Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO bồi DƯỚNG ý THỨC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.67 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1- Lý do lựa chọn chuyên đề
Là một trong những hình thái ý thức xã hội, YTPL phản ánh các giá trị
của con người trong quá trình sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta đang tích cực đẩy mạnh cải cách
nền hành chính quốc gia, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Để góp phần thực hiện điều đó, cùng với việc hoàn thiện hệ thống
chính sách và tăng cường hiệu lực của pháp luật, còn đòi hỏi phải không
ngừng nâng cao YTPL, làm cho các tổ chức và mọi công dân hiểu rõ, tôn
trọng và tự giác thực hiện nghiêm Hiến pháp và pháp luật.
Thanh niên Việt Nam là lực lượng xã hội hùng hậu, có sức khỏe, có
trình độ học vấn, tiềm năng sáng tạo, có khả năng tiếp cận và làm chủ nền
khoa học hiện đại. Việc bồi dưỡng, phát huy vai trò của thanh niên trong sự
nghiệp phát triển đất nước có ý nghĩa rất quan trọng. Trong những năm vừa
qua, những chuyển biến tích cực, tiến bộ là cơ bản thì bên cạnh đó, vẫn còn
không ít thanh niên do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng như xu thế toàn cầu hóa và nhất là do không nghiêm túc trong rèn luyện
phấn đấu đang có những biểu hiện tiêu cực đáng lo ngại như phai nhạt lý
tưởng, chạy theo lối sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thích
hưởng thụ, ngại lao động, chuộng những sinh hoạt thiếu lành mạnh, nghiện
ngập, thậm chí vi phạm pháp luật… Những hiện tượng đó trước hết là nguy
cơ đe dọa tương lai của chính bản thân họ, đồng thời cản trở sự phát triển theo
hướng lành mạnh, tiến bộ, văn minh của xã hội.
Để định hướng cho tầng lớp thanh niên sống, học tập và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, giúp cho thanh niên xác định được rõ quyền lợi và
trách nhiệm của mình đối với xã hội, việc bồi dưỡng YTPL cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay vừa có ý nghĩa cấp bách vừa mang tính chiến lược
lâu dài. Vì vậy, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng YTPL cho
3



thanh niên hiện nay trở thành vấn đề cơ bản và cấp thiết cần được đi sâu
nghiên cứu làm rõ cả về lý luận và thực tiễn thiết thực góp phần nâng cao
chất lượng xây dựng con người mới XHCN.
2- Mục tiêu và nội dung nghiên cứu của chuyên đề
* Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề
Trên cơ sở làm rõ vai trò của YTPL đối với thanh niên, chuyên đề phân
tích thực trạng và bước đầu đề xuất các giải pháp để góp phần nâng cao YTPL
cho thanh niên Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
* Nội dung nghiên cứu của chuyên đề
- Phân tích nội dung, cấu trúc YTPL, vai trò của YTPL đối với tầng lớp
thanh niên Việt Nam hiện nay.
- Phân tích con đường hình thành và các yếu tố tác động đến quá trình
hình thành YTPL của thanh niên hiện nay.
- Đề xuất giải pháp nâng cao YTPL cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay.
3- Phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp luận của triết học Mác
-Lênin. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử, phương pháp khái quát
hóa trong nghiên cứu và trình bày.
4- Kết cấu của chuyên đề
Chuyên đề gồm mở đầu, nội dung: hai phần, bốn tiết, danh mục tài liệu
tham khảo

4


Phần 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ SỰ HÌNH THÀNH
Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG THANH NIÊN

1.1. Ý thức pháp luật và vai trò ý thức pháp luật đối với hành vi
chấp pháp của thanh niên
1.1.1. Ý thức pháp luật
YTPL xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực tiếp các
quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết phải kể đến các quan hệ sản xuất được thể
hiện trong các luật lệ của nhà nước. YTPL xuất hiện xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của xã hội, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan điểm và quan niệm trong xã hội.
YTPL dần dần trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống xã hội.
Xung quanh khái niệm YTPL còn có những quan điểm, quan niệm,
cách hiểu khác nhau, cả dưới góc độ nghiên cứu khoa học cũng như trong
thực tế cuộc sống hằng ngày. Theo quan niệm thông thường, YTPL được hiểu
một cách đơn giản, gắn liền với một trong những biểu hiện cụ thể của nó, như
ý thức chấp hành pháp luật của một cá nhân hay tập thể nào đó, phản ứng của
con người trước một sự kiện pháp lý, thái độ của người dân đối với một văn
bản pháp quy. Thước đo trình độ YTPL của một đối tượng cụ thể trong xã hội
phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi mà chủ thể bộc lộ ra trong quá
trình tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Tuy còn đơn giản, cảm
tính song cách hiểu này góp phần quan trọng vào việc điều chỉnh hành vi
pháp luật của các cá nhân trong xã hội.
Trong nghiên cứu lý luận, vấn đề YTPL được quan tâm nghiên cứu từ
góc độ của nhiều ngành khoa học khác nhau như triết học, luật học v.v... và
còn có những quan điểm khác nhau.
Dưới góc độ triết học, YTPL được tiếp cận nghiên cứu trước hết với tư
cách là một hình thái ý thức xã hội bên cạnh các hình thái ý thức xã hội khác
5


như ý thức chính trị, ý thức đạo đức.v.v. Trong các giáo trình triết học Mác Lênin, YTPL được định nghĩa như sau: “Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư
tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về

quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp
pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội” [10, tr.588].
Cách tiếp cận triết học cho thấy, thứ nhất, YTPL là một hình thái ý thức xã
hội, có nguồn gốc từ thực tiễn và đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội từ
góc nhìn pháp luật; thứ hai, con đường hình thành và phát triển của YTPL
tuân theo quy luật chung của quá trình nhận thức: xuất phát từ nhận thức cảm
tính, tiếp theo là giai đoạn nhận thức lý tính (hình thành nên các khái niệm,
quan điểm, học thuyết về các vấn đề pháp luật); thứ ba, YTPL là toàn bộ
những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm của một giai cấp về bản
chất và vai trò của pháp luật. Quan điểm triết học coi YTPL như một hình thái
ý thức xã hội mang lại cái nhìn sâu sắc và khái quát về bản chất và vai trò của
YTPL trong ý thức xã hội nói chung. Đồng thời, nó cũng là cơ sở lý luận để
tiếp cận nghiên cứu YTPL dưới góc nhìn của các khoa học cụ thể.
Từ các điểm nêu trên, có thể định nghĩa: YTPL là toàn bộ các học
thuyết, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ
của con người đối với pháp luật, trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ, sự
đánh giá về pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã hội về tính hợp pháp hay
không hợp pháp trong hành vi ứng xử của con người, trong tổ chức và hoạt
động của các thiết chế xã hội. Ở góc độ cá nhân, YTPL thể hiện sự hiểu biết
pháp luật cũng như xúc cảm, tình cảm, tâm trạng, thái độ, ý chí … của họ đối
với pháp luật và các hiện tượng pháp lí khác. Cấu trúc của YTPL rất đa dạng
phức tạp. Căn cứ và nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, YTPL
bao gồm tri thức pháp luật, tình cảm, niềm tin pháp luật, ý chí pháp luật.
Tri thức pháp luật: Tri thức pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan
điểm, quan niệm có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật và các hiện
6


tượng pháp luật dưới dạng các khái niệm, phạm trù khoa học mà chủ thể thực
hiện nhận thức được một cách sâu sắc, tự giác để làm cơ sở cho hành vi, hành

