Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Luận án tiến sĩ tranh kỹ thuật số ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.29 MB, 218 trang )

0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Đức Sơn

TRANH KỸ THUẬT SỐ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội - 2015


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Đức Sơn

TRANH KỸ THUẬT SỐ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 62 21 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT



Người hướng dẫn khoa học:
PGS. NGUYỄN XUÂN THÀNH

Hà Nội - 2015


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện
nay là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực. Những ý kiến, nhận định khoa học của các tác giả khác được ghi
chú xuất xứ đầy đủ.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2015

Tác giả luận án

Nguyễn Đức Sơn


2

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................
MỤC LỤC .................................................................................................
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...............................................................

DANH MỤC CÁC BẢNG .......................................................................
MỞ ĐẦU ...................................................................................................

1
2
3
4
5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở
VIỆT NAM ................................................................................................
1.1. Khái lược về tranh kỹ thuật số ............................................................
1.2. Sự hình thành nghệ thuật đa phương tiện và tranh kỹ thuật số ...........
Tiểu kết .......................................................................................................

24
24
37
58

Chương 2: ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT
NAM ..........................................................................................................
2.1. Đặc điểm tranh kỹ thuật số ở Việt Nam ..............................................
2.2. Khuynh hướng sáng tác tranh kỹ thuật số ở Việt Nam .......................
2.3. Đặc trưng tạo hình trong tranh kỹ thuật số ở Việt Nam .....................
Tiểu kết .......................................................................................................

60
60
73

90
97

Chương 3: LUẬN BÀN VỀ PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠI TRANH
KỸ THUẬT SỐ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...........................................
3.1. Một số vấn đề của tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay .................
3.2. Phương thức biểu đạt tranh kỹ thuật số ở Việt Nam ...........................
Tiểu kết .......................................................................................................
KẾT LUẬN ...............................................................................................

99
99
114
128
130

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ...................... 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 135
PHỤ LỤC .................................................................................................. 147


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt

Viết đầy đủ


B.

Bảng

CNTT

Công nghệ thông tin

ĐPT

đa phương tiện

H.

Hình

KTS

kỹ thuật số

Nxb

Nhà xuất bản

PL.

Phụ lục

TP. HCM


thành phố Hồ Chí Minh

tr.

trang

TLTK

Tài liệu tham khảo


4

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1: Tính chất của những dạng phương tiện trong nghệ thuật ĐPT ..... 149
Bảng 2: Bảng so sánh quy trình vẽ tranh KTS với vẽ tranh hội họa giá vẽ
truyền thống ................................................................................................ 150
Bảng 3: Bảng hỏi nghiên cứu khảo sát (phỏng vấn trực tiếp, qua điện
thoại hoặc email) ........................................................................................ 151
Bảng 4: Bảng hỏi nghiên cứu khảo sát (thông qua trang web khảo sát
trên internet) .............................................................................................. 152


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới ngày nay đã và đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới với
một nền văn minh trí tuệ và nền kinh tế tri thức, hội nhập toàn cầu hoá. Các

quốc gia trên thế giới đang có những bước chuyển nhanh và mạnh từ xã hội
công nghiệp sang xã hội thông tin, từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức. Chính bởi sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ
thông tin (CNTT) đã ảnh hưởng một cách sâu rộng đến mọi lĩnh vực trong đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội... của nhân loại.
Hoà cùng với xu thế phát triển chung cuả thế giới, Việt Nam cũng đã và
đang chuyển mình mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước. Mọi lĩnh vực của đời sống: kinh tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn
hóa, nghệ thuật… đều có những bước phát triển đáng kể, cả về chất cũng như
về lượng nhằm thích ứng với điều kiện phát triển mới của đất nước cũng như
xu thế chung của toàn nhân loại khi bước vào thiên niên kỷ mới - kỷ nguyên
kỹ thuật số (KTS).
Trong lĩnh vực nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, ngày càng có nhiều
nghệ sĩ ứng dụng công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sáng tạo
và thực hành nghệ thuật. Điều này đã đem lại nhiều biến đổi về quan niệm
cũng như trong hình thức thể hiện nghệ thuật. Một đội ngũ “hoạ sĩ số” [36,
tr.161] cũng dần hình thành và phát triển ở Việt Nam hiện nay. Họ đã và đang
góp phần xây dựng Việt Nam với một nền nghệ thuật phát triển cao tương
xứng với một “nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [9]. Từ thực tế
đó, một dạng thức nghệ thuật đã xuất hiện, hình thành và phát triển ở Việt
Nam thông qua con đường giao lưu văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam với thế
giới đương đại trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Đó chính là nghệ thuật kỹ
thuật số (KTS).


6

Quá trình vận động nền nghệ thuật trong nước dẫn đến sự hình thành và
phát triển của hình thức tranh KTS. Do đó ngày càng nhiều họa sĩ sử dụng
máy vi tính với tư cách là một công cụ hỗ trợ sáng tác mỹ thuật, đa phương

