Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (812.59 KB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

NÔNG THỊ QUYÊN

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. HOÀNG THỊ THANH HUYỀN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng Thị
Thanh Huyền - Giảng viên khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
người đã tận tâm hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn sự hợp tác , giúp đỡ tận tình của Ban giám
hiệu, các thầy cô cùng các em học sinh lớp 5 trường Tiểu học Hội Hợp B (Vĩnh
Yên - Vĩnh Phúc) đã tạo điều kiện cho em khảo sát và thực nghiệm sư phạm.
Em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa cùng
toàn thể các thày cô trong khoa Giáo dục Tiểu học, trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 5 tháng 4 năm 2016
Tác giả



Nông Thị Quyên


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

HSTH

: học sinh tiểu học

NLGT

: Năng lực giao tiếp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................. 4

6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 4
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
8. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
9. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 6
1.1. Một số lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ .................................................. 6
1.1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ .................................... 6
1.1.2. Các nhân tố giao tiếp ............................................................................... 6
1.1.3. Đặc điểm giao tiếp của HS lứa tuổi tiểu học......................................... 10
1.2. Vấn đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5.......................... 12
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 12
1.2.2. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tập làm
văn ................................................................................................................... 13
1.3. Vai trò của phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 5 ............. 14
1.3.1. Mối quan hệ giữa Tập làm văn với các phân môn khác của Tiếng Việt
lớp 5 ................................................................................................................. 14
1.3.2. Mục đích dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 5 ..................................... 15


Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA PHÂN MÔN TẬP
LÀM VĂN ...................................................................................................... 16
2.1. Nội dung phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua môn
Tập làm văn ..................................................................................................... 16
2.1.1. Xác định chủ đề ..................................................................................... 16
2.1.2. Thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ ngữ phù hợp với chủ đề .............. 17
2.1.3. Xây dựng các kiểu cấu tạo câu.............................................................. 18
2.2. Biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua môn
Tập làm văn ..................................................................................................... 19
2.2.1. Cơ sở đề xuất ......................................................................................... 19

2.2.2. Các biện pháp thực hiện ........................................................................ 23
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .................................................... 30
3.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm ......................................................... 30
3.2. Đối tượng và phạm vi thực nghiệm ......................................................... 30
3.3. Nội dung thực nghiệm.............................................................................. 30
3.4. Các giáo án thực nghiệm .......................................................................... 30
3.5. Kết quả thực nghiệm ................................................................................ 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 54


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi cần có
những con người phát triển toàn diện về mọi mặt, những lớp người lao động
có phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Trong cuộc đời mỗi con người có rất nhiều những nhu cầu cần được thỏa mãn
nhưng nhu cầu đầu tiên chính là giao tiếp. Nhờ giao tiếp mà con người biết
được giá trị của người khác và bản thân. Trên cơ sở đó, cá nhân tự điều chỉnh,
điều khiển bản thân theo các chuẩn mực xã hội. Vì thế mà nhân cách của con
người ngày càng hoàn thiện hơn. Không những thế giao tiếp còn có vai trò
quan trọng đối với xã hội, nhờ tham gia giao tiếp của con người vào các mối
quan hệ xã hội đã tạo nên sự phong phú về tinh thần của mỗi con người.
Đối với trẻ nói chung và HSTH nói riêng, giao tiếp mang một ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Giao tiếp giúp trẻ được hoạt động, vui chơi, hòa đồng hơn
với bạn bè, giải tỏa những băn khoăn thắc mắc trong cuộc sống hằng ngày.
Không những thế, thông qua giao tiếp các em có thể tiếp thu, lĩnh hội được
các kiến thức khoa học. Do vậy việc phát triển NLGT được đặt ra như một
yêu cầu tất yếu đối với HSTH cùng với nhiệm vụ chủ đạo là học tập. Bởi vậy
nên việc giao tiếp, nói chuyện với thầy cô, bạn bè về việc học tập hay đơn

giản chỉ là những vấn đề trong cuộc sống hàng ngày còn nhiều thiếu sót, các
em hiểu ý nhưng không diễn đạt được ý của mình. Điều này làm ảnh hưởng
rất nhiều tới hoạt động tiếp thu tri thức khoa học của các em.
Nhận thức được tầm quan trọng của giao tiếp, từ lâu việc dạy học trong
nhà trường đã hướng tới mục đích giao tiếp. Các môn học đều lồng ghép vệc
phát triển NLGT cho HS để đảm bảo sự phát triển về nhân cách. Các môn học
được gắn kết đặc biệt, sắp xếp phân bổ hợp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển

1


toàn diện của HS, trong đó Tiếng Việt được xem là môn học có vị trí đặc biệt
quan trọng đối với việc phát triển NLGT cho HS. Do đặc thù môn học nên
NLGT của HS có thể phát huy ở nhiều phân môn nhất là phân môn Tập làm
văn. Tuy nhiên hiện nay việc phát triển NLGT cho các em vẫn chưa được
thực sự chú ý đúng mức. Dạy học vẫn đề cao việc truyền tải kiến thức, chưa
hướng vào làm nảy sinh những nhu cầu mong muốn rèn luyện, chiếm lĩnh và
phát triển NLGT thông qua môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Phát
triển NLGT cho HS còn thiếu đồng bộ, toàn diện… Vì vậy, nhiệm vụ phát
triển NLGT cho HSTH ngày càng cấp thiết và đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư
nhiều hơn những lợi ích mà nó mang lại cho các em.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi nghiên cứu lựa chọn vấn đề:
“Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua môn tập làm văn”
làm đề tài nghiên cứu của mình. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn
đưa ra một số biện pháp để phát triển NLGT cho học sinh lớp 5 thông qua
môn tập làm văn. Mặt khác, góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục tất cả vì
sự phát triển toàn diện của trẻ em lứa tuổi Tiểu học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu giao tiếp vốn là một đề tài quen thuộc, từ lâu đã được sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các công trình được các nhà nghiên cứu

với nhiều hướng khác nhau, nhưng về cơ bản những đặc điểm cũng như cách
phân loại về giao tiếp đều được các nhà nghiên cứu phân tích khá kĩ. Tuy
nhiên tùy mức độ nghiên cứu khái quát hay tổng hợp, thì không phải công
trình nào cũng giống nhau. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu có như:
Hoàng Anh, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Văn Lê, Trần Tuấn Lộ…
Theo từ điển Tiếng Việt [1], “giao tiếp” là “trao đổi, tiếp xúc với nhau”.
Ở đây “trao đổi” được hiểu là bàn bạc ý kiến với nhau để đi đến thống nhất,
“tiếp xúc” là gặp gỡ, tạo mối quan hệ.

2


Theo tác giả Hoàng Anh [2]: “Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối
quan hệ giữa người với người mà qua đó nảy sinh tình sự tiếp xúc tâm lý và
sự biểu hiện ở các quá trình thông tin, hiểu biết, rung cảm, ảnh hưởng và tác
động qua lại lẫn nhau”.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lê trình bày những vấn đề lí luận về giao tiếp
qua việc làm rõ các mô hình giao tiếp, chức năng và loại hình giao tiếp. Cụ
thể hóa các quy tắc giao tiếp xã hội, giao tiếp sư phạm, giao tiếp trong cộng
đồng và gia đình.
Cũng đề cập đến vấn đề này, tác giả Trần Tuấn Lộ đã tập trung nghiên
cứu tính khoa học và nghệ thuật giao tiếp.
Trong giáo dục học, giáo sư Phạm Minh Hạc cho rằng: “Giao tiếp là hoạt
đônng xác lập và vận hành các quan hệ người - người, hiện thực hóa các quan
hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác”[26; Tr.10]. Ở đây, tác giả nhấn
mạnh các mối quan hệ giữa người với người được tạo lập, mở rộng và phát
triển thông qua hoạt động giao tiếp. Như vậy, các tác giả khác nhau có những
cách nhìn nhận khác nhau về giao tiếp. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề cập
cụ thể đến vấn đề phát triển NLGT cho HS lớp 5 thông qua phân môn Tập
làm văn.

3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp phát triển NLGT cho HS lớp 5 thông qua môn
Tập làm văn
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Tìm hiểu cơ sở lí luận của việc xây dựng các biện pháp rèn NLGT cho
HS thông qua môn Tập làm văn.
- Tìm hiểu thực tiễn giáo dục phát triển NLGT cho HS thông qua phân
môn Tập làm văn trong trường Tiểu học hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp rèn NLGT cho HSTH thông qua phân môn

3


Tập làm văn.
5. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp phát triển NLGT cho HS thông
qua dạy học phân môn Tập làm văn.
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học phân môn Tập làm văn.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên các biện pháp phát triển NLGT cho HS thông
qua phân môn Tập làm văn.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận (Chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu lí luận để nghiên cứu một số lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ,
vấn đề phát triển NLGT cho HS lớp 5 và vai trò của phân môn Tập làm văn
trong Tiếng Việt 5).
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra (bằng phiếu khảo sát)
+ Phương pháp phân tích (phân tích các ngữ liệu, tài liệu thuộc phạm vi
nghiên cứu đã xác định)

+ Phương pháp thống kê toán học: thống kê các số liệu đã điều tra được
8. Đóng góp của khóa luận
Nếu vận dụng các biện pháp rèn NLGT cho HS thông qua phân môn Tập
làm văn theo hướng phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của trẻ gắn với thực
tiễn cuộc sống của HS, dựa trên nền tảng giá trị sống cơ bản dành cho trẻ em
lứa tuổi HSTH thì sẽ nâng cao hiệu quả của việc phát triển NLGT cho HS
trong nhà trường.
9. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phần nội dung của khóa luận gồm ba
chương như sau:

4


Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn NLGT cho HS thông
qua phân môn Tập làm văn
Chương 2: Nội dung và biện pháp rèn NLGT cho HS thông qua phân
môn Tập làm văn
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

