Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

khóa luận tốt nghiệp Quan niệm của chủ nghĩa mác lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.74 KB, 57 trang )

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là chủ thể sáng tạo nền văn hóa, văn minh nhân loại và là
động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Con người cũng là
sản phẩm kì diệu, là giá trị cao nhất của toàn bộ sự phát triển thế giới vật
chất và tinh thần, đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên và xã
hội. Con người ở vị trí trung tâm của tiến trình lịch sử. Chính vì vậy, con
người trong tư duy nhân loại, không chỉ là vấn đề thực tiễn mà còn là vấn đề
cốt lõi của toàn bộ các lí luận xã hội và nhân văn, kinh tế và quản lý, kỹ thuật
và công nghệ
Con người là nguồn động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển xã hội,
thiếu nguồn lực con người xã hội không thể phát triển được. Nhưng, sự phát
triển kinh tế xã hội sẽ có ý nghĩa gì nếu như không phải vì sự tồn tại và phát
triển cuả con người với tất cả nhu cầu lợi ích thiết thân của nó
Chúng ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước. Thực tiễn thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
những thập kỷ qua, nhất là sau hơn 20 năm đổi mới, đã khẳng định sự đúng
đắn của những quan điểm của Đảng về chiến lược phát triển con người và
nhìn nhận con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội. Những thành tựu trong công cuộc đổi mới một mặt tạo ra
tiền đề cơ bản để đất nước ta tiếp tục phát triển vì hạnh phúc của con người,
mặt khác cũng đang đặt ra những đòi hỏi thách thức đối với mỗi con người
Việt Nam hôm nay. Thêm nữa sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường, hợp tác quốc tế đang đưa đến cả những tích
cực và tiêu cực vào quá trình chuyển biến tâm lý, tư tưởng, đạo đức của con
người Việt Nam. Trong khi đó vẫn còn có những cách hiểu cách làm khác
nhau, không nhất quán và thiếu đồng bộ về quản lý, sử dụng, đào tạo phát
huy nhân tố con người. Chính vì thể, một đòi hỏi tất yếu đặt ra đó là phải


nghiên cứu con người, đưa ra những phương hướng và biện pháp cụ thể cho


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

việc xây dựng con người mới – con người Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
Đặc biệt hơn, thế giới loài người đang bước những bước đi đầu tiên
của thế kỷ XXI – thế kỷ của sự phát triển rực rõ những giá trị nhân văn và
năng lực trí tuệ của con người. Con người đã và đang sáng tạo ra cuộc sống –
văn hóa ngày càng phong phú nhưng cũng tiềm ẩn hiểm họa cho chính bản
thân mình. Thế giới sẽ đi về đâu? Tương lai loài người sẽ như thế nào?
Những câu hỏi đó không ai khác ngoài con người phải tự giải quyết. Bởi
vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hôm nay
cần phải được xây dựng trên một thế giới quan tiến bộ, một cách nhìn tổng
quan, khoa học và phức hợp về con người.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Con người luôn là vấn đề trung tâm của triết học và là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nhất là những năm gần
đây, những vấn đề về xây dựng con người mới, về sự phát hiện và làm sáng
tỏ các khía cạnh khác nhau của quá trình hình thành con người mới dưới góc
độ triết học đã được nhiều học giả quan tâm.
- Phạm Như Cương. Về vấn đề xây dựng con người mới. Nxb Khoa
học xã hội – 1978
- Đặng Xuân Kỳ. Mối quan hệ giữa các thế hệ trong việc xây dựng
con người mới. Nxb Khoa học xã hội – 1987
- Trần Nhâm. Mấy vấn đề phương pháp luận của việc xây dựng con
người mới ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Tạp chí Triết học. Số 3 – 1981
- Nguyễn Hoàng. Một số suy nghĩ về việc tiến hành giáo dục phẩm