tiện (ĐPT), đa chức năng, thể hiện một cách hiệu quả những ý tưởng sáng tạo
và quá trình “sản xuất sản phẩm thẩm mỹ” [30]. Việc khai thác triệt để khả
năng ứng dụng máy vi tính trong lĩnh vực mỹ thuật giúp họa sĩ có thể tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật một cách nhanh chóng.
Mặc dù vậy ở Việt Nam hiện nay, khi đề cập đến tranh KTS, rất nhiều
người thậm chí là cả giới nghệ sĩ cũng đều nhìn nhận nó dưới góc độ kỹ thuật.
Lý do chính là sự thiếu cập nhật thông tin đã gây ra những hiểu biết sai lệch
về lĩnh vực này và tạo ra tâm lý “sùng mộ” một cách quá đáng hoặc dè dặt, e
sợ, thậm chí “dị ứng” đối với tranh KTS… Về phương diện lý luận nghệ
thuật, ở Việt Nam hiện nay cũng đã có những tài liệu, bài viết và giáo trình có
nội dung về đồ họa vi tính nhưng lại ít đề cập đến tranh KTS. Rất cần những
công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành về
các vấn đề của tranh KTS. Để từ đó có một cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc
hơn về hình thức của dạng nghệ thuật này. Việc nghiên cứu và xem xét tranh
KTS theo quan điểm: nghệ thuật học, mỹ thuật học, ký hiệu học nghệ thuật,
cấu trúc văn bản nghệ thuật… nhằm đúc kết thành một công trình mang tính
khoa học là rất cần thiết và cấp bách. Thực tế ở Việt Nam vẫn còn thiếu
những nghiên cứu về lĩnh vực tạo hình trong các tác phẩm được thể hiện bằng
cách ứng dụng các phương tiện KTS. Hơn nữa, tranh KTS phát triển ở Việt
Nam hiện nay vẫn mang tính chất manh mún và bộc phát. Cần phải có những
chiến lược phát triển dài lâu nhằm thúc đẩy cũng như tạo điều kiện cho sự
phát triển của nghệ thuật KTS trong xã hội một cách chuyên nghiệp và có
định hướng. Đối với những họa sĩ vẽ tranh KTS cũng chưa thực sự tìm được
những hướng đi vững chắc cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Đa số họ chỉ


7

dừng lại ở mức độ tìm kiếm và thể nghiệm các kỹ thuật vẽ KTS...
Xuất phát từ tình hình thực tiễn nêu trên, tác giả luận án mạnh dạn chọn

đề tài Tranh kỹ thuật số ở Việt Nam hiện nay. Thông qua đó, đề tài nghiên
cứu muốn đề cập đến thực trạng, xu hướng phát triển và sự biến đổi của mỹ
thuật Việt Nam trong kỷ nguyên KTS. Đồng thời cũng phân tích, tổng hợp và
lý giải những vấn đề liên quan đến tranh KTS cũng như ngôn ngữ tạo hình
trong tranh KTS ở Việt Nam hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề có liên quan đến đề tài
Trên thế giới, việc nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT đã và đang
phát triển mạnh, trải rộng trên mọi khía cạnh của lĩnh vực này như: nghệ thuật
KTS, nghệ thuật đồ họa, hoạt hình, nghệ thuật thực tế ảo, nghệ thuật nhiếp
ảnh, điện ảnh, nghệ thuật truyền thông tương tác...
Công trình nghiên cứu The digital computer as a creative medium (Máy
vi tính KTS với tư cách là một phương tiện sáng tạo) [40] của tác giả A.
Micheal Noll đề cập đến việc sử dụng máy vi tính trong thực hành nghệ thuật
như là một phương tiện sáng tạo nghệ thuật. Ông cố gắng tìm hiểu những khả
năng của máy tính được ứng dụng trong nghệ thuật như là một “môi trường
nghệ thuật”, đồng thời cũng đưa ra một số dự đoán về sự phát triển của nghệ
thuật trong tương lai.
Tác giả Frank Dietrick trong nghiên cứu Visual Intelligence: The first
Decade of Computer Art (1965 - 1975) (Thị giác thông minh: Thập niên đầu
tiên của nghệ thuật máy tính (1965 – 1975)) [62] bàn nhiều về sự phát triển
của nghệ thuật đồ họa vi tính trong những năm thập niên 60 của thế kỷ XX.
Thông qua đó, tác giả cũng phần nào giới thiệu được những hoạt động nghệ
thuật KTS của một số nghệ sĩ được cho là những người tiên phong trong thời
kỳ đầu của nghệ thuật vẽ tranh KTS trên thế giới.
Nổi bật trong hướng nghiên cứu lý luận nghệ thuật ĐPT là Media


8

Aesthetics - Aesthetics Theory (Lý thuyết thẩm mỹ - Thẩm mỹ của phương

tiện) [69] của tác giả Herber T. Zettl tại Đại học bang San Francisco nghiên
cứu về những ứng dụng thẩm mỹ trên các phương tiện truyền thông. Nghiên
cứu đưa ra những lý thuyết quan trọng (lý thuyết công cụ) nhằm phân tích
tính thẩm mỹ của các tác phẩm nghệ thuật ĐPT một cách phù hợp và đáng tin
cậy. Qua đó, tác giả đã cho thấy các xu hướng về phong cách cũng như các kỹ
thuật cụ thể trong quá trình sáng tạo tác phẩm thẩm mỹ. Đây chính là một
công trình nghiên cứu về một lĩnh vực rộng lớn có liên quan đến những giới
hạn thẩm mỹ của các hiệu ứng tăng cường cho máy vi tính trong sáng tác và
thể hiện tác phẩm.
Herbert W. Franke Leonardo trong nghiên cứu The New Visual Age:
The Influence of Computer Graphics on Art and Society (Kỷ nguyên thị giác
mới: Sự ảnh hưởng của đồ họa vi tính đến nghệ thuật và xã hội) [70] đề cập
đến những ảnh hưởng của đồ họa vi tính trong nghệ thuật và xã hội vào thời
điểm những năm thập niên 80 của thế kỷ XX. Đồng thời tác giả cũng đưa ra
những lập luận về sự phát triển trong lĩnh vực CNTT đã và đang làm cho
nghệ thuật KTS thâm nhập ngày càng sâu rộng hơn vào giới nghệ sĩ chuyên
nghiệp cũng như nghiệp dư trong xã hội.
Công trình nghiên cứu Visual Literacy Theory (Lý thuyết văn hóa thị
giác) [91] của Paul Messaris về hình ảnh thị giác trong nhiều lĩnh vực từ
truyền thông có liên quan đến tâm lý học, giáo dục, thẩm mỹ và thậm chí cả
trong nghiên cứu văn hóa. Qua đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của việc
trình bày, thể hiện, bố cục tác phẩm thông qua hình ảnh đối với các học giả
nghiên cứu về hình ảnh thị giác. Thông qua việc hướng dẫn người xem cách
quan sát và thưởng ngoạn tác phẩm nghệ thuật; lý thuyết về hình ảnh thị giác
có thể là một cơ sở giúp người xem hiểu rõ hơn về sức mạnh của hình ảnh,
đặc biệt là khi chúng được sử dụng trong các phương tiện truyền thông đại


