Tải bản đầy đủ (.doc) (199 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ TÍNH TÍCH cực hóa NHÂN tố CON NGƯỜI của đội NGŨ sĩ QUAN QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.11 KB, 199 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đã và
đang đặt con người vào vị trí trung tâm - là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn mới của cách mạng, “chúng ta cần hiểu sâu sắc
những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của
mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các
quốc gia” [l19,76]. Trong nhân tố con người, “cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế
độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[166, 66]. Do vậy, chưa bao
giờ vấn đề tích cực hóa nhân tố con người nhằm khai thác và phát huy vai trò chủ
thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người và của đội ngũ cán bộ để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc lại đặt ra cấp thiết cả lý luận và thực tiễn như hiện nay.
Hơn nữa, nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo phương hướng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong điều kiện đất nước bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đòi hỏi bức xúc phải
phát huy và sử dụng có hiệu quả tiềm năng sáng tạo của con người: trong đó đội
ngũ sĩ quan là lực lượng nòng cốt. Nếu không thực hiện tốt vấn đề tích cực hóa
nhân tố con người để nâng cao không ngừng tính tích cực xã hội của đội ngũ sĩ
quan thì mọi biện pháp xây dựng quân đội sẽ không đem lại hiệu quả như mong
muốn.
Bên cạnh đó, một trong những bài học lịch sử được rút ra từ thực tiễn xây dựng
quân đội của một số nước xã hội chủ nghĩa đã thức tỉnh chúng ta rằng, một quân
đội đã được trang bị vũ khí, kỹ thuật hiện đại, được nuôi dưỡng chu đáo, song
không phát huy và sử dụng đúng đắn, có hiệu quả tính tích cực xã hội của con
người, mà then chốt là của đội ngũ sĩ quan, thì quân đội đó vẫn bị vô hiệu hoá
trước những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bị


mất sức chiến đấu và không hoàn thành được nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa của mình.


Trong lúc đó, thực trạng về chất lượng nhân tố con người và tích cực hóa nhân
tố con người của của đội ngũ sĩ quan, bên cạnh mặt tích cực, tiến bộ, còn những
hạn chế, bất cập so với yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng quân đội ta
trong tình hình mới.
Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn cấp thiết nói trên, cần phải xây dựng cơ sở lý luận
khoa học góp phần làm sáng tỏ bản chất, nội dung, phương thức, phương tiện
nhằm hiện thực hóa có hiệu quả nhất tiềm năng sáng tạo to lớn của đội ngũ sĩ quan
trong xây dựng quân đội hiện nay. Việc nghiên cứu vấn đề này đã thực sự cần thiết
và có những tiền đề cả lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế và tình
hình đất nước hiện nay có những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những
yêu cầu mới cấp bách đòi hỏi công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, đội ngũ sĩ quan
phải được dựa trên một cơ sở khoa học vững chắc, phù hợp với hoàn cảnh mới.
Làm thế nào phát huy và sử dụng có hiệu quả tính tích cực xã hội của đội ngũ sĩ
quan để họ xứng đáng là một nguồn nhân lực đặc biệt và là một kiểu nhân cách
tiêu biểu của người cán bộ cách mạng, tạo nên động lực phát triển trong sự nghiệp
xây dựng quân đội hiện nay? Vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng đó đang đặt ra
bức bách đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc để góp
phần lý giải kịp thời và tìm kiếm những giải pháp phù hợp làm cơ sở khoa học cho
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ sĩ quan, một bộ phận trong chiến lược con người và
chiến lược cán bộ của Đảng và là vấn đề then chốt trong xây dựng quân đội về
chính trị hiện nay. Từ tính cấp thiết cả về lý luận, thực tiễn và về mặt khoa học nói
trên mà tác giả đã chọn đề tài “Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ
quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm luận án.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Con người là giá trị cao nhất, là chủ thể của mọi quá trình lịch sử, là trung tâm
của mọi nghiên cứu khoa học. Chừng nào còn tồn tại lịch sử xã hội thì người ta vẫn


còn bàn đến vấn đề con người. Đề tài cũ này luôn luôn có những ý kiến mới. Đối
với chủ nghĩa xã hội, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng xã hội

mới, do vậy, không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác.
Các nhà kinh điển không dành riêng cho việc nghiên cứu về con người và tích
cực hóa nhân tố con người, nhưng trong di sản lý luận vĩ đại của các ông chúng ta
luôn luôn bắt gặp một hệ thống các quan điểm tư tưởng phong phú, sâu sắc và
những chỉ dẫn quan trọng đối với vấn đề nghiên cứu con người nói chung và người
cán bộ cách mạng nói riêng. Đặc biệt, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, những vấn đề
lý luận và thực tiễn về con người, về đội ngũ cán bộ cách mạng và đội ngũ cán bộ
quân đội được đề cập một cách toàn diện, có hệ thống, sâu sắc và vẫn mang ý
nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta và sự nghiệp xây dựng quân
đội trong tình hình hiện nay.
Trên thế giới, vấn đề con người và nhân tố con người đã và đang thu hút rộng
rãi sự quan tâm của các nhà khoa học. Trong nội dung và kết quả nghiên cứu, bên
cạnh sự nhất trí, có cả những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Các nhà
triết học và khoa học xã hội của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ
đã công bố hàng loạt các công trình khoa học rất có giá trị. Tiêu biểu là “Con
người - những ý kiến mới về một đề tài cũ”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987,
1989. “Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, Nhà xuất bản Sách giáo khoa Mác Lênin, Hà Nội,1983, 1984; “Nhân tố tinh thần chính trị trong chiến tranh hiện
đại”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960; “Những vấn đề phương pháp luận của
lý luận và thực tiễn quân sự”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976
v.v...
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề nghiên cứu về
con người được đặc biệt quan tâm và thu được nhiều kết quả quan trọng. Tiêu biểu
là Chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước KX - 07 “Con người Việt
Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. do GS.TS. Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm đã hoàn thành và lần lượt công bố các kết quả nghiên


cứu của mình dưới dạng các ấn phẩm. Đó là: “Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996;

“Gia đình, nhà trường, xã hội với sự phát hiện tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và đãi ngộ người tài”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1996; “Vấn đề phát
huy và sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh
tế- xã hội”, đề tài KX 07-13, do Viện Triết học chủ trì, GS.PTS. Lê Hữu Tầng làm
chủ nhiệm, Hà Nội, 1996, v.v..Và rất nhiều công trình nghiên cứu của các tập thể
và cá nhân liên quan đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề được công bố trên
các tạp chí lý luận một cách khá thường xuyên.
Trong quân đội: nhiều đề tài nghiên cứu về con người, về đội ngũ cán bộ quân
đội hoặc các khía cạnh có liên quan đã công bố như: Lê Khả Phiêu, “Xây dựng
Quân đội nhân dân về chính trị dưới ánh sáng nghị quyết Đại hội VII của Đảng”,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994; GS. Lê Xuân Lựu, “Nâng cao
năng lực trí tuệ, phẩm chất tư duy quân sự của người cán bộ trong dạy học chiến
thuật”, Học viện Chính trị quân sự, 1989; Đặng Vũ Hiệp, “Nâng cao năng lực trí
tuệ -một công việc cấp bách trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong
giai đoạn mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, 4/1995; Đề tài khoa học cấp Bộ
Quốc phòng, “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội đến nhận thức chích
trị, tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề đổi mới công tác tư tưởng, tổ
chức trong quân đội ta hiện nay”, do GS. Trần Xuân Trường làm chủ nhiệm, Nhà
xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1996; Trần Danh Bích, “Xây dựng cơ cấu
hợp lý đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
mới” , luận án PTS khoa học quân sự, Hà Nội, 1996 v.v...
Mặc dù dược đề cập ở nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ khác nhau, nhưng chưa có
một công trình nào nghiên cứu dưới góc độ triết học một cách sâu sắc và có hệ
thống vấn đề “Tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”. Chính vì vậy, tác giả luận án đã kế thừa
những kết quả nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, đồng thời đặt vấn đề
nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống vấn đề khoa học nói trên.


