Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ TRIẾT học đạo đức NGƯỜI cán bộ cơ sở ở HUYỆN THƯỜNG tín HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.56 KB, 100 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Chính trị Quốc gia

Chữ viết tắt
CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

Hội đồng nhân dân

HĐND

Nhà xuất bản

Nxb

Quân đội nhân dân

QĐND



Trang

tr

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Tran
g
MỞ ĐẦU

4

Chương 1 THỰC CHẤT VÀ TÌNH HÌNH ĐẠO ĐỨCNGƯỜI
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN
1.1. Thực chất đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường

10

Tín
1.2. Tình hình đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường


10

Tín hiện nay
Chương 2 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC

37

NGƯỜI CÁN BỘ CƠ SỞ Ở HUYỆN THƯỜNG
TÍN HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu xây dựng đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện

55

Thường Tín hiện nay
2.2. Những giải pháp cơ bản xây dựng đạo đức người cán bộ

55

cơ sở ở huyện Thường Tín hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63
85
87
91

2



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là cái “gốc” của mọi công việc”,
“công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [28, tr.273].
Trong xây dựng chính quyền ở cấp xã hoặc tương đương thì cán bộ cơ sở có
vai trò đặc biệt quan trọng. Cán bộ cơ sở không những gần dân nhất mà còn
trực tiếp tổ chức, vận động quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân
cư. Cho nên, để chính quyền ở cấp xã hoặc tương đương thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý địa phương một cách có hiệu lực, hiệu quả thì trước hết
người cán bộ vừa có “đức”, vừa có “tài”, trong đó đạo đức là “gốc”. Đạo đức
người cán bộ cơ sở là phẩm chất cơ bản, hàng đầu tạo nên giá trị nhân cách,
uy tín và góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi của chính mình, đồng thời
còn là cơ sở nâng cao ý thức trách nhiệm của họ trong công tác. Sự mẫu mực
về đạo đức ở người cán bộ cơ sở có tác dụng to lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo,
quản lý và vận động quần chúng nhân dân xây dựng địa phương vững mạnh
và phát triển bền vững.
Xây dựng đạo đức người cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nội dung cơ bản và yêu cầu thường
xuyên của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước cũng như
xây dựng chính quyền ở cấp cơ sở. Theo đó, trong quá trình công tác, dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, cán bộ cơ sở ở
huyện Thường Tín cũng đã và đang không ngừng nỗ lực tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, đáp ứng yêu cầu về những phẩm chất đạo đức cần có trong nhân
cách người cán bộ hoạt động ở cấp xã hoặc tương đương. Tuy vậy, so với yêu
cầu mới về xây dựng đội ngũ cán bộ trong huyện thì chất lượng cán bộ cơ sở

3


còn bộc lộ những yếu kém, bất cập, nhất là trong công tác quản lý, tổ chức
vận động quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước. Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống cũng như quan liêu, tham
nhũng, mất đoàn kết nội bộ… vẫn còn diễn ra. Có địa bàn sự vi phạm ấy ở
mức độ khá nghiêm trọng. Vấn đề này đã và đang ảnh hưởng không nhỏ tới
sự phát triển, hoàn thiện phẩm chất đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện
Thường Tín hiện nay.
Thực hiện đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng nông thôn mới ở
huyện Thường Tín đang đặt ra yêu cầu nâng cao hơn nữa về phẩm chất và
năng lực của người cán bộ cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức nhân
dân xây dựng (thôn) xã, (cụm dân cư) thị trấn vững mạnh theo 19 tiêu chí đặt
ra. Bởi vậy, bên cạnh quan tâm đến năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thì phẩm
chất đạo đức là nhân tố chủ đạo trong việc định hướng hoạt động của người
cán bộ cơ sở. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới nâng cao chất lượng
người cán bộ cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới.
Như vây, từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Đạo đức người cán bộ
cơ sở ở huyện Thường Tín hiện nay” vừa là vấn đề cơ bản, vừa có ý nghĩa
thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trên cơ sở thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng sản, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã luận giải sâu sắc nguồn gốc, bản chất, giá trị của đạo đức
và mối quan hệ của đạo đức với các yếu tố khác trong đời sống xã hội; đồng
thời, đặt nền móng cho những nguyên lý của nền đạo đức mới - đạo đức cộng
sản. Bảo vệ, phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề đạo đức,
V.I.Lênin trình bày có hệ thống về nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản. Theo
V.I.Lênin, giá trị, tiêu chuẩn của đạo đức cộng sản là phục vụ cho tiến bộ xã
hội, vì tự do, hạnh phúc của con người; đồng thời, ông chỉ rõ tính giai cấp,

tính chiến đấu, vai trò to lớn của đạo đức cộng sản. V.I.Lênin viết: “Đối với
4


chúng ta, đạo đức phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản… Đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội của giai cấp bóc lột và
đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng
tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [21, tr.368 - 369].
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về đạo đức, đạo đức cộng sản, đồng thời kế thừa giá trị đạo đức tốt đẹp của
dân tộc và nhân loại để xây dựng những quan điểm về đạo đức cách mạng.
Đạo đức đó vì lợi ích chung của Đảng, của nhân dân. Theo đó, vấn đề đạo
đức đã được Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng đặc biệt quan tâm trong
quá trình đào tạo bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Nhiều bài viết, bài nói của Người để lại được tập hợp và đó là những
công trình nghiên cứu về đạo đức cách mạng như: “Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng”, Nxb Sự thật, Hà Nội 1976; “Chủ Tịch Hồ Chí Minh với vấn đề
đạo đức cách mạng”, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội 1986; “Học tập đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh”, Nxb Thông tấn, Hà Nội 2004.
Trong các năm qua đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về tác
động của kinh tế thị trường đến sự biến đổi giá trị, thang giá trị đạo đức ở
nước ta, trong đó có các công trình tiêu biểu: “Sự biến đổi của thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay”, Nguyễn Chí Mỳ chủ biên, Nxb CTQG, Hà
Nội 1999; “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách người Việt Nam
trong điều kiện đổi mới hiện nay”, Lê Thị Thuỷ, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội
2001; Huỳnh Khánh Vinh (Chủ biên), "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức,
chuẩn giá trị xã hội", Nxb CTQG, Hà Nội 2001; Thái Duy Tiên và Phạm
Minh Hạc (chủ biên) (2012) “Định hướng giá trị con người Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập, Nxb CTQG, Sự thật, Hà Nội; Vũ Khiêu (2013),