9


chúng và quảng cáo. Tài liệu này cũng đề cập đến việc sử dụng hình ảnh thị
giác để làm giàu nhận thức của người xem...
Trong lĩnh vực bản quyền tác phẩm. Bài viết Copyright Law in the
Digital Age (Luật bản quyền trong kỷ nguyên KTS) [74] của Jordan M.
Blanke bàn về thực trạng pháp luật nói chung về quyền tác giả đối với các
công trình, tác phẩm nghệ thuật KTS hoặc tác phẩm được số hóa trên các
phương tiện truyền thông khác nhau…
Nghiên cứu của William Vaughan: History of Art in the Digital Age:
Problems and Possibilities (Lịch sử nghệ thuật trong kỷ nguyên KTS: những
vấn đề và khả năng) [98] nhằm mục đích cung cấp một tổng quan về sự tác
động của máy vi tính trong việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật. Tài liệu này
cũng ảnh hưởng đến việc nghiên cứu hình ảnh, xem xét cả những tiềm năng
của hình ảnh KTS làm nảy sinh những hình thức nghiên cứu và phân tích mới
trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, cũng như những cơ hội mới nổi
lên thông qua hệ thống mạng toàn cầu internet.
Công trình nghiên cứu của Boden, M. Aesthetics and Interactive Art
(Thẩm mỹ và nghệ thuật tương tác) [48] đưa ra và khẳng định tính mới trong
nghệ thuật tương tác cũng như tầm quan trọng của nó đối với lịch sử nghệ
thuật, bảo trợ và thực hành nghệ thuật. Qua đó là cơ sở để tiếp tục phát triển
một số lý thuyết mở rộng trong nhiều lĩnh vực của nghệ thuật: từ hình thức
nghệ thuật hội họa đến nghệ thuật tương tác.
Bài báo khoa học của Daniel Palmer: Embodying Judgement: New
Media and Art Criticism (Đánh giá tổng quan: Phương tiện truyền thông mới
và phê bình nghệ thuật) [53] là một phần của một dự án lớn nhằm khám phá
ra những tác động của các nghệ sĩ sử dụng công nghệ truyền thông (bao gồm
cả video, nhiếp ảnh và các phương tiện truyền thông KTS) trong tiếp nhận
nghệ thuật.


10


Bài viết nghiên cứu của Frieder Nake: Behind the Canvas: an
Algorithmic Space Reflections on Digital Art (Phía sau khung tranh: Sự phản
ánh không gian thuật toán trong nghệ thuật KTS) [63] bàn nhiều về không
gian trong hình ảnh và không gian nghệ thuật. Tác giả đã chỉ ra và phân tích
một số điểm tương đồng giữa nghệ thuật “readymade” của Duchamp và nghệ
thuật KTS.
Bằng cách nêu vấn đề, bài viết nghiên cứu của George Mallen On the
relationship of computing to the arts and culture – an evolutionary
perspective (Mối quan hệ giữa máy tính với nghệ thuật và văn hóa – một
hướng tiến hóa) [66] đã đề cập nhiều đến vấn đề nghệ thuật trong kỷ nguyên
KTS. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã làm rõ được mối quan hệ của máy tính với
nghệ thuật và văn hóa trong thế giới hiện đại của nhân loại cũng như với thế
giới bên ngoài. Tác giả lý giải và khẳng định việc tiếp cận, cập nhật những
kiến thức và công nghệ phát triển nhanh chóng sẽ đem lại những thành tựu
đáng kể cho nghệ thuật vi tính.
Tháng 6 năm 1967, Sol LeWitt giới thiệu Paragraphs on Conceptual
Art (Những đoạn văn về nghệ thuật ý niệm) trong Artforum. Bài viết này đã
trở thành một văn bản lý thuyết có ảnh hưởng đến nghệ thuật của thế kỷ XX.
Nó được coi như là một bản “tuyên ngôn” tồn tại gần một thập kỷ. Trong bối
cảnh kỷ nguyên KTS, kể từ khi nghệ thuật máy tính mở đường cho sự xuất
hiện và phát triển của nghệ thuật Ý niệm, Frieder Nake cũng muốn mượn
phong cách đặt tiêu đề cũ của bản “tuyên ngôn” đầu tiên cho bài viết
Paragraphs on Computer art, past and present (Những đoạn văn về nghệ
thuật máy tính, quá khứ và hiện tại) [64] của ông. Kể từ khi triển lãm đầu tiên
về nghệ thuật máy tính KTS năm 1965, bài viết là một tuyên ngôn của Nghệ
thuật KTS. Bài viết của Frieder Nake cũng có thể được coi như là một bản
tuyên ngôn thứ hai về nghệ thuật máy tính.