động của bản thân. Tri thức pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính
hệ thống về các vấn đề có tính chất bản chất của pháp luật và các hiện tượng
pháp luật trên lập trường của chủ thể thực hiện. Tri thức pháp luật có khả
năng đi sâu vào bản chất của các quan hệ pháp luật trong xã hội, do đó, nó là
cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp
luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội. Đồng thời nó là nền tảng góp phần làm
sâu sắc thêm nội dung các phán xét và đánh giá của dư luật xã hội đối với
những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực pháp luật.
Tình cảm, niềm tin pháp luật là một bộ phận quan trọng của YTPL,
hình thành tự phát dưới dạng cảm xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm
xã hội đối với pháp luật cũng như các hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời
sống xã hội. Tình cảm pháp luật chỉ biểu hiện cấp độ nhận thức thông thường
dựa trên cơ sở pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý
xã hội. Sự phát sinh, tồn tại của tình cảm pháp luật chính là sự thể hiện tình
cảm của con người một cách trực diện trước các sự việc, sự kiện, hiện tượng
pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội, mang nặng tính chất cảm tính, chủ
quan. Nói cách khác là ở cấp độ này, YTPL chỉ mới thể hiện ở sự thừa nhận,
tiếp thu và xử sự theo sự thừa nhận và tiếp thu đó: điều hay lẽ phải, việc nên
làm, việc nên tránh, theo tình cảm hướng thiện. Có thể nói, tình cảm pháp luật
(dưới dạng cảm xúc đối với pháp luật) là “nguồn sữa” nuôi sống hệ tư tưởng
pháp luật, bảo vệ tồn tại và phát triển hệ tư tưởng pháp luật.
Tình cảm pháp luật của cá nhân thường bị quy định bởi tư tưởng pháp
luật của cá nhân đó. Vì vậy, đối với từng cá nhân nói riêng, nếu không có tình
cảm pháp luật tích cực thì không có hệ tư tưởng pháp luật và do đó cũng
không có YTPL. Với ý nghĩa đó, có thể nói rằng tình cảm pháp luật là mảnh
đất nuôi sống tri thức pháp luật, hình thành YTPL một cách đầy đủ nhất.
7


1.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật đối với hành vi chấp pháp của

thanh niên
YTPL giữ vai trò chi phối tất cả các giai đoạn của quá trình điều chỉnh
bằng pháp luật đối với hành vi con người, từ xây dựng đến tổ chức thực hiện
và bảo vệ pháp luật. Trong quản lí xã hội, pháp luật được thực hiện như thế
nào phụ thuộc rất lớn vào YTPL của các chủ thể trong xã hội.
Việc thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh trước hết phụ thuộc vào sự hiểu
biết pháp luật của Thanh niên, bao gồm cả bề rộng và chiều sâu của sự hiểu
biết. Hiểu biết pháp luật càng đầy đủ, chính xác, sâu sắc càng có điều kiện
thực hiện chúng một cách nghiêm chỉnh, càng nhận thức pháp luật một cách
tường tận, càng có cơ sở để thực hiện nó một cách triệt để, chính xác. Ngược
lại, không hiểu biết pháp luật, hiểu biết không đầy đủ, không đúng đắn là một
trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật. Chỉ trong trường hợp
nhận thức được nội dung của các quy định trong pháp luật, nắm bắt được sự
cho phép, bắt buộc hay ngăn cấm của pháp luật, chủ thể mới biết mình được
làm gì, không được làm gì hay phải làm gì, làm như thế nào khi ở trong hoàn
cảnh, tình huống cụ thể. Bên cạnh đó, nếu chủ thể nhận thức được đầy đủ cơ
sở lí luận, thực tiễn của việc ban hành quy định đó, mục đích ý nghĩa của
những quy định được ban hành, vai trò, tác dụng của chúng, sự phù hợp giữa
chúng với các giá trị đạo đức xã hội, truyền thống tốt đẹp của dân tộc… thì
việc thực hiện chúng sẽ càng trở nên đầy đủ, triệt để hơn, thậm chí nhiều
trường hợp còn có sự hào hứng, tích cực thực hiện những quy định đó.
Ở khía cạnh khác, pháp luật có thể được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác khi mỗi chủ thể đều có sự hiểu biết về địa vị pháp lí
của chính mình, ý thức được một cách sâu sắc về quyền và nghĩa vụ pháp lí
của mình, vị trí, vai trò của mình trong đời sống pháp lí.
Sự hiểu biết pháp luật của chủ thể không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp
luật thực định của Nhà nước mà còn bao gồm cả tri thức khoa học pháp lí,
8



nhất là tri thức về vai trò, tác dụng cũng như giá trị xã hội của pháp luật, tầm
quan trọng của pháp luật đối với đời sống xã hội cũng như đối với chính bản
thân mình. Càng có ý thức sâu sắc về những điều này, các chủ thể càng tìm
mọi cách vận dụng một cách triệt để hành lang pháp lí, sự bảo hộ của pháp
luật nhằm thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lí của mình.
Tuy nhiên, hiểu biết pháp luật chỉ là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện
pháp luật. Để pháp luật có thể được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế còn
phụ thuộc rất lớn vào xúc cảm, tình cảm, niềm tin, ý thích, mong muốn của
chủ thể đối với pháp luật và hoạt động của các cơ quan pháp luật, truyền
thống của dân tộc, thói quen hành xử theo pháp luật… Có thể nói những yếu
tố này chi phối tất cả các khâu trong quá trình thực hiện hành vi, từ việc lựa
chọn và quyết định phương án hành vi đến việc điều khiển diễn biến hành vi.
Chúng có thể làm cho người ta kiềm chế hay không kiềm chế được; hào hứng,
hăng hái hay thờ ơ, lãnh đạm; quyết tâm thực hiện đến cùng hay tự ý nửa
chừng chấm dứt việc thực hiện hành vi v.v..
Trong mọi xử sự, con người bao giờ cũng thể hiện thái độ của mình, đó
là toàn bộ những biểu hiện của ý nghĩ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin… của cá
nhân trước điều kiện, hoàn cảnh, tình huống nào đó. Thái độ của con người
luôn thể hiện sự “lưỡng phân” về xúc cảm: tôn trọng hay không tôn trọng, tán
thành hay phản đối, tin tưởng hay không tin tưởng…Đây là những động lực
rất quan trọng thúc đẩy sự lựa chọn và thực hiện hành vi của con người, trong
đó có các hành vi pháp luật.
Tôn trọng pháp luật là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể luôn xử sự
theo pháp luật. Với thái độ tôn trọng pháp luật, có tình cảm đúng mực đối với
pháp luật, các chủ thể có thể kiềm chế, không thực hiện những hành vi bị
pháp luật cấm, tự giác, tích cực thực hiện đúng đắn, đầy đủ các quyền, nghĩa
vụ pháp lí của mình. Trong trường hợp vì vô ý mà vi phạm pháp luật, người ta
có thể nhanh chóng nhận ra lỗi lầm, thành khẩn hối lỗi, nghiêm chỉnh gánh
9