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.

- Mục đích: Nghiên cứu vấn đề tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ
quan trong xây dựng quân đội một cách cơ bản, toàn diện, có hệ thống; làm rõ thực
chất của quá trình đó, nội dung, phương thức phương tiện để phát huy và sử dụng
có hiệu quả tính tích cực, tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan: tạo nên động lực
phát triển của sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo phương
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng hước hiện đại; góp phần đắc lực vào
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Nhiệm vụ:
1) Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và khảo sát những kết quả nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và
ngoài nước, luận án làm rõ một hệ thống khái niệm khoa học của vấn đề nghiên
cứu chỉ ra nội dung, thực chất và những động lực cơ bản của quá trình tích cực hóa
nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội.
2) Làm rõ vai trò nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân
đội, phân tích thực trạng và chỉ ra những mâu thuẫn cần giải quyết trong quá trình
tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan hiện nay.
3) Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tích cực hóa nhân tố
con người của đội ngũ sĩ quan, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội hiện
nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nhân tố con người và đội ngũ cán bộ
cách mạng; đường lối của Đảng ta về đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước, xây
dựng quân đội; chiến lược cán bộ và các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ
quân đội. Luận án còn dựa vào các văn kiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng ủy Quân
sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị; các bài viết, bài
nói của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội; đồng thời tham khảo


kết quả các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài quân đội có
liên quan đến các vấn đề được đề cập.

- Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình thực tế của đời sống xã hội Việt Nam
và của quân đội ta, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước. Luận án còn dựa vào
các báo cáo tổng kết công tác cán bộ, công tác tư tưởng - văn hóa, công tác xây
dựng Đảng, báo cáo chất lượng đội ngũ cán bộ: các báo cáo chuyên đề hàng năm
của các cơ quan thuộc Tổng cục Chính trị của một số quân khu, quân đoàn, nhà
trường và đơn vị trong toàn quân.
Luận án dựa vào số liệu điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về thực trạng chất
lượng nhân tố con người và tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan ở
một số đơn vị, cơ quan, nhà trường trong quân đội.
- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận án đã vận dụng phương
pháp tiếp cận hệ thống và phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách vào
nghiên cứu nhân tố con người và tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ
quan. Luận án cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó chủ
yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa;
lôgic và lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp chuyên gia
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án.
- Luận án vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống hoạt động - giá trị - nhân
cách để góp phân xác định rõ khái niệm nhân tố con người, tích cực hóa nhân tố
con người của đội ngũ sĩ quan: khám phá nội dung, thực chất và những vấn đề có
tính quy luật với tính cách là những động lực tích cực hóa nhân tố con người của
đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội hiện nay.
- Bước đầu làm sáng tỏ vai trò nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan; khảo sát
tình hình tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân
đội hiện nay và chỉ ra các mâu thuẫn cần giải quyết của quá trình đó.


- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp với đặc
thù hoạt động quân sự trong tình hình mới nhằm hiện thực hóa tiềm năng tích cực
tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.

Góp phần khẳng định tính đúng đắn của quan điểm triết học Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về con người, nhân tố con người,
tích cực hóa nhân tố con người nói chung và của đội ngũ sĩ quan nói riêng. Đồng
thời làm sáng tỏ và vận dụng chiến lược con người, chiến lược cán bộ của Đảng
trong xây dựng quân đội.
- Kết quả nghiên cứu khoa học góp phần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng, đồng thời đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn xây dựng
đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ sĩ quan - một nhiệm vụ then chốt trong xây dựng
quân đội về chính trị hiện nay.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học; trong
giảng dạy các nội dung có liên quan đến con người, tích cực hóa nhân tố con
người, liên quan đến xây đựng đội ngũ sĩ quan và đội ngũ cán bộ quân đội.
7. Kết cấu của luận án.
Luận án có 218 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.


Chương 1
THỰC CHẤT QUÁ TRÌNH TÍCH CỰC HÓA NHÂN TỐ CON NGƯỜI
CỦA ĐỘI NGŨ SĨ QUAN TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI
1.1 Khái niệm nhân tố con người và tích cực hoá nhân tố con người của đội
ngũ sĩ quan.
1. 1. 1. Khái niệm nhân tố con người.
Nhân tố con người là một khái niệm rộng mà nội dung của nó bao gồm nhiều
mặt, nhiều khía cạnh, được nhiều bộ môn khoa học nghiên cứu. Tùy đặc điểm bộ
môn, mục đích nghiên cứu và phương pháp tiếp cận mà các học giả đã đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau. Đối với triết học, nhân tố con người được xem xét
trong tính chỉnh thể, gắn với vai trò chủ thể của con người trong một quá trình phát
triển xã hội nhất định.
Xét từ cấu trúc lô-gic của khái niệm, đa số các học giả coi khái niệm nhân tố con

người là sự tiếp tục triển khai khái niệm “con người” nhưng có nội dung hẹp hơn
với những đặc trưng xác định cụ thể hơn [124]. Trong khái niệm nhân tố con người
thì nội hàm của khái niệm con người được hạn định bởi nội dung của khái niệm
“nhân tố”. Xây dựng một khái niệm khoa học về nhân tố con người cần phải coi
hai khái niệm nói trên nằm trong những khái niệm công cụ.
Triết học Mác - Lênin khẳng định con người là thực thể sinh học - xã hội. Trong
con người, mặt sinh học và mặt xã hội kết hợp thành một chỉnh thể thống nhất với
tư cách là một thực thể sinh học, con người hiện hữu bằng chính bản thân mình là
một sinh vật đặc biệt được nhân loại hóa. Với tư cách là một thực thể xã hội, con
người là một thành tố của hệ thống xã hội, thành viên của cộng đồng mang thuộc
tính xã hội. Trên thực tế sự vận động sinh học và sự vận động xã hội trong con
người là một quá trình thống nhất biện chứng. Từ quan niệm chung nhất của triết
học về con người đã định hướng cho các bộ môn khoa học khác nhau nghiên cứu,
khám phá những đặc trưng về tự nhiên - vũ trụ - Sinh học - tâm lý - xã hội - tinh


thần trong các cực tồn tại và phát triển vô cùng phong phú, phức tạp và năng động
của con người.
Khái niệm “nhân tố” trong tiếng Việt chỉ “yếu tố cần thiết gây ra, tạo ra cái gì
đó” [162]. Vận dụng xây dựng khái niệm nhân tố con người cần xác định được
những yếu tố đặc trưng của con người, những yếu tố quy định “đặc tính người”,
các phẩm chất xã hội quy định vai trò chủ thể của con người trong một quá trình
biến đổi xã hội cụ thể.
Trong lịch sử tư tưởng triết học, mặc dù chưa có một khái niệm hoàn chỉnh
nhưng đã có những ý tưởng khác nhau về nhân tố con người. Các nhà triết học đặt
vấn đề nghiên cứu mặt tự nhiên, sinh học và mặt xã hội, tinh thần của con người
rất sớm, và đã phát hiện được những thuộc tính, những đặc trưng sâu sắc, phong
phú trong bản chất con người. Đặc biệt yếu tố lý trí, đạo đức, chiều sâu đời sống
nội tâm, tinh thần luôn luôn được nhấn mạnh. Con người được coi là giá trị cao
nhất, thước do mọi giá trị, chủ thể duy nhất sáng tạo tất cả các thành tựu trên trái

