp dụng hợp lý các thành
tựu khoa học và công nghệ mới nhằm góp phần bảo vệ giới tự nhiên phát triển
bản thân con người thúc đấy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân
đạo chỉ có thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng.
Chính sự biến đổi sự cải tạo môi trường tự nhiên và xã hội một cách hợp lý và
trên cơ sở nhân đạo là chiếc chìa khoá để giải quyết các vấn đề bức bách đang
được đặt ra trước nhân loại.
2.2. Hạn chế của phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Như chúng ta đã đề cập ở trên, triết học của Hêghen đã đạt đến mức đỉnh cao
tại thời đại của ông. Và ý nghĩa, vai trò của triết học Hêghen mà cái hạt nhân của
nó là phép biện chứng đã thể hiện không chỉ trong triết học mà trong mọi ngành
khoa học khác, trong thực tiễn đời sống xã hội. Thế nhưng, do những mặt hạn chế
bởi nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất định, triết học của Hêghen nói
chung và phép biện chứng duy tâm của Hêghen nói riêng đã không thể đạt đến
chân lý của sự nhận thức. Những hạn chế trong triết học cả Hêghen xuất phát từ
thế giới quan duy tâm, bởi tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương
thời.
2.2.1. Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm
Nguyên lý xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới)
là biểu hiện của “lí tính thế giới” hay “tinh thần thế giới” mà Hêghen gọi là “ý
niệm tuyệt đối”. “Ý niệm tuyệt đối“ có trước tự nhiên và loài người, trải qua một
quá trình phát triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân. Hệ thống duy tâm, bảo thủ,

khép kín và giả tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện
chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Và đó là lý do để nhận xét Phép
biện chứng của Hêghen là bị lộn ngược đầu xuống đất. Tất cả cái tài tình, cái hợp
lý của Phép biện chứng của ông là bị sử dụng để tô điểm, bao phủ cho một thế


giới quan đầy mâu thuẫn và lầm lạc. Phép biện chứng duy tâm của ông như một
tấm áo giáp hoàn hảo nhưng lại khoác lên mình một chiến binh ốm yếu và đầy
hoang mang. Chính vì thế, khi Mac phát hiện ra phép biện chứng, khi sử dụng nó
trở thành phương pháp luận cho thế giới quan duy vật, ông đã có thể đập tan mọi
luận điệu sai lầm và phản động của Hêghen, mang lại thắng lợi lớn lao cho chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Chính thế giới quan duy tâm đã làm cho triết học cả Hêghen yếu ớt và đầy
mâu thuẫn. Và đó lại chính là nguồn gốc khiến cho nó gặp phải những hạn chế
vốn có của triết học Duy tâm cũng như một số những hạn chế riêng có.
2.2.2. Hệ thống triết học đóng
Hêghen đã tuyên bố triết học của mình là đỉnh cao của nền triết học và
không thể phát triển hơn học thuyết của mình. Và điều đó làm cho phép biện
chứng của ông trở thành một hệ thống triết học đóng. Điều này có lẽ do hai
nguyên nhân. Về mặt chủ quan, có lẽ cái nhận định về Hêghen là ông quá tài giỏi
so với người cùng thời là một trong những lý do để ông cho triết học của mình là
đỉnh cao. Song cái chính phải xuất phát từ chính thế giới quan của ông khi thừa
nhận Ý niệm tuyệt đối là có trước và quyết định thế giới tự nhiên và xã hội. Do
đó, sự vận động của thế giới tự nhiên và xã hội chẳng qua là quá trình phát triển
của nhận thức con người, đi từ thấp đến cao, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh
và cuối cùng cái nhận thức ấy phản ánh chính xác Ý niệm tuyệt đối. Khi đã đạt
được điều đó, nó không thể tiến lên được nữa.
Khẳng định của ông mâu thuẫn với chính cái biện chứng của ông. Nó làm
cho chính phép biện chứng của ông giảm đi sức sống và sự vĩ đại vốn có.
2.2.3. Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội

Nếu thế giới quan duy tâm là nguyên nhân dẫn đến một hệ thống triết học
đóng thì chính cái tư tưởng đó cũng là nguồn gốc đưa đến rất nhiều quan điểm
mâu thuẫn khác trong phép biện chứng duy tâm, trong việc giải thích các vấn đề
trong xã hội. Quan điểm chính trị phản động của Hêghen, đặc biệt trong thời kì
hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản
Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với các thế lực phong kiến. Hêghen ủng hộ
chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là
đỉnh cao của sự phát triển xã hội. Như vậy ông đã nhận thức sai lầm về khái niệm
nhà nước, thừa nhận cái tuyệt đối của nó. Do đó, ông cũng như các nhà triết học
trước đó, chỉ tìm cách giải thích mà không thể tìm ra được con đường đúng đắn để
cải tạo xã hội hiện thực. Điều đó một lần nữa phản ánh cái hệ thống triết học


đóng, cái duy tâm và cái không biện chứng của nhà triết học biện chứng duy tâm
Hêghen.


KẾT LUẬN
Như vậy, hệ thống tư tưởng triết học của Hêghen đã trở thành một điểm
nhấn trong lịch sử phát triển của triết học nói chung và triết học cổ điển Đức nói
riêng. Mặc dù không tránh khỏi nhứng thiếu sót phần vì mang cái gọi là “ hạn chế
của lịch sử” phần vì do chính bản thân của Hêghen, nhưng ta không thể phủ nhận
giá trị to lớn mà triết học mà điển hình là Phép biện chứng của ông mang lại. Phép
biện chứng đó không chỉ tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp của triết học mà nó còn
đóng vai trò là cơ sở lý luận, phương pháp luận cho việc nghiên cứu và phát triển
của các bộ môn khoa học khác. Ngày nay, hầu như có thể khẳng định, không một
bộ môn khoa học nào mà không chứa đựng trong nó những nội dung biện chứng:
từ những cặp phạm trù đến những mâu thuẫn nội tại để dẫn đến sự phát triển
không ngừng của sự vật hiện tượng. Phép biện chứng đã đi sâu vào từng khía
cạnh của đời sống xã hội, điều đó một lần nữa như để khẳng định lại công lao to

lớn của Hêghen trong việc phát triển phép biện chứng dù nó là phép biện chứng
duy tâm.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn đề tài của nhóm em vẫn còn
nhiều thiếu sót. Mong cô giáo và các bạn bổ sung để đề tài thực sự hoàn thiện


1.
Bùi Văn Mưa (chủ biên) (2010). Triết học phần 1 Đại cương về lịch
sử Triết học (tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học). Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
Tp.HCM.
2.
Đồng Văn Quân (2010). Lịch sử Triết học - Đại học Thái Nguyên.
Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
3.
Karl Popper (Đinh Tuấn Minh dịch) (2005). Biện chứng là gì?.
Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách. Trường Đại học Kinh tế, Đại hoc
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4.
Trần Đức Thảo (1995). Lịch sử tư tưởng trước Mác. Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội.
5.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1993). Toàn tập. Nxb Chình trị Quốc gia, Hà
Nội. (2) V.I.Lênin (1983). Toàn tập. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.



×