MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
3
CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ,
TỈNH THÁI BÌNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN
1.1.
10
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và một số vấn đề cơ bản
về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn
1.2.
huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
10
Thực trạng và một số kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ,
tỉnh Thái Bình
37
Chương 2: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH
2.1.
THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
53
Những thuận lợi, khó khăn và yêu cầu tăng cường xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ,
2.2.
tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay
53
Một số giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
60
88
90
94
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đủ về số lượng, có chất lượng cao
và cơ cấu hợp lý là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, giải giáp hàng đầu để
thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước ở các địa phương. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng
“Cấp xã là nơi gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm việc
được thì moi việc đều xong xuôi”. Cấp xã ổn định và phát triển thì an ninh, chính
trị, an sinh xã hội ổn định, đất nước sẽ phát triển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban chấp hành Trung ương khóa X về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn (8/2008) đã nhấn mạnh: cấp xã, phường “là
cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối, nghị quyết, chính sách vào
cuộc sống. Là cấp hành động, tổ chức thực hiện nên cán bộ cơ sở phải gần dân,
hiểu dân, sát dân và năng lực của cán bộ cơ sở là năng lực thực hành, tổ chức
công việc, thường xuyên giáo dục, tuyên truyền vận động quần chúng”. Như vậy,
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã vững mạnh là vấn đề cấp thiết trong
xây dựng nền hành chính ở cơ sở của nước ta hiện nay.
Quỳnh Phụ là một trong những huyện của tỉnh Thái Bình có đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã tương đối vững mạnh. Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã đã từng bước phát triển cả số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu của thời kỳ mới. Đa số cán bộ, công chức cấp xã ở Quỳnh Phụ có phẩm
chất đạo đức tốt, trung thành với lý tưởng, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng;
có lối sống giản dị, trong sáng, gần gũi với nhân dân, tâm huyết với công việc. Đây là
nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng địa phương vững mạnh.
Tuy nhiên, trước tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, một bộ phận
cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp xã nói riêng có biểu hiện suy
thoái về phẩm chất đạo đức, thái độ quan liêu, hách dịch, chưa thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở; có dấu hiệu, tư tưởng cơ hội, ý thức kỷ luật kém; tinh thần phê
3
bình và tự phê bình còn thấp. Những biểu hiện tiêu cực đó đã gây tổn hại đến uy tín
và làm giảm sút lòng tin của nhân dân địa phương đối với Đảng bộ và chính quyền
các xã. Mặt khác, tỉ lệ cán bộ, công chức chưa đạt chuẩn ở huyện Quỳnh Phụ vẫn
còn tương đối cao. Số liệu thống kê của Phòng Nội Vụ huyện Quỳnh Phụ cho thấy,
hiện Quỳnh Phụ có tổng số 802 cán bộ, công chức cấp xã, trong đó vẫn còn 7,6%
chưa qua đào về chuyên môn nghiệp vụ; 14,34% chưa qua đào tạo về lý luận chính
trị; 17,33% chưa qua đào tạo về quản lý hành chính. Tỷ lệ cán bộ, công chức trẻ
(dưới 30 tuổi) chỉ chiếm 8,6%.
Số liệu trên cho thấy, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
Quỳnh Phụ vẫn chưa đạt được so với mục tiêu, yêu cầu đề ra. Đội ngũ cán bộ trẻ kế
cận còn thiếu về số lượng, chất lượng còn bất cập. Đây là một trong những nguyên
nhân chủ yếu làm cho năng lực quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng
các cấp và các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương của
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chưa cao, ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế, xây dựng địa phương vững mạnh.
Bước vào thời kỳ mới, trước sự phát triển của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập
quốc tế; trước sự chống phá của cá thế lực thù địch, yêu cầu phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội ở các xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ và yêu cầu công tác xây dựng
đảng, xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh đã đặt ra những yêu cầu
phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và
chất lượng ngày càng cao.
Vì vậy, việc lựa chọn vấn đề: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã nói riêng là vấn đề hệ trọng, luôn được các cấp ủy, tổ chức
đảng, các cơ quan chức năng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; được các cán bộ lãnh
đạo, quản lý, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình
khoa học được nghiệm thu, công bố. Tiêu biểu là:
4
Luận án tiến sỹ “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã nông thôn Đồng
bằng sông Cửu Long” của Phạm Công Khâm đã làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra
những nguyên nhân, ưu điểm, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất mục tiêu và hệ
thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Những kinh nghiệm mà tác giải chỉ ra đáng chú ý là xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đồng bằng sông Cửu long phải sát với tình hình
đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng, gắn xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể vững mạnh.