đất. Con người với nhu cầu tồn tại và phát triển của nó là điểm xuất phát, là mục
đích cao nhất của mọi hoạt động thực tiễn xã hội. Khuyết điểm lớn nhất của triết
học trước Mác và ngoài Mác-xít là đã không xuất phát từ con người hiện thực, con
người hoạt động thực tiễn trong các QHXH - lịch sử xác định, nên không có quan
niệm đầy đủ, đúng đắn về con người và tính tích cực, sáng tạo của con người. Đó
là một nguyên nhân căn bản dẫn các nhà triết học rơi vào lập trường duy tâm, thần
bí hoặc siêu hình trong giải thích về con người. Tuy vậy, lịch sử tư tưởng triết học
đã cung cấp những “vật liệu ban đầu, tạo tiền đề và đặt ra những vấn đề khoa học
cho triết học Mác - Lênin tiếp tục giải quyết một cách đúng đắn trên cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận biện chứng duy vật.
Tiền đề xuất phát của triết học Mác - Lê-nin là con người hiện thực con người
thực tiễn [83, 37]. Bằng hoạt động của mình trong hệ thống các QHXH hiện thực
mà con người xác lập bản chất xã hội của mình. “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những QHXH” [81,11]. Luận điểm nổi tiếng đó của
Các Mác đã khẳng định tính chất xã hội trong hoạt động của con người, chỉ ra tính


phổ biến, tính hiện thực, tính lịch sử - cụ thể của bản chất con người; đồng thời
vượt lên tất cả các quan điểm triết học trong lịch sử coi bản chất con người là trừu
tượng, bất biến, phi lịch sử, phi xã hội...Như vậy, những đặc trưng bản chất của
con người được hình thành, phát triển, được bộc lộ và có thể xác định được trong
con người hiện thực như một chủ thể của hoạt động, chủ thể của QHXH, chủ thể
của nhận thức, của tư duy và là thước đo mọi giá trị xã hội. Quan điểm của triết
học Mác - Lê-nin về bản chất xã hội của con người là một cơ sở lý luận cho nội
dung và phương pháp tiếp cận nhân tố con người.
Con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội, bị quy định, ràng buộc bởi hệ
thống các QHXH, đồng thời vừa là chủ thể của quá trình lịch sử, có vai trò thúc
đẩy sự biến đổi và phát triển xã hội. Từ đó dẫn đến vấn đề lý luận về vai trò con
người là chủ thể tích cực, sáng tạo lịch sử, chủ thể mọi giá trị, mọi nền văn minh
giữ một vị trí trọng tâm trong việc triển khai quan điểm Mác - Lênin về con người.

Điểm khác nhau căn bản giữa lịch sử phát triển của xã hội so với quá trình tiến hóa
của tự nhiên là “trong lịch sử của xã hội nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những
con người có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tình và theo đuổi những
mục đích nhất định, thì không có gì xảy ra mà lại không có ý định tự giác, không
có mục đích mong muốn” [4, 435]. Những yếu tố đặc trưng cho bản chất con
người mà các nhà kinh điển nêu lên cũng chính là tư tưởng chủ yếu về nhân tố con
người. (Tác giả nhấn mạnh).
Xuất phát từ quan điểm của triết học Mác - Lênin, song do phương pháp và mục
đích nghiên cứu khác nhau mà hiện nay trong giới nghiên cứu có rất nhiều quan
niệm về nhân tố con người. Có thể quy về hai loại quan niệm chính [124]:
- Quan niệm thứ nhất nhấn mạnh mặt hoạt động của nhân tố con người, sự thể
hiện các phẩm chất và đặc trưng bản chất của con người trong hoạt động định
hướng nhằm biến đổi các quá trình xã hội. Các tác giả đại biểu cho quan niệm này
là G.A.Emel Janov, L.V.Nikolaeva, N.E.Zelinskij, E.F.Sulinov ...
- Quan niệm thứ hai coi nhân tố con người là tổng hòa các phẩm chất và năng
lực với tính cách là tiềm năng chung được biểu hiện trong các dạng hoạt động khác


nhau của con người, là đặc trưng nhân cách được thực hiện trong các dạng hoạt
động có định hướng tích cực và nhân đạo. Các tác giả đại biểu cho quan điểm này
là R.G.Janovskij, Akuledov, N.M.Berezhnoj ...
Ở Việt Nam cũng đang có nhiều quan niệm khác nhau về nhân tố con người. Có
quan niệm cho rằng “nhân tố con người là toàn bộ những điều kiện riêng có những
yếu tố, những mặt...nói lên vai trò của con người như là một chủ thể hoạt động
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội” [20,128]. Định nghĩa này khẳng
định vai trò con người nhưng không chỉ ra những đặc trưng cụ thể, chủ yếu của
nhân tố con người và chưa khẳng định vai trò thúc đẩy tiến bộ xã hội của con
người. Một số tài liệu khác lại nhấn mạnh “nhân tố con người là tổng hòa các năng
lực và phẩm chất của con người được biểu hiện trong hoạt động tích cực cải tạo tự
nhiên và xã hội nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội” [22,190]. Sự khái quát trên chỉ ra

đặc trưng nhân tố con người là tổng hòa các năng lực và phẩm chất cùng với vai
trò tích cực của con người, nhưng thuộc loại quan niệm coi hoạt động như là sự
biểu hiện của phẩm chất và năng lực trong nhân tố con người.
Như vậy, cái chung của hai loại quan niệm là đều nêu bật phẩm chất xã hội quy
định vai trò chủ thể lịch sử của con người. Song, sự khác nhau là, quan niệm thứ
nhất lấy hoạt động làm hạt nhân, còn phẩm chất và năng lực được thể hiện trong
hoạt động; quan niệm thứ hai coi đặc trưng của nhân tố con người là tổng hòa
những phẩm chất và năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện của nó. Những học giả
không đồng ý quan niệm thứ nhất cho rằng quan niệm đó chưa đánh giá đầy đủ
tiềm năng tích cực, tính chủ động, sáng tạo của con người. Mặc dù xem con người
như là một chủ thể hoạt động, “nhấn mạnh sự hiện diện của hoạt động, sự cần thiết
của con người có mặt trong hành động, nhưng chỉ làm nổi lên thời điểm con người
thực hiện một loạt chức năng nhất định, điều đó dễ dẫn đến chỗ xem xét con người
như là chủ thể của hoạt động thừa hành.” [124]. Thực tế cho thấy, nhận thức của
người luôn luôn đi trước hành vi, tính tích cực bên trong những phẩm chất tinh
thần luôn luôn đi trước tính tích cực với tư cách là hiện tượng. Những phẩm chất
xã hội của con người không chỉ là kết quả được hình thành và được biểu hiện trong


