Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG ĐẢNG TỈNH ủy sóc TRĂNG LÃNH đạo NHIỆM vụ PHÁT TRIỂN KINH tế BIỂN GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.96 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm trên bờ tây của Biển Đông, một vùng biển lớn thuộc loại
quan trọng nhất của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Vùng biển của nước
ta rộng khoảng 1 triệu Km2, gấp ba lần diện tích đất liền. Vùng biển và ven
biển nước ta có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, quốc phòng, an ninh. Biển của Việt Nam thông với đại dương, có
nhiều thuận lợi để khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên, tái tạo và không tái
tạo, là cơ hội giao thương với thế giới trong quá trình phát triển, hội nhập
quốc tế. Đặc biệt là phát triển hải sản, hàng hải, giao thông vận tải, các ngành
công nghiệp, du lịch, dịch vụ, thương mại quốc tế. Đảng, Nhà nước ta luôn
đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế biển. Ngày 2 tháng 9
năm 2007, Hội nghị lần thứ tư BCHTW khoá X đã ban hành Nghị quyết số
09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Đây là văn kiện đặc
biệt quan trọng định hướng phát triển kinh tế biển trong toàn quốc.
Sóc Trăng là tỉnh ven biển. Bờ biển thuộc địa phận tỉnh Sóc Trăng dài
72km, gồm 03 đơn vị hành chính cấp huyện có đường bờ biển: huyện Cù Lao
Dung, huyện Trần Đề, thị xã Vĩnh Châu. Vùng biển và ven biển của Sóc
Trăng chứa đựng nhiều tài nguyên và tiềm năng phát triển kinh tế biển. Phát
triển kinh tế biển đang là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn cần được ưu tiên trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Đảng, Nhà nước cũng như Tỉnh uỷ,
chính quyền và nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Nhiệm vụ chính trị trọng tâm của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Sóc Trăng hiện nay là phát triển kinh
tế-xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, củng cố quốc phòng-an
ninh, trong đó phát triển kinh tế biển là lĩnh vực cơ bản, then chốt.
Tỉnh uỷ Sóc Trăng là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng. Lãnh đạo kinh tế biển là nhiệm vụ chính trị trọng
tâm của Tỉnh uỷ Sóc Trăng. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ là nhân tố cơ bản, quan
trọng hàng đầu đảm bảo sự định hướng chính trị đúng đắn trong sự nghiệp



2
cách mạng của nhân dân tỉnh Sóc Trăng nói chung, phát triển kinh tế biển nói
riêng. Mặt khác, lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội là chức năng, nhiệm vụ chủ
yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc, là sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm chính trị của Đảng, đồng thời là kinh
nghiệm được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam khẳng định. Vì vậy, Tỉnh
uỷ Sóc Trăng lãnh đạo phát triển kinh tế biển là vấn đề tất yếu, cấp thiết, là
một trong những nhân tố cơ bản, quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế biển
của nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Thời gian vừa qua Tỉnh uỷ Sóc Trăng đã xây dựng nhiều nghị quyết,
chỉ thị, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế biển, lãnh đạo phát huy vai trò
của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Tỉnh và cấp uỷ, chính quyền các
huyện, thị xã ven biển xây dựng kế hoạch, chương trình và quản lý, chỉ đạo
phát triển kinh tế biển. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức, kiện
toàn tổ chức bộ máy lãnh đạo, quản lý; định hướng, cho ý kiến chỉ đạo, xác
định mô hình, cơ cấu vùng, lĩnh vực, ngành và các dự án đầu tư phát triển
kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng. Vì vậy, kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng đã
khởi sắc và ngày càng phát triển, thu được nhiều thành tựu, thực sự là lình
vực kinh tế mũi nhọn, nòng cốt của tỉnh Sóc Trăng. Nhiều dự án, chương
trình đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ thuỷ, hải sản phát triển ngày càng
đa dạng, phong phú, sáng tạo. Các dự án đầu tư phát triển điện gió, xây dựng
cảng biển… đang được nghiên cứu và triển khai. Tuy nhiên, kết quả phát triển
kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng còn quá khiêm tốn, còn nhiều khó khăn, yếu
kém, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về kinh tế biển ở Sóc Trăng.
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở
tỉnh Sóc trăng đang diễn biến nhanh chóng và ngày càng phức tạp. Rất nhiều
chương trình, dự án phát triển kinh tế biển ở tỉnh Sóc Trăng đang trông chờ
vào sự lãnh đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyền các cấp của tỉnh Sóc Trăng
và cần được tiếp tục nghiên cứu triển khai, huy động nguồn vốn, kinh phí.

Những hạn chế, yếu kém và những vấn đề bức xúc trong lĩnh vực kinh tế biển


3
cần phải được khẩn trương nghiên cứu, giải quyết, khắc phục, tháo gỡ. Trọng
trách đó, trước hết thuộc về Tỉnh uỷ Sóc Trăng.
Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh đạo nhiệm
vụ phát triển kinh tế biển giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ xây
dựng Đảng và chính quyền Nhà nước. Đây là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/05/1993 Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 03 - NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh
tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Ngày
09/2/2007, Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông
qua Nghị quyết số 20-NQ/TW về "Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm
2020”, phấn đấu đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển,
bảo đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo góp phần quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Trong Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội giai đoạn 2011- 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI khẳng định:

Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển
của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
vệ chủ quyền vùng biển. Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công
nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, đóng
tàu, xi-măng, chế biển thuỷ sản chất lượng cao... Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, tạo
thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa
dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất,

nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải... Phát triển cảng biển,
dịch vụ cảng và vận tải biển, sông - biển; phát triển các đội tàu, công nghiệp đóng
mới và sửa chữa tàu biển... Phát triển kinh tế đảo phù họp với vị trí, tiềm năng và
lợi thế của từng đảo [34, tr. 121-122].

Kinh tế biển và lãnh đạo, quản lý, phát triển kinh tế biển là vấn đề rất
lớn, cơ bản và rất cấp thiết, vì vậy, vấn đề này luôn giành được sự quan tâm


4
của Đảng, Nhà nước, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhiều nhà khoa học,
nhiều tập thể, cơ quan, tổ chức nghiên cứu. Xin tổng quan một số công trình
tiêu biểu.
2.1. Các đề tài nghiên cứu khoa học, sách tham khảo
- Đề tài cấp Nhà nước “Chiến lược phát triển kinh tế biển Đông của
một số nước Đông Á-tác động và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”, mã số
KX 0121/06-10, PGS, TS Chu Đức Dũng (Viện kinh tế và chính sách thế
giới) làm chủ nhiệm đề tài.
- Ban Tuyên giáo Trung ương “Biển và hải đảo Việt Nam”, Nxb CTQG, H.2007
- PGS Lê Văn Lý “Sự lãnh đạo của Đảng trong một số lĩnh vực trọng
yếu”, Nxb CTQG, H.1999
- Đỗ Hoài Nam “Phát triển kinh tế-xã hội và môi trường các tỉnh ven
biển Việt Nam”, Nxb KHXH, H.2003
- Lê Cao Đoàn “Đổi mới phát triển kinh tế ven biển”, Nxb CTQG, H.1999.
2.2. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Nguyễn Văn Bon “Kinh tế Sóc Trăng”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, H.2008
Dương Văn Hồng: “Kinh tế Trà Vinh”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, H.2008
- Trần Văn Hiển: “Tỉnh uỷ Cà Mau lãnh đạo phát triển kinh tế biển

trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, H.2009
- Nguyễn Văn Thắng: “Tỉnh uỷ Bà Rịa Vũng Tàu lãnh đạo kinh tế biển giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ xây dựng Đảng, HVCTQG Hồ Chí Minh, H.2012
2.3. Các bài báo khoa học
- Nguyễn Văn Hoàng: “Kinh tế biển phải được phát triển theo hướng
bền vững”, Báo Việt Nam nét. Việt Nam.2008
- “Tổ chức không gian phát triển kinh tế biển”. Thời báo kinh tế Sài
gòn.16 – 4 – 2007