11

Bài viết Creating continuity between computer art history and
contemporary art (Sự sáng tạo liên tục giữa lịch sử nghệ thuật máy tính và
nghệ thuật đương đại) [49] của Bruce Wands tìm hiểu phương thức tạo ra sự
liên tục giữa lịch sử nghệ thuật máy tính với các nghệ sĩ thế hệ mới, những
người lao động nghệ thuật trên máy tính một cách tự nhiên nhằm tạo nên nền
nghệ thuật KTS phát triển như hiện nay.
Trong tài liệu nghiên cứu The Computer as a dynamic medium (Máy vi
tính như là một phương tiện động) [88] của Nick Lambert đề cập đến không
gian đại diện trong các màn hình máy tính. Tác giả chỉ ra rằng hình ảnh máy
tính là kết quả của một quá trình hiển thị động. Hiển thị hình ảnh trong nghệ
thuật máy tính rất linh hoạt trong không gian ảo của máy tính.
Báo cáo khoa học Transitioning to a Digital World - Art History, Its
Research Centers, and Digital Scholarship (Chuyển đổi sang một thế giới
KTS - Lịch sử Nghệ thuật, Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Nghệ thuật, và học
thuật KTS) [58] kết hợp các cuộc phỏng vấn với nghiên cứu các trang web
của trung tâm nghiên cứu đã đưa ra một số chủ đề: vai trò của các trung tâm
nghiên cứu lịch sử nghệ thuật trong việc nghiên cứu lịch sử nghệ thuật KTS;
những thách thức trong giảng dạy lịch sử nghệ thuật, nghiên cứu và học thuật
trong lĩnh vực KTS; truy cập các công cụ KTS, dịch vụ và các nguồn lực cần
thiết cho những nghiên cứu; phương pháp sư phạm KTS trong lịch sử nghệ
thuật; vai trò và giới hạn của xuất bản KTS và những đổi mới trong lĩnh vực
này; vai trò của các tổ chức tài trợ nghệ thuật trong việc hỗ trợ hoạt động
nghiên cứu lịch sử nghệ thuật KTS.
Công trình nghiên cứu của Anna Bentkowska-Kafel, Trish Cashen và
Hazel Gardiner: Digital Art History, A Subject in Transition, Computers and
the History of Art (Lịch sử Nghệ thuật KTS, một chủ đề trong quá trình
chuyển đổi, Máy tính và Lịch sử Nghệ thuật) [42] khẳng định rằng nghệ thuật



12

KTS không phải là một hoạt động độc lập rời rạc được tách ra từ các loại hình
nghệ thuật khác. Mà nó chính là một phương pháp tiếp cận và có thể liên quan
đến tất cả các phương thức liên kết với các dạng thực hành nghệ thuật khác.
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay, trong nước cũng đã có
những bài viết về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT, tuy nhiên nhìn chung còn khá phổ
quát và chưa chuyên sâu trong lĩnh vực mỹ thuật:
Đầu tiên phải kể đến tài liệu của tác giả Đỗ Trung Tuấn Giới thiệu về
Đa phương tiện (Introdution to Multimedia) [34] có bàn về ĐPT
(Multimedia). Tài liệu chủ yếu giới thiệu khái quát về Multimedia, mô tả các
dạng của Multimedia, trong đó đề cập đến các tình huống dùng Multimeida,
những vấn đề liên quan đến bản quyền trong công nghiệp Multimedia. Tuy
nhiên, cuốn sách chỉ dừng lại ở những vấn đề cơ bản chung nhất của lĩnh vực
Multimedia, chưa đề cập về nghệ thuật KTS cũng như những vấn đề liên quan
đến việc ứng dụng ĐPT trong mỹ thuật.
Tài liệu dịch của nhóm tác giả Cao Thụy và Cao Bình về Multimedia và
thế giới ảo [2] giới thiệu khái quát về nghệ thuật truyền thông ĐPT và những
kiến thức cơ bản về thế giới ảo trong công nghệ Games và những ứng dụng
của Multimedia trong giáo dục. Tài liệu là cuốn cẩm nang cho người đọc
tham khảo và bổ sung kiến thức chung về thực tế ảo trong lĩnh vực nghệ thuật
truyền thông ĐPT.
Nhóm tác giả Mai Thanh Long và Nguyễn Thanh Tùng cũng có sách
Ngành mỹ thuật ĐPT [19]. Tài liệu này đề cập và mô tả ngành mỹ thuật ĐPT
ở Việt Nam với mức độ nêu vấn đề, liệt kê và giải thích những kiến thức phổ
thông trong lĩnh vực mỹ thuật ĐPT nhằm hướng nghiệp cho đối tượng là học
sinh phổ thông.
Ở luận văn Thạc sĩ [30] của tác giả luận án (bảo vệ năm 2009), chủ yếu
tập trung vào nghiên cứu những đặc trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam



13

trong kỷ nguyên KTS. Tác giả tập trung làm rõ sự hình thành và phát triển
của mỹ thuật ĐPT, những đặc trưng cơ bản của mỹ thuật ĐPT trên thế giới và
ở Việt Nam... Ngoài ra, tác giả luận án cũng đóng góp và thực hiện một số bài
viết nghiên cứu về nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam: bài tham luận Thiết kế đồ họa
– Giảng dạy thiết kế đồ họa trong kỷ nguyên KTS [36] đề cập đến thiết kế đồ
họa của Việt Nam khi bước vào thế kỷ XXI. Qua đó dự báo trước được xu
hướng vận động cũng như sự phát triển của đồ họa Việt Nam trong kỷ nguyên
KTS. Bài viết cũng đề xuất những kiến nghị cũng như những giải pháp nhằm
định hướng cho các trường đào tạo thiết kế đồ họa điều chỉnh cách giảng dạy
và học tập thiết kế đồ họa phù hợp với tình hình mới của Việt Nam khi bước
vào thế kỷ XXI. Các bài tham luận Giảng dạy mỹ thuật truyền thông ĐPT ở
Việt Nam trong Kỷ nguyên KTS [5], Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả đào tạo thiết kế mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam hiện nay [38], Một số vấn đề
về ứng dụng Công nghệ KTS trong Công nghệ dạy và học thiết kế ở Việt Nam
hiện nay [6] nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề giảng dạy mỹ thuật ĐPT ở Việt
Nam trong kỷ nguyên KTS. Thực trạng và giải pháp để phát triển đội ngũ họa
sĩ mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam. Ứng dụng Công nghệ khoa học kỹ thuật, đặc
biệt là CNTT trong giảng dạy và học tập mỹ thuật ĐPT... Bài viết Đặc trưng
mỹ thuật ĐPT đề cập đến những đặc trưng của mỹ thuật ĐPT ở Việt Nam,
những ưu điểm và hạn chế của những đặc trưng này trong xã hội nói chung
cũng như trong nghệ thuật tạo hình nói riêng. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ
thuật ĐPT đến nghệ thuật thị giác đề cập đến phần còn thiếu trong hoạt động
lý luận phê bình nghệ thuật Việt Nam khi chưa có nhận định, đánh giá cũng
như sự định hướng cần thiết cho sự phát triển của nghệ thuật thị giác ở Việt
Nam trong kỷ nguyên KTS. Bài viết khẳng định vai trò, đồng thời phân tích
làm rõ sự ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT trong dòng chảy chung của Mỹ thuật