chịu trách nhiệm pháp lí. Vui mừng trước những quy định mới được ban
hành, phấn khởi trước hành vi pháp luật nhanh chóng, chính xác của nhà chức
trách là tiền đề quan trọng khiến chủ thể thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, hào hứng, nhiệt tình. Ngược lại, với thái độ coi thường pháp luật, coi
thường nhà chức trách, có ác cảm đối với pháp luật… người ta khó có thể
thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Thái độ coi thường pháp luật
càng cao thì sự thực hiện pháp luật càng kém, biểu hiện rõ nhất của sự coi
thường pháp luật là sự chống đối pháp luật, vi phạm pháp luật một cách có
chủ định, có ý thức.
Xúc cảm, tình cảm là nét đặc trưng của đời sống tâm lí cá nhân. Chúng
tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy hoặc kìm hãm những hoạt động đó. Xúc cảm,
tình cảm có thể thôi thúc con người hoạt động, vượt qua khó khăn, trở ngại để
thực hiện hành vi, bằng mọi cách để đạt mục đích. Xúc cảm pháp luật có tác
dụng kích thích hành vi của con người một cách rất nhanh chóng và có thể lan
truyền từ người này sang người khác, vì vậy, hành vi pháp luật của họ cũng
ảnh hưởng lẫn nhau. Người ta thường dò xét thái độ của nhau, bắt chước nhau
thực hiện hành vi, khi có người thực hiện, nhiều người khác cùng làm theo.
Tin tưởng vào pháp luật cũng như hoạt động của nhà chức trách là cơ
sở vững chắc của hành vi hợp pháp. Ngược lại, mất lòng tin vào pháp luật,
mất lòng tin vào hoạt động của nhà chức trách sẽ làm nảy sinh tâm trạng “bất
cần”, khi đó Nhà nước và pháp luật đều trở nên không cần thiết đối với họ, vì
thế họ dễ dàng tìm đến những hành vi bất hợp pháp. Với niềm tin sắt đá vào
công lí, tin tưởng tuyệt đối vào tính nghiêm minh của luật pháp, người ta kiên
trì thực hiện các hành vi pháp luật mà họ cho là đúng đắn, trong trường hợp
này, niềm tin đã củng cố nghị lực cho chủ thể trong hành trình đi tìm công lí.
Thực tế chứng tỏ rằng đối với người có niềm tin, ý nghĩa hành vi của họ nhiều
khi còn quan trọng hơn lợi ích mà họ có thể đạt được.
10



Sự tự tin hay thiếu tự tin có ảnh hưởng khá lớn đến hành vi pháp luật
của các chủ thể. Tin tưởng vào sự hiểu biết cũng như khả năng và điều kiện
của mình là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể nhanh chóng, quyết đoán
trong việc lựa chọn phương án hành vi và thực hiện nó với lập trường vững
vàng, tác phong đàng hoàng. Đồng thời, sự tự tin cũng là nhân tố quan trọng
khiến chủ thể dễ dàng vượt lên sự sợ hãi, vượt qua khó khăn trở ngại để đạt
được mục đích đã đề ra. Ngược lại, sự thiếu tự tin làm chủ thể chần chừ, do
dự, không dám quyết đoán, dẫn đến sự chậm chễ, sự mất bình tĩnh trong việc
thực hiện hành vi.
Thói quen cũng là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp
luật của các chủ thể trong xã hội. Người có thói quen xử sự theo pháp luật
luôn có sự cân nhắc về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của
mình để lựa chọn phương án hành vi hợp pháp.
Tóm lại, hiểu biết pháp luật cũng như thái độ tâm trạng, tình cảm… của
con người đối với pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực
hiện pháp luật. Chính vì vậy, để tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước
pháp quyền, một trong những giải pháp cơ bản, có tầm quan trọng hàng đầu là
giáo dục, nâng cao YTPL cho các thế hệ thanh niên.
1.2. Sự hình thành ý thức pháp luật trong thanh niên
1.2.1. Con đường hình thành ý thức pháp luật của thanh niên
Thông qua lý luận cũng như thực tiễn lịch sử đã chứng minh sự ra đời,
hình thành YTPL không phải là sự ngẫu nhiên mà là một hiện tượng mang
tính quy luật. YTPL chỉ hình thành trên tiền đề kinh tế, xã hội phát triển ở
một trình độ nhất định khi xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và sự đối kháng
lợi ích của các giai cấp khác nhau trong xã hội và nhu cầu điều chỉnh các quan
hệ xã hội thông qua Nhà nước và pháp luật.
Xét dưới góc độ cá nhân, YTPL được hình thành và phát triển bằng
nhiều con đường khác nhau, có thể tóm lược lại thông qua ba hình thức:

11


Thứ nhất, thông qua hoạt động nhận thức: Trong quá trình sống, dưới
sự tác động đa chiều của đời sống xã hội, nhu cầu nhận thức trở nên quá đỗi
cần thiết cho mỗi cá nhân, trong đó có nhu cầu nhận thức pháp luật. Do đó,
mỗi người phải tìm cách thỏa mãn nhu cầu nhận thức đó bằng cách tự tìm
hiểu pháp luật cộng thêm sự tác động của GDPL từ phía nhà nước, các tổ
chức chính trị xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mà con
người được trang bị, bồi dưỡng về tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Thứ hai, thông qua con đường hoạt động giao tiếp, được hình thành
trong quá trình hoạt động xã hội và tiếp xúc hàng ngày của mỗi người trong
cộng đồng. Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, YTPL đi vào nhận
thức của mỗi người một cách tự nhiên theo con đường giao tiếp cá nhân với
cá nhân hoặc là cá nhân với nhóm người.v.v… Qua con đường đơn giản và
không mang một quy chuẩn nhất định, kiến thức pháp luật qua quan hệ giao
tiếp mà chủ yếu là thông qua truyền miệng thường không đầy đủ và hệ thống
có khi còn bị sai lệch, bị “tam sao thất bản” tùy vào suy nghĩ và chủ ý của
mỗi người. Đa phần những kiến thức pháp luật dưới dạng này thường được
bổ sung thông qua những mối quan hệ của con người, có thể là những người
thân thiết như bạn bè, đồng nghiệp, đồng hương hoặc cũng có thể thông qua
những con đường chính thức mà xã hội biết đến và có thể kiểm tra như
trường lớp, chi đoàn, hội thanh niên v.v…Nhưng phải khẳng định rằng,
truyền miệng qua quan hệ giao tiếp là hết sức quan trọng và là con đường
nhanh nhất trong việc tuyên truyền đường lối, phổ biến chính sách pháp luật
Nhà nước.
Thứ ba, thông qua con đường hoạt động thực tiễn. Nếu như thông qua
hoạt động nhận thức, con người được trang bị những kiến thức lý luận về Nhà
nước và pháp luật thì thông qua hoạt động thực tiễn giúp cho con người hiểu
biết cụ thể về cách thức vận hành của bộ máy pháp luật Nhà nước, áp dụng