5
- Anh Tú – Văn Lượng: “Phát triển kinh tế biển bền vững kiên quyết
hạn chế tác động xấu đến môi trường”Báo Việt Nam nét. Việt Nam.2008
- Trần Minh Sanh: “Phát triển kinh tế biển” Báo Việt Nam nét. Việt Nam.2006
- Võ Xuân Huyện: “Xây dựng Lý Sơn thành đặc khu kinh tế biển đảo
giàu mạnh và bền vững” Báo Việt Nam nét. Việt Nam.2008
- Kim Toàn: “Đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển vô cùng cấp bách”,
Báo Việt Nam nét. Việt Nam.4.2008
- Nhóm tác giả: “Vị đắng thuyền thúng; Thay đổi cách làm; đột phá từ
chính sách; Lép vế trước tàu ngoại; xây dựng đóng tàu lớn; mở tàu ra biển”,
phóng sự nhiều kỳ, Báo Tuổi trẻ tháng 6.2011
- Văn phòng Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam: “Chiến lược và
mô hình quản lý biển của một số nước”, trang tin chuyên đề, số 8.2006
- Tạ Quang Ngọc: “Để Việt Nam sớm trở thành quốc gia mạnh về
biển”, Tập chí Cộng sản, tháng 7, 2007
- UBND tỉnh Sóc Trăng, Quyết định 1352/QĐHC-CTUBND, ngày 08/12/2014
phê duyệt Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Trần Đề đến năm 2020.
- Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 423/QĐ-TTg ngày 11/4/2012, phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sóc Trăng đến năm

2020.
- UBND tỉnh Sóc Trăng, báo cáo quy hoạch phát triển KT – XH tỉnh
Sóc Trăng đến năm 2020.
Trong các sách, đề tài khoa học, các đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ,
các bài báo khoa học trên các tác giả đã nghiên cứu, phân tích về kinh tế biển ở
nhiều góc độ khác nhau. Rất nhiều tác giả luận giải vị trí, vai trò chiến lược kinh tế
- xã hội, quốc phòng – an ninh của biển Việt Nam; chỉ ra nhiều lợi thế tiềm năng
phát triển kinh tế biển của Việt Nam; đánh giá rõ thực trạng kinh tế biển, đặc biệt
là những khó khăn, hạn chế, yếu kém, chưa thực sự ngang tầm với tiềm năng, thế
mạnh của kinh tế biển ở Việt Nam. Nhiều tác giả lại nghiên cứu vấn đề lãnh đạo,
quản lý phát triển kinh tế biển; xác định rõ vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, quản
lý của Nhà nước đối với kinh tế biển, luận giải nội dung, phương thức lãnh đạo


6
của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với kinh tế biển. Có một số đề tài luận văn,
luận án đề cập đến sự lãnh đạo của một số đảng uỷ cấp tỉnh, cấp huyện đối với
kinh tế biển ở một số địa phương. Đây là những công trình nghiên cứu khoa học
rất có giá trị, cung cấp nhiều thông tin, luận cứ khoa học góp phần tìm ra những
giải pháp khả thi thúc đẩy phát triển kinh tế biển ở Việt Nam. Tác giả rất trân
trọng và xin học tập, kế thừa những thành tựu của các công trình khoa học trên.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu thực sự cơ bản,
hệ thống về Tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh đạo, phát triển kinh tế biển. Vì vậy, đề tài
luận văn thạc sĩ mà tác giả đã lựa chọn là vấn đề mới cần được đầu tư nghiên cứu
và không trùng lặp với những đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và những công
trình khoa học đã bảo vệ, nghiệm thu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
Nghiên cứu, luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn Tỉnh uỷ Sóc
Trăng lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, trên cơ sở đó đề xuất những

giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Sóc Trăng đối với nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận phát triển kinh tế biển ở tỉnh Sóc
Trăng, nội dung, phương thức, vai trò, nguyên tắc lãnh đạo phát triển kinh tế
biển của tỉnh uỷ Sóc Trăng
- Đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân, khái quát một số
kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế biển của tỉnh uỷ Sóc Trăng
- Dự báo những yếu tố tác động, xác định mục tiêu, phương hướng, yêu
cầu, đề xuất những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh
tế biển của tỉnh uỷ Sóc Trăng giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển của tỉnh uỷ Sóc Trăng giai
đoạn hiện nay.


7
* Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, thực tiễn, mục tiêu, phương hướng, yêu cầu, giải
pháp tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh uỷ Sóc Trăng đối với việc phát triển
kinh tế biển phù hợp với đặc điểm, điều kiện địa lý tự nhiên, khí hậu thuỷ văn
vùng biển của tỉnh Sóc Trăng.
Đối tượng điều tra khảo sát là Tỉnh uỷ Sóc Trăng, các cơ quan giúp
việc của Tỉnh uỷ, các huyện uỷ, thị uỷ, đảng uỷ xã, phường ven biển, các cấp
uỷ đảng ở các đơn vị kinh tế, kinh doanh, dịch vụ biển; các lĩnh vực kinh tế
biển của tỉnh Sóc Trăng. Thời gian điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn từ
năm 2005 – 2015. Các giải pháp có giá trị ứng dụng đến 2025.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của đề tài

Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước về phát triển
kinh tế biển và sự lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển
kinh tế biển nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn của đề tài
Thực tiễn hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển của Tỉnh
uỷ Sóc Trăng và thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội nói chung, kinh tế biển ở
tỉnh Sóc Trăng nói riêng; những báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng,
hoạt động lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển của Tỉnh uỷ, chính quyền
tỉnh Sóc Trăng và của cấp uỷ, chính quyền địa phương, cơ sở ven biển; kết
quả điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn và kinh nghiệm công tác của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác –
Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước, gồm phương pháp lô gich – lịch
sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực
tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài


8
Kết quả nghiên cứu, sản phẩm của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận, thực tiễn, cung cấp những luận cứ khoa học cho Tỉnh
uỷ Sóc Trăng nghiên cứu, tham khảo, xác định chủ trương, biện pháp nâng
cao chất lượng lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Sóc Trăng giai đoạn hiện nay.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo phục vụ
cho nghiên cứu, giảng dạy môn xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước ở
trường chính trị cấp tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị xã,
thành phố.