Cuốn sách “Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ vững
ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện nay” của tác giả Mai Đức
Ngọc. Trong cuốn sách này, tác giả Mai Đức Ngọc đã nêu bật vai trò rất quan
trọng trong việc giữ vững ổn định chính trị ở nông thôn của đội ngũ cán bộ cấp
xã.Tác giả đã đi sâu luận giải tính cấp thiết phải giữ vững ổn định chính trị ở
nông thôn và vai trò cán bộ chủ chốt trong giữ vững ổn định chính trị ở nông
thôn. Sau khi phân tích vai trò của cấp xã trong giữ vững ổn định chính trị nông
thôn tác giả khảng định cán bộ xã là chủ thể trực tiếp quyết định thực hiện có
hiệu quả chức năng của hệ thống chính trị cơ sở, đảm bảo cho đường lối chính
sách của đảng và nhà nước được thực hiện một cách sinh động, sáng tạo ở nông
thôn. Hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã góp phần trực tiếp phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cuốn sách “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo phường hiện nay” của Nguyễn Duy Hùng đã đi sâu tổng kết thực tiễn,
phân tích một cách tập trung, làm rõ những căn cứ khoa học để khẳng định vai trò
đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường, khẳng định xây dựng đội ngũ cán bộ phường có
vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay với sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước. Tác giả đưa ra hệ thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ phường trong giai
đoạn hiện nay như về xác định chức năng của cấp xã trong hệ thống chính trị, xây
dựng biên chế, tổ chức bộ máy, xây dựng quy chế phối hợp công tác, hoàn thiện
quy định về tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, nâng cao chất lượng đào tạo,
5
bồi dưỡng khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao y thức trong tự học tập, nâng
cao trình độ bằng nhiều hình thức, bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách đối với
cán bộ lãnh đạo phường.
Luận án tiến sỹ “Chuẩn hóa Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã các tỉnh Đồng
bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay” của Đinh Ngọc Giang đã trình bày tổng
quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chuẩn hóa đội ngũ Chủ tịch ủy ban nhân dân xã vùng Đồng bằng sông
Hồng. Luận án đã phân tích vị trí, vai trò của Chủ tịch ủy ban nhân dân xã vùng
Đồng bằng sông Hồng với việc phát triển kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, bảo đảm an ninh quốc phòng vùng này, đồng thời phân tích làm rõ thực trạng
đội ngũ Chủ tịch ủy ban nhân dân xã vùng Đồng bằng sông Hồng về bản lĩnh
chính trị, đạo đức lối sống, trình độ chuyên môn nghiệp vụ quản lý nhà nước,
trình độ tin học, ngoại ngữ, chỉ rõ những hạn chế yếu kém của đội ngũ Chủ tịch
ủy ban nhân dân xã vùng Đồng bằng sông Hồng và yêu cầu cấp thiết cần chuẩn
hóa đội ngũ Chủ tịch ủy ban nhân dân xã vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tác giả đưa ra ba nhóm
giải pháp nhằm đạt mục tiêu chuẩn hóa đội ngũ Chủ tịch ủy ban nhân dân xã
vùng Đồng bằng sông Hồng: Nâng cao chất lượng nguồn quy hoạch, phát huy
vai trò của các tổ chức, các lực lượng, của các tầng lớp nhân dân địa phương,
của các cơ quan làm công tác cán bộ, đặc biệt phats huy vai trò của đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã và cán bộ dự nguồn trong tự học tập, rèn luyện, tự chuẩn
hóa nâng cao phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Sách tham khảo “Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc Khmer ở cơ sở xã,
phường, thị trấn khu vực tay nam bộ” của Nguyễn Thái Hòa, tác giả đề cập
nhiều khía cạnh trong xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc Khmer như Nâng
cao chất lượng, số lượng đào tạo nguồn, tăng cường đào tạo bồi dưỡng gắn với
sử dụng tích cực luân chuyển cán bộ; Tác giả cũng đã xây dựng hệ thống tiêu
chuẩn chung và tiêu chuẩn cho từng chức danh cụ thể và nhóm chức danh đội
ngũ cán bộ dân tộc khmer. Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây
dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc khmer là xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của
6
từng xã, phường, thị trấn, xây dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với kiện toàn bộ
máy và đổi mới hệ thống chính trị các cấp, phát huy truyền thống đoàn kết các
dân tộc anh em. Hệ thống các giải pháp được tác giả đưa ra vừa có tính bao quát,
vừa mang tính cụ thể gồm: Tạo nguồn đưa vào quy hoạch, coi trọng công tác
phát triển đảng viên khu vực đồng bào dân tộc khmer sinh sống, thực hiện quy
hoạch và đánh giá cán bộ khách quan, trung thực, toàn diện, thực hiện tốt các
chính sách cán bộ… các giải pháp được thực hiện kiên trì, đồng bộ tránh nôn
nóng, vội vã.
Sách chuyên khảo “Pháp luật về cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở
Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh Sản
luận giải cơ sở lý luận hoàn thiện hệ thống pháp luật về cán bộ công chức chính
quyền cấp xã, đánh giá và phân tích khá rõ về vị trí vai trò cán bộ, công chức
cấp xã nêu lên phương hương yêu cầu và những giải pháp hoàn thiện pháp luật
về công chức chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay.