5


Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.1.1. Giao tiếp và hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Giao tiếp là nhu cầu và điều kiện tất yếu không thể thiếu của cuộc sống
con người. Thông qua giao tiếp, cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội với
toàn cộng đồng, nhờ có giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa xã hội và
biến thành của riêng mình, qua giao tiếp con người biết được giá trị xã hội của

người khác và của bản thân, trên cơ sở điều chỉnh bản thân theo các chuẩn
mực xã hội. Vì vậy giao tiếp không chỉ quan trọng đối với cuộc sống con
người, với tồn tại và phát triển của xã hội loài người nói chung mà còn có ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách mỗi cá nhân trong cộng đồng…
Có thể hiểu một cách khái quát: Giao tiếp là hoạt động tiếp xúc, trao đổi giữa
con người với con người trong xã hội nhằm truyền đạt cho nhau những nhận thức,
những tư tưởng hoặc nhằm bày tỏ, chia sẻ những tình cảm, thái độ… đối với nhau
cũng như đối với các sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
Con người có thể giao tiếp bằng nhiều phương tiện: ánh mắt, điệu bộ, âm
thanh, dùng cờ, dùng còi… nhưng nếu chỉ giao tiếp bằng các phương tiện như
vậy thì rất hạn chế về nội dung. Phong phú và hiệu quả hơn cả trong giao tiếp
là sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện chính.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ là việc con người thông báo, trao đổi cho nhau
những tin tức nào đó; bộc lộ, chia sẻ với nhau những tình cảm vui - buồn…
nào đó bằng ngôn ngữ.
1.1.2. Các nhân tố giao tiếp
Nhân tố giao tiếp là những nhân tố có mặt trong cuộc giao tiếp, ảnh
hưởng, chi phối hiệu quả của cuộc giao tiếp đó. Có thể thấy rõ rằng mỗi nhân
tố giao tiếp đều để lại dấu ấn của mình trong lời nói - sản phẩm của hoạt động

6


giao tiếp và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc tổ chức xây dựng lời
nói. Chính vì thế, từ việc xác định lại các nhân tố này và chỉ ra sự tác động
của chúng trong hoạt động giao tiếp, một lần nữa chúng tôi muốn khẳng định
đây là những nhân tố thể hiện đậm nét nhất việc chi phối của các nhân tố bên
ngoài ngôn ngữ tới việc sử dụng ngôn ngữ và chi phối trực tiếp đến hiệu quả
của việc giao tiếp. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta sẽ lần lượt xem
xét từng nhân tố đó.

a) Nhân vật giao tiếp
Người viết, người nói (người phát) và người đọc, người nghe (người
nhận) - những nhân vật tham dự quá trình giao tiếp - được gọi chung là những
nhân vật giao tiếp.
Trong hoạt động giao tiếp, nếu người phát ngôn luôn là một, thì người
nhận không phải như vậy. Có khi người nhận là một nhưng có khi người nhận
lại là số đông (như trường hợp giáo viện giảng dạy trong nhà trường, trường
hợp một báo cáo viên nói trước công chúng…). Nhưng cũng có những trường
hợp, mặc dù người nhận là số đông nhưng vẫn có đối tượng giao tiếp đích
thực mà người phát hướng tới. Ở những trường hợp ấy, người nhận đích thực
sẽ nhận ra trong văn bản những tín hiệu dành cho bản thân mình.
Có người đã nghĩ rằng khi mình đã là người phát thì mình muốn trình
bày nội dung văn bản thế nào cũng được, tùy thuộc vào ý thích của bản thân.
Đây là ý nghĩ sai lầm. Bởi lẽ, hoạt dộng giao tiếp, như chúng ta đã nói tới ở
trên bao giờ cũng gồm người phát và người nhận. Vì vậy, hiệu quả giao tiếp
không phải chỉ phụ thuộc vào người phát mà còn phụ thuộc vào cả người
nhận. Nói, viết những vấn đề mà người nhận không hiểu hoặc không muốn
nhận; hoặc nói viết những vấn đề không phù hợp với nếp nghĩ, với thói quen
trong đời sống thường ngày của người nhận,… thì có thể nói rằng cuộc giao
tiếp đã không đạt hiệu quả. Sự hiểu biết về đối tượng giao tiếp càng sâu sắc
bao nhiêu thì hiệu quả của việc giao tiếp càng cao bấy nhiêu.

7


b) Hoàn cảnh giao tiếp
Hoạt động giao tiếp cũng như mọi hoạt động khác của con người bao giờ
cũng diễn ra trong một hoàn cảnh nhất định. Xét ở phạm vi rộng thì hoàn cảnh
giao tiếp bao gồm từ hoàn cảnh xã hội tự nhiên đế bối cảnh lịch sử, thời đại,
kinh tế, chính trị,… cộng đồng ngôn ngữ mà ở đó cuộc giao tiếp đang diễn ra.