7. Kết cấu của luận văn
Gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN TỈNH ỦY SÓC
TRĂNG LÃNH ĐẠO NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
1.1. Nhiệm vụ phát triển kinh tế biển và những vấn đề cơ bản Tỉnh
uỷ Sóc Trăng lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
1.1.1.Nhiệm vụ phát triển kinh tế biển ở tỉnh Sóc Trăng và chức
năng, nhiệm vụ, vai trò của Tỉnh uỷ Sóc Trăng
* Khái quát tình hình, đặc điểm tỉnh Sóc Trăng
Lược sử hình thành tỉnh Sóc Trăng
Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, tỉnh Ba Xuyên (Do chế độ
Sài Gòn đặt tên được trở lại tên cũ là tỉnh Sóc Trăng có từ thời Pháp thuộc và
cũng là tên gọi do Chính phủ cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam).
Nhưng đến tháng 02 năm 1976, tỉnh Sóc Trăng đã nhập với tỉnh Cần Thơ và
thành phố Cần Thơ để trở thành tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26/12/1991 QH Khoá VIII, tại kỳ họp lần thứ 10, cho phép tái
lập lại tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở địa bàn cũ trước khi nhập vào Hậu Giang, từ
4/1992 -10/1995. Hiện nay, Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính gồm 01 thành
phố, 02 thị xã và 08 huyện: thành phố Sóc Trăng, thị xã Vĩnh Châu, thị xã
Ngã Năm và các huyện Châu Thành, Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long
Phú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Trần Đề. Thành phố Sóc Trăng là thủ phủ trung
tâm chính trị – kinh tế – văn hoá xã hội của tỉnh Sóc Trăng. Các đơn vị nằm
ven biển và tiếp giáp với biển là: huyện Cù Lao Dung, huyện Trần Đề và thị
xã Vĩnh Châu, trong đó huyện Trần Đề có cảng biển: cảng Trần Đề.
Về diện tích dân số: Sóc Trăng là một tỉnh nằm cuối hạ lưu sông Hậu

có diện tích tự nhiên là 3.311,76 Km2 (chiếm 1% diện tích tự nhiên cả nước
và 8,33% diện tích ĐBSCL). Dân số năm 2013 là 1.308.261 người (trong đó
371.873 người sống ở vùng đô thị và 936.388 người sống ở nông thôn) và mật
độ dân số là 395 người/km2.
Về vị trí địa lý: Phía Tây Bắc Sóc Trăng giáp Hậu Giang, Tây Nam giáp
Bạc Liêu, Đông Bắc giáp Vĩnh Long và Trà Vinh, Đông Nam giáp Biển Đông.


10
Về địa hình: Địa hình Sóc Trăng tương đối bằng phẳng với độ cao
trung bình từ 0,5m đến 1m so với mực nước biển và có dạng giống hình lòng
chảo, hướng đất dốc từ bờ sông Hậu, thấp dần vào vùng nội địa. Riêng phía
đông nam, bờ biển mỗi năm được mở rộng ra thêm hơn 100m do phù sa sông
Hậu và biển Đông bồi đắp dần.\
Về khí hậu Thuỷ văn: Do hệ thống sông ngòi kinh rạch của tỉnh, chịu
ảnh hưởng của chế độ Thuỷ Triều ngày lên xuống 02 lần, mực nước Thuỷ
Triều dao động trung bình từ 0,4m - 1m. Vào mùa mưa, một phần diện tích
của hai huyện Mỹ Tú và Thạnh Trị do nằm ở vùng trũng nên thường bị ngập
úng. Vào mùa khô thì ở các huyện Trần Đề, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, thị xã
Vĩnh Châu và một phần của hai huyện Long Phú, Mỹ Tú đều bị nhiễm mặn.
Tình hình các dân tộc: Do địa bàn tỉnh Sóc Trăng chỉ mới được khai
phá từ Thế Kỷ XVII trở về sau, lúc đầu dân cư rất thưa thớt, chỉ có 1 số ít
người Khmer cổ, người Hoa và người Kinh theo dòng di dân của Chúa
Nguyễn vào Nam đã hình thành cộng đồng 3 dân tộc cùng nhau đoàn kết để
sản xuất và bảo vệ cuộc sống của chính mình.
Là một địa phương thuộc vùng đất Nam bộ, từ lâu đời Sóc Trăng đã có
ba dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer, đến khai phá để sản xuất và cùng nhau đoàn
kết chung sống suốt từ thế kỉ XVI trở về sau, nên đã có sự dung hợp giữa các
dân tộc về mặt huyết thống và cộng hưởng về mặt văn hoá trong một bộ phận
nhân dân không nhỏ ở cả thành thị lẫn nông thôn. Quá trình dung hợp giữa

các dân tộc đã diễn ra suốt hàng mấy thế kỉ đến nay. Vì vậy, Sóc Trăng trong
đặc điểm về dân tộc đã có nét đa dạng và phong phú, nhất là sau khi đất nước
độc lập thống nhất, chính sách dân tộc luôn được Đảng và nhà nước các cấp
quan tâm và đầu tư phát triển tích cực.
Tình hình tôn giáo: Đặc biệt Sóc Trăng có đồng bào dân tộc Khmer và
Hoa sinh sống lâu đời cùng với dòng người Kinh theo chúa Nguyễn vào Nam
nên chỉ riêng phật giáo thì đã có 2 hệ phái lớn là Phật giáo Bắc Tông (hay còn
gọi là Phật Giáo Đại Thừa, Phật giáo Nam Tông trong đồng bào khmer cùng
hoạt động và phát triển. Phật giáo Nam Tông hay còn gọi là phật giáo Tiểu


11
Thừa mà đại bộ phận người dân tộc Khmer đều theo đạo này (hiện có 370.537
tín đồ phật tử 92 ngôi chùa và 37 Salatel, số lượng sư sải đang tu học là 1830,
Ban quản trị chùa có 1285 thành viên). Bên cạnh đó, cũng có những Tôn giáo
khác mới du nhập vào Việt Nam như Tin lành hoặc tôn giáo nội sinh trong
vùng đất Nam bộ như: Cao Đài, Phật Giáo Hoà Hảo, Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Học
Việt Nam. Nên Sóc Trăng hiện nay được xem là địa phương đa tôn giáo.
Lực lượng lao động: Năm 1992, khi vừa tái lập tỉnh. Dân số trong độ tuổi
lao động, toàn tỉnh chỉ có 540.472 người ( chiếm tỷ lệ 52,3% ). Đến cuối năm
2011 lực lượng lao động trong độ tuổi của tỉnh có bước phát triển đáng kể đã đạt
đến 860.160 người (chiếm tỷ lệ 65,79% và tăng 319.688 người so với 1992).
Lực lượng lao động trong độ tuổi là rất lớn chiếm tỷ lệ 65,79%, trong
dân số của tỉnh và hoạt động trong các ngành kinh tế chiếm 87,16% trong
tổng lao động trong độ tuổi của tỉnh.
Tiềm năng lợi thế về KT – XH của tỉnh Sóc Trăng: Ngoài lợi thế kinh tế
nông nghiệp, Sóc Trăng còn tiềm năng phát triển kinh tế hàng hải, giao
thương trong nước, quốc tế bằng đường biển với 3 cửa sông lớn thông ra biển
gồm: Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh, có điều kiện xây dựng được cảng biển tiếp
nhận tàu trọng tải lớn 10.000- 50.000 DWT. Phát triển các ngành công nghiệp

có ưu thế gắn với biển như công nghiệp lọc hoá dầu, công nghiệp đóng, sửa
chữa tàu biển, công nghiệp bổ trợ ngành cơ khí đóng tàu, công nghiệp năng
lượng, nhiệt điện vận chuyển nhiên liệu đường biển, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng xuất khẩu, chế biến nông thuỷ sản. Phát triển khu kinh tế, khu
công nghiệp ven biển với điều kiện xây dựng được cảng biển đón tàu trọng tải
lớn. Phát triển du lịch với nguồn tài nguyên du lịch đa dạng bao gồm tài
nguyên du lịch biển và tài nguyên du lịch nhân văn đặc sắc hội tụ của 3 nền
văn hoá người Kinh, người Khmer và người Hoa.
Phát triển kinh tế thuỷ sản với nguồn lợi thuỷ sản phong phú, bờ biển
có diện tích bãi bồi lớn để nuôi trồng thuỷ sản và nhiều cửa sông để xây dựng
cảng cá, các khu dịch vụ hậu cần nghề cá, khu tránh trú bão tàu thuyền.