chất và đạo đức cách mạng, đấu tranh chống hiện tượng tiêu cực. Tạp chí
Giáo dục lý luận. Số 2 – 1984
Nhìn chung, các tác giả phân tích dưới góc độ phương pháp luận, cũng
có tác giả nghiên cứu dưới góc độ riêng biệt của phẩm chất hoặc về phương
diện sư phạm.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc phân tích làm sáng tỏ bản chất con người dưới góc độ triết
học, đặc biệt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, khóa luận nghiên
cứu vấn đề xây dựng con người mới trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được những mục đích trên, khóa luận phải đặt ra cho
mình những nhiệm vụ:
- Trình bày quan điểm con người trong triết học và các yếu tố tác động
đến sự phát triển của con người, làm nền tảng cho việc xây dựng con người
mới ở Việt Nam hiện nay.
- Xem xét những yếu tố tác động tới việc xây dựng con người mới ở
Việt Nam
- Nêu ra phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng con người mới ở
Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình làm khóa luận đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu,
trong đó chủ đạo là:
Dựa vào những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –

Lênin. Phương pháp nghiên cứu, phân tích, chọn lọc, tổng hợp các tư liệu, hệ
thống hóa các tri thức
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
- Nghiên cứu vấn đề xây dựng con người mới từ góc độ triết học
- Nêu ra những phương hướng, giải pháp xây dựng con người mới một
cách phù hợp với thực tiễn


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

NỘI DUNG
Chương 1: CON NGƯỜI VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
1.1. Khái lược quan niệm của triết học về con người
Con người là một trong những vấn đề trung tâm của triết học, là hệ
thống cấu trúc tổng hợp của tự nhiên, xã hội và tinh thần. Điều này đặt ra
yêu cầu nghiên cứu cũng hết sức phức tạp song chỉ có cách tiếp cận của triết
học mới có thể khám phá ra bản chất đích thực của con người cùng với vị trí,
vai trò của nó trong thế giới. Tuy nhiên, không phải mọi hệ thống triết học
đều có cách tiếp cận giống nhau và có câu trả lời đúng cho vấn đề này.
1.1.1. Quan điểm phi Mácxít
1.1.1.1. Con người trong triết học phương Đông
Có thể thấy, vấn đề quan trọng hàng đầu trong triết học phương Đông
về con người là vấn đề nguồn gốc, bản chất con người và con đường, phương
pháp giải phóng con người. Nói một cách khái quát, những nhà triết học duy
vật và vô thần thì cho rằng, bản thân con người do các yếu tố vật chất tạo
thành, còn ý thức (hay linh hồn) chỉ là thuộc tính của vật chất, còn các nhà
triết học duy tâm và tôn giáo lại đưa ra quan niệm cho rằng, con người là do
“Trời” hay một vị thần linh nào đó tạo ra.

Vấn đề con người và giải phóng con người ngay từ thời cổ đại đã được
các nhà triết học Ấn Độ thảo luận một cách khá rộng rãi. Kinh Upanisad
quan niệm rằng, cả thể xác và linh hồn con người đều là hiện thân của tinh
thần tối cao – Brahman. Khác với quan niệm trên, Phật giáo cho rằng, bản
chất thế giới là “Không”. “Không” vừa tĩnh lặng lại vừa trống rỗng, lại
vừa xáo động và nhân đôi, và từ đây sinh ra vạn vật con người. Thế giới là
“vô thường”, con người là “vô ngã”, nhưng do “vô minh” mà con người
không hiểu được điều đó, vì vậy mà “đời là bể khổ”. Muốn giải thoát con
người khỏi “bể khổ”, thì con người phải hiểu “tứ diệu đế” và thực hiện
“bát chính đạo”