vào cuộc sống và làm sâu sắc thêm vốn tri thức pháp luật từ con đường nhận

12


thức, bổ sung những gì còn khiếm khuyết cũng như củng cố tình cảm, thái độ
đúng đắn của cá nhân đối với pháp luật. Hoạt động thực tiễn ở đây đó chính là
đời sống pháp luật, các văn bản, các quy phạm pháp luật, các tình huống pháp
luật được trải rộng qua nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội cho đến
hoạt động văn hóa, nghệ thuật v.v…
Trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn thì quản lý nhà nước và quản
lý xã hội có ý nghĩa giáo dục pháp luật rất mạnh mẽ, nhất là hoạt động xây
dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và bảo vệ pháp luật. Việc lôi cuốn nhân
dân vào hoạt động này là một trong những con đường cơ bản để hình thành
tri thức và bồi dưỡng tình cảm pháp luật cho mọi người. Có thể thấy rằng,
giữa các hoạt động này có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, ảnh
hưởng lẫn nhau để hình thành nên YTPL cá nhân. Nếu như hoạt động nhận
thức là nền tảng quan trọng để con người tiếp cận với tri thức một cách có
hệ thống và bước đầu hình thành nên tình cảm pháp luật thì hoạt động thực
tiễn lại đưa những tri thức mà con người tiếp thu được đặt vào môi trường
pháp luật và đời sống pháp luật, giúp cho con người tiếp cận với pháp luật
và làm sâu sắc thêm tri thức. Đồng thời, khi cả hai hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn càng được phát triển thì kéo theo hoạt động giao tiếp
càng được mở rộng hơn, phong phú hơn. Hoạt động giao tiếp càng phát
triển thì hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn ngày càng kiện toàn,
tri thức pháp luật cũng luôn luôn được bổ sung thông qua nhiều luồng
thông tin khác nhau.
Xét dưới góc độ kết quả của sự phản ánh,YTPL còn chịu sự quy định
và tác động thống nhất của cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
Điều kiện khách quan là toàn bộ cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội của bản thân

hệ thống pháp luật hiện hành, thực tiễn pháp luật và đời sống pháp luật phong
phú, đa dạng, sinh động và phức tạp. Nhân tố chủ quan là những định hướng
có tổ chức, có chủ định của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, đóng vai

13


trò là trọng tâm, chủ thể. Nếu như điều kiện khách quan đưa ra những mục
tiêu, phương hướng, cách thức để tiến hành tác động tới nhân tố chủ quan
nhằm nâng cao YTPL, quy định tính chất và mức độ phát triển của YTPL
trong một giai đoạn lịch sử nhất định, quy định điều kiện vật chất, khả năng
của chủ thể tác động đến YTPL thì nhân tố chủ quan có vai trò to lớn trong
quá trình biến đổi khả năng khách quan trở thành hiện thực trong quá trình
hình thành YTPL.
Xét đến cùng, bên cạnh việc thừa nhận vai trò quyết định của những
điều kiện khách quan, thì cũng phải nhận thấy vai trò sáng tạo, tích cực, chủ
động của nhân tố chủ quan đối với quá trình hình thành YTPL. Nếu như
không có những điều kiện khách quan cần thiết thì bất kỳ mọi cố gắng của
nhân tố chủ quan cũng không thể đạt được kết quả, cũng như khi đã có điều
kiện khách quan chín muồi thì nhân tố chủ quan lại có tính quyết định trong
việc biến những khả năng đang có thành hiện thực. Bởi vì, những khả năng
khách quan không thể thực hiện được nếu không thông qua những nhân tố
chủ quan mà ở đây cụ thể là con người. Theo C.Mác: “Con người vốn là sản
phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người biến đổi là sản phẩm
của những hoàn cảnh khác nhau và của một nền giáo dục đã thay đổi” [2,
tr.20]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng khẳng định: “Hiền, dữ đâu phải là
tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên” [13, tr.383]. Cần phải thấy rằng, sự
tác động của các điểu kiện khách quan mang tính chất tự phát, là nhân tố ảnh
hưởng, còn sự tác động của những nhân tố chủ quan là sự tác động định
hướng. Nhân tố ảnh hưởng có thể được hình thành từ cách này hay cách khác

nhưng nhân tố tác động định hướng luôn tự phát, có ý thức và có chủ định rõ
ràng. Do đó, giữa hai nhân tố này luôn có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau,
nếu như nhân tố ảnh hưởng thuận với nhân tố tác động mà cụ thể là khi ảnh
hưởng của các điều kiện khách quan phù hợp với hoạt động giáo dục thì chất
lượng hiệu quả của giáo dục YTPL sẽ tăng lên rõ rệt và ngược lại nếu nhân tố
14


ảnh hưởng đối nghịch với nhân tố tác động thì hiệu quả của việc giáo dục sẽ
bị trì trệ, giảm sút. Cho nên, việc điều chỉnh đối với các điều kiện khách quan
bất lợi và điều chỉnh cách thức, mô hình giáo dục đã lạc hậu so với các điều
kiện khách quan là việc cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục YTPL cho
nhân dân.
Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu coi nhẹ nhân tố chủ quan, hạ thấp
vai trò của giáo dục pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như tội phạm tham
nhũng, hối lộ sẽ sinh sôi và phát triển ngay trong đội ngũ thi hành và bảo vệ
pháp luật... từ đó làm mất niềm tinh của nhân dân, gây ra sự hoài nghi, làm
phản tác dụng của giáo dục. Ngược lại, nếu biết định hướng chúng trong các
hoạt động thực tiễn pháp luật phù hợp thì sẽ làm giảm bớt tác động của tiêu
cực, bài trừ được những tồn đọng trong các nhân tố khách quan. Như vậy, để
nâng cao YTPL thì việc quan trọng đầu tiên là phải tiến hành GDPL bởi vì
GDPL là con đường trực tiếp, con đường ngắn nhất và gần như hiệu quả nhất
để trang bị tri thức pháp luật một cách đầy đủ và hệ thống nhất. Giữa GDPL
và YTPL luôn có một mối quan hệ mật thiết với nhau bởi lẽ GDPL là một
nhân tố chủ quan và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành YTPL,
đây có thể xem là mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện khi mà GDPL là
phương tiện để hướng tới mục đích duy nhất là hình thành YTPL. Chất lượng
GDPL càng cao, tính hiệu quả càng lớn thìYTPL của cá nhân và xã hội càng
phát triển và YTPL được nâng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tính
hiệu quả của công tác GDPL.