12
Những khó khăn, thách thức đối với tỉnh Sóc Trăng thách thức biến đổi
khí hậu, thay đổi lưu lượng nước sông Mê Kông gây tác động môi trường sinh
thái, mặn hoá, sa mạc hoá đất đai, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của
dân cư.
Thách thức giữa đẩy nhanh phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường,
phát triển bền vững, Sóc Trăng có mật độ sông ngòi, kênh mương dày, quá
trình phát triển công nghiệp, đô thị hoá ngày càng nhanh, nguy cơ ô nhiễm
môi trường nguồn nước mặt và nước dưới đất cũng tăng lên.
Thách thức về nguồn nhân lực còn hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ
thuật, phần lớn lao động trong độ tuổi, nhất là nông dân, ngư dân mới có trình
độ giáo dục Tiểu học, THCS, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ sơ cấp trở lên
còn rất thấp làm hạn chế áp dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển kinh tế- xã hội.
Thách thức về kết cấu hạ tầng chưa đủ điều kiện để khai thác lợi thế
phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế biển. Kết cấu hạ tầng nhất là hạ tầng
giao thông, các trục lộ và cảng biển, giao thông nông thôn, hạ tầng cấp nước,
hệ thống công trình thuỷ lợi, phòng chống thiên tai đã được đầu tư trong thời

gian qua nhưng còn yếu kém, bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội.
* Quan niệm chung về kinh tế biển
Biển là một kho tàng vô giá cung cấp cho nhân loại một lượng cá vô
tận và nguyên liệu, khoáng sản khổng lồ. Vì vậy, biển là vấn đề quan tâm
hàng đầu đối với những nước có biển, trong đó có nước ta. Với lợi thế này,
các nước có biển đều xây dựng chiến lược kinh tế riêng về biển, được gọi là
kinh tế biển, Những nước có lợi thế về biển nếu biết tận dụng phát triển kinh
tế biển sẽ khai thác được nguồn tài nguyên vô tận từ biển để trở thành cường
quốc về kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu các nguồn tiềm năng, thế mạnh của biển mà các
quốc gia có biển xác định các lĩnh vực kinh tế biển và có quan niệm cụ thể về
kinh tế biển. Theo quan niệm chung nhất của nhiều quốc gia có biển trên thế
giới thì "Kinh tế biển là một bộ phận cơ bản quan trọng hợp thành nền kinh
tế quốc dân, đó là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên mặt biển, trong


13
lòng biển, dưới đáy biển, ven bờ và trên bờ biển, bao gồm các ngành chủ
yếu: kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển); hải sản (đánh bắt,
nuôi trồng, chế biến thuỷ sản); khai thác dầu khí ngoài khơi, dịch vụ du lịch
biển; làm muối; điện gió, dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn và kinh tế đảo"
Nếu quan niệm theo nghĩa rộng thì kinh tế biển là toàn bộ các hoạt
động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra
trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực
tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển, bao gồm: đóng và sửa chữa tàu biển
(hoạt động này được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải) công nghiệp
chế biến dầu, khí; công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; cung cấp dịch vụ biển;
thông tin liên lạc trên biển; nghiên cứu khoa học – công nghệ biển; điều tra
cơ bản về tài nguyên môi trường biển; đào tạo nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế biển. Vì vậy, cũng có thể hiểu kinh tế biển bao gồm các hoạt động

kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến khai
thác biển.
* Nhiệm vụ phát triển kinh tế biển ở tỉnh Sóc Trăng
Tỉnh Sóc Trăng nằm cuối hạ lưu sông Hậu với hệ thống sông ngòi
chằng chịt, đổ ra biển Đông bằng 3 cửa sông chính là: Định An, Trần Đề, Mỹ
Thanh. Chiều dài bở biển của tỉnh Sóc Trăng là 72 km, chiếm 2,21% chiều
dài bờ biển cả nước. Riêng cửa Ba Thắc trước đây nằm giữa cửa Định An và
Trần Đề đã bị bồi lấp, vì vậy không còn là 1 trong 9 cửa sông Cửu Long nữa.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng diễn ra chủ yếu ở 3
huyện, thị ven biển, đó là thị xã Vĩnh Châu, huyện Trần Đề và huyện Cù Lao
Dung. Kinh tế ven biển của tỉnh Sóc Trăng được xác định là các hoạt động
kinh tế diễn ra trên biển từ vùng tiếp giáp đất liền hướng ra biển 6 hải lý. với
đặc điểm đó, kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng không phải là toàn bộ các ngành,
các lĩnh vực hoạt động kinh tế của toàn tỉnh, mà chỉ là một bộ phận cơ bản
quan trọng trong nền kinh tế - xã hội của tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, Sóc
Trăng vồn là tỉnh thuần nông, thuần ngư, được hưởng nhiều lợi thế của vùng
hạ lưu sông Cửu Long và vùng cửa biển. Vì vậy biển và kinh tế nông nghiệp


14
là hai lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh Sóc Trăng. Đặc biệt là năm 2014
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Sóc Trăng phê duyệt chiến lược quản lý tổng hợp vùng
bờ biển tỉnh Sóc Trăng đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã mở ra
hướng phát triển mới cho nhiều ngành kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng
Theo quan điểm của tỉnh uỷ, UBND,HĐND và Nhân dân tỉnh Sóc
Trăng; căn cứ vào đặc điểm, nguồn tài nguyên vùng biển và trình độ, khả
năng làm chủ vùng biển của tỉnh Sóc Trăng cót thể quan niệm: " Nhiệm vụ
phát triển kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng là một bộ phận cơ bản, then chốt
của nền kinh tế trong tỉnh đồng thời hợp thành nhiệm vụ kinh tế biển Việt
Nam, đó là các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, ven bờ, trên bờ biển và

các hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến khai thác biển bao gồm các
ngành chủ yếu: kinh tế hàng hải, thuỷ, hải sản, du lịch, dịch vụ biển; làm
muối, nghiên cứu khoa học – công nghệ biển; điều tra cơ bản về tài nguyên –
môi trường biển; đào tạo, quản lý, sử dụng nguồn nhân lực phát triển kinh tế
biển; dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển; phòng chống biến đổi khí
hậu, nước biển dâng và bảo vệ môi trường sinh thái biển."
Nhiệm vụ phát triển kinh tế biển then chốt của tỉnh Sóc Trăng đang
được đầu tư, phát triển, sử dụng nguồn nhân lực lớn nhất và mang lại nguồn
lợi lớn là đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, vận chuyển thuỷ, hải sản; xây dựng
quản lý, sử dụng cảng cá; du lịch, dịch vụ biển
* Đặc điểm nhiệm vụ kinh tế biển ở tỉnh Sóc Trăng
Đặc điểm tự nhiên
Sóc Trăng là tỉnh ven biển nằm ở Nam cửa sông Hậu của khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), gồm thành phố Sóc Trăng và 8 huyện:
Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị,
Vĩnh Châu. Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp 3 tỉnh của ĐBSCL:
tỉnh Hậu Giang ở phía Tây Bắc, tỉnh Trà Vinh ở phía Đông Bắc và tỉnh Bạc
Liêu ở phía Tây Nam, vị trí toạ độ nằm ở 9 0 12’- 9°56’ độ vĩ Bắc và 105 o33’106o23’ kinh độ Đông.