Xét ở phạm vi hẹp hơn, cụ thể hơn hoàn cảnh giao tiếp bao gồm những hiểu
biết và cách ứng xử về thời gian, địa điểm, hình thức giao tiếp, tình trạng sức
khỏe, tâm lý, những sự vật xung quanh,… tồn tại trong quá trình giao tiếp. Tất
cả các yếu tố trên dù trực tiếp hay gián tiếp đều tác động đến hoạt động giao
tiếp, chi phối hoạt động giao tiếp và nếu xử lý tốt các yếu tố này trong khi xây
dựng văn bản sẽ đem lại hiệu quả giao tiếp cao.
c) Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp chính là mảng hiện thực được đề cập tới trong văn
bản. Đó có thể hiện thực trong thực tế khách quan bên ngoài con người
(những sự vật hiện tượng của tự nhiên, xã hội được con người nhận thức)
cũng có thể là hiện thực thuộc về con người, thuộc nội tâm con người, kể cả
nội tâm người phát và người nhận (những tư tưởng, tình cảm những câu
chuyện tưởng tượng…). Và đó cũng có thể là ngôn ngữ hay bản thân cuộc
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, giữa ý định của người phát (nội dung dự
kiến) với sản phẩm của việc thực hiện ý định đó (văn bản) thường bao giờ
cũng có một khoảng cách nhất định. Không phải lúc nào người phát cũng có
thể thể hiện hết, hoàn toàn chính xác những ý định của mình trong văn bản
bới nhiều lí do: khả năng sử dụng ngôn từ, hoàn cảnh giao tiếp, tình trạng
tâm, sinh lí… Do đó, giữa văn bản và nội dung dự kiến ban đầu của người
viết, người nói bao giờ cũng có một khoảng cách nhất định.
d) Mục đích giao tiếp
Mỗi một văn bản (bài viết, bài nói) thường có một hoặc một vài mục
đích giao tiếp riêng. Có thể mục đích đó là sự thông báo tin tức mới, trao đổi

8


một vài vấn đề được mọi người quan tâm, hoặc cũng có thể là sự phê phán
động viên, cổ vũ, hoặc cũng có thể đó là sự đe dọa, lên án,… Mục đích giao
tiếp rất đa dạng và sẽ được xác định một cách cụ thể tùy thuộc vào từng cuộc

giao tiếp.
Mục đích của một văn bản có thể chia nhỏ ra thành: Mục đích tác động
về nhận thức, mục đích tác động về tình cảm và mục đích tác động về hành
động. Hiệu quả của việc giao tiếp được đánh dấu bằng mức độ những mục
đích giao tiếp đã đạt được đến chừng mực nào. Mục đích đó không phải lúc
nào cũng có thể được nhận ra ngay tức thời. Trong đại đa số trường hợp,
chúng ta có thể dễ dàng nhận diện ngay được hiệu quả của việc giao tiếp. Tuy
nhiên, trong thực tế, cũng có những cuộc giao tiếp mà người ta chỉ có thể
nhận ra hiệu quả của nó sau một thời gian dài, thậm chí năm, mười năm sau
mới có thể thấy được.
Nhìn một cách khái quát nhất, một văn bản được coi là đạt hiệu quả giao
tiếp khi văn bản đó có sự tác động tới người đọc, làm cho họ thay đổi về nhận
thức, biến đổi về tình cảm và tác động về hành động. Ngược lại, những văn bản
không đạt được mục đích đặt ra là những văn bản không đạt hiệu quả giao tiếp.
e) Ngôn ngữ được sử dụng
Trong một cuộc giao tiếp, người ta có thể sử dụng nhiều phương tiện
khác nhau để giao tiếp như cử chỉ, nét mặt, trang phục…nhưng ưu việt, quan
trọng nhất định là ngôn ngữ. Ngôn ngữ được sử dụng chính là chất liệu để tạo
thành lời nói trong giao tiếp.Không có ngôn ngữ thì không có lời nói, song
cuộc giao tiếp chỉ thực hiện tốt khi tất cả các nhân vật giao tiếp sử dụng chung
một thứ tiếng. Hiệu quả giao tiếp có được như mong muốn hay không còn
phụ thuộc vào sự thông hiểu ngôn ngữ và năng lực sử dụng ngôn ngữ của các
nhân vật giao tiếp.
Ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: dạng nói (giao tiếp miệng) và dạng viết
(giao tiếp viết). Vì vậy, ta cần quan tâm đến việc lựa chọn ngôn từ, văn

9


phong, phong cách chức năng, phương thức biểu đạt sao cho phù hợp với hình

thức tồn tại của ngôn ngữ, phù hợp với tình huống giao tiếp và mục đích giao
tiếp. Ngoài ra, để đạt được hiệu quả giao tiếp tối ưu, chúng ta còn cần nắm
vững những biến thể của ngôn ngữ để thấy hét được cái hay, cái đẹp, sự đa
dạng của ngôn từ và ngày càng nâng cao hơn nữa nghệ thuật sử dụng từ ngữ
ngữ của chính mình. Hiểu rõ được điều này, khi dạy học TLV cho HS, giáo
viên cần giúp cho các em mở rộng vốn từ, nắm chắc quy tắc sử dụng ngôn từ,
tức là cung cấp đầy đủ cho học sinh những cái có hạn để các em tạo ra vô hạn
những lới nói khác nhau trong giao tiếp và học tập.
Các nhân tố giao tiếp vừa nêu trên đây luôn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong hoạt động giao tiếp. Cũng có thể nói nó là những điều kiện đảm
bảo cho một hoạt động giao tiếp diễn ra đạt được hiệu quả mong muốn. Khi
giao tiếp chúng ta cần phải chú trọng tới tất cả các nhân tố giao tiếp này.
1.1.3. Đặc điểm giao tiếp của HS lứa tuổi tiểu học
Cuộc sống tâm lí của con người bắt đầu từ nhu cầu giao tiếp với con
người, trước tiên là những người xung quanh. Giao lưu sơ đẳng đã xuất hiện
khi trẻ ba tuần tuổi. Từ khi biết nói thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ trở nên
cực kì quan trọng trong đời sống tinh thần của đứa trẻ.
Việc đi học ở trường phổ thông là một bước ngoặt trong đời sống của trẻ.
Những mối quan hệ mới với người lớn, với các bạn cùng tuổi được hình
thành, trẻ được đưa vào các hệ thống tập thể. Việc tham gia vào các hoạt động
chủ đạo mới - hoạt động học tập sẽ đề ra hàng loạt yêu cầu buộc trẻ phải làm
cho cuộc sống của mình trong khuôn khổ, phục tùng tổ chức, quy tắc và chế
độ sinh hoạt chặt chẽ. Tất cả ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành và củng
cố các mối quan hệ với hiện thực xung quanh, với tập thể, với người lớn và
bầu bạn.
Ở lứa tuổi học sinh Tiểu học bằng các hoạt động học tập và giao tiếp với
thầy cô giáo, với người lớn, với bạn bè cùng tuổi mà học sinh tiếp thu lĩnh hội