hoạt động, mà nằm trong một quá trình biến đổi cùng với hoạt động của chủ thể,
trở thành cơ sở, nền tảng tinh thần cho mọi hoạt động của con người. Hơn nữa, hệ
thống động cơ hoạt động của con người bao giờ cũng được phản ánh dưới dạng
“mục đích mong muốn” và thuộc về phẩm chất tinh thần của con người.
Những học giả không đồng ý quan niệm thứ hai cho rằng khái niệm đó chỉ giới
hạn nhân tố con người trong lĩnh vực tinh thần, còn hoạt động chỉ là sự thể hiện
những phẩm chất tinh thần của con người. Như vậy chưa nói lên được cơ sở quyết
định sự hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực của con người là thông
qua hoạt động, sự biểu hiện mọi đặc trưng, thuộc tính con người là ở trong hoạt
động, trong hình thức tất yếu của sự cải tạo xã hội. Đồng thời, hoạt động còn là
điều kiện cần thiết kiến tạo nên những quá trình xã hội hiện thực, quyết định sự

hiện hữu của quá trình lịch sử. Hiện nay, sự nghiên cứu về nhân tố con ngươi theo
các phương hướng khác nhau ở trong và ngoài nước vẫn được tiếp tục triển khai.
Xây dựng một khái niệm khoa học về nhân tố con người từ góc độ triết học,
đồng thời làm rõ cấu trúc, nội dung của nó là để góp phần luận chứng cơ sở khoa
học cho chiến lược con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển KT-XH trong công cuộc đổi mới ở nước ta theo định hướng XHCN và trong
sự nghiệp xây quân đội hiện nay. Vấn đề lý luận và thực tiễn đó trở nên cấp thiết
và đã có những tiền đề nhất định để giải quyết nó. Hiện nay, qua kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học Việt Nam. các quan niệm về “con người Việt Nam” và
những đặc trưng nhân tố con người Việt Nam, vừa là sự tiếp tục triển khai, vừa có
sự phân biệt cần thiết về mặt khoa học. “Con người Việt Nam là cộng đồng tất cả
các dân tộc sống và làm chủ lãnh địa nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” [42,49].
Còn nhân tố con người Việt Nam hiện nay được tiếp cận và diễn đạt chủ yếu bằng
hệ giá trị nhân cách con người Việt Nam.
Những đặc trưng nhân tố con người Việt Nam, được hình thành trong lịch sử lâu
dài đấu tranh giữ nước và dựng nước, trong đời sống cộng đồng, trở thành một hệ
giá trị được thử thách mang tính bền vừng nhưng luôn luôn phát triển trong sự kế
thừa quá khứ gắn với thực tiễn hành động và định hướng cho sự phát triển trong


tương lai. Cốt lõi trong nhân tố con người Vệt Nam là phẩm chất nhân cách, phẩm
chất đạo đức, tiêu biểu là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng,
tinh thần nhân ái, nhân đạo, nhân văn, lòng nhân nghĩa, thủy chung, cần cù, thông
minh, sáng tạo, coi trọng học vấn, trí tuệ...Phẩm chất cao đẹp của con người Vệt
Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết là: nhân, trí, dũng; cần, kiệm, liêm chính;
trung với nước, hiếu với dân...Các văn kiện của Đảng đã phản ánh những đặc trưng
về nhân tố con người Việt Nam trong một quá trình phát triển và mong muốn của
Đảng về đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ con người Việt Nam, kế thừa truyền thống
của cha anh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Sơ đồ 1: Phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách [40].
Để xây dựng được một khái niệm khoa học về nhân tố con người con phải xác
định một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng và mục đích vấn đề nghiên
cứu. Ở đây, đề tài lựa chọn phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách
làm phương pháp chủ đạo cho việc xây dựng khái niệm nhân tố con người cũng
như toàn bộ các vấn đề nghiên cứu tiếp theo. Phương pháp tiếp cận này đã được
các nhà khoa học Việt Nam vận dụng nghiên cứu có kết quả trong chương trình
KX - 07: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển KT- XH”
[170, 63].
Yêu cầu của phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách đòi hỏi muốn
nhận thức đời sống xã hội và những đặc trưng bản chất con người phải xuất phát từ
“con người hiện thực” - con người hoạt động, mà cơ sở là hoạt động thực tiễn lấy
đó làm “tiền đề xuất phát”. Đó là sự tồn tại hiện thực của bản chất con người và


đời sống xã hội, bởi vì “đời sống xã hội về thực chất là có tính thực tiễn [81,12].
Hoạt động là phương thức quan hệ giữa con người với thế giới, là phương thức tác
động lẫn nhau giữa người với người, đồng thời hoạt động là cơ sở của nhân cách,
là hình thức tồn tại và biểu hiện của nhân tố con người trong hiện thực.
Hoạt động của con người diễn ra trong hệ thống quan hệ giữa con người với thế
giới hiện thực. Đặc biệt, thông qua hệ thống QHXH và dưới hình thức QHXH
(quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quan hệ cá nhân, nhóm, tập đoàn, giai
cấp, dân tộc, cộng đồng...) mà con người tác động vào hiện thực khách quan, thực
hiện một vai trò, một chức năng xã hội nhất định, hình thành, phát triển và bộc lộ
những thuộc tính, những đặc trưng xã hội của mình.
Bằng hoạt động diễn ra trong QHXH, con người đang tạo ra mọi giá trị vật chất
và tinh thần. Hoạt động của con người có sự chi phối của động cơ, mục đích, được
định hướng bằng hệ giá trị. Đó cũng là một quá trình con người phải nhận thức,
đánh giá, lựa chọn các giá trị một cách đúng đắn, trên cơ sở đó tiếp tục sáng tạo
các giá trị mới.

Hệ thống giá trị được hình thành trong các QHXH, bao gồm toàn bộ các giá trị
do con người (các cá nhân, giai cấp, dân tộc, cộng đồng và loài người) sáng tạo ra,
được tích lũy, bồi đáp và phát triển trong chiều sâu lịch sử thuyền thống và hiện
đại), trong đó con người là giá trị cao quý nhất và cuộc sống là một tổ hợp hệ
thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá từ định hướng giá trị. Hệ thống giá trị được
xếp đặt theo một trật tự nhất định, tức là thang giá trị. Khi con người vận dụng hệ
thống giá trị, thang giá trị vào đánh giá, lựa chọn các giá trị trong cuộc sống, gắn
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, ta có thước do giá trị. Mỗi một dân tộc, giai cấp,
cộng đồng, cá nhân chủ động vận hành hệ thống giá trị, thang giá trị, thước đo giá
trị vào hoạt động trong một quá trình xã hội xác định để tổ chức, điều khiển nhận
thức, tình cảm, ý chí và hành động của mình, tức là định hướng giá trị. Hệ thống
giá trị, thang giá trị, thước đo giá trị, định hướng giá trị biến đổi phát triển không
ngừng, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, trước hết là điều kiện
KT-XH.