Tóm lại, có thể nói rằng, con đường hình thành và phát triển YTPL của
con người mang tính khách quan. Nhưng mọi tri thức pháp luật đều được
thẩm thấu thông qua lăng kính chủ quan của cá nhân mỗi người. Lĩnh hội
pháp luật như thế nào, trước hết phụ thuộc vào môi trường tiếp xúc với pháp
luật, khả năng nhận thức, tâm lý xã hội, các yếu tố lợi ích, động cơ và các giá
trị xã hội sẽ chi phối thái độ của con người với pháp luật.
15


1.2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc hình thành, phát
triển ý thức pháp luật của thanh niên
* Ảnh hưởng của thiết chế làng xã đến việc hình thành và phát triển
YTPL của thanh niên
Thứ nhất, làng xã ở Việt Nam nói chung là một cộng đồng khép kín
dựa trên cơ sở là quan hệ dòng tộc, họ hàng, nên quan hệ giữa các cá nhân
rất khăng khít, gắn bó. Cùng với chế độ công hữu về ruộng đất và hình thức
sản xuất tự cung tự cấp, các hộ nông dân hầu như đều thu mình trong vỏ
bọc của lệ làng một cách thụ động, ý thức cá nhân không được phát triển.
Đây là rào cản rất lớn cho việc tiếp nhận pháp luật, hình thành YTPL và lối
sống theo pháp luật. Trong cộng đồng làng xã Việt Nam, “cái tôi” được
xem là một khái niệm mang tính xa vời đối với người dân sinh sống trong
từng đơn vị làng, xã phong kiến. Do đó, lối sống và tư duy thụ động, an
phận với hoàn cảnh, nép mình vào với quy tắc của lệ làng truyền thống đã
trở thành đặc tính chung của người Việt. Đây được xem là rảo cản lớn nhất
để hình thành nên YTPL và lối sống theo pháp luật trong các giai đoạn
chuyển tiếp của xã hội sau này.
Thứ hai, làng xã Việt Nam trải qua một bề dày lịch sử của sự biến động
về kinh tế, chính trị dẫn tới sự phân hóa và phân cực cao, hình thành sự thích
nghi của con người với hoàn cảnh và sự nhạy cảm với các định chế pháp luật.
Sự phân hóa, phân cực sâu sắc làm cho cơ cấu giai cấp trong xã hội ít

nhiều cũng biến đổi, những biến động đó làm cho người Việt trở nên thích
nghi cao với hoàn cảnh, nhưng lại bị bó hẹp trong lối tư duy cũ kỹ của lệ làng
mang nặng tâm lý thụ động, phụ thuộc vào những chính sách áp đặt mà chính
quyền đại phương đưa ra. Con người thiếu đi khả năng tư duy và hành động
độc lập. Điều đó đã trở thành một “bức tường rào” ngăn cản, tác động tiêu
cực tới đến việc nhận thức pháp luật và hình thành tình cảm thái độ của người
dân đối với pháp luật.
16


Thứ ba, bộ máy quản lý làng xã được duy trì bởi một cơ cấu tự quản,
điều chỉnh quan hệ cộng đồng làng xã thông qua hương ước. Vì vậy, người
dân tiếp cận với pháp luật phải qua khâu trung gian là làng xã.
Làng xã Việt Nam được quản lý chủ yếu bằng lệ làng, hương ước. Đây
cũng chính là sợi dây kết nối giữa các thành viên với cộng đồng. Pháp luật của
Nhà nước để đến với người dân phải thông qua khâu trung gian đó là làng xã, vì
vậy, những chính sách, thay đổi của pháp luật đến với người dân thường rất
muộn, điều này có tác động tiêu cực đến sự nhận thức, tình cảm, thái độ của họ
đối với pháp luật, làm chậm quá trình hình thành ý thức sống theo pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, khi xã hội Việt Nam đã có nhiều biến đổi
theo hướng hiện đại và văn minh, tuy nhiên do nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan mà tư tưởng lệ làng vẫn ăn sâu trong tiềm thức của thanh niên
Việt Nam, đặc biệt là bộ phận thanh niên sống ở nông thôn. Do đó, vai trò của
việc giáo dục, phổ biến pháp luật hết sức quan trọng trong việc cải tạo nhận
thức của thanh niên, định hướng cho thanh niên cách thức để đến gần hơn với
pháp luật, đưa pháp luật vào chính cuộc sống của họ.
* Ảnh hưởng của tính đa dạng về sắc tộc và tín ngưỡng đến việc hình
thành và phát triển YTPL của thanh niên
Thứ nhất, tính tự trị tương đối của từng tộc người và những yếu tố
khách quan là rào cản làm giảm đi sự hòa hợp giữa các sắc tộc ở Việt Nam,

đồng thời cũng là nhân tố cản trở sự hình thành và phát triển YTPL.
Với số lượng đông đảo 54 sắc tộc phân bố lâu đời ở những địa bàn khác
nhau, cộng với tập quán riêng biệt của mình. Các tộc người thiểu số đa phần
đều chọn cư ngụ trên những vùng cao nguyên hiểm trở, ít khi có sự liên kết,
giao lưu với các tộc người khác, chính đặc điểm địa hình làm cho mỗi tộc
người được xem là một cộng đồng khép kín, mang nặng tính cát cứ. Do đó,
tính tự giác và nhận thức cá nhân của họ bị lu mờ nhường chỗ cho ý thức
cộng đồng, họ sống thụ động, an phận và cam chịu với những luật lệ hà khắc
đó từ đời này qua đời khác. Điều này cũng lý giải cho lối tư duy lạc hậu và
17


kém nhạy bén đối với sự thay đổi bên ngoài, tác động không nhỏ tới việc hình
thành YTPL. Hơn nữa, tâm lý sắc tộc chiếm vị trí quan trọng trong suy nghĩ
của người dân tộc thiểu số một mặt có những yếu tố tích cực củng cố ý thức
tự hào dân tộc, nhưng mặt khác nó cũng mang những yếu tố tiêu cực cản trở
việc hình thành YTPL của người dân.
Trong những năm qua, dưới ánh sáng dân chủ của chế độ xã hội chủ
nghĩa và sự tác động tích cực của nền kinh tế thị trường, khoảng cách giữa
các vùng miền dần được thu hẹp, nhu cầu giao lưu, học hỏi giữa các sắc tộc
thông qua các hoạt động văn hóa và thương mại ngày càng được tăng lên đã
nảy sinh nhu cầu hiểu biết pháp luật. Việc giáo dục YTPL và xây dựng lối
sống theo pháp luật cho họ là việc làm cấp bách, và để làm được điều đó cần
cương quyết đấu tranh chống lại các phong tục, tập quán lạc hậu đã ăn sâu
bám rễ trong nhận thức người dân, đồng thời phải vạch ra nội dung và phương
pháp giáo dục pháp luật thật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng vùng
miền, đặc tính của từng tộc người, trong đó nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của
giới chức sắc trong các tôn giáo.
Thứ hai, Việt Nam là vùng đất có sự đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng
gắn liền với nhiều sắc tộc. Đặc điểm này có sự tác động ít nhiều tới sự hình

thành và phát triển của YTPL.
Ở Việt Nam, hầu hết các sắc tộc đều hình thành cho mình những tín
ngưỡng riêng lớn nhỏ tùy vào quy mô và tập quán của từng tộc người. Nhưng
đa phần các tôn giáo lớn còn tồn tại đến ngày nay đều có nguồn gốc ban đầu
từ yếu tố ngoại lai. Các tôn giáo này dễ dàng đi sâu vào đời sống các tộc
người vì họ tìm được tiếng nói chung giữa tâm tư tình cảm, nhu cầu tinh thần
của mình trong các giáo lý tôn giáo đó.
Mặt tích cực của tôn giáo thể hiện ở những điểm tương đồng với lý luận
XHCN. Đó là mặt giá trị đạo đức, giá trị nhân văn, văn hóa của tôn giáo, đáp
ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Với pháp luật, tôn