15
Các huyện giáp biển gồm: Cù Lao Dung, Long Phú và Vĩnh Châu với
đường bờ biển dài 72km.
Khí hậu và thời tiết
Nằm trong vùng nhiệt đới cận xích đạo, khí hậu trong vùng có những
đặc trưng chính như sau:
- Nhiệt độ trung bình năm từ 26 - 27,2°c rất thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp theo hướng thâm canh tăng vụ, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản.
- Nắng: Tổng giờ nắng bình quân trong năm 2.488 giờ (trung bình 6,5
giờ/ngày); tổng lượng bức xạ trung bình tương đối cao trong năm, đạt 150 160 Kcal/cm2/năm.

- Độ ẩm: Độ ẩm trung bình cả năm là 84% (cao nhất 89% mùa mưa, thấp
nhất 79% mùa khô), cây trồng vật nuôi ít bị bệnh so với các tỉnh phía Bắc.
- Mưa: Lượng mưa trung bình 1.880 mm/năm, hàng năm lượng mưa
thường tập trung vào các tháng từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau, hầu như không mưa trong khi lượng bốc hơi cao đã dẫn
tình trạng thiếu nước nghiêm trọng cho sản xuất và sinh hoạt nhất là vùng ven
biển, trong điều kiện không có nước tưới chủ động sẽ ảnh hưởng lớn đến sản
xuất, đặc biệt là với các loại cây ngắn ngày.
- Gió: Nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của gió mùa, có hai hướng gió
chính trong năm, Đông - Bắc và Tây - Nam.
+ Gió Đông - Bắc: Xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, với
hướng gió Đông xen kẽ hướng gió Đông Bắc. Chính hướng gió Đông đã góp
phần đưa nước mặn từ biển Đông xâm nhập sâu vào các sông, rạch trong các
tháng mùa khô cũng như tác động thẳng vào bờ biển Đông Nam Bộ làm vùng
này bị xảy ra tình trạng xói lở mạnh.
+ Gió Tây - Nam: Từ tháng 5 đến tháng 10, sự xuất hiện sớm hay muộn
của gió Tây - Nam góp phần quan trọng trong việc đến sớm hay muộn của
những cơn mưa đầu mùa.
Thuỷ văn và tài nguyên nước.


16
Mạng lưới dòng chảy sông ngòi, kênh rạch (có thể lưu thông tàu thuỷ
qua lại) có mật độ dày bình quân hơn 0,2km/km 2 trong đó quan trọng nhất là
Sông Hậu chảy ở phía Bắc tỉnh ngăn cách Sóc Trăng với Trà Vinh và sông
Mỹ Thanh chảy ở phía Đông Nam tỉnh là nguồn cấp nước chủ yếu cho sản
xuất đồng thời là tuyến đường sông ra biển của tỉnh. Phần lớn mạng lưới sông
ngòi, kênh rạch chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn vào mùa khô và do tác động
của chế độ thuỷ triều lên xuống ngày 2 lần với mức nước dao động trung bình
0,4 - lm. Lưu lượng nước Sông Hậu mùa mưa trung bình khoảng 7000 - 8000

m3/s vào mùa khô giảm xuống chỉ còn 2000 - 3000 m 3/s làm nước mặn xâm
mặn nhập sâu vào khu vực bên trong đất liền (Long Phú, Mỹ Tú), tương tự
vào mùa khô nước mặn xâm nhập qua sông Mỹ Thanh kéo thêm kênh rạch
vào tới vùng phía Tây (Thạnh Trị) của tỉnh gây khó khăn về nguồn nước ngọt
cho sản xuất và sinh hoạt.
- Hệ thống thuỷ văn tại các huyện ven biển chịu ảnh hưởng trực tiếp
của thủy triều biển Đông với chế độ nước bán nhật triều, mặn quanh năm,
truyền vào trong nội đồng theo cửa Định An và cửa Trần Đề. Kết hợp với
dòng chảy sông Hậu, đặc biệt vào mùa lũ, khi lũ cao tràn về kết hợp triều
cường mực nước dâng cao có khả năng tràn vào nội đồng (mực nước lớn nhất
đo được tại trạm Đại Ngãi năm 1997 là 2,19 m), nhờ có hệ thống đê bờ bao
chống lũ bảo vệ sản xuất và dân cư sinh sống trong vùng.
- Thuỷ triều nằm ở cửa sông Hậu với hệ thống sông rạch chằng chịt nên
toàn vùng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ bán nhật triều không đều của
biển Đông, với những diễn biến thuỷ văn khá phức tạp. Theo số liệu quan trắc
tại Đại Ngãi, đỉnh triều bình quân cao nhất là 160cm (vào các tháng 10, 11),
thấp nhất là 123cm vào tháng 5, 8. Chân triều cao nhất -24cm (tháng 11), thấp
nhất -103cm (tháng 6), biên độ triều trung bình từ 194 - 220cm.
- Tình hình xâm nhập mặn: Các vùng ven biển của tỉnh Sóc Trăng đều
bị nhiễm mặn thông qua hệ thống sông, kênh rạch trong vùng, tình hình xâm
nhập mặn xảy ra trầm trọng nhất là đối với huyện Cù Lao Dung. Diễn biến
xâm nhập mặn hàng năm tuỳ thuộc vào mùa và lưu lượng dòng chảy cửa sông


17
MêKông. Hiện tại do hiện tượng xâm nhập mặn ảnh hưởng đã gây khó khăn
đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân nhất là ở những tháng mùa
khô (tháng 3 - 5). Đây cũng là dịp để người dân có thể khai thác nguồn nước
mặn nuôi trồng thuỷ sản trong mùa khô.
Tài nguyên biển và tiềm năng lợi thế phát triển kinh tế biến.