Việt Nam đương đại. Kỷ nguyên KTS đã tạo ra cho nền Nghệ thuật Việt Nam


14

những thời cơ thuận lợi để phát triển nghệ thuật ĐPT được các nghệ sĩ lĩnh
hội và phát triển nó trở thành một trong những lĩnh vực sôi động nhất trong
nền kinh tế, văn hóa, nghệ thuật hiện nay. Tuy nhiên sự phát triển nghệ thuật
ĐPT ở Việt Nam hiện nay vẫn còn manh mún, bộc phát, chưa có những chiến
lược phát triển dài lâu. Bài viết Ảnh hưởng của mỹ thuật ĐPT đến sự phát
triển của nghệ thuật thị giác Việt Nam trong kỷ nguyên KTS cũng đề cập đến
những giải pháp quản lý vĩ mô với những chiến lược đào tạo dài hạn, bồi
dưỡng và phát triển đội ngũ “họa sĩ số”. Bên cạnh đó cần phải có hành lang
pháp lý bảo vệ, duy trì và phát triển nghệ thuật ĐPT nói riêng và nghệ thuật
thị giác nói chung ở Việt Nam trong kỷ nguyên KTS...
Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nghệ thuật ĐPT
trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng trên thực tế rất cần có những công
trình nghiên cứu mang tính hệ thống, chuyên sâu, tiếp cận liên ngành để luận
giải và đúc kết những vấn đề về lý luận khoa học và thực tiễn của nghệ thuật
KTS cụ thể là tranh KTS ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát: đề tài nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ tạo hình
tranh KTS trong lĩnh vực nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam. Qua đó, đề xuất những
giải pháp trong hoạt động, nghiên cứu và thực hành nghệ thuật KTS, góp
phần phát triển nền Mỹ thuật nói chung và nghệ thuật KTS nói riêng ở Việt
Nam trong kỷ nguyên KTS.
Mục tiêu cụ thể: luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm
nêu lên được những đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trong tranh KTS ở Việt
Nam; làm rõ cấu trúc nền tảng mỹ thuật, cơ sở tạo hình, cũng như bố cục và
thủ pháp tạo hình tranh KTS ở Việt Nam; làm rõ bản chất cũng như vai trò

của họa sĩ trong quá trình sáng tác và thể hiện tranh KTS trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam.


15

Bên cạnh đó, luận án cũng luận bàn về phương thức tạo hình tranh KTS
ở Việt Nam trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm
mỹ của xã hội và góp phần xây dựng nền mỹ thuật Việt Nam phát triển.
Ngoài ra, trên cơ sở phân tích điều kiện văn hóa, xã hội, nghệ thuật
Việt Nam, luận án dự đoán sự phát triển của tranh KTS ở Việt Nam trên cơ sở
khoa học và khách quan. Tạo cơ sở tiền đề cho những nghiên cứu chuyên sâu
hơn của các nhà nghiên cứu phê bình, lý luận nghệ thuật về lĩnh vực nghệ
thuật ĐPT nói chung và tranh KTS nói riêng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tranh KTS ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: tranh KTS ở Việt Nam (nghiên cứu trường hợp
ứng dụng phương tiện KTS trong quá trình vẽ tranh).
Giới hạn về thời gian: nghiên cứu từ năm 2000 đến nay (đầu thế kỷ
XXI đến nay).
Giới hạn về không gian: tập trung nghiên cứu ở hai trung tâm lớn về
kinh tế, văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam là Hà Nội và TP. HCM.
Tài liệu nghiên cứu: tranh hội họa giá vẽ và tranh KTS ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc chuyên ngành Lý luận và Lịch sử mỹ thuật. Luận án
nghiên cứu dựa trên cơ sở mỹ thuật học, thông qua nghiên cứu đa ngành, liên
ngành như: văn hóa, lịch sử, khoa học, nghệ thuật, mỹ thuật… Quá trình
nghiên cứu thông qua các phương pháp chủ yếu sau:
Nghiên cứu văn bản, tài liệu: tham khảo, phân tích những công trình
nghiên cứu, bài viết, bài tham luận, bài báo khoa học… trong và ngoài nước

về tranh KTS từ đó đưa ra được tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề có liên
quan đến đề tài cũng như cơ sở lý luận chung của luận án. Bên cạnh đó, luận
án nghiên cứu những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật


16

của Nhà nước về vấn đề văn hóa nghệ thuật trong bối cảnh hiện nay làm cơ sở
đánh giá và đề xuất giải pháp. Các tác giả, tác phẩm hội họa giá vẽ và tranh
KTS ở Việt Nam cũng như trên thế giới được sử dụng để nghiên cứu, làm dẫn
chứng và phân tích.
Nghiên cứu thực tế và điền dã: Khảo sát các cơ sở đào tạo Mỹ thuật và
nghệ thuật ĐPT có tầm ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật thị giác ở Việt Nam;
xưởng vẽ; bảo tàng; phòng triển lãm; công ty, tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực mỹ thuật và nghệ thuật ĐPT ở Việt Nam…
Phân tích và tổng hợp: phân tích tranh KTS thành những những yếu tố
cấu thành đơn giản hơn để nghiên cứu nhằm phát hiện ra từng thuộc tính và
bản chất của chúng. Từ đó giúp hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách
mạch lạc hơn, hiểu được cái tổng thể phức tạp thông qua những yếu tố bộ
phận. Bên cạnh đó, từ những kết quả phân tích được, sẽ tổng hợp lại để có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra những đặc trưng tạo hình tranh
KTS ở Việt Nam.
Quy nạp và diễn giải: Những lý thuyết, kinh nghiệm, hiểu biết về ngôn
ngữ tạo hình sẽ được khái quát và quy nạp thành những nguyên lý chung.
Phát hiện ra các quy luật, rút ra từ những kết luận tổng quát nhằm đưa ra các
giả thuyết. Ngoài ra, luận án dùng phương pháp diễn giải đi từ cái bản chất,
nguyên lý đã được thừa nhận trong những tài liệu của các tác giả khác trong
lĩnh vực nghiên cứu nhằm tìm ra các hiện tượng, biểu hiện, những cái trùng
hợp cụ thể trong thực tiễn vận động của nghệ thuật KTS ở Việt Nam.
Phương pháp lịch sử: sự xuất hiện của tranh KTS ở Việt Nam được

biểu hiện trong toàn bộ tính cụ thể của nó và theo một trật tự thời gian nhất
định. Nếu đi theo dấu vết của lịch sử nghệ thuật KTS sẽ có cái nhìn trung thực
về tranh KTS ở Việt Nam. Từ đó sẽ phát hiện ra quy luật phát triển và những
đặc điểm tạo hình trong tranh KTS ở Việt Nam.


17

Nghiên cứu khảo sát: Khảo sát thông qua phỏng vấn (Trực tiếp các tác
giả hoặc thông qua điện thoại, hoặc email). Khảo sát trên internet (thông qua
các website và diễn đàn nghệ thuật, sử dụng những đường dẫn liên kết người
tham gia khảo sát đến trang web chứa các bảng câu hỏi khảo sát).
Thể nghiệm: Việc vẽ tranh KTS nhằm nghiên cứu những thao tác của
họa sĩ trong điều kiện sáng tác thực tế có thể giúp bổ sung thêm nhận thức về
những phương thức vẽ tranh KTS một cách hoàn thiện hơn. Tác giả luận án
cố gắng tham gia sáng tác tranh KTS (ứng dụng phương tiện KTS trong quá
trình vẽ tranh) nhằm bổ sung thêm những nội dung mang tính thực tiễn cho đề
tài nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Ngày nay, khi họa sĩ sử dụng máy tính như là một phương tiện, công cụ
để hỗ trợ sáng tác nghệ thuật, đã làm nảy sinh vấn đề rằng liệu tranh KTS có
phải là nghệ thuật hay không? Giả thiết rằng nếu tranh KTS cũng được coi là
một dạng nghệ thuật, vậy thì đặc trưng của nó là gì? Hơn thế nữa, CNTT hiện
nay đang phát triển rất nhanh trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nó đã ảnh
hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có nghệ thuật. Giả thiết
rằng ở Việt Nam hiện nay có nhiều người vẽ tranh KTS, vậy tranh KTS ở
Việt Nam có những khuynh hướng sáng tác và đặc trưng nào? Những phương
thức vẽ nào có thể làm cho tranh KTS trở nên sống động hơn, hấp dẫn hơn, và
có giá trị nghệ thuật cao? Cần có những định hướng và giải pháp nào nhằm
phát triển tranh KTS ở Việt Nam?

Thông qua nghiên cứu, đề tài luận án sẽ làm sáng tỏ những giả thuyết
và câu hỏi nghiên cứu nêu trên.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Đề tài nghiên cứu đưa ra cách nhìn nhận có hệ thống về đặc trưng tạo
hình và phương thức vẽ tranh KTS ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, đề tài


18

nghiên cứu cũng đề xuất những giải pháp tích cực từ việc phân tích, tổng hợp
trong thực tiễn nghệ thuật ở Việt Nam, góp phần dự báo và định hướng cho sự
phát triển của tranh KTS ở Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai.
Đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo về lý thuyết và thực tiễn cho các
đối tượng là nhà phê bình, lý luận nghệ thuật, nhà quản lý văn hóa nghệ thuật,
họa sĩ, nhà thiết kế đang hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật KTS;
làm tư liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu phê bình, lý luận và lịch
sử mỹ thuật, nghiên cứu và giảng dạy môn cơ sở ngành nghệ thuật ĐPT trong
các cơ sở đào tạo mỹ thuật ở Việt Nam.
8. Một số khái niệm công cụ
Thuật ngữ Hội họa: Theo từ điển Encyclopædia Britannica, hội họa là
sự biểu hiện ý tưởng và cảm xúc nhằm tạo ra giá trị thẩm mỹ nhất định thông
qua ngôn ngữ thị giác trên mặt phẳng hai chiều. Các yếu tố của ngôn ngữ thị
giác gồm: đường nét, hình dạng, màu sắc, kết cấu… Chúng được sử dụng
bằng nhiều cách khác nhau nhằm tạo nên cảm giác về không gian, chuyển
động và ánh sáng trên một bề mặt phẳng. Những yếu tố này được sắp xếp bố
cục trên bề mặt tranh nhằm thể hiện các hiện tượng thực tế hoặc thiên nhiên,
biểu đạt một câu chuyện hoặc có thể tạo ra một bố cục thị giác hoàn toàn trừu
tượng. Họa sĩ sử dụng những phương tiện biểu đạt như màu bột, màu dầu,
màu nước… và lựa chọn một hình thức thể hiện như: tranh tường, tranh giá
vẽ, trang sách, màn ảnh hoặc bất kỳ của một hình thức hiện đại nào để vẽ.