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Mở đầu cho những quan niệm về con người trong triết học Trung
Quốc cổ đại là học thuyết Nho giáo do Khổng Tử sáng lập. Khổng Tử phân
chia con người trong xã hội thành “Quân tử” và “Tiểu nhân”. Bậc quân tử là
hạng người có đạo đức, còn kẻ tiểu nhân, tức hạng người kém đạo đức. Quan
niệm đạo đức của Khổng Tử bao gồm ba yếu tố cơ bản: “Nhân”, “Trí”,
“Dũng”. “Nhân” chính là đạo làm người, và để đạt được “Nhân”, trước hết
con người phải có “Trí”, “Dũng”. Đó là những nấc thang giúp con người học
tập, rèn luyện từng bước tới “Nhân”.
Trong khi kế thừa thuyết “Thiên mệnh” và “Đạo đức” của Khổng Tử,
Mạnh Tử khẳng định rằng, bản chất con người là thiện, còn nếu trong xã hội
có người làm điều ác thì đó là do dục vọng nhất thời mà thôi.
Trong khi phản đối thuyết “Tính thiện” của Mạnh Tử, Tuân Tử cho
rằng “bản tính người là ác” vì theo ông việc thỏa mãn sinh lý, dục vọng là
bản tính tự nhiên của con người, và hành động tuân theo nó tất yếu sinh ra
tranh giành cướp bóc lẫn nhau.

Kế thừa và phát triển thuyết “Tính ác” của Tuân Tử, Hàn Phi Tử cho
rằng, bản chất con người là “ích kỷ” và đặc tính của nó là “sự ham mê lợi ích
và thù ghét tai họa”. Từ đây, Hàn Phi Tử cho rằng, “lợi ích vật chất là cơ sở
của tất cả các quan hệ xã hội và hành vi con người”
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, triết học phương Đông đã quan tâm,
nghiên cứu vấn đề con người. Ở đây, con người hiện diện chủ yếu dưới góc
độ con người đạo đức, con người chính trị, còn những phẩm chất khác của
con người như tri thức khoa học hãy còn ít được đề cập đến.
1.1.1.2. Con người trong triết học phương Tây
Một trong những đặc điểm quan trọng của triết học phương Tây là
ngay từ thời cổ đại, triết học đã tập trung nghiên cứu con người khá toàn
diện, trong đó đặc biệt chú ý đến những phẩm chất khoa học và tự do của
con người.
Như chúng ta đã biết, Hy Lạp cổ đại là xã hội khá tiêu biểu cho sự
phát triển nhiều mặt của con người ở phương Tây cổ đại. Socrate dành phần


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

lớn thời gian và công sức của mình theo đuổi phương châm “Con người hãy
tự biết lấy mình”. Còn Platon thì cho rằng, tất cả (kể cả con người) đều bắt
nguồn từ “thế giới ý niệm” – đó mới chính là cái “tồn tại chân chính”.
Những vật thể cảm tính (kể cả thể xác) chỉ là cái bóng của “thế giới ý niệm”,
sau khi thể xác chết, linh hồn bất tứ thoát khỏi từ ngục của thân thể trở về
với “thế giới ý niệm”. Ông còn cho rằng, chí có chủ nô quý tộc mới có đời
sống thực sự đạo đức, vì đó là những người ưu tú, còn thường dân chỉ có loại
đạo đức tiêu cực, và nô lệ, theo ông, không có đạo đức, bởi lẽ họ không được
công nhận là người. Còn Đêmôcrit cho rằng, sự sống không phải do thần
thánh tạo ra, mà do cấu tạo bởi các nguyên tử tạo thành, động vật khác thực