Sóc Trăng có điều kiện để phát triển kinh tế biển nhất là về khai thác,
nuôi trồng thuỷ sản, vận chuyển đường biển và du lịch biển. Nguồn lợi thuỷ
sản, vùng biển là nơi trú ngụ của nhiều loại thuỷ, hải sản nước lợ và nước
mặn có giá trị về kinh tế.
Qua điều tra xác định có 661 loài cá, 35 loài tôm trong đó có cả các loài
tôm hùm, tôm rang, 23 loài mực gồm họ mực nang, mực ống và mực sim,
ngoài ra còn có nhiều loại cua, ghẹ và nhuyễn thể khác. Khả năng khai thác
hải sản gần bờ có thể được 20 nghìn tấn năm, ngoài ra còn có điều kiện vươn
ra khai thác xa bờ để tăng sản lượng và hiệu quả khai thác lên hơn nữa.
Diện tích bãi triều rộng lớn cộng với hệ thống sông ngòi, kênh rạch ven
biển dẫn đến hiện tượng xâm nhập mặn có xu hướng vào sâu trong đất liền
hàng chục km tạo điều kiện có thể phát triển môi trường thuỷ sản mặn, lợ với
quy mô diện tích 70-80 nghìn ha, hình thành các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập
trung công nghiệp và bán công nghiệp có giá trị hàng hoá lớn. Đặc biệt do
nằm ở khu vực cửa Sông Hậu (có cửa Định An và cửa Trần Đề), Sóc Trăng
có lợi thế phát triển cảng biển và dịch vụ vận chuyển – kho bãi đường sông,
đường biển. Xây dựng cảng tổng hợp ở Đại Ngãi và Trần Đề cùng với cải tạo
luồng lạch ra vào có thể tiếp nhận tầu trọng tải đến 10.000 DWT, hình thành
khu cảng biển kết hợp với phát triển khu công nghiệp và đô thị quan trọng của tỉnh.
* Cơ cấu tổ chức của Tỉnh uỷ Sóc Trăng
Cơ cấu tổ chức của Tỉnh uỷ gồm: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh và các cơ
quan chức năng. Ban Tuyên giáo, uỷ ban Kiểm tra Đảng, Ban Tổ chức, Ban dân
vận và Văn phòng Tỉnh uỷ. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII (nhiệm kỳ
2010-2015), đã bầu Ban Chấp hành gồm 55 đồng chí, bầu 13 đồng chí vào Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ. Trong đó có 01 đồng chí uỷ viên Trung ương Đảng chính thức


18
và 01 đồng chí uỷ viên Trung ương Đảng dự khuyết. Độ tuổi bình quân các đồng
chí trong Ban Chấp hành đầu nhiệm kỳ là 51 tuổi, trình độ chuyên môn: tiến sĩ 4;

thạc sĩ 23; còn lại là trình độ đại học. Trình độ lý luận chính trị 11 cử nhân còn lại
là trình độ cao cấp

Có 16 Đảng bộ trực thuộc: Đảng bộ thành phố Sóc Trăng, thị xã Vĩnh Châu,
thị xã Ngã Năm; các đảng bộ huyện gồm: Châu Thành, Kế Sách, Mỹ Tú, Cù Lao

Dung, Long Phú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Trần Đề; Đảng bộ Công an, Đảng bộ
Quân sự, Đảng bộ Biên Phòng; Đảng bộ khối dân chính Đảng, Đảng bộ khối doanh
nghiệp. Tổng số hiện có 611 tổ chức cơ sở đảng bao gồm

218 đảng bộ cơ sở và

393 chi bộ cơ sở. Hiện có 37.000 đảng viên,

* Chức năng của tỉnh uỷ Sóc Trăng
Chức năng chủ yếu của Tỉnh uỷ Sóc Trăng là lãnh đạo tất cả các hoạt
động trên địa bàn tỉnh, đảm bảo cho các hoạt động xây dựng Đảng, Chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của tỉnh
về tổ chức, hoạt động có hiệu quả; đảm bảo cho các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa
bàn tỉnh phát triển theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với các hoạt động nêu trên là sự lãnh đạo toàn
diện, tức là Tỉnh uỷ đề ra Nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch để cụ thể hoá các
chủ trương, đường lối của Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các tổ
chức Đảng, đảng viên trong việc thực hiện có hiệu quả; đồng thời lãnh đạo thực hiện
việc sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm.

Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xã hội có đặc điểm riêng, mỗi tổ chức
lại có chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với từng tổ

chức, từng lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung và phương thức khác nhau. Bởi
vậy, cùng xuất phát từ nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất công việc, đặc điểm cụ
thể để xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp. Song, chức năng lãnh đạo
của Tỉnh uỷ là sự lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tức là Tỉnh uỷ lãnh đạo
các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu bằng các chủ trương, quyết định,
định hướng đảm bảo cho các hoạt động, tổ chức, lĩnh vực đó theo đúng định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tỉnh uỷ không can thiệp quá sâu, không bao biện làm thay công
việc cụ thể của các tổ chức, của chính quyền, mà Tỉnh uỷ lãnh đạo nhằm phát huy


19
vai trò, chủ động, sáng tạo của các tổ chức để hoạt động đạt hiệu quả cao.

Trong lãnh đạo kinh tế - xã hội, Tỉnh uỷ có chức năng lãnh đạo kinh tế
biển. Đây là lĩnh vực quan trọng trong sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, một lĩnh vực đang
mang lại thu nhập cao và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

* Nhiệm vụ của Tỉnh uỷ Sóc Trăng
Điều 19 Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội XI quy định: “Cấp uỷ tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ)...lãnh đạo thực hiện
Nghị quyết Đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên” [33, tr.33]. Trên cơ sở
quy định của Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Trung ương, xuất phát từ chức năng của
tỉnh uỷ, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, Tỉnh uỷ Sóc Trăng có các nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Lãnh đạo và tổ chức thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, bao gồm

quán triệt, xây dụng chương trình, kế hoạch thực hiện các nghị quyết của
Trung ương về công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng cấp
dưới thực hiện.
- Quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và các


nghị quyết của Tỉnh uỷ trong nhiệm kỳ. Thảo luận, quyết định chương trình
công tác của Tỉnh uỷ hàng quý, sáu tháng, một năm và cả nhiệm kỳ. Chuẩn bị
và ra các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính
trị, các lĩnh vực trong đời sống xã hội và tổ chức thực hiện các nghị quyết ấy.
- Tỉnh uỷ có nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội,
các tổ chức trong hệ thống chính trị. Chẳng hạn như, lãnh đạo Hội đồng nhân dân
(HĐND), uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh triển khai thực hiện các nghị quyết của
Tỉnh uỷ về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; lãnh đạo các ban tham mưu và
các cơ quan chức năng triển khai thực hiện các nghị quyết của Tỉnh uỷ về công tác
xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể nhân dân; thảo luận, cho ý kiến và phê
duyệt quy hoạch cán bộ của cấp dưới theo phân cấp quản lý cán bộ; tuyên truyền
giáo dục nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước...
- Tỉnh uỷ có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức đảng,
đảng viên trong Đảng bộ tỉnh, trước hết là các tổ chức đảng trực thuộc, (cấp dưới


20
trực tiếp) và những đảng viên, cán bộ thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý.
- Tỉnh uỷ có nhiệm vụ chuẩn bị báo cáo chính trị, nhân sự và tổ chức Đại hội
Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ tới.