18


giáo cũng có điểm tương đồng, vì pháp luật cũng như quy phạm đạo đức tôn
giáo đều có mục đích điều chỉnh hành vi của con người.
Tôn giáo không những đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
YTPL của người Việt Nam nói chung và thanh niên nói riêng trong quá khứ
mà sự tác động của nó vẫn còn đến ngày nay, mặc dù cách thức, quy mô có sự
thay đổi ít nhiều theo thời gian. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng YTPL, phải
chú ý đến những đặc điểm trên cùng với sự biến đổi của nó để có những
phương hướng giải pháp phù hợp, đúng đắn.
* Ảnh hưởng của tính cách người Việt truyền thống đến việc hình thành
và phát triển YTPL của thanh niên
Là một quốc gia mà nông dân chiếm phần lớn, người Việt nói chung, có
nguồn gốc xuất thân trực tiếp hoặc gián tiếp là những nông dân lao động sống
trong những làng xã lâu đời theo mô hình khép kín, tự cung tự cấp. Dưới sự áp
bức, bóc lột hà khắc của chế độ phong kiến, con người ở làng xã truyền thống
Việt Nam là con người nhỏ bé, được bao bọc sau lũy tre làng, là thân phận “con
sâu, cái kiến” luôn luôn trong hoàn cảnh bị chà đạp, áp bức, con người của

những gánh nặng lệ làng, pháp gia đè nặng trên lưng, cái riêng bị lu mờ so với
cái chung. Lối sống, lối ứng xử của mọi người bị lệ thuộc chặt chẽ vào cộng
đồng với những giáo điều nghiêm ngặt, phải đi theo một khuôn mẫu cứng nhắc
đã được định sẵn. Tâm nguyện của người dân chỉ mong muốn có cuộc sống yên
ổn để làm ăn chứ không mong tiến bộ, phát triển. Ai lo phận người nấy, không
dám vượt ra ngoài giới hạn của mình. Đó là con người chưa có ý thức mạnh mẽ
đấu tranh cho tự do, cho nhân quyền, công bằng dân chủ. Các yếu tố trên đã làm
cho người Việt lệ thuộc đối với làng xã. Hệ quả tất yếu của nó là tuy rằng tinh
thần cộng đồng mạnh, tính trọng thể diện, sự tinh tế và chất dân chủ trong tính
cách văn hóa nhưng mặt trái của nó là sự coi nhẹ vai trò cá nhân (vì thế thiếu
tính cạnh tranh), thói đố kị, ganh ghét, dựa dẫm, thói cào bằng, óc địa phương.

19


Người Việt truyền thống thường mong muốn hướng đến một môi
trường sống nhẹ nhàng, yên ả. Biểu hiện của nó có thể tìm thấy trong bất
cứ lĩnh vực nào của nhận thức, lối sống xã hội. Chẳng hạn như trong cư xử
hàng ngày, người Việt luôn sống có lý, có tình nhưng vẫn thiên về tình
hơn, khi cần cân nhắc giữa tình với lý thì tình được đặt cao hơn lý: “Một bồ
cái lý không bằng một tí cái tình”; đưa nhau đến trước cửa quan thì bên
ngoài là lý bên trong là tình v.v... Những mặt trái này vô hình kìm hãm sự
phát triển kinh tế - xã hội thời hiện đại. Lối tư duy như vậy có thể bảo toàn
sự ổn định của quốc gia chứ chưa thể tạo nên một đất nước giàu mạnh và
phát triển, chưa thể tạo nên một nền văn minh lớn; chỉ có thể hướng tư duy
người Việt thiên về khám phá và cải tạo thế giới bên cạnh gìn giữ những
giá trị tích cực của văn hóa thì mới có thể tạo nên một dân tộc giàu mạnh,
văn minh. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, người Việt có đặc tính “hoài cổ”,
chỉ thích nhìn về quá khứ với những thành tựu, những chặng đường đã đi
qua của một dân tộc hay một con người. Họ xem đó là nơi tự hào nhất để

bám víu lòng tự tôn của mình mặc cho các điều kiện khách quan có tác
động đến mức nào đi nữa.
Tất cả những đặc tính trên là yếu tố căn bản cấu thành nên tính cách
chung của người Việt, nó tạo thành lối mòn ăn sâu vào tiềm thức của người
dân từ đời này sang đời khác vì vậy mà tính bền vững của nó rất cao. Xét
một cách khách quan, với lối tư duy và đặc điểm tính cách như vậy, sự ảnh
hưởng tiêu cực tới việc hình thành và phát triển YTPL của người dân là rất
sâu sắc. Quá trình người dân tiếp xúc và hình thành lối sống theo pháp luật
là một chặng đường dài đầy khó khăn. Như vậy, sự tác động của tính cách
truyền thống người Việt đến sự hình thành YTPL là không nhỏ. Đó là tác
nhân ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách thức, con đường tiếp cận pháp luật của
thanh niên.

20


Phần 2
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG
Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng ý thức pháp luật của thanh niên hiện nay
2.1.1. Ưu điểm
Một là, tri thức pháp luật của thanh niên ngày càng được nâng cao.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới
và mở cửa của đất nước tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh v.v… Điều đó
đã tạo thế và lực mới đưa nước ta vững bước đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những biến đổi trên cũng đã tác động
mạnh mẽ đến mọi mặt của của đời sống xã hội trong đó có đời sống pháp luật
của nhân dân nói chung và đời sống pháp luật của thanh niên nói riêng, làm
chuyển biến nhanh chóng quá trình nhận thức pháp luật và tình cảm, niềm tin

pháp luật của thanh niên. Giá trị, vai trò của pháp luật ngày càng được ghi
nhận trong xã hội. Tinh thần thượng tôn pháp luật ngày càng trở nên phổ biến
và được củng cố. Thói quen hành động theo luật pháp không ngừng được vun
đắp. Điều đó đã tạo nên điều kiện thuận lợi cho việc hình thành YTPL và lối
sống theo pháp luật của thanh niên Việt Nam.
Thực tế cho thấy sự hiểu biết và kiến thức pháp luật của thanh niên
được tăng lên rõ rệt, đa số thanh niên nhận thức được quyền và nghĩa vụ công
dân của mình, hiểu rõ các quyền dân chủ và các lợi ích được pháp luật thừa
nhận và thực thi trong thực tế. Họ ngày càng chủ động và tích cực tìm hiểu,
trau dồi kiến thức về pháp luật, đặc biệt là các bộ luật cần thiết cho lợi ích và
nhu cầu của họ như luật đất đai, luật dân sự, luật tố tụng, luật bình đẳng giới,
luật thương mại và tiêu dùng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp năm 1992... Đặc biệt là khi Luật thanh niên được thông qua năm
2005, đã mở ra cho thanh niên nhiều cơ hội, thách thức mới đồng thời cũng
21


giúp cho họ nhận thức được quyền và nghĩa vụ của mình một cách cụ thể, rõ
ràng. Hầu hết thanh niên đều hiểu rõ bản chất, chức năng của pháp luật đối
với xã hội và bản thân họ đồng thời nhận thức được tầm quan trọng phải nâng
cao tri thức pháp luật cho cộng đồng, điều này đã phản ánh được hiểu biết
chung của thanh niên đối với pháp luật trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Hai là, tình cảm, niềm tin pháp luật của thanh niên ngày càng sâu sắc.
Từ sự hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin pháp luật của thanh niên
cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Hầu hết, thanh niên tin tưởng vào sự lãnh đạo
của Đảng, chính sách và luật pháp của nhà nước, không ngừng vươn lên lập
thân, lập nghiệp. Trình độ nhận thức và thái độ ứng xử đối với pháp luật có sự
chuyển biến tích cực, niềm tin và thói quen sống trong pháp luật ngày càng ăn
sâu vào đời sống của họ. Họ luôn lấy các chuẩn mực pháp luật làm cơ sở cho
hành vi của mình, thực hiện phương châm “Sống và là việc theo Hiến pháp và