“Đạo đức xã hội - nổi lo chung của toàn nhân loại, Trung tâm Khoa học xã
hội và nhân văn, Hà Nội.
5


Trong các công trình này, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo
đức, những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ. Các tác giả
cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục
đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của môi trường kinh tế, văn hóaxã hội nhất định, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đạo đức cách
mạng của cán bộ hiện nay.
Thực tế cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ trong những năm qua không giảm. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân nào
khiến cho những giải pháp của chúng ta đề ra chưa được thực hiện hiệu quả?
Bàn về vấn đề này có các bài viết có thể kể đến là: Nguyễn Văn Phúc (2007),
“Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới”,
Tạp chí Triết học, Số 3; Nguyên Hữu Toàn (2010) “Giữ gìn và phát huy các
giá trị đạo đức truyền thống trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, giao
lưu văn hóa và hội nhập quốc tế”, Tạp chí phát triển nguồn nhân lực, Số 1;
Phan Quốc Huy (2011) “Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, Số 235;
Trần Văn Bính (2013), “Biến đổi trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội nước ta
trước tác động của nền kinh tế thị trường”, Tạp chí Cộng sản, Số 853; Lê Vũ
Dũng (2014), “Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên là yêu cầu
cấp thiết hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 212; Lâm Văn Đồng (2014),
“Tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho người thầy thuốc ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận, Số 8; Nguyễn Thị Thu Hường (2014), “Chuẩn
mực đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị”, Tạp chí Khoa học Xã hội
Việt Nam, Số 2; Nguyễn Thanh Tịnh (2014), “Nâng cao đạo đức cho đội ngũ
cán bộ quân y hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Số 5;
Nguyễn Thị Thu Hà (2016), “Văn hóa chính trị với đạo đức người cán bộ,

công chức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, Số 2.
6


Nhiều nhà khoa học trong quân đội cũng tập trung nghiên cứu đạo đức
cách mạng của các đối tượng cụ thể và có phạm vi nghiên cứu khác nhau, như:
“Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh niên QĐNDVN trong tình hình hiện
nay”, Nguyễn Hùng Oanh, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2002; Viện Khoa
họ xã hội và nhân văn quân sự, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
của người cán bộ quân đội”, Nxb QĐND, Hà Nội 2008; Vũ Đăng Khiên (2011),
Nghiên cứu giải pháp nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ quân
y cấp phân đội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Đề tài cấp Bộ Quốc
phòng, Hà Nội; Nguyễn Thanh Tịnh (2015) “Nâng cao y đức người bác sĩ ở
phân đội quân y trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh;…
Tuy có nhiều đề tài nghiên cứu về đạo đức, đạo đức cách mạng, song
mỗi đề tài tiếp cận một góc độ khác nhau và chưa có đề tài nào nghiên cứu
“Đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín hiện nay” Bởi vậy, tác giả
lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu cung cấp những luận chứng khoa
học và đề xuất giải pháp nhằm góp phần xây dựng đạo đức người cán bộ cơ
sở ở huyện Thường Tín hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận chứng thực chất đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín.
- Phân tích thực trạng đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín hiện nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm góp phần xây dựng đạo đức người cán bộ cơ
sở ở huyện Thường Tín hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Bản chất đạo đức người cán bộ cơ sở.
* Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề liên quan đến đạo đức người cán
bộ cơ sở ở huyện Thường Tín, từ năm 2010 đến nay.
7


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, của ĐCSVN về đạo đức cách mạng.
* Cơ sở thực tiễn: Tình hình đời sống xã hội, đời sống đạo đức của đội
ngũ cán bộ nói chung, của cán bộ cấp cơ sở nói riêng; các văn kiện và báo cáo
tổng kết năm của xã, huyện, số liệu điều tra khảo sát về tình hình thực tiễn
đạo đức người cán bộ ở một số xã thuộc huyện Thường Tín hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng phương pháp
tiếp cận hệ thống cấu trúc - hoạt động - giá trị và một số phương pháp khác:
phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp điều tra xã hội học,
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài cung cấp một số vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận về đạo
đức người cán bộ cơ sở, góp phần đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
cơ sở ở huyện Thường Tín hiện nay.
- Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở của huyện Thường Tín.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

8



Chương 1
THỰC CHẤT VÀ TÌNH HÌNH ĐẠO ĐỨC
NGƯỜI CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN

1.1. Thực chất đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín
1.1.1. Quan niệm về đạo đức cách mạng
Đạo đức là một hiện tượng xã hội, thuộc lĩnh vực tinh thần, xuất hiện
và tồn tại cùng với sự hình thành, phát triển của xã hội loài người. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, con người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều
chỉnh hành vi nhằm duy trì xã hội trong vòng trật tự. Đạo đức xuất hiện với
vai trò là một phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người
với người nhằm đem lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội. Con người chân chính,
đích thực được đánh giá trước hết bằng đạo đức. Đạo đức tiến bộ góp phần
sáng tạo nên những giá trị cơ bản - Chân - Thiện - Mỹ - nền tảng tinh thần của
xã hội, thuộc tính bản chất của con người. Đạo đức tồn tại hiện hữu trong ý
thức, hành vi ở mỗi người và là thước đo trình độ phát triển của con người.
Trong lịch sử triết học, khi bàn về vấn đề đạo đức đã có những quan
điểm khác nhau. Với khuynh hướng tư tưởng tiến bộ, đạo đức luôn được quan
niệm một cách hiện thực, gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội và phản ánh đời
sống xã hội, trực tiếp phản ánh hiện thực quá trình lao động sản xuất của xã
hội ở các giai đoạn lịch sử nhất định.
Cùng với sự vận động, phát triển của xã hội, đạo đức cũng không
ngừng vận động, phát triển theo. Nội hàm của đạo đức ngày càng được mở
rộng và hoàn thiện. Quan niệm của con người về đạo đức ngày càng đúng đắn
và hoàn chỉnh hơn. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh dư luận xã hội.
9



Trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bản
chất giai cấp của đạo đức chính là sự biểu hiện đặc trưng bản chất xã hội của
đạo đức trong xã hội có đối kháng giai cấp. Mỗi giai cấp đều có hệ thống đạo
đức riêng, phản ánh những lợi ích và các quan hệ thực tiễn của mình. Bàn về
vấn đề này, Ph.Ăngghen khẳng định: “Cho đến nay, xã hội đã vận động trong
những sự đối lập về giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai
cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc
là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy
chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những
người bị áp bức” [1, tr.137].
Ngày nay, đạo đức tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị
áp bức (như Ph.Ăngghen đã nói) chính là đạo đức mới - đạo đức cộng sản. Kế
thừa tư tưởng về đạo đức của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã khẳng
định: giá trị, tiêu chuẩn của đạo đức cộng sản là phục vụ cho tiến bộ xã hội, vì
tự do, hạnh phúc của con người; đồng thời, V.I.Lênin chỉ rõ tính giai cấp, tính
chiến đấu và vai trò to lớn của đạo đức cộng sản trong sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Lý luận về đạo đức mà các nhà kinh điển Mác-Lênin chỉ ra
đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong hệ thống lý luận mácxít, là kim chỉ
nam cho các Đảng Cộng sản, phong trào công nhân thế giới trong quá trình
đấu tranh, hiện thực hoá nền đạo đức cao đẹp vào thực tiễn xây dựng CNXH
ở mỗi nước.
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về bản chất, nội dung của đạo đức cộng sản; đồng thời, kế thừa giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, tinh hoa giá trị đạo đức của nhân loại để xây dựng
những quan điểm về đạo đức cách mạng. “Đạo đức cách mạng”, theo cách gọi
của Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cộng sản ở Việt Nam. Đạo đức
cách mạng đã trở thành những giá trị, chuẩn mực đạo đức của con người Việt
Nam cũng như của cán bộ cách mạng. Vì vậy, trau dồi đạo đức cách mạng

10


luôn là yêu cầu nền tảng của mỗi con người trong cuộc sống cộng đồng. Yêu
cầu đó càng trở nên đặc biệt cần thiết đối với người cán bộ cách mạng, trong
đó có người cán bộ cơ sở. Khi khẳng định vai trò to lớn của đạo đức cách
mạng trong nhân cách người cán bộ cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu:
“Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức
cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính… Mọi việc thành hay
là bại chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”
[31, tr.480]; “Người đảng viên, người cán bộ muốn trở thành người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng” [28, tr.136].
Uy tín của người cán bộ được tạo nên không chỉ bởi tài năng, mà trước
hết còn bởi đạo đức trong sáng của họ. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng viên
và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song, đã hiểu biết,
đã tình nguyện vào một đảng vì nước vì dân, đã là một người cách mạng thì
phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì tính xấu
của mỗi người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng
viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến dân” [28, tr.254]. Sinh thời,
Người thường xuyên nhấn mạnh đến vai trò của đạo đức và coi trọng giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh khẳng định đạo đức cách mạng là “ gốc”, “nền tảng” của người cách
mạng, “cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo, ngừời cách mạng phải có đạo
đức cách mạng. Không có đạo đức cách mạng thì không lãnh đạo được nhân
dân” [28. tr.252]. Có đạo đức cách mạng thì không quản khó khăn gian khổ
sẵn sàng hy sinh, vì lợi ích của Đảng, của giai cấp, của dân tộc và nhân loại.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề đạo đức, có thể khẳng định: đạo đức cách mạng là hệ thống
các quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức được kết tinh từ những