Khi con người tà chủ thể hoạt động trong hệ thống QHXH thường xuyên biến
đổi năng động, tức con người đã tham gia vào một quá trình xã hội hóa, một quá
trình hình thành, phát triển nhân cách, trong đó con người tiếp thu và sáng tạo các
giá trị vật chất và tinh thần. Nhân cách chính là thước đo giá trị của chủ thể: thước
đo mức độ phù hợp giữa giá trị cá nhân với giá trị xã hội, được thể hiện ở những
đặc trưng về phẩm chất và năng lực của con người. Chính hệ thống phẩm chất và
năng lực của con người trong quá trình hình thành và phát triển trở thành điều kiện
cho mọi hoạt động sáng tạo của chủ thể.
Như vậy, phương pháp tiếp cận hoạt động-giá trị-nhân cách đòi hỏi phải xem
xét nhân tố con người như một chỉnh thể trong sự vận động, phát triển và thống
nhất giữa hai mặt: một mặt, từ hoạt động của con người được định hướng bởi
chuẩn mực giá trị xã hội, hình thành và phát triển nhân cách với tư cách là thước
đo giá trị của chủ thể, mặt khác, nhân cách với tư cách là thước đo mức độ phù hợp
giữa giá trị của chủ thể với giá trị xã hội là cơ sở, điều kiện cho mọi hoạt động của

chủ thể để tiếp tục sáng tạo ra các giá trị xã hội. Đó cũng chính là sự tiếp cận nhân
tố con người ở các cấp độ khác nhau, trong một quá trình vận động phát triển, bao
quát được những đặc trưng bản chất nói lên con người vừa là chủ thể hoạt động,
vừa là chủ thể mang những đặc trưng về phẩm chất, năng lực, đồng thời là chủ thể
tiếp thu giá trị và sáng tạo giá trị xã hội. Phương pháp tiếp cận này làm nổi bật vai
trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, khẳng định con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực phát triển xã hội. Mỗi yếu tố trong hệ thống các yếu tố
cấu thành nhân tố con người ở những cấp độ nói trên lại là một hệ thống nhỏ khác
rất phong phú, đa dạng. Chính vì vậy mà các bộ môn khoa học khác nhau, tùy theo
mục đích nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, sẽ nhấn mạnh yếu tố này hoặc yếu
tố khác. Tình hình đó đã dẫn đến nhiều quan niệm khác nhau về nhân tố con người
trong nghiên cứu khoa học.
Từ cơ sở lý luận cả về nội dung và phương pháp tiếp cận đã phân tích ở trên, có
thể quan niệm rằng: Nhân tố con người là hệ thống các yêu tố, các đặc trưng quy
định vai trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh


thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc trưng về phẩm chất, năng
lực của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.
Khái niệm nhân tố con người nói trên khái quát được những phẩm chất xã hội
căn bản nhất - những “tố chất người” quy định vai trò chủ thể của con người trong
một quá trình biến đổi, phát triển xã hội, đồng thời phản ánh được tính hệ thống,
tính lịch sử - cụ thể và phát triển của nhân tố con người. Mối quan hệ biện chứng
giữa hoạt động với phẩm chất và năng lực chính là động lực bên trong thúc đẩy
tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người phát triển.
Khái niệm nhân tố con người có cấu trúc gồm hai phương diện cơ bản. Phương
diện thứ nhất, chỉ hoạt động của con người, bao gồm hoạt động thực tiễn và hoạt
động lý luận; hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần. Thông qua hoạt động, mà
cơ sở là hoạt động thực tiễn, con người được coi là lực lượng quyết định sự vận
động, phát triển xã hội. Bản thân hoạt động lại là một hệ thống có cấu trúc tổng

quát gồm hai thàch tố cơ bản, đó là các hành động nhằm thực hiện hoạt động và
tương ứng là những động cơ, mục đích chi phối hành động.
Phương diện thứ hai, chỉ tổng hòa những đặc trưng về phẩm chất và năng lực
của con người. Đây lại bao gồm hai phương diện cơ bản trong cấu trúc tổng quát
của nhân cách. Những phẩm chất chính trị, đạo đức, hình thành nên ở con người
thế giới quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động, ý
thức tổ chức kỷ luật, ý chí, tác phong ứng xử ...Đó còn là năng lực của con người,
hình thành nên tri thức khoa học, tri thức nghề nghiệp, phương pháp tư duy, năng
lực tổ chức thực tiễn, năng lực giao tiếp, khả năng thích ứng...Hai phương diện của
nhân tố con người, hợp thành một chỉnh thể thống nhất, thường xuyên biến đổi và
phát triển. Trong mối quan hệ đó thì “nhân tố hoạt động” giữ vị trí “tính thứ nhất”,
còn phẩm chất, năng lực là “tính thứ hai”, bởi con người hiện thực, con người hoạt
động là tiền đề xuất phát của mọi quá trình lịch sử. Song, trong xem xét không
được nhấn mạnh quá mức tính thứ nhất mà coi nhẹ tính thứ hai. Bởi vì đặc thù của
lĩnh vực xã hội được các nhà kinh điển khẳng định, không ở đâu có hoạt động cải
tạo của con người lại không có ý định tự giác, không có mục đích mong muốn. Nói


cách khác, hoạt động của con người không chỉ gắn liền với phẩm chất và năng lực,
mà còn phải dựa trên cơ sở, điều kiện những phẩm chất và năng lực nhất định mới
thực hiện được. Hơn nữa, trong tính chính thể của nhân tố con người, quan hệ giữa
hoạt động với phẩm chất và năng lực là quan hệ thống nhất giữa tính tích cực hiện
thực với tính tích cực tiềm năng; giữa tính tích cực hành vi với tính tích cực nhận
thức; giữa tính tích cực hiện tượng với tính tích cực bên trong phẩm chất tinh thần.
Chính trong mối quan hệ vừa làm tiền đề, điều kiện cho nhau, tạo nên động lực
bên trong của sự phát triển nhân tố con người mà bản chất, chức năng xã hội và vai
trò chủ thể tích cực, tự giác, sáng tạo của con người được thể hiện, trở thành động
lực thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Nhân tố con người là một khái niệm rộng mà nội dung của nó bao gồm:
Thứ nhất, chỉ ra những đặc trưng của con người với tư cách là chủ thể hoạt

động, một nguồn nhân lực mà thông qua hoạt động thực hiện các mục đích, nhiệm
vụ xã hội, giữ một vai trò quyết định mọi sự vận động, phát triển xã hội. Hoạt động
là nơi thể hiện năng lực thực tiễn của con người, là quá trình hiện thực hóa những
đặc trưng bản chất của con người trong những điều kiện lịch sử - cụ thể.
Thông qua hoạt động mà nhu cầu và lợi ích của con người được thoả mãn. Hoạt
động là cơ sở hình thành, phát triển những phẩm chất xã hội - tinh thần của con
người. Mọi yếu tố tạo nên động lực phát triển xã hội đều được thể hiện và thực
hiện thông qua hoạt động của con người, tức là phải thông qua “nhân vật” mang
QHXH và làm biến đổi các QHXH.
Thứ hai, chỉ ra những đặc trưng của con người với tư cách là chủ thể mang
phẩm chất và năng lực, chủ thể của ý thức xã hội, của nhận thức, tư duy. Đó là kiểu
nhân cách tiêu biểu cho một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định, mang
những đặc trưng về đạo đức, chính trị, tri thức, kinh nghiệm, hoạt động có nhiệt
tình, có mục đích nhằm sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Một mặt,
những phẩm chất và năng lực của con người được hình thành và phát triển cùng
với quá trình hoạt động; mặt khác, đây chính là một tiềm năng to lớn, làm cơ sở,
điều kiện không thể thiếu được cho mọi hoạt động sáng tạo của con người.