pháp luât”. Điều này đã góp phần quan trọng trong việc giúp cho thanh niên
rèn luyện được ý thức kỷ luật, ý thức tuân thủ pháp luật trong đời sống xã hội.
Mặt khác, cùng với sự chuyển biến nhận thức chung về pháp luật thì
nhu cầu tìm hiểu về pháp luật cũng tăng lên, làm cho nhận thức pháp luật, thái
độ đúng đắn và tình cảm quan tâm, gắn bó với pháp luật của thanh niên ngày
càng sâu sắc, giúp cho họ ngày càng ý thức được quyền và nghĩa vụ công dân
cũng như biết sử dụng pháp luật là phương tiện đấu tranh để bảo về quyền và
lơi ích hợp pháp cho mình. Họ quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề chính
trị - xã hội; sống và hành động có mục đích sống rõ ràng; tham gia tích cực
các phong trào xã hội, có nhu cầu giải trí lành mạnh. Họ nhận thức được vai
trò của pháp luật đối với cuộc sống của mình và đối với xã hội cũng như thấy
được sự cần thiết phải trang bị cho mình những kiến thức pháp luật cơ bản khi
tham gia vào hoạt động sinh sống mỗi ngày từ đó mà hình thành động cơ học
tập, theo dõi tình hình pháp luật cũng như thường xuyên bồi dưỡng kiến thức
pháp luật.
22


Ba là, ý chí pháp luật của thanh niên ngày càng mạnh mẽ.
Hiểu biết và tin tưởng vào vai trò của pháp luật, đa số thanh niên hiện
nay họ có quan điểm, thái độ rứt khoát, rõ ràng trước các tình huống pháp
luật. Biết phân định đúng, sai trước một hành vi pháp lý để từ đó có thái độ
đúng đắn, kiên quyết đấu tranh với những hành vi sai trái, tôn trọng và ủng hộ
lẽ phải. Biểu hiện cụ thể là giữa một môi trường sống còn nhiều bất lương với
những hành vi trộm cắp, cướp giật thì ngày càng xuất hiện những “Hiệp sĩ
đường phố” không quản sự hiểm nguy, vất vả, sẵn sàng ra tay trấn áp tội
phạm, đem lại sự bình yên trong cuộc sống của người dân. Đây là biểu hiện rõ
nét nhất về ý chí pháp luật của phần lớn thanh niên hiện nay.
Cũng từ hiểu biết pháp luật, đa số thanh niên biết kìm chế bản thân
trước những cám dỗ của lối sống tự do, tùy tiện và các tệ nạn xã hội đang bủa

vây quanh họ để sống có ích cho gia đình và xã hội. Quyết tâm vượt qua mọi
khó khăn, thử thách thực hiện các hành vi pháp lý một cách tự nguyện, tự giác
và nghiêm minh, xứng đáng là một công dân tốt của đất nước, một con người
tốt của gia đình và xã hội.
2.1.2. Hạn chế, khuyết điểm
Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số thanh niên hiện nay đều có ý thức chấp
hành pháp luật tốt, nhu cầu tìm hiểu và áp dụng kiến thức pháp luật ngày càng
cao thì vẫn còn một bộ phận thanh niên trình độ nhận thức và hiểu biết pháp
luật không đồng đều và còn có nhiều hạn chế. Tri thức pháp luật của họ chủ
yếu là sự hiểu biết về pháp luật thông thường được hình thành thông qua hoạt
động thực tiễn và giao tiếp xã hội thay vì được học tập và nghiên cứu một
cách bài bản. Vì vậy kiến thức pháp luật của họ cũng không toàn diện và còn
nhiều thiếu sót, phần lớn chỉ quan tâm tìm hiểu các lĩnh vực pháp luật phục vụ
trực tiếp cho hoạt động và lợi ích của mình, còn các lĩnh vực pháp luật khác
thì hầu như họ không quan tâm.
Một bộ phận thanh niên vẫn mang nhận thức phiến diện, họ cho rằng
pháp luật là công cụ trong tay Nhà nước để trừng trị những ai đi ngược lại lợi
23


ích của Nhà nước, của xã hội, dẫn đến thái đội nhìn nhận và hành động không
đúng đối với pháp luật. Đa phần họ không hiểu về những quyền và nghĩa vụ
của bản thân cũng như người khác, không hiểu hết nội dung các quy định của
pháp luật để có thể biết được rằng mình được làm gì và không được làm gì,
phải làm như thế nào. Không biết về những điều luật, bộ luật có ảnh hưởng
trực tiếp đến mình như luật dân sự, luật hình sự, luật lao động. Chỉ có một số
ít người hiểu biết căn bản về pháp luật, phần lớn trong số đó là những sinh
viên được đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, đặc biệt là sinh viên các
trường luật.
Theo thống kê của các viện nghiên cứu thanh niên, viện nghiên cứu

khoa học pháp lý, viện tâm lý và giáo dục pháp luật đưa ra các cuộc khảo sát
xã hội trong thanh niên tại một số tỉnh thành, trường học cho thấy 49,2% số
người được hỏi nói rằng không hề hiểu biết rõ pháp luật; 71,5% YTPL ở mức
độ bình thường và chưa tốt; 20,2% ý kiến của các em học sinh tring học phổ
thông tại các tỉnh phía Nam không biết gì về luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em; 50% ý kiến không quan tâm gì đến đạo luật này. Vì thiếu hiểu biết
pháp luật hoặc hiểu biết không đầy đủ, không đúng đắn nên số lượng thanh
niên vi phạm pháp luật rất lớn. Theo thống kê của các cơ quan tư pháp, tỉ lệ
thanh niên phạm pháp chiếm khoảng 56% trong tổng số các vụ việc vi phạm
pháp luật.
Tri thức pháp luật của thanh niên chưa đủ sức tạo ra cơ sở vững chắc,
khoa học để củng cố mạnh mẽ thái độ, tình cảm, niềm tin, ý chí đối với pháp
luật. Thói quen sử dụng pháp luật được hình thành nhưng chưa ổn định, thậm
chí, một thực trạng khá phổ biến thường xuyên xảy ra đó là thanh niên chấp
hành pháp luật có khi do ứng xử theo đạo lý để phù hợp với pháp luật hơn là
do hiểu biết pháp luật. Một bộ phận thanh niên thiếu niềm tin vào pháp luật,
cho rằng pháp luật chỉ là công cụ phục vụ cho một số người, pháp luật không
đem lại sự công bằng cho xã hội nên dễ hình thành nên tâm lý thờ ơ, sợ hãi
24