tinh hoa đạo đức nhân loại và đạo đức truyền thống của dân tộc; phản ánh
11


thực tiễn sinh động, xuất phát từ lợi ích sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân; hướng tới sự giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Quan niệm, vai trò của đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện
Thường Tín
* Quan niệm về đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín:
Khái lược về huyện Thường Tín:
Thường Tín là huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, diện tích là
127,59 km2, với 28 xã - được phân thành 196 thôn và 01 thị trấn. Dân số của
huyện khoảng trên 240.000 người. Phía bắc giáp huyện Thanh Trì; phía nam
giáp huyện Phú Xuyên; phía đông giáp huyện Khoái Châu của tỉnh Hưng Yên
với ngăn cách tự nhiên là sông Hồng; phía tây giáp huyện Thanh Oai.
Huyện Thường Tín có chung truyền thống ngàn năm văn hiến với
Thăng Long - Hà Nội. Hiện nay, huyện Thường Tín có 385 di tích cổ có giá
trị về lịch sử văn hóa, trong đó có 46 di tích được xếp hạng di tích cấp tỉnh thành phố, 56 di tích được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Huyện Thường Tín
có 126 làng cổ, trong đó 46 làng được công nhận làng nghề. Huyện Thường
Tín được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu: Đơn vị anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp.
Trong tiến trình lịch sử, đặc biệt là từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay cán
bộ và nhân dân huyện Thường Tín luôn kế thừa và phát huy truyền thống:
kiên cường, dũng cảm, đoàn kết, sáng tạo, tuyệt đối trung thành với Đảng và
vững tin vào con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên CNXH.
Trong lao động sản xuất cũng như xây dựng quê hương cán bộ, nhân dân
Thường Tín luôn trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng, vươn lên
cùng với những thăng trầm của đất nước, từng bước tháo gỡ khó khăn, khôi
phục và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng được giữ vững, xây

dựng huyện nhà ngày càng giàu đẹp. Cán bộ, nhân dân huyện Thường Tín
12


chung sức, chung lòng cùng với cán bộ, nhân dân Thủ đô Hà Nội và cả nước
phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới ở địa phương, cán bộ các
cấp, trong đó có cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín luôn lãnh đạo, quản lý và
tổ chức nhân nhân nắm bắt thời cơ, vượt lên thách thức, hiện thực hóa đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vào điều kiện cụ thể của
địa phương. Đến nay, huyện Thường Tín đã đạt được những kết quả trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Kinh tế phát triển khá, cùng với việc chuyển
dịch cơ cấu sản xuất có hiệu quả, giữ vững và phát huy ngành nghề truyền
thống. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 11 cụm công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp; có 36 trường được công nhân đạt chuẩn Quốc gia; có 13 đơn vị đạt xã
chuẩn quốc gia về y tế theo tiêu chí mới; có 50 % tổ dân phố, 57,57% số làng
và 63,13% cơ quan, đơn vị được công nhận danh hiệu văn hóa; đặc biệt
Thường Tín là một trong số huyện đi đầu trong triển khai xây dựng nông thôn
mới. Tính đến nay toàn huyện có 11 xã đã được Ủy ban Nhân dân Thành phố
công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới [41, tr.3]. Chính sách xã hội được thực
hiện ngày càng có hiệu quả. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng
bước được cải thiện, nâng cao. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ
vững. Công tác xây dựng đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng cũng
như công tác xây dựng đội ngũ cán bộ có nhiều tiến bộ. Cán bộ các cấp, trong
đó có cán bộ cơ sở và nhân dân Thường Tín đang cùng cán bộ, nhân dân Thủ
đô và cán bộ, nhân dân cả nước tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và phát triển nông thôn mới.
Quan niệm về cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín:
Cơ sở là đơn vị ở cấp dưới cùng, nơi trực tiếp thực hiện các hoạt động

như sản xuất, công tác... của một hệ thống tổ chức, trong quan hệ với các bộ
phận xã hội cấp trên. Trong hệ thống bộ máy chính quyền của Nhà nước,
13


chính quyền ở cấp cơ sở, tức là cấp xã hoặc tương đương - nơi thực hiện năng
quản lý nhà nước trong phạm vi địa giới hành chính. Về mặt pháp lý và thực
tiễn có thể coi chính quyền cơ sở như trụ cột của hệ thống chính trị cơ sở.
Hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương được thực hiện, trước hết là bởi
cán bộ cơ sở.
Cán bộ cơ sở là những người trực tiếp lãnh đạo, quản lý toàn bộ nhân
dân trên địa bàn hiện thực hóa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Cán bộ các cấp nói chung, cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín
nói riêng đảm nhận nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý và tổ chức nhân dân địa
phương xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội; chỉ đạo, tổ chức các hoạt động
văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… ở địa phương.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý, người cán bộ cơ sở là “công bộc của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, học tập, nâng cao trình độ và công tác để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ được giao” [35, tr.3]. Theo đó, chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết
sức quan trọng cả trước mắt và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Trong hệ thống bộ máy chính quyền nước ta, chính quyền ở cấp cơ sở có đặc
điểm cơ bản sau:
Một là, cơ sở (xã và tương đương) là nơi có nhiều công việc gần dân
mà người cán bộ cơ sở đảm nhận, tổ chức thực hiện và giải quyết.
Cán bộ cơ sở là những người chịu trách nhiệm trực tiếp quán triệt, triển
khai chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
thông tư, chỉ thị của các cấp; tổ chức xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, y tế, giáo dục ở địa phương; tiếp dân, giải quyết hàng ngày những

công việc của dân như: tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, việc hiếu, hỷ, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, giải quyết các tệ nạn xã hội... Có thể nhận thấy, sự ổn
định của nhân dân chính là ở cơ sở. Những bức xúc của dân cũng chính là ở
14