Sách chuyên khảo “Tiếp tục hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ,
công chức cơ sở” của Nguyễn thế Vịnh và Đinh Ngọc Giang đã đề cập khá sâu
sắc những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò, đặc điểm của cán bộ, công chức cấp
xã, thực trạng thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã
trong thời gian gần đây; Tác giả cho rằng trong những năm gần đây thực hiện
các chế độ chính sách đối với cán bộ cơ sở đã có nhiều chuyển biến tiến bộ,
chuyển từ việc hưởng chế độ phụ cấp theo chức danh sang hưởng lương từ ngân
sách nhà nước, điều này đã góp phần nâng cao trách nhiệm, chuản hóa đội ngũ
cán bộ cơ sở. Tuy nhiên còn nhiều bất hợp lý trong các chế độ chính sách đã ban
hành. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện chế độ chính sách
đối với cán bộ, công chức cơ sở như thực hiện tốt chính sách đãi ngộ, sửa đổi bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến chế độ bầu cử, tuyển dụng, sử
dụng, quản lý cán bộ, công chức…vv. Cuốn sách đã đề cập đến xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã ở các cấp độ khác nhau, từ vĩ mô đến từng vùng, từng địa
phương, đã góp phần làm rõ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và
đề ra các giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trên địa bàn những mức độ
khác nhau.
7
Đề tài “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở vấn đề và giải pháp” của
Lê Chi Mai đã đánh giá khá rõ nét thực trạng ưu, khuyết điểm và đề xuất nhứng giải
pháp mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài để đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã có chất lượng, hiệu quả phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Những tài liệu trên đây đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về cán bộ, công
chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức như: khái niệm cán bộ, công chức, một
số nội dung về xây dựng cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức… Đây là những cứ liệu quan trọng để tác giả kế thừa và phát triển trong
đề tài của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
tương đối đầy đủ và toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Thái
Bình nói chung và huyện Quỳnh Phụ nói riêng. Vì vậy, đề tài “Xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình giai đoạn
hiện nay” là đề tài nghiên cứu độc lập của tác giả và không trùng với các công trình
khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp tăng
cường xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình giai đoạn hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về cán bộ, công chức cấp xã và xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
- Đánh giá đúng thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thời gian qua.
- Đề xuất một số yêu cầu cơ bản và giải pháp chủ yếu tăng cường xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình giai
đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
*Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
8
*Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên
địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
Về không gian: Nghiên cứu tại các xã thuộc huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái
Bình; tham khảo báo cáo của một số cơ quan chức năng của huyện Quỳnh Phụ và
tỉnh Thái Bình.
Về thời gian: Thời gian nghiên cứu khảo sát chủ yếu từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
*Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng, của hệ thống chính trị nói
chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng.
*Cơ sở thực tiễn: Hiện thực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; tham khảo báo cáo tổng kết của
các cơ quan chức năng như: Sở nội vụ tỉnh Thái Bình, Phòng nội vụ huyện
Quỳnh Phụ và kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả trong quá trình
nghiên cứu.
*Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê nin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên
ngành và chuyên ngành, trong đó chú trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái
quát hóa, logic và lịch sử, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp
xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học giúp cấp ủy các cấp ở huyện
Quỳnh Phụ trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã
đáp ứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, trong
giảng dạy môn xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước ở các trường Đảng,
trường chính trị trên phạm vi cả nước.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH –
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và một số vấn
đề cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
1.1.1. Cấp xã và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện
Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
* Cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
- Quan niệm về cấp xã:
Cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã hay cấp cơ sở) được Hiến
pháp năm 2013 và Luật tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 13/11/2008 quy định.
Xã là cấp cơ sở ở nông thôn, có đặc điểm là địa bàn rộng; dân cư chủ yếu là
nông dân, sống theo cộng đồng làng xóm. Thị trấn cũng là cấp cơ sở, là trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của huyện. Là đầu mối giao lưu hàng
hóa quan trọng giữa nông thôn và thành thị.
Cấp xã là cầu nối, là nơi thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa chính quyền Nhà
nước và nhân dân, đồng thời cấp xã là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất những
ưu việt hay hạn chế của chế độ XHCN; là nơi thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả của
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; trực tiếp quản
lý các hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương; nơi thể hiện, đồng thời phản ánh
tâm tư nguyện vọng và lợi ích của nhân dân địa phương.
Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý
hành chính nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc
phòng ở cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp,
kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân.
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của các xã trên địa bàn
huyện Quỳnh Phụ:
10
Quỳnh Phụ là một trong 8 huyện, thành phố của tỉnh Thái Bình, được thành
lập ngày 15/10/1969 trên cơ sở sáp nhập huyện Quỳnh Côi và huyện Phụ Dực
cũ. Về vị trí địa lý, Quỳnh Phụ nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái Bình, giáp
các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và được ngăn cách với
các tỉnh này bằng các con sông lớn là: sông Luộc, sông Hoá; giáp với các huyện
Đông Hưng, Hưng Hà, Thái Thụy của tỉnh Thái Bình. Diện tích tự nhiên của
Huyện là 205,63 km2 với đặc điểm: không có đồi núi, không giáp biển, đất đai
màu mỡ, rất thuận lợi cho trồng lúa nước và các loại cây rau màu. Hơn nữa,
Quỳnh Phụ còn nằm ở cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Dương
- Hải Phòng - Quảng Ninh nên thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế.