Thứ ba, chỉ ra những đặc trưng của con người với tư cách là chủ thể mang giá trị
xã hội và là giá trị cao nhất, thước đo của sự phát triển xã hội. Ở đây, nhân tố con
người được thể hiện ở cấp độ phẩm giá con người. Quá trình hình thành, phát triển
của nhân tố con người cũng là quá trình nâng cao giá trị nhân cách con người. Con
người là một nhân cách văn hóa mà hoạt động của họ được định hướng tích cực,
nhân đạo và nhân văn. Đây là một tiêu chí nói lên con người không chỉ là động lực
mà còn là mục đích của sự phát triển xã hội, một vấn đề ngày càng được coi trọng
trong thời đại hiện nay, đặc biệt là trong CNXH, một xã hội coi trọng sự thống
nhất giữa tính nhân bản, nhân đạo và nhân văn trong phẩm giá con người.
Các nội dung nói trên là một thể thống nhất, thể hiện những đặc trưng bản chất
người và vai trò con người trong sự phát triển xã hội, chỉ ra con người với tư cách

là chủ thể hoạt động, chủ thể mang phẩm chất và năng lực và chủ thể mang giá trị
văn hóa - lịch sử. Như vậy, thực chất quan niệm nhân tố con người mà đề tài đề
cập chính là tổng hòa các đặc trưng xã hội quy định vai trò chủ thể tích cực, tự
giác, sáng tạo của con người trong một quá trình lịch sử - xã hội.
Khái niệm nhân tố con người có quan hệ với các khái niệm con người, nhân tố
chủ quan, nhân cách, yếu tố con người, nguồn lực con người...nhưng các khái niệm
đó không đồng nhất. Khái niệm “con người” rộng hơn, phong phú hơn, bao gồm
tổng hòa các phẩm chất tự nhiên và xã hội, là đối tượng nghiên cứu của hàng loạt
các ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn. Sự khác nhau của hai
khái niệm đó trên các phương diện chủ yếu sau đây:
- Khái niệm nhân tố con người nhấn mạnh những đặc trưng bản chất người,
thuộc tính xã hội của con người, mặc dù không tách rời với những phẩm chất tự
nhiên - sinh học. Nhân tố con người được quan niệm ở đây theo nghĩa hẹp không
bao gồm các đặc tính tự nhiên, sinh học, sinh thể của con người mà chỉ đề cập đến
ở mức độ liên quan cần thiết.
- Khái niệm nhân tố con người làm rõ mặt cơ bản, chủ đạo trong vai trò chủ thể
của con người, là động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội; trong lúc, con người vừa là chủ
thể, vừa là khách thể, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài trong tự nhiên và lịch sử


xã hội. Khái niệm nhân tố con người nhấn mạnh tư cách “nhân tố hoạt động” của
con người, không đề cập con người với tư cách khách thể thích ứng thụ động với
tính tất yếu khách quan. Song, điều đó không hề làm mất đi con người với tính
cách là một khách thể của quá trình cải tạo lịch sử - xã hội.
- Khái niệm nhân tố con người nhấn mạnh tính tích cực, tự giác, sáng tạo của
con người, là cội nguồn của những giá trị văn hóa, văn minh trong lịch sử. Nhờ
“đặc trưng người” nổi bật này mà con người được coi là chủ thể hoạt động được
định hướng nhân đạo và nhân văn trong tiến trình lịch sử.
Khái niệm “nhân tố chủ quan” cùng cấp độ với khái niệm nhân tố con người
nhưng nội dung có sự khác nhau. Nhân tố chủ quan đặc trưng cho hoạt động tích

cực, có ý thức của quần chúng nhân dân, giai cấp, đảng phái, nhóm xã hội và từng
cá nhân trong sự tương tác chặt chẽ với điều kiện khách quan nói lên cơ chế tác
động của con người vào điều kiện khách quan, tạo nên động lực phát triển của lịch
sử. Nhân tố con người là tổng hòa những đặc trưng quy định bản chất xã hội của
con người, không những đặt trong quan hệ với các điều kiện tự nhiên - vật chất kỹ thuật mà còn trong quan hệ với mặt sinh thể của con người để khẳng định vai
trò chủ thể tích cực, nhân tố liên kết của hệ thống xã hội và nhân tố hoạt động của
quá trình xã hội. Đối với một chủ thể xác định thì nhân tố con người là nội dung
cốt lõi của nhân tố chủ quan. Tích cực hóa nhân tố con người là phương hướng cơ
bản để thực hiện quy luật về sự tăng lên không ngừng của nhân tố chủ quan trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong nhân tố chủ quan còn có yếu tố tổ chức và
những điều kiện vật chất - kỹ thuật mà chủ thể tạo ra, sử dụng trong hoạt động cải
tạo xã hội, song trong nhân tố chủ quan không bao hàm tất cả những đặc trưng xã
hội của nhân tố con người khi nó thuộc về điều kiện khách quan của một quá trình
phát triển xã hội đã xác định.
Khái niệm “yếu tố con người” rộng hơn nhân tố con người, vì đó chính là con
người với tất cả các tiêu chí của nó đặt trong quan hệ với “yếu tố vật chất kỹ thuật”
của một quá trình phát triển xã hội. Nhân tố con người chỉ là những đặc trưng xã
hội trong yếu tố con người. Yếu tố con người bao gồm con người với tư cách là


thành tố tự nhiên - vật chất và thành tố xã hội - tinh thần đồng thời cả cơ cấu tổ
chức xã hội của con người. Tùy cách quan niệm mà có khi người ta coi yếu tố con
người là nhân tố con người theo nghĩa rộng. Khi con người tham gia với tính cách
là “yếu tố con người”, trở thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy tạo
động lực phát triển của một quá trình xã hội thì được coi là “nguồn lực con
người”. Như vậy, khái niệm nguồn lực con người bao gồm tất cả các tiêu chí về
con người và tổ chức xã hội có thể khai thác, thu hút vào quá trình phát triển xã
hội. Nhân tố con người là cái cốt lõi, cái đặc trưng xã hội, là thuộc tính xã hội, giữ
vị trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn lực con người.
Khái niệm nhân tố con người có quan hệ chặt chẽ với khái niệm “nhân cách”