cơ sở. Những loại công việc trên đây diễn ra hàng ngày, hàng giờ, trực tiếp
với dân đòi hỏi cán bộ cơ sở tiếp nhận và giải quyết. Có thể khẳng định, cán
bộ cơ sở trực tiếp tiếp dân nhiều hơn so với cán bộ cấp trên cơ sở. Họ là
những người có nhiều loại công việc gần dân cần giải quyết so với cán bộ các
cấp trên cơ sở.
Hai là, cơ sở (xã và tương đương) là nơi, mà ở đó đội ngũ cán bộ có
trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau.
Ở các xã thuần nông, cán bộ cơ sở chịu trách nhiệm quản lý hành
chính hàng trăm hộ gia đình, hàng chục hecta cây trồng, hàng ngàn gia súc,
gia cầm... nhưng cán bộ có trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ khác
nhau, thậm chí có trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ chênh lệch nhau khá
lớn. Một số ít cán bộ cơ sở có trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ bậc
sau đại học, đại học; một số cán bộ có trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp
vụ bậc cao đẳng, cao đẳng nghề, trung cấp. Tính đa dạng, không đồng đều của
trình độ đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ còn thể hiện ở các lĩnh vực mà
người cán bộ cơ sở phụ trách. Trong một số trường hợp người cán bộ hàng
ngày phải tiếp cận với nhiều loại công việc đòi hỏi phải có trình độ chuyên
môn cao như: pháp luật, địa chính, tài nguyên, thuế, môi trường, văn hóa xã,
…trong khi đó họ chỉ được đào tạo về một chuyên môn, nghiệp vụ nhất định.
Ở thị trấn, cán bộ cơ sở không những quản lý hành chính hàng trăm hộ gia
đình mà còn có một số cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, trường học, bệnh
viện đóng trên địa bàn.
Ba là, cơ sở (xã và tương đương) là nơi có đời sống văn hóa xã hội đa
dạng và có nhiều tầng lớp dân cư sinh sống.

Từ cán bộ lãnh đạo cao cấp đến người dân bình thường đều sống và
sinh hoạt cộng đồng ở cơ sở. Số lượng và chất lượng dân cư phân bố không
đồng đều giữa các xã, giữa thị trấn và nông thôn, giữa các địa giới và điều
kiện tự nhiên cũng rất khác nhau. Theo đó, dường như các lễ hội văn hóa,
15


thuần phong, mỹ tục đều bắt nguồn và diễn ra ở cơ sở. Văn hóa đã và đang
hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời nhất, sâu sắc nhất ở cơ sở, ngay mỗi
gia đình, thôn, xóm, tức là ở cơ sở. Ngoài ra, ở cơ sở, cán bộ được hưởng chế
độ lương và phụ cấp khá thấp. Tuy sự điều chỉnh chính sách về lương, phụ
cấp cho cán bộ cơ sở, nhưng vẫn khá thấp so với yêu cầu ngày càng cao của
nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, so với sự phát triển mạnh mẽ của đời sống
xã hội.
Bốn là, cơ sở (xã và tương đương) là nơi - điều kiên cơ sở vật chất có
những khó khăn so với cấp trên cơ sở. Ở những xã thuần nông, tuy cơ sở vật
chất và điều kiện làm việc có sự cải thiện, nhưng nhìn chung vẫn khó khăn,
các trạm xá xã, trường học, khu hoạt động văn hóa, hệ thống điện, nước, giao
thông nông thôn, các trang thiết bị phục vụ cho lãnh đạo, quản lý địa phương
ở một mức độ còn khá khiêm tốn.
Như vậy, từ sự phân tích trên có thể khẳng định: cán bộ cơ sở ở huyện
Thường Tín là những cán bộ (xã và tương đương), là những người trực tiếp
lãnh đạo, quản lý và tổ chức nhân dân trên địa bàn hiện thực hóa các nghị
quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, xây dựng địa
phương vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH,
xây dựng nông thôn mới.
Đạo đức cách mạng thể hiện sinh động trong từng con người, lớp (đối
tượng) người và ở mỗi lĩnh vực cụ thể. Sinh thời, Hồ Chí Minh không những
đề cập tới các chuẩn mực đạo đức cách mạng nói chung, mà còn đặc biệt quan
tâm đến việc cụ thể hoá yêu cầu về chuẩn mực đạo đức gắn với từng lớp

người, mỗi loại cán bộ thuộc mỗi lĩnh vực, các cấp trong hệ thống tổ chức xã
hội. Theo đó, đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín mang những
thuộc tính chung của đạo đức cách mạng, đồng thời biểu hiện sinh động ở
những người cán bộ cụ thể gắn với đặc điểm môi trường công tác, chức trách,
nhiệm vụ của người cán bộ cơ sở.
16


Trên cơ sở sự tiếp cận về thống nhất giữa cái chung, cái riêng và cái đơn
nhất cấu thành đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín, có thể quan
niệm: Đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín mang bản chất đạo
đức cách mạng, là tổng hòa những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức
của xã hội, của người cán bộ của Đảng, Nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, quản
lý và tổ chức quần chúng nhân dân ở chính quyền cấp xã và tương đương
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử trong các mối quan hệ nghề nghiệp
của họ tại địa bàn mà người cán bộ cơ sở sinh sống, công tác.
Quan niệm về đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín được thể
hiện ở các phương diện cơ bản sau:
Về phương diện cấu trúc: cấu trúc đạo đức nói chung cũng như đạo đức
người cán bộ cơ sở nói riêng bao gồm ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và
thực tiễn đạo đức. Đạo đức vận hành như một hệ thống tương đối độc lập của
xã hội. Cơ chế vận hành của nó được hình thành trên cơ sở mối quan hệ biện
chứng của những yếu tố hợp thành đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo
đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín, có thể xem xét nó dưới nhiều
góc độ. Mỗi góc độ chỉ rõ một lớp cấu trúc xác định. Xét đạo đức theo mối
quan hệ giữa ý thức và hoạt động của người cán bộ cơ sở thì hệ thống đạo đức
hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và hành vi đạo đức ở người cán bộ cơ
sở. Nếu xét đạo đức trong mối quan hệ giữa người và người thì người ta nhìn
ra quan hệ đạo đức,... Trên quan điểm tổng hợp và phương pháp tiếp cận hệ
thống - cấu trúc - hoạt động thì cấu trúc của đạo đức người cán bộ cơ sở bao