Dân số của Quỳnh Phụ là 256.800 người. Tổng số đơn vị hành chính trực
thuộc gồm 36 xã và 2 thị trấn (Thị trấn Quỳnh Côi và Thị trấn An Bài) với 241
thôn và tổ dân phố. Nhân dân Quỳnh Phụ anh dũng trong kháng chiến, cần cù
chịu khó, sáng tạo trong lao động sản xuất.
Đảng bộ huyện Quỳnh Phụ có hiện 75 tổ chức cơ sở đảng, trong đó: 38 Đảng
bộ xã, thị trấn; 9 Đảng bộ khối cơ quan; 28 Chi bộ khối cơ quan trực thuộc
Huyện uỷ. Tổng số chi bộ trực thuộc Đảng ủy xã, thị trấn là 373; trong đó có
240 chi bộ thôn, tổ dân phố. Tổng số đảng viên trong toàn huyện tính đến hết
tháng 12 năm 2014 là 11.202 đồng chí.
Từ khi đổi mới đến nay, kinh tế của Quỳnh Phụ có mức tăng trưởng khá, cơ
cấu kinh tế đang ngày càng chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp,
tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ. Tỷ trọng các ngành trong
cơ cấu kinh tế ở Quỳnh Phụ năm 2014 là: Nông nghiệp 25,2%; Công nghiệp - Xây
dựng cơ bản 60,2%; Thương mại - Dịch vụ 14,6%. Tổng giá trị sản xuất năm 2013
đạt 4.505,5 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân 3 năm (2011 - 2013) đạt 9,2%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, các phong trào văn hóa - thể thao và chính sách xã hội được cấp ủy
Đảng, chính quyền của Huyện quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và có bước chuyển biến
tiến bộ: Đã hoàn thành phổ cập mẫu giáo 5 tuổi, hoàn thành phổ cập tiểu học đúng
độ tuổi mức độ 2, nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở; tỷ lệ giáo viên đạt
11
chuẩn 99,99%; 75/116 trường đạt chuẩn quốc gia. 38/38 xã đạt chuẩn quốc gia về y
tế giai đoạn I, Tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa năm 2013 đạt 82%; tỷ
lệ người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 30,1%, tỷ lệ gia đình thể thao
đạt 22,3%. Công tác xóa đói giảm nghèo được thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ hộ
nghèo năm 2013 là 6,2%.
* Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh Phụ.
- Quan niệm chung về cán bộ, công chức
Quan niệm về cán bộ, công chức ở mỗi quốc gia có sự khác nhau, đa số
các nước đều giới hạn cán bộ, công chức trong phạm vi bộ máy hành chính nhà
nước (Chính phủ và chính quyền địa phương). Ở nước ta, phù hợp với thể chế
chính trị và tổ chức bộ máy Đảng, nhà nước, đoàn thể, chúng ta dùng khái niệm
“cán bộ, công chức”.
Theo Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
12
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
- Quan niệm về cán bộ, công chức cấp xã
Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của cấp cơ sở và đội ngũ cán bộ cơ
sở, một yêu cầu khách quan đặt ra là: đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn cần
được xếp vào đội ngũ cán bộ, công chức trong biên chế nhà nước. Vì vậy, Pháp
lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003 đã xác định rõ về cán bộ,
công chức cấp cơ sở. Tiếp theo đó, ngày 13/11/2008 Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật cán bộ, công chức có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2010. Trong luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy
định về cán bộ, công chức như sau:
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội.
Theo đó, cán bộ cấp xã ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là công dân
Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm bố trí vào các chức vụ Bí thư, Phó
Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND;
Chủ tịch UBMTTQ; Bí thư Đoàn Thanh niên, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ,
Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh ở các xã trên địa bàn
của huyện Quỳnh Phụ.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, công chức cấp xã ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình là công dân
Việt Nam được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc
UBND các xã trên địa bàn của huyện Quỳnh Phụ gồm các chức danh: Trưởng công
an; Chỉ huy trưởng quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài
chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.
Với quy định này, địa vị pháp lý của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
được xác định rõ ràng; quyền hạn và trách nhiệm của họ được quy định chặt chẽ
13
hơn và yêu cầu về phẩm chất và năng lực của họ cũng cao hơn để đủ sức đảm
nhận trách nhiệm do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
* Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức cấp xã
- Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ xã:
Cán bộ cấp xã có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Đảng bộ, Đảng ủy, lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ
sở trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước trên địa bàn cấp xã.
Chức trách, nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh cán bộ cấp xã như sau:
Bí thư Đảng ủy xã:
+ Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên và chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết có
hiệu quả công việc đột xuất; nắm chắc và sát tình hình đảng bộ, tổ chức đảng trực
thuộc và của nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm chủ yếu về các mặt công tác
của đảng bộ.
+ Chủ trì cuộc họp của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và chỉ đạo việc chuẩn
bị xây dựng nghị quyết của đảng bộ. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của đảng;
giữ vai trò trung tâm đoàn kết giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn.
Phó Bí thư Đảng ủy xã:
+ Giúp Bí thư đảng bộ chuẩn bị nội dung các cuộc họp và dự thảo nghị quyết
của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ về các mặt công tác của Đảng bộ.
+ Tổ chức việc thông tin tình hình và chủ trương của Ban chấp hành, Ban
thường vụ cho các Uỷ viên Ban chấp hành và tổ chức đảng trực thuộc.
+ Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên, của
Ban Chấp hành và Ban Thường vụ.
Chủ tịch UBMTTQ Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh: Là cán bộ chuyên trách đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
14
đoàn thể chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn; chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ của tổ chức đoàn
thể, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ của Chủ
tịch UBMTTQ Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch
Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh gồm:
+ Chuẩn bị nội dung, triệu tập và chủ trì các kỳ họp của tổ chức mình.
+ Cùng tập thể Ban Thường trực (Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc), Ban Thường trực
(4 tổ chức đoàn thể) xây dựng chương trình kế hoạch công tác, hướng dẫn hoạt động
đối với Ban Công tác Mặt trận, các chi hội đoàn thể ở thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố.
+ Phối hợp với chính quyền, các đoàn thể cùng cấp vận động, hướng dẫn cán
bộ, đoàn viên, hội viên tổ chức mình, các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện các
chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, hiệp thương bầu cử xây dựng
chính quyền, thực hiện quy chế dân chủ tại xã, phường, thị trấn và các phong trào thi
đua của tổ chức mình theo chương trình, nghị quyết của tổ chức chính trị - xã hội cấp
trên tương ứng đề ra.
+ Tổ chức, chỉ đạo việc học tập chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật Nhà nước; các chủ trương, nghị quyết đối với đoàn viên, hội viên của tổ
chức mình.
+ Chỉ đạo việc lập kế hoạch kinh phí, chấp hành, quyết toán kinh phí hoạt
động và quyết định việc phân bổ kinh phí hoạt động do Nhà nước cấp đối với tổ
chức mình.
+ Tham mưu đối với cấp uỷ Đảng ở xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ của tổ chức mình.
+ Bám sát hoạt động các phong trào, định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá và báo cáo
với cấp uỷ cùng cấp và các tổ chức đoàn thể cấp trên về hoạt động của tổ chức mình.
+ Chỉ đạo việc xây dựng quy chế hoạt động của BanThường vụ, Ban Chấp
hành cấp cơ sở tổ chức mình; chỉ đạo hoạt động của Ban Thường vụ, Ban Chấp hành
đảm bảo theo đúng quy chế đã xây dựng.
15
Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND là cán bộ chuyên trách của HĐND xã, phường,
thị trấn, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của HĐND cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Chủ tịch HĐND có nhiệm vụ:
+ Triệu tập, chủ toạ các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, phối hợp với Uỷ ban
nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp Hội đồng nhân dân; chủ trì trong việc tham gia
xây dựng nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
+ Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng
nhân dân.
+ Tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại,
tố cáo của nhân dân.
+ Giữ mối quan hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân, phối hợp công tác với Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, thông báo hoạt động của Hội đồng nhân
dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
+ Báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân lên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân cấp huyện.
+ Chủ trì và phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc quyết định đưa ra bãi
nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp.
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ: Căn cứ vào nhiệm vụ của Chủ tịch
Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do
Chủ tịch Hội đồng nhân dân phân công cụ thể và thay mặt Chủ tịch Hội đồng nhân dân
giải quyết công việc khi Chủ tịch Hội đồng nhân dân vắng mặt.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là cán bộ chuyên trách lãnh đạo Uỷ
ban nhân dân cấp xã, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của
Uỷ ban nhân dân và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh, đã được phân công trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là:
+ Lãnh đạo phân công công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên Uỷ ban
nhân dân, công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, gồm:
16
+ Tổ chức chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra đối với công tác chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp
trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn.
+ Quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã, tham gia quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể Uỷ ban nhân dân.
+ Áp dụng các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, quản lý và điều hành bộ máy
hành chính ở xã, phường, thị trấn hoạt động có hiệu quả.
+ Ngăn ngừa, đấu tranh chống biểu hiện tiêu cực trong cán bộ công chức Nhà
nước và trong bộ máy chính quyền địa phương cấp xã; tiếp dân, xét và giải quyết
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật; giải quyết và
trả lời các kiến nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân ở xã, phường, thị trấn.
+ Trực tiếp quản lý, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật.
+ Tổ chức quản lý, điều hành hoạt động của trưởng, phó thôn, tổ dân phố theo
quy định của pháp luật.
+ Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân dân
cấp trên.
+ Triệu tập và chủ toạ phiên họp của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
+ Thực hiện việc bố trí sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cơ sở
theo sự phân cấp quản lý.
+ Đình chỉ hoặc bãi bỏ quy định trái pháp luật của trưởng thôn và tổ dân phố.
Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công việc (khối kinh tế tài chính, khối văn hoá - xã hội...) của Uỷ ban nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân phân công và những công việc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ủy nhiệm khi Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân đi vắng.
- Chức trách, nhiệm vụ của công chức cấp xã:
Công chức cấp xã làm công tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân
dân cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức
17
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các
nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Chức trách, nhiệm vụ của các chức danh công chức cấp xã như sau:
Trưởng Công an xã:
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban nhân dân xã trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa
bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về công an xã
và các văn bản có liên quan của cơ quan có thẩm quyền.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã giao.