10



những chuẩn mực và quy tắc đạo đức xã hội, tạo nên ý thức đạo đức, ý thức
tập thể, tình cảm đạo đức và hành vi thói quen đạo đức. Lứa tuổi học sinh tiểu
học là lứa tuổi có nhiều khả năng để giáo dục những quan hệ được xây dựng
trên nguyên tắc chủ nghĩa tập thể. Vai trò gương mẫu, hướng dẫn và chỉ đạo
hành vi của người lớn cho lứa tuổi này có vị trí đặc biệt quan trọng. Ở lứa tuổi
này những sai lệch thói hư tật xấu và cả hành vi phạm pháp ở một số trẻ đều
bắt nguồn từ quan hệ giao tiếp với nhóm tiêu cực không lành mạnh. Thông
qua giao tiếp trẻ dần dần hình thành ý thức tự khẳng định mình ý thức về cái
“tôi” tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ về hứng thú, tình cảm, tính cách,
những chuyển biến quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách
chuẩn bị cho trẻ bước vào giai đoạn bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống
của chúng - lứa tuổi thiếu niên.
Phạm vi giao tiếp của học sinh tiểu học chưa rộng, chủ yếu trẻ quan hệ
giao tiếp hàng ngày với những người thân trong gia đình, với thầy cô giáo,
bạn bè cũng lớp, cùng làng, cùng phố.
Nội dung giao tiếp của trẻ ở lứa tuổi này tập trung xung quanh các vấn
đề học tập và cuộc sống vui chơi, hoạt động tập thể trong nhà trường hoặc ở
địa phương. Ngôn ngữ của trẻ đang phát triển.
Trong lĩnh vực giáo dục nội dung giáo tiếp của học sinh tiểu học rất đa
dạng và phong phú. Giao tiếp cảm xúc: học sinh có thái độ của mình với bạn
bè xung quanh và tiếp nhận thái độ của bạn đối với mình. Giao tiếp công việc:
nhằm phối hợp để giải quyết nhiệm vụ chung nào đó. Giao tiếp nhận thức:
nhằm hiểu biết và đồng cảm lẫn nhau.
Mặt khác, giao tiếp vừa mang tính xã hội, vừa mang tính chất cá nhân
nên khi nhìn nhận đánh giá tiểu học phải thấy rằng các em là con đẻ, sản
phẩm của một lối sống, phong tục…trong một làng xã, gia đình…đồng thời
các em cũng là chủ thể của giao tiếp, từ đó có con mắt “biện chứng” khi đánh

11



giá các em, hiểu và thông cảm với các hành vi giao tiếp của các em.
Giao tiếp của học sinh tiểu học với nhau có ý nghĩa sống còn với đời
sống tinh thần của chúng. Các em không thể sống thiếu vắng bạn bè. Nhu cầu
giao tiếp của học sinh không được thỏa mãn sẽ dẫn đến sự phát triển không
bình thường cả tâm lí và sinh lí, xã hội trong con người các em.
1.2. Vấn đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Năng lực
Theo Weinert - (2001): Năng lực là khả năng và kỹ năng nhận thức vốn
có ở cá nhân hay có thể học được….để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc
sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý
chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công và có trách
nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi.
Theo OECD - (2002): Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu
phức hợp và thực hiện thành công nhiệm vụ trong bối cảnh cụ thể.
Theo John Erpenbeck - (1998): Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri
thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc như là khả năng, hình thành qua trải
nghiệm, củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa qua ý chí.
1.2.1.2. Năng lực giao tiếp
NLGT là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên ngoài và đoán
biết tâm lý bên trong của con người (với tư cách là đối tượng giao tiếp) đồng
thời biết sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ, biết cách định hướng để
điều khiến quá trình giao tiếp đạt một mục đích nhất đích.
NLGT giúp cho quá trình tương tác với cá nhân, tương tác trong nhóm
với tập thể có hiệu quả hơn. Nó giúp cá nhân bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc và tâm
trạng của mình, giúp người khác hiểu rõ mình hơn. Thái độ cảm thông với người
khác cũng góp phần giúp giải quyết vấn đề mà mình gặp phải. Kĩ năng hợp tác