nhưng rộng hơn. Nhân tố con người chỉ đặc trưng xã hội của một chủ thể tổng hợp,
một lực lượng hoạt động xã hội đông đảo, bao gồm trong đó cả việc tiếp cận ở khía
cạnh đặc trưng nhân cách. Nhân cách là khái niệm chỉ những con người cụ thể, là
thước do trình độ xã hội hóa của cá nhân, trình độ phát triển của con người xã hội;
được thể hiện bằng những tiêu chí về phẩm chất và năng lực. Trong nhân tố con
người thì nhân cách là một nội dung quan trọng, là thước đo phẩm giá con người.
Khái niệm nhân tố con người đề cập đến những đặc trưng xã hội của một lớp đối
tượng với tư cách là một kiểu nhân cách tiêu biểu, với mô hình phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một quá trình xã hội xác định.
Tóm lại, các khái niệm trên tuy cùng mục đích chung nghiên cứu về con mười
có nội dung liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng không đồng nhất. Tùy mục đích cụ
thể, phạm vi nghiên cứu, tùy mối quan hệ xác định để sử dụng nhằm thể hiện
những phương diện khác nhau của con người và vai trò của nó đối với sự phát triển
xã hội. Nghiên cứu khái niệm nhân tố con người cần phải có sự phân biệt ranh giới
với các khái niệm có liên quan và không thể không sử dụng các khái niệm đó làm
công cụ nhận thức khoa học. Đó cũng là những vấn đề khoa học mà các học giả
vẫn tiếp tục nghiên cứu và đang có nhiều tranh luận khác nhau.
1.1.2. Nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan.


Khái niệm nhân tố con người của ĐNSQ chính là sự tiếp cận lịch sử - cụ thể đối
với khái niệm chung về nhân tố con người, nhằm vận dụng quan niệm khoa học đó
vào nghiên cứu một chủ thể xác định là ĐNSQ trong sự nghiệp xây dựng quân đội.
Vấn đề “định danh” nhân tố con người gắn với một lực lượng xã hội cụ thể của
một quá trình xã hội xác định là để hạn định phạm vi nghiên cứu, chỉ ra được
những đặc trưng xã hội cụ thể, riêng có của họ. Như vậy, lôgíc vận động từ khái
niệm nhân tố con người đến khái niệm “nhân tố con người của ĐNSQ” là một quá
trình hạn định khái niệm với phạm vi được thu hẹp và đặc trưng nhân tố con người
được chi tiết hóa, gắn với quá trình xây dựng quân đội hiện nay.
Trước hết, cần làm rõ khái niệm ĐNSQ (chỉ con người sĩ quan) cùng với những

đặc trưng về hoạt động và về phẩm chất, năng lực của họ để làm cơ sở cho việc
khái quát khái niệm nhân tố con người của ĐNSQ. Hiện nay, trên thực tế khái
niệm ĐNSQ được sử dụng hầu như đồng nhất với khái niệm “ĐNCB quân đội”,
bởi vì những cán bộ không phải là sĩ quan chiếm tỷ lệ rất ít, 4,54% [176].
Trong tổng thể đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, đội ngũ cán bộ quân đội
thuộc loại “cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang” [166, 69] , là một trong bốn loại
cán bộ chiến lược. ĐNCB quân đội là một khái niệm rộng hơn ĐNSQ bao gồm
trong đó ĐNSQ, một bộ phận quân nhân chuyên nghiệp, viên chức quốc phòng và
hạ sĩ quan giữ chức vụ sĩ quan. Song, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu ĐNSQ là lực
lượng chiếm tuyệt đại đa số và mang những đặc trưng tiêu biểu của ĐNCB quân
đội. Tiêu chí nổi bật để phân biệt sĩ quan với cán bộ quân đội nói chung và với
chiến sĩ, đó là những cán bộ được Đảng và Nhà nước trao quân hàm sĩ quan và có
chức năng chỉ huy, lãnh đạo, quản lý, giữ vai trò nòng cốt, bảo đảm cho quân đội
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là bộ phận chủ yếu trong đội ngũ
cán bộ quân đội; bao gồm những người được lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng theo
tiêu chuẩn chức danh quy định, được trao quân hàm sĩ quan và giao trọng trách
chỉ huy, lãnh đạo, quản lý hoặc đảm nhiệm những công tác chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ chủ yếu trong hệ thống tổ chức quân đội.


Khái niệm ĐNSQ chỉ con người sĩ quan, song chưa xác định một cách cụ thể
những đặc trưng xã hội, những “tố chất người” cụ thể trong con người sĩ quan.
Điều đó, từ góc độ triết học, tất yếu phải tiếp tục triển khai khái niệm nhân tố con
người của ĐNSQ. Sự khác nhau hai khái niệm đó là một biểu hiện cụ thể về ranh
giới giữa khái niệm con người với nhân tố con người trong triết học. Tuy vậy, cần
lưu ý trên thực tế do quan niệm của mình mà có người sử dụng đúng nhất khái
niệm con người sĩ quan với khái niệm nhân tố con người của ĐNSQ.
Trên các văn bản hiện hành, cơ cấu của ĐNSQ có thể dược phân tích dựa theo
các tiêu chí khác nhau. Có thể phân loại sĩ quan theo cấp quân hàm: cấp tướng, cấp

tá, cấp úy, sĩ quan cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Có thể phân loại sĩ quan cấp cán bộ
chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, phân loại theo chuyên môn, kỹ thuật như sĩ
quan quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, quân y, quân pháp, hành chính. Có thể
phân loại sĩ quan theo khối 1 (sẵn sàng chiến đấu), khối 2 (làm kinh tế), sĩ quan
khối chủ lực và khối địa phương. Có thể phân loại theo quân chủng: sĩ quan lục
quân, không quân, hải quân...hoặc phân loại theo binh chủng: sĩ quan pháo binh,
công binh, thông tin v.v... Trong phạm vi luận án này, chưa có khả năng và điều
kiện để đi sâu nghiên cứu từng loại sĩ quan cụ thể.
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu và phương pháp tiếp cận, để làm cơ sở cho
việc khái quát khái niệm nhân tố con người của ĐNSQ, đề tài xem xét ĐNSQ theo
đặc điểm hoạt động và những đặc trưng về phẩm chất, năng lực tương ứng. Xem
xét đặc điểm hoạt động của ĐNSQ, có thể phân chia thanh ba nhóm chính như sau:
- Sĩ quan chỉ huy, lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị, cơ quan trong hệ thống tổ
chức quân đội. Nhóm sĩ quan này thực hiện chức năng của người chỉ huy, lãnh
đạo, quản lý, tổ chức, điều hành mọi hoạt động của các đơn vị, các cơ quan, các
cán bộ và chiến sĩ thuộc quyền. Đây là lực lượng chủ yếu và đông đảo nhất trong
ĐNSQ, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng quân đội,
mang đầy đủ những đặc trưng về nhân tố con người của ĐNSQ. Đặc biệt quan
trọng là sĩ quan chủ trì các cấp. Đề tài đặt trọng tâm vào nghiên cứu nhóm sĩ quan
này.