gồm: ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức. Mỗi yếu tố có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau trong sự vận động, phát triển và chuyển hóa của hệ
thống đạo đức người cán bộ cơ sở.
Về phương diện giá trị: đạo đức người cán bộ cơ sở chính là hệ thống
giá trị đạo đức cách mạng với những giá trị cơ bản (chuẩn giá trị) là: Trung
thành tuyệt đối với Đảng, ra sức thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng cách
17


mạng; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, yêu thương con người; kết hợp
chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp
công nhân và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản; chủ nghĩa tập thể, tinh thần đoàn
kết; không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng trong những giai đoạn lịch sử - cụ thể.
Về phương diện chuẩn mực: Đạo đức người cán bộ cơ sở được biểu
hiện tập trung ở các chuẩn mực cơ bản sau:
Thứ nhất, với Tổ quốc: trung thành, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phẩm chất này là cái gốc của
người cán bộ nói chung, người cán bộ cơ sở nói riêng; là chuẩn mực, giá trị
cao nhất về đạo đức cách mạng của người cán bộ cơ sở.
Trung thành với Tổ quốc là trung thành với sự nghiệp cách mạng,
quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia dân tộc- cái nôi để con người
Việt Nam tồn tại và phát triển. Theo Hồ Chí Minh, phẩm chất đặc trưng tiêu
biểu hàng đầu của đạo đức người cán bộ là “Trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng” [28, tr.480]. Nghị định của
Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, trị trấn chỉ rõ: Cán bộ, công
chức cấp xã phải có nghĩa vụ: “Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng địa phương phát triển
về mọi mặt” [35, tr.3]. Lòng trung thành ấy, luôn nuôi dưỡng từ lòng yêu
nước truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Mỗi con người Việt Nam cũng như

người cán bộ chân chính, từ trong sâu thẳm tâm hồn, luôn mang theo tình yêu
quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc. Theo đó, người cán bộ cơ sở trước
hết phải trung thành với Tổ quốc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH. Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối đổi mới đất nước của Đảng; kiên
quyết ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia,
phá hoại hòa bình, độc lập, tự do của Tổ quốc; tích cực và sẵn sàng tham gia
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tận
18


tâm, tận lực đóng góp công sức, trí tuệ vào công tác lãnh đạo, quản lý địa
phương, xây dựng thôn, xóm, làng xã ngày càng giàu mạnh, văn minh, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và phát triển nông thôn mới,
góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển bền vững đất nước vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai, với nhân dân: gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân,
hiểu dân, phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Sinh thời, Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn cán bộ cách mạng, cũng như cán bộ
cơ sở phải hết lòng, hết sức, phục vụ nhân dân. Người xác định: “Chúng ta phải
hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công
bộc của dân, nghĩa là để ngánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu
dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân,
ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu
dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” [27, tr.56-57].
Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ phải chăm lo đến đời sống mọi mặt của
nhân dân, từ “những việc nhỏ như tương cà, mắm muối cần thiết cho đời sống
hàng ngày” đến “đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền
kinh tế và văn hóa tiên tiến”, nhằm phục vụ tốt hơn việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Cán bộ, công chức cấp xã không những là “công
bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân” mà còn phải “liên hệ chặt chẽ

với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng nơi cư trú, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân” [35, tr.3-4].
Trên tinh thần tư tưởng ấy của Người, đòi hỏi cán bộ cơ sở ở huyện
Thường Tín phải nắm vững quan điểm vì dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Kiên quyết đấu tranh với mọi hành vi xâm phạm quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Gần gũi với nhân dân, khi giao tiếp với
công dân phải có thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn, tôn trọng, lắng nghe,
ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng; không quan liêu, hách dịch, cửa
19


quyền, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức và nhân
dân khi thực hiện nhiệm vụ; công tâm, khách quan, tận tình hướng dẫn nhân
dân thực hiện quy trình, thủ tục theo quy định khi giải quyết công việc. Tuyên
truyền, giải thích, vận động nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, với công việc: hiểu biết, trách nhiệm, yêu ngành, yêu nghề,
vượt khó để hoàn thành tốt nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý địa phương. Nhận thức
rõ vị trí, vai trò, ý nghĩa công việc được giao. Giỏi về chuyên môn, thường
xuyên cập nhật quy định của pháp luật. Không ngừng học tập nâng cao trình
độ, kỹ năng nghiệp vụ và nghiên cứu, đề xuất cải tiến, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác ở chính quyền địa phương.
Thực hiện nhiệm vụ được giao đảm bảo chất lượng, hiệu quả; báo cáo
kịp thời với cấp có thẩm quyền về những khó khăn, vướng mắc; chịu trách
nhiệm về kết quả công việc do mình phụ trách; khi mắc khuyết điểm, sai lầm
phải dũng cảm tự phê bình, dám nhận khuyết điểm và nghiêm túc sửa chữa.
Yêu ngành, yêu nghề, tự hào với công việc đang làm. Tận tụy với công việc,
chủ động, sáng tạo, không ngừng cống hiến trí tuệ, tài năng trong lãnh đạo,
quản lý địa phương.
Thứ tư, với đồng nghiệp: chân tình, thẳng thắn, hợp tác, giúp nhau cùng

tiến bộ. Quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ, chân thành, hỗ trợ, phối hợp với nhau
trong công việc và cuộc sống. Tôn trọng tập thể, mình vì mọi người. Chống
chia rẽ, bè phái, đố kỵ, chủ nghĩa cá nhân. Thẳng thắn tự phê bình và phê
bình, góp ý với thái độ tích cực, cầu tiến để cùng nhau rút kinh nghiệm, sửa
chữa, thực hiện công việc với chất lượng tốt hơn. Phục tùng, chấp hành quyết
định của cấp trên và của tổ chức. Cán bộ lãnh đạo, quản lý địa phương không
được lạm dụng chức vụ để trục lợi; nắm bắt kịp thời tâm lý, phát huy khả
năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, chủ động của cán bộ cấp dưới và nhân dân.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; tạo điều kiện học tập, tôn trọng và xây
20