12


và làm việc tập thể là các yếu tố quan trọng trong việc phát triển NLGT, đem lại
hiệu quả làm việc trong nhóm và giúp cá nhân tăng cường sự tự tin và hiệu quả
trong việc thương thuyết, xử lý tình huống và giúp đỡ người khác.
1.2.2. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn Tập
làm văn
Giáo dục Tiểu học là bậc học bắt buộc đối với mọi trẻ em từ sáu đến
mười tuổi, được thực hiện trong năm năm học, từ lớp 1 đến lớp 5.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho HS tiếp tục học trung học cơ sở.
Chương trình Tiểu học được cấu trúc theo hai giai đoạn học tập:
- Giai đoạn các lớp 1, 2, 3 gồm 6 môn học: Tiếng Việt, Toán, Đạo dức,
Tự nhiên và xã hội, Nghệt thuật, Thể dục.
- Giai đoạn các lớp 4, 5 gồm 9 môn học: Tiếng Việt, Toán, Đạo đức,
Khoa học, Lịch sử và Địa lý, Kĩ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục.
Các môn học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có vai trò bổ sung, hỗ trợ
cho nhau giúp cho các em phát triển một cách toàn diện. Trong đó phân môn
Tiếng Việt chiếm số thời lượng nhiều nhất và bao gồm các phân môn: Học
vần, Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn.
Mục tiêu cơ bản của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là nhằm:
+ Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi.
+ Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.


13


+ Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngoài.
+ Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tập làm văn là phân môn sử dụng tổng hợp các kiến thức của các phân
môn còn lại trong Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn cung cấp cho các em một
số các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để từ đó sử dụng để làm công cụ giao tiếp.
1.3. Vai trò của phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 5
1.3.1. Mối quan hệ giữa Tập làm văn với các phân môn khác của Tiếng
Việt lớp 5
Phân môn Tập làm văn có mối quan hệ rất chặt chẽ với các phân môn
khác của Tiếng Việt như: tập đọc, luyện từ và câu, chính tả.
Phân môn Tập đọc giúp HS từ chỗ đọc đúng, đọc trôi chảy, diễn cảm đến
chỗ hiểu được nghĩa của từ, ý nghĩa của câu và nội dung của bài.
Phân môn Chính tả: rèn cho HS biết các quy tắc và có thói quen viết các
chữ ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn viết đúng chính tả, giúp cho HS có điều
kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ môn
văn hóa, trong việc viết các văn bản, thư từ.
Phân môn Luyện từ và câu: có vai trò đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ.
Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như là phương tiện
giao tiếp. Luyện từ và câu còn phát triển năng lực, trí tuệ, ngôn ngữ, những
phẩm chất đạo đức ở trẻ em. Nó có vai trò hướng dẫn HS nghe nói, đọc, viết.
Phân môn Tập làm văn: là phân môn sử dụng tổng hợp các hiểu biết về
luyện từ và câu, chính tả, khả năng nghe nói tiếng Việt, vốn hiểu biết về đời

sống của học sinh do bài học khác nhau đem lại. Mỗi bài tập làm văn là sản

14


phẩm của từng cá nhân học sinh trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in
dấu ấn riêng từng em trong cách suy nghĩ, cách kể, cách tả, cách diễn đạt….
Tập làm văn lớp là sự tổng hợp nhưng cũng chắt lọc và áp dụng một
cách sáng tạo của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Để viết được
một đoạn văn thì điều đầu tiên là ta ứng dụng phân môn tập đọc về cách diễn
đạt văn bản. Trong cách diễn đạt kể cả văn nói (miệng) hay viết phải lưu ý
đến cách phát âm hoặc viết đúng chính tả, cách dùng từ chính xác và diễn đạt
câu văn có đủ các bộ phận chính, phụ của câu... dùng hình ảnh hoặc so sánh
bằng các liên hệ từ... được học từ phân môn Luyện từ và câu.
1.3.2. Mục đích dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 5
Mục đích dạy học Tập làm văn cho học sinh lớp 5 là: hình thành và phát
triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) cung cấp
những kiến thức cơ bản để học sinh biết cách sử dụng tiếng Việt làm công cụ
tư duy, giao tiếp và học tập, tạo điều kiện cho học sinh độc lập về suy nghĩ,
chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, tạo hứng thú và nhu cầu
sản sinh ngôn bản ở học sinh.
1.4. Tiểu kết
Trong chương 1 tôi đã trình bày một số lí thuyết về giao tiếp bằng ngôn
ngữ, vấn đề phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua phân
môn tập làm văn. Để từ đó đưa ra nội dung và biện pháp phát triển NLGT cho
học sinh lớp 5 thông qua phân môn tập làm văn ở chương 2.