với pháp luật, hay lý coi thường, chống đối pháp luật. Đây là nguyên nhân của
vô số những hành vi chống người thi hành công vụ, giết người, cướp của xảy
ra trong xã hội thời gian gần đây.
Ở độ tuổi thanh niên nhiều người thích thể hiện cái tôi của mình.
Cùng với những hiểu biết kém về pháp luật, họ có cái nhìn lệch lạc về pháp
luật, coi thường pháp luật, thậm chí còn cười cợt, chế nhạo, khinh thường
các hành vi chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Họ chưa có ý chí phấn đấu
vươn lên, thụ động, ý thức trách nhiệm bản thân còn hạn chế, ngại khó,
ngại khổ, dễ dãi với bản thân, không kiên định, vững vàng trước những

cám dỗ tiêu cực, bị lôi kéo, xa ngã vào các tệ nạn xã hội như lô đề, cờ bạc,
ma túy, mại dâm. Đây là một thực trạng đang gióng lên hồi chuông báo
động đối với gia đình, nhà trường, các cơ quan chức năng trong việc giáo
dục nâng cao YTPL cho thanh niên.
Tóm lại, qua việc đi sâu tìm hiểu về YTPL của thanh niên trong giai
đoạn hiện nay cho chúng ta thấy, nhu cầu hiểu biết, học tập và trang bị những
kiến thức pháp lý cho bản thân của hầu hết thanh niên có sự chuyển biến quan
trọng, làm cho nhận thức pháp luật, thái độ đúng đắn và tình cảm quan tâm,
gắn bó với pháp luật của thanh niên ngày càng được nâng lên. Pháp luật từng
bước đã đi sâu vào đời sống xã hội, trở thành phương tiện để thanh niên bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp và cũng là cơ sở để cho thanh niên thực hiện
nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, song song với những biểu hiện tích cực thì có
những mặt hạn chế còn tồn đọng và cần phải khắc phục kịp thời, như ảnh
hưởng của những mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn tới nhận thức và
hành động pháp luật của thanh niên vẫn còn nhiều sai phạm. Việc ban hành và
tổ chức thực hiện pháp luật còn nhiều bất cập, lỏng lẻo cộng với đặc điểm
nhân cách và tâm sinh lý chung của tầng lớp thanh niên làm cho việc vi phạm
pháp luật của thanh niên đã và đang trở thành một vấn nạn đầy nhức nhối và
thách thức của Đất nước.
25


* Nguyên nhân hạn chế:
Sự hạn chế về YTPL của thanh niên hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Việc chỉ ra những nguyên nhân hạn chế về YTPL của thanh niên có ý nghĩa rất
quan trọng, nó chính là cơ sở để đề ra các giải pháp hiệu quả, thiết thực trong
việc nâng cao YTPL cho thanh niên hiện nay. Qua nghiên cứu thực tế cho thấy,
sự hạn chế YTPL của thanh niên được bắt nguồn từ một số vấn đề cơ bản sau:
Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường đến YTPL của thanh niên.

Việt Nam bước vào thời kỳ chủ động hội nhập với nền kinh tế toàn cầu
và khu vực đã làm cho đời sống xã hội có nhiều biến đổi, trong thời gian ngắn
đã có rất nhiều ngành nghề kinh doanh mới ra đời mang lại nguồn lợi lớn cho
nhà đầu tư và cũng mang lại nguồn lợi không nhỏ cho Nhà nước. Tuy nhiên
cũng từ việc kinh doanh các loại hình theo cơ chế thị trường như việc kinh
doanh nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ massage xông hơi, các quán
internet, các câu lạc bộ bia, vũ trường, quán ba, băng đĩa đồi trụy tràn lan trên
thị trường không được kiểm soát một cách chặt chẽ đã tạo ra môi trường sống
độc hại, ảnh hưởng không nhỏ đến YTPL của thanh niên. Các loại hình kinh
doanh này ẩn chứa rất nhiều tiêu cực, kinh doanh không theo đăng ký, không
được sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước và chính quyền địa phương, vì thế vô
hình chung đã làm cho xã hội bị ảnh hưởng từ các mặt tiêu cực - mặt trái của
nó và chính những điều này đã làm cho nhân cách và việc hoàn thiện nhân
cách của thanh niên bị méo mó, đặc biệt khi thanh niên là những người đang
ở độ tuổi hiếu động, tò mò, thích khám phá cuộc sống và những điều mới lạ
và đua đòi. Đó chính là những nguyên nhân chính, trực tiếp làm gia tăng tình
hình trẻ hoá tội phạm trong thời gian gần đây.
Sự quản lý lỏng lẻo của gia đình ảnh hưởng đến YTPL của thanh niên
Xã hội phát triển, mỗi con người, mỗi gia đình đều quý trọng thời gian,
công việc, quan hệ, kiếm tiền… Vì thế, các bậc cha mẹ, và những người lớn
26


tuổi trong gia đình không có nhiều thời gian để quan tâm, chăm sóc, chia sẻ
những niềm vui nỗi buồn và cả những tâm sự riêng tư trong cuộc sống của
các thành viên trong gia đình, đặc biệt thanh thiếu niên. Đã có nhiều gia đình
bị rạn nứt về chuyện tình cảm, hôn nhân gia đình không được hạnh phúc…
Các thành viên trong gia đình không có sự kính trọng, thương yêu, giúp đỡ,
chăm sóc lẫn nhau mà chỉ tình cảm hoá sự chân thành, tình yêu thương bằng
những nghĩa vụ và bổn phận cần phải thực hiện nên đã vô hình chung tạo ra

sự xa cách, lãnh cảm, không có sự kết nối thân thiết giữa các bậc cha mẹ, ông
bà với con cái như trước đây, đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng hiện nay có rất nhiều thanh thiếu niên cảm thấy mình bị lạc lõng và bị
bỏ rơi nên lao vào các tệ nạn xã hội… với mục đích tìm các cảm giác lạ, tìm
các niềm vui mới trong xã hội vốn đã đầy rẫy sự phức tạp với vô vàn các tác
động xấu. Đó cũng chính là nguyên nhân không nhỏ làm trẻ hoá tội phạm.
Hơn nữa, trong thời gian gần đây đã có nhiều gia đình, trong đó cha mẹ không
quan tâm đến việc giáo dục nhân cách cho con cái, mà phần lớn đều có tâm lý
chung là chuyển giao nghĩa vụ này cho nhà trường và các thầy cô giáo.
Nhưng nhà trường và các thầy cô giáo chỉ chú trọng đến việc giáo dục và
chăm lo đến sự phát triển về tri thức, chưa thực sự chú ý đến việc giáo dục về
nhân cách cho thế hệ học sinh, sinh viên. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
sự hạn chế YTPL của thanh niên.
Sự phát triển kinh tế không đồng đều tác động đến YTPL của thanh niên.
Xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, tốc độ đô
thị hoá ngày càng nhanh thì sự chênh lệch về giàu nghèo ngày càng lớn, trong
khi đó lại thường xuyên xảy ra các biến động lớn làm cho kinh tế, xã hội bị
ảnh hưởng như nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng, lạm phát và khủng hoảng
kinh tế ngày càng có nhiều nguy cơ, chưa có cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành
nghề hợp lý nên không điều chỉnh được tỷ lệ di dân tự do từ các vùng nông
thôn lên các thành phố lớn để làm ăn và sinh sống với nhiều ngành nghề khác
27


×