vật ở chỗ chúng có linh hồn, mà nhờ đó động vật có thể hoạt động được.
Trong suốt thời kỳ tồn tại của chế độ phong kiến ở Châu Âu (thế kỷ
X- XV), với điều kiện này, khoa học đình trệ, còn triết học hoặc làm đày tớ
cho thần học, hoặc trở thành thứ triết học Kinh viện. Nhà triết học và thần
học Ôguytxtanh cho rằng, Chúa trời là lực lượng siêu nhiên, có quyền lực
thần thánh tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên và con người, đồng thời quyết
định số phận của chúng. Tomat Đacanh cho rằng giới tự nhiên và con người
do Chúa trời sáng tạo ra từ hư vô, con người chỉ là hình ảnh của Chúa và linh
hồn bất tử là bản chất của nó, vị trí, vai trò, số phận và đẳng cấp con người
đều là do Chúa trời định đoạt
Đến thời kỳ Phục hưng, khoa học nói chung và triết học nói riêng đã
có những bước phát triển nhất định, quan niệm về con người có những khởi
sắc theo hướng tiến bộ - đó là những tiền đề khoa học và lý luận cho cuộc
cách mạng tư sản.
Thomas Hopxo rất chú trọng đến việc nghiên cứu con người ông cho
rằng, con người ra đời từ giới tự nhiên, nó là một thực thể thống nhất của tính
tự nhiên và tính xã hội, rằng “Giới tự nhiên tạo ra mọi người đều như nhau cả
về thể xác và tinh thần”. Bản chất con người là ích kỷ, bởi lẽ người ta ai cũng
có nhu cầu, lợi ích, khát vọng riêng – đó chính là nguyên nhân sinh ra cái ác.
Từ đó, ông cho rằng cuộc đấu tranh sinh tồn trong xã hội là tất yếu.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Nhà triết học duy vật người Anh – John Locke đã tập trung nghiên cứu
của mình vào quá trình nhận thức của con người. Ông phê phán tư tưởng
bẩm sinh, ông đưa ra nguyên lý “Tấm bảng sạch”, cho rằng mọi tri thức
không phải là bẩm sinh mà là kết quả quá trình nhận thức của con người,
rằng mọi quá trình nhận thức đều xuất phát từ kinh nghiệm và mặc dù linh

hồn như “Tấm bảng sạch”, song nó không thụ động mà có vai trò tích cực
đối với hoàn cảnh bên ngoài.
Giáo chủ và đồng thời là nhà triết học duy tâm chủ quan – G. Beccoly
đã tuyệt đối hóa vai trò của ý thức con người, thậm chí của cái “Tôi” cá nhân
khi ông đưa ra luận điểm rằng “Tồn tại, tức là được tri giác”.
Cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, triết học cổ điển Đức phát triển,
nội dung thể hiện tinh thần cách mạng cao cả, nhưng hình thức của nó mang
tính duy tâm thần bí và chứa đầy mâu thuẫn. Quan niệm về con người trong
triết học không nằm ngoài “khuôn khổ” đó.
Hêghen lại cho rằng con người là sản phẩm ở trình độ phát triển cao
nhất của “Ý niệm tuyệt đối”, còn hoạt động của nó là công cụ và phương tiện
để “Tinh thần tuyệt đối” nhận thức và trở về với chính bản thân mình. Con
người về bản tính không có sự bình đẳng hay bất bình đẳng. Và con người là
sản phẩm của mỗi thời đại nhất định. Hơn nữa, Hêghen con thấy được bản
chất xã hội của con người, cho rằng chủ thể của quá trình lao động không
phải cá nhân người mà là con người xã hội
Nhà triết học duy vật nhân bản Lutvich Phoiơbắc lấy con người sống,
có cảm giác làm điểm xuất phát cho triết học duy vật của mình. Phoiơbắc đã
khẳng định rằng, chính thể xác con người với tất cả những phẩm chất của nó
là chủ thể, là bản chất con người. Tuy nhiên, do còn quan niệm duy tâm về
đời sống xã hội nên con người trong triết học của Phoiơbắc (xét đến cùng)
vẫn là con người trừu tượng với bản chất “thần bí”.
1.1.2. Quan điểm Mác xít về con người
Để khắc phục những quan điểm duy tâm và truyền thống duy vật chật
hẹp về con người, triết học Mác xít đã đưa ra những quan điểm khoa học về
con người và về bản chất của con người:


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay


1.1.2.1. Quan điểm về con người
Triết học Mác kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội
Thứ nhất, mặt sinh học của con người thể hiện ở tiền đề vật chất đầu
tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên. Con
người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con
người. “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là
thuộc về giới tự nhiên” Vì vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con
người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên, là sản phẩm của tự nhiên.
Là động vật cao cấp nhất, tinh hoa của muôn loài, con người là sản
phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên. Các giai đoạn
mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi
quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người
trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người
sống, là tổ chức cơ thể của con người và những mối quan hệ của nó đối với
tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm – sinh
lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân
con người.
Thứ hai, mặt xã hội của con người thể hiện ở vai trò của lao động sản
xuất ở con người: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng
tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt
đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như vậy,
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”
Thông qua sản xuất vật chất, con người làm thay đổi, cải biến toàn bộ
giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất

vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất
ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình, hình thành và
phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là
yêu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng thống nhất với nhau: quy luật tự nhiên, quy luật tâm lý – ý thức
và quy luật xã hội. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể
thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và
mặt xã hội.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh
học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản
chất để phân biệt con người với loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau,
hòa quyện với nhau để tạo thành con người, con người tự nhiên – xã hội
1.1.2.2. Quan điểm về bản chất con người
Con người vượt lên trên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác
nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, và quan hệ với chính bản
thân con người. Cả ba mối quan hệ đó suy đến cùng đều mang tính xã hội,
trong đó, quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm
tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan
đến con người
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C. Mác đã nêu

lên luận đề nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hòa những quan hệ xã hội”
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát lý
mọi điều kiện hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tái tạo tự nhiên theo mục đích của mình, tạo ra những giá trị vật chất
và tinh thần, để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Như vậy, con
người chính là chủ thể lịch sử - xã hội. Và chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ
xã hội đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Khi các
quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có sự
thay đổi
Như vậy, bản chất con người không phải được sinh ra mà được sinh
thành, nó hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan
hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh
vực kinh tế.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết
ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục thiếu sót của những nhà triết
học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người
1.2. Những yếu tố tác động đến sự phát triển con người
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
Trong giáo dục con người cũng như phát triển con người, môi trường

là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội xung
quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển con người.
Môi trường gồm có môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi
trường tự nhiên bao gồm điều kiện tự nhiên – hệ sinh thái phục vụ cho sự
phát triển con người với các hoạt động học tập, tèn luyện, vui chơi, giải trí…
tạo sự phát triển toàn diện cho con người. Một điều kiện tự nhiên tốt với khí
hậu thuận lợi, đất đai, sinh vật được thiên nhiên ưu đãi sẽ tạo điều kiện cho
con người sinh sống, hoạt động và ngược lại. Điều kiện tự nhiên – hệ sinh
thái có vai trò rất quan trọng đối với xã hội loài người, nhưng nó không có
vai trò quyết định đến sự phát triển của xã hội. Nếu giải thích tình trạng lạc
hậu hay tiên tiến của một quốc gia, một dân tộc dựa vào các đặc điểm của


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

môi trường tự nhiên, thì sẽ bị rơi vào quan điểm sai lầm là hoàn cảnh địa lí
quyết định (còn gọi là duy vật địa lí). Sự phát triển của môi trường tự nhiên
bao giờ cũng diễn ra chậm hơn sự phát triển của xã hội loài người. Môi
trường tự nhiên có sự thay đổi đáng kể phải trải qua thời gian hàng nghìn,
hàng vạn năm, thậm chí hàng triệu năm. Vì vậy, nó không thể quyết định sự
phát triển của xã hội. Vai trò quyết định sự phát triển của xã hội loài người
thuộc về phương thức sản xuất, bao gồm cả sức sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Môi trường tự nhiên – hệ sinh thái có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó là
không gian sống của con người, cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho con
người…tác động của nó có ý nghĩa vô cùng to lớn về mặt sinh học với việc
xây dựng và phát triển con người. Môi trường tự nhiên còn tác động đến sự
phát triển của con người thông qua tác động của nó tới các yếu tố xã hội như
kinh tế, văn hóa…