Mỗi nghệ sĩ sẽ có những chọn lựa riêng về phương tiện biểu đạt, hình thức
cũng như kỹ thuật thể hiện nhằm tạo ra những hình ảnh thị giác độc đáo.
Thuật ngữ Hội họa giá vẽ: Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, hội họa
giá vẽ là loại tranh thường được tiến hành vẽ trên giá, do đấy thành tên gọi.
Đó là loại hình hội hoạ thịnh hành từ thế kỷ XV ở Châu Âu sau khi thoát li
quan hệ phụ thuộc với kiến trúc, bắt đầu bằng sự thể nghiệm những bố cục


19

hoàn chỉnh trên bề mặt chữ nhật, hình vuông... và lấy các thành của khung
làm ranh giới không gian trong tranh với thế giới bên ngoài. Tranh giá vẽ
thường là cỡ nhỏ hoặc trung bình, có thể vận chuyển, treo gỡ hay xê dịch tuỳ
theo yêu cầu, tạo thuận tiện cho công việc trưng bày [15].
Thuật ngữ Nghệ thuật đa phương tiện (multimedia art): Theo từ điển
Webster: nghĩa từ điển của “Multimedia” = “Multi” + “media”. Trong đó
Multi-: (tiền tố) mang nghĩa “nhiều”, “đa”. (Nghĩa Latin: Số đông, quần
chúng). Media (danh từ số nhiều): Phương tiện, dụng cụ; hệ thống truyền
thông; (The media) Báo chí. Media trong một số trường hợp có thể có nghĩa
là “Máy điện toán đa phương tiện tiếp nhận và tái tạo văn bản, hình ảnh, âm
thanh… như máy quay video, máy thu âm, sách điện tử…” [1, tr.8].
Cách dùng từ “Media”: Khi nói đến báo chí, media thường được coi là
danh từ số ít, vì nó không phải là số nhiều của “medium”: thuật ngữ này bắt
nguồn từ khái niệm “mass media”, có nghĩa là ngành kinh doanh liên lạc dùng
nhiều phương tiện như: tờ báo, truyền hình, phim, và tạp chí. Ý nghĩa
“medium” này có số nhiều là “media”. Trong các trường hợp khác, “media”
là số nhiều của “medium”, hoặc nói đến chất pha màu trong nghệ thuật,
phương tiện dữ liệu (CD, DVD,...), dụng cụ chơi nhạc…
Như vậy, “Multimedia” có nghĩa là: “đa phương tiện”. Tuy nhiên đó
mới chỉ là nghĩa từ điển (sự kết hợp máy móc của những từ đơn nghĩa). Trong

thực tế khi nói đến Multimedia, tùy theo từng lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng
hoặc tùy theo ngữ cảnh mà Multimedia có nghĩa khác nhau. “Multimedia” là
thuật ngữ để chỉ một ngành khoa học được ứng dụng rộng rãi trong rất nhiều
lĩnh vực, trong đó có nghệ thuật nói chung và nghệ thuật tạo hình nói riêng.
Việc ứng dụng multimedia trong lĩnh vực mỹ thuật đã làm nảy sinh ra khái
niệm “Multimedia art” Nghệ thuật truyền thông đa phương tiện, thường có
thể gọi là Nghệ thuật đa phương tiện. Nó gồm nhiều loại phương tiện (chất


20

liệu) để biểu đạt tác phẩm nghệ thuật. Tùy trường hợp cụ thể mà nghệ sĩ chọn
lựa phương tiện biểu đạt phù hợp với tác phẩm [PL.1, B.1, tr.149].
Thuật ngữ Đồ họa: Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, đồ họa là bộ
môn nghệ thuật tạo hình dùng ngôn ngữ chủ yếu là nét vẽ, nét khắc hoặc
những mảng hình tách bạch, dứt khoát, có hoặc không kết hợp với màu sắc.
Khi cần bổ sung sắc độ trung gian, họa sĩ dùng nhiều cách tạo những chấm
nhỏ, gạch nét li ti ken nhau mau hay thưa, gây hiệu quả những mảng hình
đậm hơn nền giấy nhưng sáng hơn màu mực. Khái niệm đồ họa hình thành
trong mỹ thuật phương Tây, vốn có truyền thống tư duy rạch ròi, duy lí, để
phân biệt với hội hoạ; phương Đông không có sự phân biệt này. Phát triển tại
Châu Âu từ thời trung đại (thế kỷ X - XIII) trên cơ sở hình vẽ khúc chiết, rành
mạch, đồ họa mở đường cho thể loại tranh có sắc thái riêng, khác hẳn với tác
phẩm hội hoạ. Tranh đồ họa thường thực hiện bằng những chất liệu đa dạng
(mực, chì, màu nước...), trong đó đặc biệt phong phú là các dạng tranh in tay,
nhất là tranh khắc (gỗ, đá, đồng, kẽm, cao su, thạch cao). Tranh khắc có nét
đặc thù là được tác giả tự in hoặc tạo ra bản in thủ công, nhân ra với số lượng
hạn chế. Tranh khắc gỗ màu của Nhật Bản và tranh khắc gỗ dân gian của Việt
Nam được coi như những đóng góp xuất sắc vào nghệ thuật đồ họa. Giá trị
nghệ thuật cao của đồ họa đã được khẳng định qua nhiều tác phẩm mới mẻ,

táo bạo của các nghệ sĩ Châu Âu thế kỷ XIX. Đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX,
nghệ thuật đồ họa ảnh hưởng mạnh mẽ trở lại tới hội họa. Các họa sĩ hiện đại
thường dung hợp rất tinh tế, đầy gợi cảm tính đồ họa với tính hội hoạ trong
một tác phẩm. Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, phạm vi sáng tạo của đồ
họa đã được mở rộng sang các loại hình trang trí ứng dụng: áp phích, ấn
phẩm, trang trí hàng dệt, thương nghiệp... và còn phát huy vai trò trong các
loại hình nghệ thuật thị giác khác nhau như sân khấu, nhiếp ảnh, điện ảnh,
video... [15]