15



Chƣơng 2. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
GIAO TIẾP CHO HỌC SINH LỚP 5 THÔNG QUA PHÂN MÔN
TẬP LÀM VĂN
2.1. Nội dung phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua
môn Tập làm văn
2.1.1. Xác định chủ đề
Chương trình Tiếng Việt ở tiểu học được phân thành các chủ điểm theo
các tuần, mỗi tuần lại có một chủ điểm khác nhau và bao gồm các phân môn
Tập đọc, chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập làm văn. Vì vậy trước
mỗi tuần học mới GV thường giới thiệu cho HS chủ điểm của tuần để dẫn dắt
HS vào bài mới. Đối với phân môn Tập làm văn cũng vậy, trước mỗi bài học
GV thường yêu cầu HS xác định chủ đề của bài học ngày hôm nay để giúp
HS xác định nội dung của bài, những việc cần làm trong bài, mục tiêu cần đạt
của bài ngày hôm nay. Tránh những trường hợp không xác định được chủ đề
dẫn đến lạc đề.
Quá trình hướng dẫn HS thực hiện các kĩ năng phân tích đề, quan sát,
tìm ý, nói - viết đoạn hoặc bài là những cơ hội giúp HS mở rộng hiểu biết về
cuộc sống theo chủ điểm đang học. Việc xác định, phân tích chủ đề, tìm lí lẽ,
dẫn chứng để thuyết trình tranh luận…không những góp phần phát triển năng
lực phân tích, tổng hợp mà còn tạo điều kiện cho HS phát triển được NLGT.
Ví dụ:
Đề bài ở tuần 4 lớp 5: “Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trƣa, chiểu) trong
một vƣờn cây (hay công viên, đƣờng phố, trên cánh đồng, nƣơng rẫy)”
Khi yêu cầu HS xác định trọng tâm của đề bài, GV giúp HS hiểu được rằng
việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung của bài viết:
Với đề bài tển HS phải xác định được đúng 3 yêu cầu:

16



- Yêu cầu về thể loại của đề bài: Miêu tả
- Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
- Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công
viên…)
Trong thực tế, không phải bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
“Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu xác định thể loại và nội dung.
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho các em tránh được tình
trạng lạc đề, nói và viết lan man không đúng trọng tâm của đề bài.
2.1.2. Thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ ngữ phù hợp với chủ đề
Thảo luận nhóm là hình thức dạy học khá phổ biến ở mọi lớp học và có
ưu thế phát triển NLGT cho HS. Việc tổ chức cho HS thảo luận nhóm nhằm
tạo điều kiện cho các em giao lưu, hợp tác với nhau, cùng nhau đưa ra các ý
kiến của mình về vấn đề cần giải quyết. Thông qua thảo luận nhóm cùng với
các bạn, HS cùng nhau tìm lí lẽ, dẫn chứng để tranh luận, thuyết trình cho phù
hợp với chủ đề.
Trong dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp 5, hoạt động thảo luận nhóm
được tổ chức khá phổ biến ở một số dạng bài thực hành nói. Thông qua đó các
em có thể thảo luận, tranh luận về chủ đề của bài học để mở rộng vốn từ ngữ phù
hợp với chủ đề. Từ việc thảo luận nhóm đó, mỗi HS sẽ tiếp thu và mở rộng được
vốn từ ngữ của các bạn, của mình để vận dụng vào các bài tập làm văn.
Ví dụ:
Trong bài Lập chƣơng trình hoạt động (SGK Tiếng Việt 5, Tập 2,
trang 23 - 24). Bài được chia ra làm 2 hoạt động chính tương ứng với hai bài
tập có trong bài. Thông qua hoạt động 1 (Bài tập 1) GV yêu cầu 1- 2 HS đọc
câu chuyện “Một buổi sinh hoạt tập thể” sau đó hướng dẫn HS thảo luận
nhóm 4 để trả lời các câu hỏi trong bài gồm ba câu hỏi:

17



+ Các bạn trong lớp tổ chức buổi liên hoan văn nghệ nhằm mục đích gì?
(Nhằm mục đích chúc mừng thầy cô chào nhân ngày Nhà giáo Việt Nam
20 - 11)
+ Để tổ chức buổi liên hoan, cần làm những việc gì? Lớp trưởng đã phân
công như thế nào?
(Để tổ chức buổi liên hoan thì cần làm những việc như chuẩn bị hoa quả,
bánh kẹo, làm báo tường, và một chương trình văn nghệ…)
+ Hãy thuật lại diễn biến của buổi liên hoan (các HS trong nhóm sẽ lần lượt
thuật lại diễn biến của buổi liên hoan cho các bạn nghe theo lời kể của mình)
Qua hoạt động thảo luận nhóm trả lời các câu hỏi của bài tập 1. HS có
thể mở rộng thêm vốn từ ngữ cho đề bài để tiếp tục áp dụng làm bài tập 2.
2.1.3. Xây dựng các kiểu cấu tạo câu
Xây dựng các kiểu câu phù hợp với nội dung chủ đề đã xác định. Việc xây
dựng các kiểu cấu tạo câu giúp cho các em một lần nữa được vận dụng kiến thức
trong phân môn Luyện từ và câu để xây dựng các kiểu cấu tạo câu phong phú, đa
dạng cho bài. Trong một tiết học Tập làm văn HS phải sử dụng rất nhiều các
kiểu cấu tạo câu như: câu đơn, câu ghép, câu khiến, câu cảm thán, câu
hỏi….Việc xây dựng được các kiểu cấu tạo câu này sẽ giúp cho HS vận dụng
được một cách có hiệu quả vào trong các bài làm văn viết hoặc nói. Từ đó giúp
các em viết và nói hay hơn, tạo được ấn tượng với người nghe, người đọc.
Ví dụ:
Bài Tập viết đoạn đối thoại (SGK Tiếng Việt 5, Tập II, trang 85 - 86)
trong hoạt động 2 (bài tập 2) GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm viết tiếp một
số lời đối thoại để hoàn chỉnh màn kịch thì trong hoạt động này, HS phải xác
định được các kiểu câu phù hợp với nội dung, nhân vật và phải xác định được
thời điểm sử dụng các kiểu câu sao cho phù hợp để tạo được cho người nghe,
người đọc những ấn tượng.