+ Đối với thị trấn chưa bố trí lực lượng công an chính quy thì Trưởng Công an
thị trấn thực hiện nhiệm vụ như đối với Trưởng Công an xã quy định tại khoản 1,
khoản 2 và khoản 3 Điều này trên địa bàn thị trấn.
Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự trên địa
bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về dân quân
tự vệ, quốc phòng toàn dân, nghĩa vụ quân sự và các văn bản có liên quan của cơ
quan có thẩm quyền.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
- Công chức Văn phòng - Thống kê
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Văn phòng, thống kê, tổ
chức, nhân sự, thi đua, khen thưởng, kỷ luật, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc và thanh
niên trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Xây dựng và theo dõi việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, lịch làm
việc định kỳ và đột xuất của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;
18
Giúp Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức các
kỳ họp; chuẩn bị các điều kiện phục vụ các kỳ họp và các hoạt động của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã;
Tổ chức lịch tiếp dân, tiếp khách của Ủy ban nhân dân cấp xã; thực hiện công
tác văn thư, lưu trữ, cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” tại Ủy ban nhân dân
cấp xã; nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo và chuyển đến Thường trực Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân xem xét, giải quyết theo thẩm quyền; tổng hợp, theo dõi và
báo cáo việc thực hiện quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã và thực hiện
dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật;
Chủ trì, phối hợp với công chức khác xây dựng và theo dõi việc thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổng hợp, thống kê, báo cáo tình hình phát triển
công nghiệp, thương mại, dịch vụ và các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp
xã; dự thảo các văn bản theo yêu cầu của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Công chức Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường:
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Đất đai, tài nguyên, môi
trường, xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thu thập thông tin, tổng hợp số liệu, lập sổ sách các tài liệu và xây dựng các
báo cáo về đất đai, địa giới hành chính, tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học,
công tác quy hoạch, xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn theo quy định của pháp luật;
Tổ chức vận động nhân dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, bảo vệ môi trường trên địa bàn cấp xã;
19
Giám sát về kỹ thuật các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của
Ủy ban nhân dân cấp xã;
Chủ trì, phối hợp với công chức khác thực hiện các thủ tục hành chính trong
việc tiếp nhận hồ sơ và thẩm tra để xác nhận nguồn gốc, hiện trạng đăng ký và sử
dụng đất đai, tình trạng tranh chấp đất đai và biến động về đất đai trên địa bàn; xây
dựng các hồ sơ, văn bản về đất đai và việc cấp phép cải tạo, xây dựng các công
trình và nhà ở trên địa bàn để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định hoặc
báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên xem xét, quyết định theo quy định của pháp luật.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Công chức Tài chính - kế toán:
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực tài chính, kế toán trên địa
bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Xây dựng dự toán thu, chi ngân sách cấp xã trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt; tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách và các biện pháp khai thác
nguồn thu trên địa bàn cấp xã;
Kiểm tra và tổ chức thực hiện các hoạt động tài chính, ngân sách theo hướng
dẫn của cơ quan tài chính cấp trên; quyết toán ngân sách cấp xã và thực hiện báo
cáo tài chính, ngân sách theo đúng quy định của pháp luật;
Thực hiện công tác kế toán ngân sách (kế toán thu, chi ngân sách cấp xã, kế
toán các quỹ công chuyên dùng và các hoạt động tài chính khác, kế toán tiền mặt,
tiền gửi, kế toán thanh toán, kế toán vật tư, tài sản,...) theo quy định của pháp luật;
Chủ trì, phối hợp với công chức khác quản lý tài sản công; kiểm tra, quyết
toán các dự án đầu tư xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp
xã theo quy định của pháp luật.
20
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Công chức Tư pháp - hộ tịch
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa
bàn theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý tủ sách pháp luật, tổ chức phục vụ nhân
dân nghiên cứu pháp luật và tổ chức lấy ý kiến nhân dân trên địa bàn cấp xã trong
việc tham gia xây dựng pháp luật;
Kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân cấp xã báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định; tham
gia công tác thi hành án dân sự trên địa bàn cấp xã;
Thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp, hộ tịch, chứng thực, chứng nhận và
theo dõi về quốc tịch trên địa bàn cấp xã theo quy định của pháp luật; phối hợp với
công chức Văn hóa - xã hội hướng dẫn xây dựng hương ước, quy ước ở thôn, tổ
dân phố và công tác giáo dục tại địa bàn cấp xã;
Chủ trì, phối hợp với công chức khác thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Công chức Văn hóa - xã hội
+ Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Văn hóa, thể dục thể
thao, du lịch, thông tin, truyền thông, lao động, thương binh, xã hội, y tế, giáo dục
theo quy định của pháp luật.
+ Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:
Tổ chức, theo dõi và báo cáo về các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, du
lịch, y tế và giáo dục trên địa bàn; tổ chức thực hiện việc xây dựng đời sống văn
hóa ở cộng đồng dân cư và xây dựng gia đình văn hóa trên địa bàn cấp xã;
Thực hiện các nhiệm vụ thông tin, truyền thông về tình hình kinh tế - xã hội ở
địa phương;
21
Thống kê dân số, lao động, việc làm, ngành nghề trên địa bàn; theo dõi, tổng
hợp, báo cáo về số lượng và tình hình biến động các đối tượng chính sách lao động,
thương binh và xã hội; theo dõi, đôn đốc việc thực hiện và chi trả các chế độ đối
với người hưởng chính sách xã hội và người có công; quản lý nghĩa trang liệt sĩ và
các công trình ghi công liệt sĩ; thực hiện các hoạt động bảo trợ xã hội và chương
trình xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn cấp xã;
Chủ trì, phối hợp với công chức khác và trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố
xây dựng hương ước, quy ước ở thôn, tổ dân phố và thực hiện công tác giáo dục tại
địa bàn cấp xã.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
* Vị trí vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển toàn diện về kinh tế - xã hội ở địa phương, có thể khái quát vai trò đó trên
những nét cơ bản sau:
Một là, cán bộ, công chức là chủ thể thực thi pháp luật để quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đề
ra trên địa bàn các xã.
Cán bộ, công chức cấp xã là một bộ phận không thể thiếu trong đội ngũ cán
bộ, công chức nước ta, mọi hoạt động ở cơ sở đều do cán bộ, công chức cấp xã
đảm nhận và thực hiện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá VII) khẳng
định tầm quan trọng và đề cao vị trí của cán bộ cơ sở trong công cuộc đổi mới
đất nước như sau: “Cán bộ cũng có vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy
hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới. Cán bộ nói chung có vai trò rất quan trọng,
cán bộ cơ sở nói riêng có vị trí nền tảng cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ
chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong thực tế. Pháp luật của Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có hiệu
quả hay không hiệu quả một phần quyết định là ở cơ sở. Cấp cơ sở trực tiếp gắn
với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã,
phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn”.
22
Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao cán bộ, công chức cấp xã phải thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân để giải quyết các thủ tục hành chính liên quan và
triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước cũng như trực tiếp lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân địa phương. Như vậy, cán bộ, công chức cấp xã là mắt xích, là cầu nối giữa
nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đồng thời, để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao,
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng
triển khai chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để tổ chức
tuyên truyền, giải thích để nhân dân hiểu và thuyết phục nhân dân làm theo hay thi
hành một cách nghiêm túc. Về khía cạnh này, có thể nói người cán bộ, công chức
xã không chỉ là người quản lý địa bàn mà còn phải thực hiện tốt công tác dân vận,
đóng vai trò như một tuyên truyền viên tích cực.
Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng điều hành các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi mọi chủ
trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước ở địa phương.
Cả về lý luận và thực tiễn đều khẳng định, đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã là lực lượng đóng vai trò nòng cốt, điều hành và thực thi hoạt động của bộ
máy tổ chức xã. Mặc dù cấp xã là cấp đơn vị hành chính nhỏ nhất nhưng lại là
nơi gần dân nhất, nơi mà mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước trực tiếp đi vào đời sống người dân, đồng thời là nơi tiếp thu những ý kiến
của dân để phản ánh cho Đảng và Nhà nước để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với thực tế.
Hiện nay, có quan niệm cho rằng cán bộ xã công việc ít và dễ làm nên
không đòi hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn cao, không cần đào tạo mà chỉ
cần sử dụng những người có kinh nghiệm thực tiễn ở các địa phương để giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy cán bộ, công
chức ở xã hàng ngày phải chịu áp lực tương đối lớn về công việc, họ phải giải
quyết cùng một lúc nhiều công việc với tính chất đa dạng và phức tạp liên quan
trực tiếp đến con người và mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh tại địa phương. Vì vậy, đội ngũ này cần rất phải được
23
đào tạo bài bản, phải xây dựng và trang bị cho họ có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và trình độ năng lực chuyên môn, nhất là năng lực tổ chức thực hiện
và vận động quần chúng nhân dân.
Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng nòng cốt trong giữ gìn trật tự
kỷ cương xã hội, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm, bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân ở địa
phương mình quản lý.
Đây vừa thể hiện vị trí vai trò vừa là nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã. Là những chủ thể đại diện cho quyền lực của nhà nước ở cơ sở, đội ngũ cán
bộ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò to lớn trong việc bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở địa phương mình quản lý, bảo đảm mọi quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi công dân phải được thực thi đầy đủ, đúng pháp luật.
Ngày nay, trước những tác động mạnh mẽ của mặt trái cơ chế thị trường và
ảnh hưởng của lối sống thực dụng đã làm xuất hiện nhiều loại tội phạm trên nhiều
lĩnh vực kinh tế, chính trị, hình sự...,đã đặt ra yêu cầu cao cả về phẩm chất và năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt năng lực quản lý tình hình an
ninh, bảo đảm an toàn cho địa phương trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Vì vậy, đào
tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực toàn diện mà trước hết là năng lực quản lý
địa phương theo pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đang là vấn đề có
ý nghĩa thiết thực và cấp bách.
Bốn là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp gắn bó với quần chúng
nhân dân, tạo dựng và tổ chức phong trào cách mạng cho quần chúng nhân dân.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người trực tiếp tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh ở địa
phương, lợi ích của họ gắn bó mật thiết với lợi ích của tập thể và nhân dân ở địa
phương. Đồng thời, họ là những người am hiểu tình hình địa bàn nhất, là cầu nối
giữa Dân với Đảng, kịp thời phổ biến mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của nhà nước tới mọi người dân và cũng phản ánh kịp thời những
tâm tư, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân địa phương với Đảng và Nhà nước
nhằm giúp Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương, chính sách và các biện pháp tổ
24
chức, quản lý phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân địa phương.