* Vị trí, vai trò của Tỉnh uỷ Sóc Trăng
Tỉnh uỷ Sóc Trăng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển mọi mặt của tỉnh mà trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có
kinh tế biển được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Tỉnh uỷ Sóc Trăng là tổ chức thứ hai của Đảng trong hệ thống tổ chức
đảng từ Trung ương đến cơ sở. Tỉnh uỷ lãnh đạo hệ thống tổ chức từ tỉnh đến
cơ sở, có đông đảo đội ngũ đảng viên, hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời

sống chính trị, xã hội ở địa bàn toàn tỉnh. Sóc Trăng là cấp hành chính thứ
hai sau Trung ương, trong hệ thống hành chính 4 cấp của Nhà nước ta, quản
lý một khu vực lãnh thổ đất liền, ven biển. tỉnh Sóc Trăng có vị trí quan trọng
về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh đối với đất nước. Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh là cơ quan lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ đại hội, chịu
trách nhiệm lãnh đạo mọi hoạt động của Đảng bộ, từ xây dựng nội bộ đảng
đến hoạt động lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của
đời sống xã hội trong đó có kinh tế biển. Tỉnh uỷ là hạt nhân lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh, vận động, giáo dục Nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội của tỉnh và chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tỉnh uỷ tiếp nhận đường lối, chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, biến
đường lối, chủ trương, chính sách đó thành hiện thực. Tỉnh uỷ lãnh đạo đoàn
kết, tập hợp, động viên sức người, sức của để tiến hành các nhiệm vụ trọng
tâm những dự án kinh tế - xã hội quan trọng; lãnh đạo thực hiện việc liên kết
tạo sự phối hợp với các tỉnh khác, với các cơ quan Trung ương để hoạt động
đạt kết quả
- Tỉnh uỷ còn là cấp trên trực tiếp của các huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ và
các đảng uỷ trực thuộc tỉnh ủy, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, lãnh
đạo các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có chỉ đạo thực hiện các chủ trương,


21
đường lối, nghị quyết về kinh tế biển. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn sáng tạo
của Tỉnh uỷ là nhân tố đặc biệt quan trọng để kinh tế biển của các huyện, thị xã
trong tỉnh phát triển mạnh mẽ đúng hướng, bảo đảm tính bền vững
- Sự phát triển mọi mặt về đời sống xã hội của tỉnh, trong đó có kinh tế
biển phụ thuộc và được quyết định bới sự lãnh đạo đúng đắn của Tỉnh uỷ. Bởi
vậy, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Tỉnh uy trong điều kiện hiện nay, trong
đó có năng lực lãnh đạo kinh tế biển là một nhiệm vụ trong tâm và là vấn đề

rất cần thiết và cấp bách. Nếu Tỉnh uỷ yếu kém, năng lực lãnh đạo hạn chế,
thậm chí không có chủ trương và giải pháp đúng để giải quyết những vấn đề
bức xúc nẩy sinh trong thực tiễn sẽ xuất hiện những phức tạp, thậm chí trở
thành điểm nóng, đưa lại hậu quả khó lường. Vai trò lãnh đạo của Tỉnh uỷ
không được phát huy tối đa, kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ không phát triển, ảnh
hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản

về tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh đạo nhiệm vụ phát triển

kinh tế biển

* Quan niệm Tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh Nhiệm vụ phát triển đạo kinh
tế biển.
Để đưa ra quan niệm về vấn đề này cần làm rõ khái niệm "lãnh đạo",
"Đảng lãnh đạo kinh tế".
Theo nghĩa phổ quát thì "lãnh đạo" có hai nghĩa chính: với tư cách là
động từ, thì "lãnh đạo" nghĩa là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ
thể, ví dụ: lãnh đạo cuộc đấu tranh; với tư cách là danh từ, thì "lãnh đạo" chỉ
các cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng tổ chức, dẫn dắt
phong trào, ví dụ: chờ lãnh đạo cho ý kiến, Ban lãnh đạo đi vắng cả...
Với nghĩa phố quát nêu trên thì khái niệm "lãnh đạo" với tư cách là
động từ, mới chủ yếu đề cập đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chưa đề cập đến việc đề ra đường lối, chủ trương, cũng như chưa đề
cập đến các khâu khác như: kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện đường lối,
chủ trương đó.

Từ khái niệm trên ta có thể gắn chủ thể lãnh đạo và đối tượng lãnh đạo,



22
làm cho khái niệm "lãnh đạo" thể hiện phong phú, đa dạng và cụ thể hơn. Ví
dụ: Đảng lãnh đạo kinh tế; Đảng lãnh đạo khoa học - công nghệ; Đảng lãnh
đạo quốc phòng - an ninh; Đảng lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Đảng lãnh đạo Hội nghệ sĩ tạo hình...; hoặc Tỉnh uỷ tỉnh A lãnh dạo kinh tế;
huyện uỷ huyện B lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo; Ban Chấp hành Tỉnh đoàn tỉnh c
lãnh đạo Đội thiếu niên tiền phong; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra một
cách toàn diện và súc tích khái niệm "lãnh đạo" cũng như "khái niệm lành đạo
đúng" của Đảng. Người viết, lãnh đạo đúng nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề
một cách đúng đắn; phải tổ chức sự thi hành cho đúng; phải tố chức sự kiểm soát.
Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nội hàm chủ yếu của khái niệm
lãnh đạo đúng của Đảng đối với cách mạng, đó cũng là những yếu tố cơ bản tạo nên
sự lãnh đạo đúng của Đảng đối với cách mạng. Để lãnh đạo đúng bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Đảng phải đề ra nghị quyết đúng đắn, phải tổ chức thực hiện thắng
lợi nghị quyết đó và phải tổ chức kiểm tra việc thực hiện.

Từ những vấn đề trình bày ở trên có thế quan niệm Tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh
đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển là các hoạt động của Tỉnh uỷ đề ra nghị quyết
đúng đắn về kinh tế biển, tổ chức thực hiện các nghị quyết và kiểm tra, giám sát, sơ
tổng kết rút kinh nghiệm toàn bộ hoạt động đó, nhằm đảm bảo cho kinh tế biển của
tỉnh phát triển mạnh mẽ, bền vững và hài hoà giữa các ngành, vùng kinh tế trên địa
bàn tỉnh, góp phần vào sự phát triển kinh tế của cả tỉnh.

* Những vấn đề có tính nguyên tắc trong lãnh đạo nhiệm vụ và phát
triển kinh tế biển của Tỉnh ủy Sóc Trằng
Một là, Nghị quyết của Tỉnh uỷ về kinh tế biển phải đảm bảo đúng

đắn, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc điểm

của địa phương.:
Nghị quyết phải phù hợp với quy luật của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Những vấn đề về kinh tế biển luôn vận động và phát triển theo quy luật khách
quan như: quy luật cung cầu, quy luật cạnh tr anh, quy luật giá trị, v.v... Vì vậy,
yêu cầu đầu tiên đối với nghị quyết của Tỉnh uỷ về kinh tế biển là phải phù hợp với
quy luật phát triển kinh tế - xã hội, nó đảm bảo cho nghị quyết đúng đắn cả hiện tại,


23
tương lai và không trái quy luật.

Nghị quyết về kinh tế biển của Tỉnh uỷ không trái với đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế biển. Đây là một
trong những vấn đề có tính nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của tỉnh uỷ. Bởi vì,
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng được tổ chức thực hiện ở địa
phương và cơ sở, nếu xảy ra sự trái ngược đó sẽ làm vô hiệu hoá đường lối, chủ
trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

Nghị quyết của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế biển phải phù hợp với khả
năng thực tế của địa phương, đảm bảo cho nghị quyết có khả năng thực thi.