21

Thuật ngữ Ngôn ngữ tạo hình hội họa: là hệ thống các yếu tố thị giác
của nghệ thuật thị giác: điểm chấm, đường nét, hình mảng, khối, không gian,
ánh sáng, màu sắc, họa tiết, chất liệu… và những quy tắc, nguyên lý kết hợp,
sắp xếp, bố cục các yếu tố thị giác này tạo nên một tác phẩm hội họa (văn bản
thẩm mỹ). Nó tạo nên một hệ thống ký hiệu dùng làm phương tiện biểu đạt,
thể hiện nội dung tư tưởng, chủ đề của các tác phẩm hội họa. Nghệ thuật hội
họa biểu thị và truyền đạt những cảm xúc thẩm mĩ của họa sĩ “chuyển tải” đến
người xem thông qua ngôn ngữ tạo hình hội họa.
Trong hội họa, quá trình sáng tạo của họa sĩ chính là quá trình “soạn
thảo văn bản thẩm mỹ” từ những tín hiệu thị giác cơ bản. Họa sĩ tiến hành bố
cục, sắp xếp, chia cắt, chiếm lĩnh không gian của bức tranh bằng những yếu tố
thị giác nhằm “mã hóa” những thông tin và ý tưởng của mình cần truyền tải
đến người xem. Tuy nhiên, đối với người xem thì quá trình xem và cảm nhận
tác phẩm chính là quá trình “giải mã” thông tin. Thông qua đó họ có thể
“hiểu” những thông điệp của họa sĩ dựa trên ngôn ngữ của các yếu tố thị giác
được sắp xếp bố cục theo ý đồ của họa sĩ.
Thuật ngữ Nghệ thuật kỹ thuật số (Digital art): Là một thuật ngữ
chung để chỉ các tác phẩm nghệ thuật có sử dụng công nghệ KTS trong sáng

tạo hoặc trình bày. Hay nói cách khác công nghệ KTS được ứng dụng trong
nghệ thuật hình thành nghệ thuật KTS với các phương thức xử lý ảnh KTS tạo
ra vô số các ảnh ghép, kỹ xảo truyền hình mà tín hiệu tương tự (analog)
không thể làm được [75]. Công nghệ KTS đã đem lại sự tiện lợi và dễ dàng
cho nghệ sĩ trong việc phác họa, sáng tạo hình dáng, màu sắc, bố cục ý tưởng.
Từ những năm 1970, có nhiều tên gọi khác nhau đã được sử dụng để nói đến
nghệ thuật máy tính và nghệ thuật ĐPT. Hiện nay nghệ thuật KTS có nghĩa
rộng hơn để nói đến nghệ thuật truyền thông ĐPT mới. Tác động của công
nghệ KTS đã làm biến đổi hội họa, đồ họa và điêu khắc. Hiện nay, có những


22

hình thức nghệ thuật KTS mới, chẳng hạn như nghệ thuật internet, nghệ thuật
sắp đặt KTS, thực tế ảo… trở thành những dạng nghệ thuật đã được công
nhận. Trong một ý nghĩa mở rộng, “nghệ thuật KTS” là một thuật ngữ áp
dụng cho nghệ thuật đương đại có sử dụng các phương pháp sản xuất đại
chúng hoặc các phương tiện truyền thông KTS. Ngày nay, nghệ thuật KTS đã
trở nên gần gũi và thân thiết rất nhiều với các nghệ sĩ nhiếp ảnh, họa sĩ, nhà
điêu khắc. Những tác phẩm nghệ thuật truyền thông, quảng cáo, những tác
phẩm nghệ thuật ấn tượng mà ta thường thấy đều có sự can thiệp rất lớn của
công nghệ KTS [78].
Thuật ngữ Họa sĩ kỹ thuật số: Họa sĩ KTS sử dụng công cụ vẽ KTS
cho phép vẽ với độ chính xác và chuyển động giống như một cây cọ vẽ trong
thực tế để thể hiện tác phẩm (hình ảnh) trực tiếp trên màn hình. Bề mặt của
tranh KTS là một màn hình chứa khung tranh hoặc sketchbook (tấm vẽ phác
thảo KTS), họa sĩ sử dụng một con chuột máy tính (mouse) hoặc bút vẽ và
bảng vẽ (tablet) để thể hiện tác phẩm trên màn hình vi tính. Hiệu quả của
tranh KTS có hình thức giống như tranh vẽ bằng những chất liệu trong hội
họa giá vẽ: màu dầu, màu nước, phấn tiên, than, in khắc gỗ... như tác phẩm

[PL.2, H.1], [PL.2, H.120]. Những chương trình phần mềm hỗ trợ vẽ KTS
luôn được cải thiện nhằm tạo ra hiệu ứng gần với việc họa sĩ vẽ bằng những
phương tiện vẽ truyền thống qua nhiều hiệu ứng bề mặt của cọ vẽ và màu vẽ.
9. Cấu trúc của luận án
Luận án có độ dài phần chính văn là 146 trang (kể cả Lời cam đoan,
Danh mục chữ viết tắt, Mục lục, Tài liệu tham khảo và Danh sách các công
trình đã công bố). Để minh họa và hỗ trợ thêm cho nội dung nghiên cứu của
luận án, phần Phụ lục cũng được đánh số trang gồm các bảng: Bảng giải thích
thuật ngữ, Bảng hỏi, Hình ảnh minh họa. Ngoài phần Mở đầu (19 trang), phần
Kết luận (04 trang), phần Tài liệu tham khảo (12 trang) và Phụ lục (70 trang).


23

Nội dung nghiên cứu của đề tài được cấu trúc gồm có 03 Chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tranh KTS ở Việt Nam: (36 trang).
Chương 2: Đặc trưng của tranh KTS ở Việt Nam: (39 trang).
Chương 3: Luận bàn về phương thức biểu đạt tranh KTS ở Việt Nam
hiện nay: (31 trang).


×