Như vậy, kinh tế - xã hội ở xã có phát triển hay không, đời sống của nhân có
được nâng lên hay không và quốc phòng an ninh trên địa bàn xã có được giữ vững
và tăng cường hay không một phần quyết định là do đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã mạnh hay yếu.
* Đặc điểm cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Quỳnh phụ, tỉnh
Thái Bình
Ngoài những đặc điểm chung về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ,...của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở nước
ta, cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình còn có những
nét đặc thù đó là:
Một là, cán bộ, công chức cấp xã của huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình hầu
hết là người có hộ khẩu thường trú tại địa phương, trưởng thành từ phong trào địa
phương.
Đặc điểm này cho thấy, nguồn tuyển chọn đầu vào của đội ngũ cán bộ, công
chức ở huyện Quỳnh Phụ về cơ bản đều là những con, em của địa phương, có hộ
khẩu thường trú tại địa phương; một bộ phận là bộ đội phục viên, nghỉ hưu, chuyển
ngành về tham gia công tác ở địa phương; một bộ phận tham gia BCH các đoàn
thể, là cán bộ thôn, xóm, trong quá trình công tác thể hiện là những người có khả
năng, năng lực, uy tín sau đó được bồi dưỡng, đào tạo và bầu làm cán bộ cấp xã.
Nguồn cán bộ hưu trí công tác tại cơ sở tập trung ở các chức danh chủ tịch
Hội Cựu chiến binh. Đội ngũ cán bộ hưu trí, bộ đội phục viên, nghỉ hưu, chuyển
ngành khi tham gia công tác tại địa phương đã phát huy khá tốt kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của mình, có lập trường, tư tưởng vững vàng, dễ tạo được uy tín và
sự tin tưởng từ cấp dưới. Tuy nhiên thực tế một số ít cán bộ hưu trí do đảm nhiệm
một lĩnh vực công việc mới, nên trong xử lý công việc có lúc còn bị động và bảo
thủ, nặng về chủ nghĩa kinh nghiệm, chậm thích nghi với đổi mới, ngại học tập để
tiếp thu những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và hạn chế về điều kiện sức khoẻ.
Đặc điểm này vừa là thuận lợi song cũng là những trở ngại cho hoạt động
quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức cấp xã ở Quỳnh
25
Phụ. Do là những người ở địa phương nên đội ngũ cán bộ công chức cấp xã có sự
am hiểu về tình hình đia bàn, nắm chắc những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương và được sự ủng hộ của nhân dân, nên quá trình triển khai tổ chức thực
hiện nhiệm vụ có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, do đều là con, em của các gia đình,
dòng họ trong xã, nên nếu như đội ngũ này thiếu công tâm thì rất dễ dẫn đến tình
trạng chia bè, kết cánh, phân hóa trong nội bộ làm suy yếu bộ máy.
Hai là, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình
được hình thành gắn liền với cơ chế bầu cử trong Đảng, bầu cử hội đồng nhân dân
và hoạt động tuyển dụng của các cơ quan chính quyền ở địa phương.
Đặc điểm này phản ánh tính ưu việt của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
Quỳnh Phụ. Việc bầu cử và tuyển chọn đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
Quỳnh Phụ trong những năm qua luôn được thực hiện một cách công khai, dân
chủ, bảo đảm đúng thủ tục, nguyên tắc. Đây là cơ sở để lựa chọn được những cán
bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực vào trong bộ máy lãnh đạo của Đảng
và chính quyền ở các xã trong toàn Huyện.
Nguồn công chức cấp xã của huyện chủ yếu hình thành từ tuyển dụng. Trong
những năm qua, tỉnh Thái Bình duy trì hai hình thức tuyển dụng: Từ năm 2012 trở
về trước áp dụng hình thức xét tuyển; từ năm 2013 áp dụng hình thức thi tuyển đối
với công chức cấp xã. Tuy nhiên, đa số đối tượng công chức cấp xã trên địa bàn
huyện là con em các gia đình sinh sống tại địa phương, một bộ phận là được xét
tuyển từ cán bộ thuộc các tổ chức Đảng - Chính quyền - Đoàn thể ở thôn và xã,
một bộ phận được xét tuyển, thi tuyển từ sinh viên tốt nghiệp các trường đại học,
cao đẳng. Đặc điểm này cho thấy, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ở huyện Quỳnh Phụ đang ngày càng được nâng lên, đáp ứng với những yêu
cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Nếu các hoạt động xét tuyển, thi tuyển cán
bộ, công chức tiếp tục được duy trì và thực hiện nghiêm túc, có chất lượng thì
trong thời gian tới chất lượng của đội ngũ này sẽ còn tiếp tục được nâng lên.
Ba là, đa số cán bộ, công chức cấp xã ở Quỳnh Phụ đã qua đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ có trình độ từ trung cấp chính trị trở lên, làm việc năng nổ, nhiệt
tình, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được phân công.
26