1.2.2. Hoàn cảnh xã hội
Sự hình thành và phát triển con người chỉ có thể thực hiện trong hoàn
cảnh nhất định. Hoàn cảnh xã hội góp phần tạo mục đích, động cơ, phương
tiện và điều kiện cho hoạt động giao lưu cá nhân mà nhờ đó con người chiếm
lĩnh các hoạt động để phát triển chính bản thân mình. Tuy nhiên, tính chất và
múc độ ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội đến sự phát triển con người còn phụ
thuộc vào thái độ của con người với mức độ ảnh hưởng đó, đặc biệt tùy
thuộc vào khả năng và mức độ của cá nhân tham gia cải tiến môi trường.
Muốn cho môi trường xã hội phát huy tác dụng mạnh mẽ với phát
triển con người thì môi trường phải có tính chất phong phú. Bởi vậy, tạo ra
môi trường xã hội tốt đẹp, sinh động là cơ sở khoa học cho phát triển con
người. Ngược lại, chúng ta cũng cần phát huy tính năng động của con người
đối với môi trường xã hội, tham gia cải tạo hoàn cảnh đồng nghĩa với việc
trực tiếp cải tạo bản thân, hoàn thiên nhân cách chính mình
1.2.2.1. Chế độ chính trị xã hội


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Trong sự phát triển con người, chế độ chính trị có vai trò đặc biệt quan
trọng, nó luôn tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến con người. Chế độ chính
trị xã hội là một phần của môi trường xã hội tác động đến con người, thậm
chí đây là yếu tố quan trọng hàng đầu bởi
Thứ nhất, thể chế chính trị ảnh hưởng trước hết tới hệ tư tưởng của
con người. Chính trị như thế nào, hệ tư tưởng của đất nước như vậy, con
người sống trong môi trường chính trị tất yếu sẽ chịu sự quy định của nó.
Chế độ phong kiến sẽ sản sinh ra những con người mang hệ tư tưởng phong
kiến. Xã hội xã hội chủ nghĩa xuất hiện sẽ nhào nặn ra những con người là
hệ quả của chế độ ấy với hệ tư tưởng riêng.

Thứ hai, thể chế chính trị của một đất nước sẽ quy định các yếu tố còn
lại như. Nó định hướng cho tất cả những nhân tố sau phát triển và quan trọng
nhất là nguồn lực hàng đầu – con người sẽ là sản phẩm trực tiếp thoát thai từ
nền chính trị đó.
Và những thể chế, những quan hệ xã hội sẽ là công cụ duy trì xã hội
trong một khuôn khổ, con người cũng sẽ phát triển trong cái khuôn khổ
chung đó, theo khuôn mẫu, khuôn thước mà chế độ chính trị đó đặt ra và
mong muốn, ngược lại khi con người tham gia vào các hoạt động chính trị,
tham gia vào những quan hệ xã hội đó thì bản thân con người cũng tiếp thu
và thẩm thấu vào chính mình những giá trị mà xã hội đó mang lại
1.2.2.2. Điều kiện kinh tế
Nền kinh tế của một đất nước phát triển năng động nhạy bén hay chậm
chạp đều có tác động cực kỳ to lớn với con người. Nhìn vào sắc diện của các
nền kinh tế khác nhau ta đã có bức tranh đa sắc về con người. Thậm chí cùng
ở một quốc gia, nhưng nền kinh tế mỗi thời kỳ phát triển khác nhau lại cho ta
sản phẩm là những con người khác nhau. Có như vậy, bởi vì con người ai
cũng phải tham gia vào các hoạt động kinh tế, dù ít hay nhiều, dù lớn dù nhỏ.
Khi tham gia vào các hoạt động kinh tế, con người trực tiếp thu nhận những
giá trị mà nền kinh tế đưa lại.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, nền kinh tế tác động tới thể chất con người. Kinh tế cao, xã
hội phát triển với nguồn hàng hóa dồi dào, phong phú, chất lượng cuộc sống
sẽ tăng theo, thể trạng của con người được cải thiện. Ngược lại, một nền kinh
tế thấp với những sản phẩm thiết yếu cho cuộc sống nghèo nàn và thiếu thốn
thì thể chất con người kém phát triển
Thứ hai, nền kinh tế tác động tới nhu cầu phát triển của con người.