18



2.2. Biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 5 thông qua
môn Tập làm văn
2.2.1. Cơ sở đề xuất
2.2.1.1. Đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của trẻ
HS Tiểu học là những HS đang học tập tại trường Tiểu học có độ tuổi
khoảng từ 6 tuổi đến 11, 12 tuổi. Đây là giai đoạn các em có những đặc điểm
nổi bật về tâm - sinh lý, tư duy trực quan phát triển mạnh hơn so với tư duy
trừu tượng, HS thường chú ý nhiều hơn vào những hình ảnh nhiều màu sắc
hay đặc điểm nổi bật của sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, giai đoạn này, sự tập
trung chú ý của các em còn kém, thời gian chú ý thấp. Do vậy, trong quá trình
phát triển năng lực giao tiếp cho HS GV cần chú ý nắm được các đặc điểm
riêng biệt về lứa tuổi của HS để đưa ra những biện pháp nhằm phát triển năng
lực giao tiếp cho HS sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
Thực tế cho thấy rằng, hiệu quả của việc phát triển giao tiếp cho HS phụ
thuộc khá nhiều vào việc nhà giáo dục hiểu biết đầy đủ hay không đầy đủ các
đặc điểm lứa tuổi, và đặc điểm riêng của từng HS với tư cách là chủ thể của
hoạt động giao tiếp. Dù với tư cách là chủ thể nhưng các em cũng chỉ thực
hiện tốt những hoạt động vừa sức với mình. Đưa ra các hoạt động quá dễ thì
dẫn đến tình trạng HS thực hiện xong nhiệm vụ trong thời gian ngắn sau đó
nói chuyện riêng, đùa nghịch trong giờ. Còn ngược lại, hoạt động đưa ra cho
các em quá khó cũng gây ra hậu quả xấu, đa số HS không hoàn thành được
nhiệm vụ, thậm chí có HS không biết làm, dẫn đến tâm lý chán nản, bỏ mặc,
không chịu tư duy. Như vậy, để đưa ra những hoạt động vừa sức và phù hợp
với lứa tuổi của các em là rất quan trọng, nó quyết định đến mức độ hoàn
thành nhiệm vụ của HS. Tính phù hợp với lứa tuổi Tiểu học thể hiện khi HS
được hành động trong các tình huống đa dạng, HS được vận động liên tục,
thường xuyên. Do đó, các nhà giáo dục cần nghiên cứu và nắm vững các đặc


19


điểm; lựa chọn và vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức sao
cho phù hợp; đưa ra các mức độ, yêu cầu rèn luyện cơ bản, hợp lí với lứa tuổi
của các em.
2.2.1.2. Đảm bảo việc phát triển năng lực giao tiếp gắn với thực tiễn cuộc
sống của học sinh
Năng lực được hình thành để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Vì vậy
cần đảm bảo năng lực giao tiếp được rèn luyện cần phải thiết thực, gắn với
thực tiễn cuộc sống của HS. Chỉ gắn liền với cuộc sống hằng ngày và được
thường xuyên rèn luyện thông qua các hoạt động thực tiễn thì năng lực giao
tiếp mới được phát triển một cách bền vững.
Giao tiếp là quá trình trao đổi thông tin, nhận thức, đánh giá và điều
chỉnh hành vi giữa các chủ thể đồng thời tự điều chỉnh hành vi của bản thân,
phương tiện giao tiếp đặc thù là ngôn ngữ. Vì vậy, NLGT không thể được
hình thành chỉ qua việc nghe giảng mà phải thông qua các hoạt động giao tiếp
với người khác. Việc nghe giảng và đọc tài liệu chỉ giúp HS có những hiểu
biết về một vấn đề nào đó, còn trong quá trình HS giao tiếp với các bạn cùng
lớp và những người xung quanh thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt
động xã hội trong nhà trường các em mới có điều kiện luyện tập, hình thành
NLGT. Để HS giao tiếp có hiệu quả trong nhà trường cũng như ngoài xã hội
một cách tự tin thì trong quá trình rèn luyện NLGT cho HS, GV cần tạo môi
trường giao tiếp với bạn bè và môi trường xung quanh, để HS có thể thực
hành những kiến thức GV giảng trên lớp, qua đó hình thành nên các kĩ năng
cho trẻ. Trong quá trình tham gia các hoạt động có tính tương tác, HS có dịp
được thể hiện bản thân, xem xét hành vi, cư xử của người khác và nhìn lại bản
thân theo một cách khác.
Việc phát triển năng lực giao tiếp gắn liền với thực tiến cuộc sống của
HS đóng vai trò rất quan trọng. HS được thực hành, vận dụng kiến thức đã

học vào thực tiễn sẽ giúp cho các em có hứng thú hơn với việc học tập thông

20


×