Nghị quyết của Tỉnh uỷ về kinh tế biến phải phù hợp với nguyện vọng, lợi
ích chính đáng cả trước mắt và lâu dài của đông đảo nhân dân. Điều này đảm bảo
cho nghị quyết của Tỉnh uỷ được nhân dân đồng tình, tiếp nhận và thực hiện.

Hai là, thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy trình lãnh đạo nhiệm vụ phát
triển kinh tế biển của Tỉnh ủy Sóc Trăng.
Để thực hiện tốt điều này cần quán triệt sâu sắc đường lối, nghị quyết
của Đảng, đặc biệt là chiến lược và các nghị quyết về phát triển kinh tế biển
của Đảng, đồng thời phải thu thập và xử lý tốt thông tin. Thông tin phải đầy

đủ, chính xác kịp thời. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: "Khi xây dựng đường lối, chỉ
thị, nghị quyết cần có thông tin đầy đủ và đúng sự thật" [38, tr.568]. Xã hội
ngày càng phát triển; yêu cầu về thông tin ngày càng lớn. Trong điều kiện
hiện nay thông tin ngày càng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của mỗi người,
cơ quan, địa phương và mỗi quốc gia, dân tộc. Vì thế, thông tin được coi như một
quyền lực mạnh mẽ. Cùng với các thành tựu của khoa học - công nghệ, thông tin
trở thành "tài sản quốc gia". Nắm được thông tin là yếu tố đặc biệt quan trọng để ra
nghị quyết cũng như tổ chức thực hiện nghị quyết và kiểm tra việc thực hiện.

Tỉnh uỷ cần xây dựng đề cương dự thảo của nghị quyết và thực hiện tốt việc
lấy ý kiến của các chuyên gia kinh tế, các nhà hải dương học, cán bộ lão thành cách
mạng, các tố chức đảng cấp dưới và nhân dân. Thường vụ Tỉnh uỷ thảo luận, góp ý
bố sung cho dự thảo, trước khi đưa ra Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh thảo luận và
quyết định. Tổ chức thực hiện nghị quyết của Tỉnh uỷ về kinh tế biển, đây là vấn đề
rất quan trọng để nghị quyết của Tỉnh uỷ thành hiện thực sinh động. Không tổ chức


24
thực hiện nghị quyết tốt, đồng nghĩa với nghị quyết dù có đúng, có hay đến mấy
cũng chỉ nằm trên giấy. Hồ Chí Minh cho rằng: Nếu không tổ chức thực hiện tốt
nghị quyết của Đảng thì "sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của
nhân dân đối với Đảng" [44, tr.249-250].
Tỉnh uỷ tổ chức quán triệt nghị quyết về kinh tế biển của Tỉnh uỷ trong cán
bộ tỉnh, nhất là đối với cấp uỷ, cán bộ chủ chốt các cấp, đặc biệt chú trọng cán bộ
vùng biển, ven biển và đảo. Trên cơ sở những nội dung cơ bản của nghị quyết, cần
cụ thể hoá thành nhiệm vụ, chương trình, mục tiêu, bước đi cụ thể trong từng
khoảng thời gian nhất định.
Phổ biến, tuyên truyền, học tập nghị quyết trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Điều này phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng của
Tỉnh uỷ và các cấp uỷ, tổ chức đảng trong tỉnh. Cấp uỷ các cấp cần tổ chức phổ

biến nghị quyết của Tỉnh uỷ trong nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể và trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
Chỉ đạo chính quyền và cấp uỷ cấp dưới xây dựng chương trình hành động.
Trong đó cần nêu rõ những yêu cầu phải đạt được, những điểm cần chú ý trong
từng công việc và có các văn bản hướng dẫn cụ thể cho cấp dưới và cán bộ thi
hành. Đối với những văn bản liên quan đến công tác quản lý nhà nước cần thể chế
hoá thành những quy định của cơ quan nhà nước; đồng thời phân công cán bộ phụ
trách từng công việc.

Cần chọn những cán bộ có năng lực, sở trường, có kinh nghiệm về từng
công việc giao cho họ phụ trách, định rõ thời gian hoàn thành từng công việc và thực hiện
toàn bộ công việc; giáo dục đội ngũ cán bộ làm kinh tế nêu cao tinh thần trách nhiệm, gắn
phát triển kinh tế biển với bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển.

Ba là, thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết về kinh tế biên của Tỉnh uỷ

Đây là vấn đề rất quan trọng đảm bảo cho nghị quyết của Tỉnh uỷ được
thực hiện có hiệu quả. Đảng ta đã khẳng định: "Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi
như không có lãnh đạo" [23, tr.123]. Công tác kiểm tra được tiến hành trong suốt
quá trình từ khâu chuẩn bị, ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết. Tỉnh uỷ cần
kiểm tra cấp uỷ cấp dưới về lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện nghị
quyết, nhất là kiểm tra cấp uỷ huyện, thành phố, thị xà về việc chỉ đạo, hướng dẫn


25
cơ sở thực hiện nghị quyết.

Một vấn đề không thể thiếu trong quá trình lãnh đạo của Tỉnh uỷ là
khâu sơ kết, tổng kết quá trình thực hiện nghị quyết của Tỉnh uỷ. Khi kết thúc

một phần công việc, một công việc, qua một khoảng thời gian nhất định hoặc
kết thúc toàn bộ quá trình thực hiện nghị quyết về kinh tế biển của Tỉnh uỷ
cần sơ kết hoặc tổng kết rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích. Việc làm
đó không chỉ đế đánh giá ưu, khuyết điểm, rút kinh nghiệm mà còn để bổ
sung, hoàn chỉnh chương trình, kế hoạch hoạt động, tìm các biện pháp thực
hiện nghị quyết tốt hơn.
* Nội dung lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế biển của Tỉnh uỷ Sóc
Trăng

- Tỉnh uỷ lãnh đạo kinh tế biển là lãnh đạo chính trị trong kinh tế, đảm bảo
tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững đồng thời đảm bảo dân chủ, công băng, văn
minh và từng bước tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo kinh tế trước hết phải
xác định đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế trong toàn bộ quá trình và từng
giai đoạn cụ thể nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Tỉnh uỷ Sóc Trăng lãnh đạo kinh tế biển theo hướng phát huy nội lực, tranh thủ
nguồn lực từ bên ngoài, sử dụng lợi thế tiềm năng, đưa lĩnh vực kinh tế biển phát
triển nhanh, bền vững; khai thác và sử dụng các nguồn lực theo mục tiêu chiến
lược, điều chỉnh mục tiêu và bố trí lại nguồn lực trong những tình huống cần thiết.

- Tỉnh uỷ lãnh đạo sử dụng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, ban hành cơ chế, quy
định trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường và lãnh
đạo chính quyền các cấp phát huy vai trò quản lý nhà nước trên địa bàn nhằm đảm
bảo ổn định kinh tế - xã hội.

- Tỉnh uỷ lãnh đạo việc đổi mới và phát triển các loại hình doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế biển trên địa bàn, đảm bảo cho kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể ngày càng giữ vai trò chủ đạo, đồng thời phát huy tính tích cực của các thành
phần kinh tế khác.


- Tỉnh uỷ lãnh đạo kinh tế biển vừa thực hiện nhiệm vụ của Trung ương trên địa
bàn tỉnh, vừa phát triển kinh tế địa phương, đồng thời thông qua Huyện uỷ, Đảng


×