- Nhóm sĩ quan làm công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy và chuyên môn kỹ
thuật. Đây là các sĩ quan thuộc các ngành chuyên môn khác nhau, có trình độ học
vấn và chuyên môn (thường là từ đại học trở lên) đáp ứng được những yêu cầu cụ
thể của nhiệm vụ xây dựng quân đội.
- Nhóm sĩ quan hành chính, nghiệp vụ. Đây là những sĩ quan đảm nhiệm chức
trách giúp người chỉ huy, lãnh đạo về mặt nghiệp vụ, hành chính để duy trì bảo
đảm cho mọi hoạt động của đơn vị, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ. Nhóm sĩ
quan này bao gồm những trợ lý, chuyên gia, nhân viên trong các lĩnh vực, chuyên

môn nghiệp vụ, hành chính. Họ thực hiện chức năng thu thập thông tin, chuẩn bị tư
liệu, tổng hợp, báo cáo, đề xuất các phương án cho người chỉ huy, lãnh đạo ra các
quyết định trong mọi hoạt động của các đơn vị quân đội.
Sự phân chia các nhóm sĩ quan theo đặc điểm hoạt động nói trên chỉ là tương
đối. Trên thực tế, người sĩ quan chỉ huy, lãnh đạo, quản lý cũng phải có một trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ nhất định để thích ứng với lĩnh vực hoạt động, bao quát
được mọi hoạt động đơn vị; giúp đỡ, kiểm tra, uốn nắn được cán bộ, chiến sĩ thuộc
quyền. Trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ giúp người sĩ quan
tránh được tình trạng “quân sự đơn thuần” hoặc “lãnh đạo chung chung”. Thường
một số sĩ quan trong các ban chỉ huy được phân công đảm nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo
một mặt chuyên môn của đơn vị, cơ quan. Trong các đơn vị đặc chủng hoặc các cơ
quan chuyên môn, sĩ quan chỉ huy, lãnh đạo nhất thiết phải là người am hiểu sâu
lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật của đơn vị mình phụ trách.
ĐNSQ hiện nay đa số là đảng viên cộng sản, 96,8% [175], vì vậy theo nghĩa
rộng thì họ có chức năng lãnh đạo (dù không giữ một chức vụ lãnh đạo cụ thể).
Thông qua hệ thống tổ chức Đảng tương ứng với hệ thống tổ chức các cấp của
quân đội mà ĐNSQ phát huy vai trò chỉ huy, lãnh đạo của mình. Phân tích tính
chất hoạt động của ĐNSQ là một cơ sở để nhận thức tính đặc thù của bộ phận con
người cán bộ hoạt động trong tổ chức quân đội, đồng thời phân biệt được đặc trưng
nhân tố con người của ĐNSQ với nhân tố con người trong quân đội nói chung.


Nhân tố con người của ĐNSQ bao hàm trong đó những đặc trưng nhân cách
của “Bộ đội Cụ Hồ”. Nhân cách người chiến sĩ là một chỉnh thể được Chủ tịch Hồ
Chí Minh khái quát ở đức và tài (tức phẩm chất và năng lực). Những yếu tố cơ bản
cấu thành nhân cách người chiến sĩ không chỉ biểu hiện ở đạo đức – “trung với
Đảng, trung với nước, hiếu với dân” mà còn được biểu hiện ở tài năng – “nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”[86].
Nhân tố con người của ĐNSQ còn là sự kết tinh những đặc trưng nhân cách

người cán bộ cách mạng. Tiêu chuẩn hàng đầu của người cán bộ cách mạng được
chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh là phải có đạo đức: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Phẩm chất đạo đức phải được thể hiện bằng hành động cách mạng. Là
một bộ phận của ĐNCB cách mạng, đặc trưng nhân tố con người của ĐNSQ phải
trí, nhân, dũng, tín, liêm, trung [107]. Đức và tài của ĐNSQ phải được thể hiện
bằng hiệu quả của hoạt động thực tiễn trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do
của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì CNXH .
ĐNSQ bao gồm những cán hộ dù là đảng viên hoặc chưa là đảng viên cộng sản,
họ đều được Đảng giáo dục, đào tạo, rèn luyện và chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc và CNXH. Vì vậy trong nhân tố con người của ĐNSQ chứa đựng
những đặc trưng nhân cách của người đảng viên cộng sản “vừa là người lãnh, vừa
là người đầy tớ trung thành của nhân dân” [99, 510]. Hiện nay, trong sự nghiệp đổi
mới đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh,
rất coi trọng phát huy nguồn lực con người, trong đó phát huy vai trò ĐNCB là
nhiệm vụ then chốt. Trong tiêu chuẩn cán bộ, Đảng ta coi trọng tiêu chuẩn về
phẩm chất, năng lực và nhấn mạnh tiêu chuẩn về hiệu quả hoạt động thực tiễn
[134]. Điều đó có nghĩa là những đặc trưng của nhân tố con người phải được xem
xét trong một chỉnh thể.
Như vậy, nhân tố con người của ĐNSQ xét ở khía cạnh nhân cách là tổng hòa
những đặc trưng trong mô hình nhân cách con người Việt Nam XHCN, nhân cách


người chiến sĩ - “Bộ đội Cụ Hồ”, nhân cách người đảng viên cộng sản và nhân
cách người cán bộ cách mạng.
Từ cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận nói trên có thể quan niệm: Nhân tố
con người của ĐNSQ là hệ thống các yêu tố, các đặc trưng quy định vai trò chủ
thể tích cực, tự giác, sáng tạo của người sĩ quan; bao gồm một chính thể thống
nhất giữa hoạt động với tổng hòa những đặc trưng phẩm chất và năng lực về chỉ
huy, lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ của ĐNSQ trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Khái niệm nhân tố con người của ĐNSQ là một chỉnh thể thống nhất giữa hai
phương diện:
Phương diện thứ nhất, chỉ hoạt động của ĐNSQ, một bộ phận của Đảng và nhà
nước hoạt động trong tổ chức quân đội, bao gồm hoạt động thực tiễn và hoạt động
lý luận; hoạt động chiến đấu, sản xuất và vận động quần chúng; hoạt động chỉ huy,
lãnh đạo, quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ
v.v... Hoạt động của ĐNSQ thuộc về lao động quân sự - một dạng xã hội đặc thù,
là lao động trước hết và luôn luôn vì lợi ích xã hội, được diễn ra trong những điều
kiện hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, với những tình huống diễn biến mau lẹ, phải
đối mặt với nhưng âm mưu thủ đoạn của địch. Hoạt động chỉ huy, lãnh đạo, quản
lý là đặc trưng nổi bật nhất trong nhân tố con người của ĐNSQ. Thực chất hoạt
động của ĐNSQ là thực hiện sự tác động lên con người và lựa chọn các quyết định
chỉ huy, lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành nhằm tạo ra các điều kiện để con
người và tổ chức hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình trong mọi tình huống.
Hoạt động của ĐNSQ cũng chính là một dạng lao động trí óc đặc biệt đòi hỏi tính
tích cực, tự giác, sáng tạo rất cao. Những đặc trưng hoạt động của ĐNSQ là cơ sở
quyết định việc hình thành, phát triển những phẩm chất, năng lực, định hình nhân
cách người sĩ quan quân đội cách mạng.
- Phương diện thứ hai, chỉ những đặc trưng về phẩm chất và năng lực của
ĐNSQ. Đó là sự kết tinh một hệ thống phẩm chất, năng lực toàn diện, phong phú
với yêu cầu cao của người công dân XHCN, người chiến sĩ quân đội cách mạng,


×