dựng niềm tin cho nhân dân; bảo vệ danh dự của cán bộ khi bị phản ánh,
khiếu nại, tố cáo không đúng sự thật.
Thứ năm, với bản thân: quán triệt sâu sắc và thực hành tốt cần,
kiệm, liêm, chính, sống và làm việc theo Hiếp pháp và pháp luật. Quán
triệt và thực hành có chất lượng, hiệu quả về cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, nói đi đôi với làm; thường xuyên tự rèn luyện đạo đức để có
lối sống lành mạnh, trong sáng, giản dị, khiêm tốn. Biết yêu thương
những người xung quanh, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê
bình. Gương mẫu chấp hành những quy định, kỷ cương, kỷ luật của cơ
quan, đoàn thể và của nơi cư trú. Thực hiện nghiêm các quy định về
những điều công chức, viên chức không được làm theo quy định tại Luật
Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật;
19 điều Đảng viên không được làm. Gương mẫu trong sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả tài sản, của công. Hướng dẫn, tuyên truyền, vận động nhân dân
chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, quy định của địa phương nơi sinh sống.
Về tiêu chí đánh giá đạo đức người cán bộ cơ sở: gồm nhiều nội dung

được biểu hiện thông qua những chuẩn mực cụ thể về đạo đức người cán bộ
cơ sở như luận giải trên đây. Những chuẩn mực đạo đức đó được xem như là
những tiêu chí “thước đo” làm cơ sở cho việc đánh giá đời sống đạo đức của
họ trong hoạt động thực tiễn. Trong hệ thống các chuẩn mực đạo đức được
xác định, cần coi trọng các nội dung như: mức độ trung thành vô hạn với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân, tấm gương về đạo đức cách mạng, tận tuỵ với
công việc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lý tưởng cách mạng; thái độ, hành vi
yêu thương, quý trọng nhân dân; tính tập thể, lối sống mình vì mọi người và
tính trung thực; sự thống nhất giữa thái độ, động cơ với hành vi, giữa lời nói
và việc làm.
21


* Vai trò của đạo đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín
Đạo đức cách mạng có vai trò to lớn trong hệ thống phẩm chất và năng
lực của người cán bộ. Bởi một lẽ, “cũng như sông phải có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [27, tr.252]. Theo đó, vai trò đạo
đức người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín được biểu hiện:
Một là, đạo đức cách mạng là phẩm chất cơ bản, hàng đầu tạo nên giá
trị nhân cách của người cán bộ cơ sở
Đạo đức cách mạng là “nền tảng”, “cái gốc” của người cán bộ, bởi nó là
cơ sở cho sự hình thành, phát triển các phẩm chất khác, trong đó có tài năng.
Đạo đức cách mạng là “cái hướng đích”, là điều kiện cho sự phát triển của tài
năng. Tài năng của người cán bộ cơ sở chỉ phát triển khi nó được dựa vào sự
phát triển của đạo đức cách mạng và lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng.
Khi người cán bộ cơ sở có ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và thực tiễn
đạo đức tốt thì tài năng sẽ được phát triển bền vững, đúng hướng. Ngược lại,
nếu không có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì tài năng rất khó phát triển

hoặc phát triển lệch hướng. Có khi tài năng ấy trở thành tai hoạ, tội ác cho
dân, cho nước. Đạo đức cách mạng không chỉ là cơ sở, nền tảng cho tài năng
mà còn là nguồn “nội lực” mạnh mẽ thúc đẩy tài năng của người cán bộ cơ sở
phát triển. Người cán bộ cơ sở có những phẩm chất đạo đức tốt sẽ là cơ sở
cho quá trình nâng cao tính tích cực, sáng tạo trong công việc, tìm tòi, tích luỹ
kiến thức, trau dồi phương pháp nhằm giải quyết có hiệu quả những vấn đề
thực tiễn đặt ra.
Có đạo đức và phải lấy đạo đức “làm gốc”, nhưng người cán bộ cơ sở
cũng cần có tài, phải có năng lực. Sự phát triển của tài năng dựa trên nền tảng
của đạo đức cách mạng, nhưng khi tài năng đã được phát triển, nghĩa là các
năng lực của người cán bộ cơ sở đã được phát huy, qua đó tạo ra điều kiện
22


mới, khả năng mới để phát triển, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức. Điều đó
càng có ý nghĩa hơn khi hoạt động lãnh đạo, quản lý địa phương của cán bộ
cơ sở mang tính trực tiếp và rất sâu sát, cụ thể. Cán bộ cơ sở hàng ngày, hàng
giờ trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, cùng sống, sinh hoạt với nhân dân; trực
tiếp tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; trực tiếp lắng nghe ý kiến, tâm
tư nguyện vọng của nhân dân; trực tiếp giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra
theo thẩm quyền để đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Như vậy, cán bộ cơ sở thường xuyên bám sát, nắm chắc các hoạt động
của địa phương,… mỗi cử chỉ, lời nói, việc làm của họ trước sự chứng kiến của
nhân dân, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm, ý chí và hành động của nhân
dân. Tấm gương đạo đức trong sáng của cán bộ cơ sở là “mệnh lệnh không lời”
có tác dụng to lớn trong cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin, thôi thúc nhân dân sở
tại vượt lên những khó khăn thử thách, tích cực tham gia xây dựng địa phương
vững mạnh. Nhân dân địa phương nhìn vào cán bộ cơ sở như một hình mẫu về
nhân cách. Điều này đã từng được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “một tấm gương sống

còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [32, tr.263].
Hai là, đạo đức người cán bộ cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đối với kết
quả xây dựng, phát triển bền vững ở địa phương
Người cán bộ cơ sở giữ vai trò lãnh đạo, quản lý địa phương. Trách
nhiệm chính trị hàng đầu của họ là bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo về mọi
mặt của Đảng đối với địa phương, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính
nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; làm cho cán bộ, nhân dân do mình phụ trách
vững tin vào sự nghiệp cách mạng, luôn phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới ở địa phương.
Đạo đức người cán bộ cơ sở là hiện thân của bản chất giai cấp công
nhân, đường lối chính trị của Đảng, là kết tinh của những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, của địa phương. Vì vậy, đạo đức người cán bộ
23


cơ sở là nhân tố “phản chiếu”, giữ vai trò định hướng chính trị - tư tưởng,
giúp cho nhân dân địa phương đi đúng “con đường chính trị” của của Đảng,
của dân tộc ta; góp phần xây dựng các tổ chức cộng đồng dân cư ở thôn, xóm,
làng xã hoặc tương đương vững mạnh về chính trị - tư tưởng, làm cơ sở để
phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng địa phương phát triển bền vững, toàn
diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, an ninh - quốc phòng.
Ba là, người cán bộ cơ sở có đạo đức tốt sẽ là nhân tố góp phần củng
cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cán bộ với nhân dân
Cán bộ cơ sở được Đảng, Nhà nước giao cho những quyền hạn nhất
định và chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và cán bộ cấp trên cơ sở, cấp
uỷ đảng cùng cấp về mọi mặt ở địa phương trong phạm vi phụ trách. Để hoàn
thành nhiệm vụ theo chức trách thì hoạt động lãnh đạo, quản lý của cán bộ cơ
sở không chỉ dựa vào uy quyền, mệnh lệnh hành chính mà còn được thực hiện
bằng phương pháp nêu gương. Nêu gương là dùng uy tín của tập thể hay cá
nhân để tác động, cảm hoá, lôi cuốn người khác noi theo. Uy tín của người

cán bộ cơ sở, trước hết là do vị trí, vai trò của họ trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ tạo ra. Tuy vậy, uy tín của người cán bộ cơ sở có được thực sự chỉ
có thể tạo lập bằng phẩm chất, năng lực của họ. Hơn nữa, uy tín của người
cán bộ cơ sở phải được thể hiện sinh động và cụ thể trong hoạt động thực tiễn
về lãnh đạo, quản lý địa phương; ở hành vi ứng xử hàng ngày và ở kết quả
giải quyết các mối quan hệ xã hội nơi mà họ sống, công tác.
Người cán bộ cơ sở gương mẫu về đạo đức. Biểu hiện cụ thể, sinh động
ở sự thống nhất nói và làm; có lối sống trong sạch, lành mạnh, “cần, kiệm,
liêm, chính” sẽ tạo ra được uy tín, gây dựng được niềm tin và có tác dụng tốt
trong thuyết phục, tập hợp nhân dân địa phương thành một khối đoàn kết,
thống nhất ý chí và hành động, tạo ra sức mạnh to lớn trong lãnh đạo, quản lý
và tổ chức cộng đồng dân cư thực hiện sự nghiệp đổi mới ở địa phương mang
lại chất lượng, hiệu quả tối ưu.
24


Cán bộ cơ sở là những người lãnh đạo, quản lý và trực tiếp tuyên
truyền, vận động nhân dân nắm vững, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, trực tiếp giải quyết
mối quan hệ ở địa bàn phụ trách, xây dựng và củng cố nền tảng chính trị-xã
hội của Đảng ở địa phương.
Những tình cảm yêu quí, tôn trọng, gắn bó máu thịt với nhân dân của
cán bộ cơ sở sẽ là động lực thúc đẩy họ luôn tận tâm, tận lực, hết lòng, hết sức
phục vụ nhân dân, sẵn sàng hy sinh xương máu của mình để bảo vệ tài sản,
tính mạng của nhân dân, hăng hái giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội, nâng cao dân trí, phòng chống, khắc phục thiên tai,... Những phẩm
chất đạo đức cao đẹp trong nhân cách người cán bộ cơ sở là cơ sở để xây
dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và góp phần tô thắm hình
ảnh người cán bộ là “đầy tớ” của nhân dân.
Như vậy, ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức, hành vi đạo đức của người

cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín gắn liền với các quan hệ thường nhật của
họ trong sinh hoạt, công tác ở địa phương.
Đạo đức người cán bộ cơ sở mang những giá trị đạo đức phổ quá của
con người Việt Nam, đồng thời hàm chứa những giá trị đạo đức gắn với đặc
thù môi trường công tác, sinh hoạt và gắn với chức trách, nhiệm vụ của người
cán bộ cơ sở. Biểu hiện đạo đức người cán bộ cơ sở ở những chuẩn mực đạo
đức được xác định là: trung thành với Tổ quốc, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng
cách mạng; gần dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân; đoàn kết thống
nhất, gắn bó máu thịt với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương; có
tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ lãnh
đạo, quản lý địa phương; nói và làm luôn gắn bó với nhau; nêu gương về đạo
đức cách mạng trong sinh hoạt, công tác ở địa phương.
Đạo đức luôn là yếu tố cơ bản và giữa vai trò cơ sở, nền tảng trong
nhân cách người cán bộ cơ sở; có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, hiệu quả
công tác của người cán bộ cơ sở ở huyện Thường Tín.
25


×