Chính từ tồn tại thực của nền kinh tế cao hay thấp ảnh hưởng tới nhu cầu của
con người. Với một xuất phát điểm kinh tế cao, con người có thể vươn tới
những nhu cầu vật chất, tinh thần lớn hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển của
cuộc sống và chính mình. Nhưng ở một xuất phát điểm kinh tế thấp thì
không thể đặt ra những nhu cầu cao được
Và thứ ba, nền kinh tế tác động tới các yếu tố còn lại của đời sống con
người như: văn hóa, giáo dục… bởi kinh tế là tồn tại xã hội thực nhất quyết
định các vấn đề khác. Chỉ có ở một nền kinh tế phát triển, thì những vấn đề
xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế mới được giải quyết triệt để nhất, con người
mới được chăm sóc, phát triển toàn diện. Khi kinh tế còn hạn chế thì những
vấn đề trên chỉ được giải quyết trong một chừng mực mà thôi.
Như vậy, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - hoạt động trực tiếp
nhất, con người góp phần cải tạo, thúc đẩy kinh tế đồng thời đây là một nhân
tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển con người
1.2.2.3. Giáo dục
Giáo dục đóng vai trò chủ động trong việc xây dựng và phát triển nhân cách
con người. Trong các yếu tố có ảnh hưởng đến sự phát triển con người, giáo
dục là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc nhất, mạnh mẽ nhất. Giáo dục quyết định
phương hướng, nội dung, mức độ của sự phát triển. Giáo dục cũng can thiệp
và điều chỉnh các yếu tố khác, làm cho yếu tố đó phát huy tác dụng cao nhất
với sự phát triển con người.
Nhờ có giáo dục, chúng ta mới phát hiện ra những tư chất, những tài
năng sẵn có của con người, và làm cho nó phát triển. Giáo dục còn làm nảy


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

nở ở con người những tài năng mới, sửa chữa, loại bỏ một phần những tật
xấu của con người.

Đặc biệt hoàn cảnh xã hội về chính trị kinh tế ngoài những ảnh hưởng
tích cực còn gây ra những tiêu cực tự phát có tác động xấu đến sự phát triển
con người, đặc biệt là con người mới hiện nay sống giữa hởi thở của truyền
thống dân tộc và sức sống của thời đại. Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm
chất xấu và làm cho nó phát triển theo hướng xã hội mong muốn. Đây chính
là hiệu quả của kỳ quý giá của giáo dục
Và đối với hoạt động cá nhân của con người, giáo dục động viên tích
cực hoạt động, xác định được động cơ của hoạt động, hướng dẫn cách thức
hoạt động, làm cho hoạt động thu được hiệu quả cao nhất.
Muốn cho giáo dục đạt hiệu quả cao cần có hai điều kiện: đó là giáo
dục phải đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học và phải phát huy tính tích cực
của con người. Mức độ ảnh hưởng của giáo dục phụ thuộc vào thái độ của
con người.
Như vậy, khi nói đến yếu tố giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển con người, chúng ta không bao giờ được quên rằng giáo dục chỉ
vạch ra đường hướng cho sự phát triển, thúc đẩy quá trình đó. Giáo dục
không chỉ là sự tác động một chiều của những người làm công tác giáo dục
mà còn bao gồm cả hoạt động đa dạng, tích cực của người được giáo dục. Do
đó, cần kết hợp chặt chẽ giáo dục và tự giáo dục. Có như thế, giáo dục mới
có tác động thực sự đến sự phát triển con người.
1.2.2.4. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán
Văn hóa, phong tục tập quán cũng là một yếu tố không thể thiếu, bởi
ngoài hoạt động sản xuất vật chất, con người còn tồn tại những hoạt động
tinh thần, cân đối giữa vật chất và tinh thần trong quá trình sống và thụ
hưởng. Ngày nay, văn hóa của con người không chỉ là văn hóa truyền thống
mà còn là văn hóa thời đại, hai luồng tư tưởng giao thoa tạo nên bản sắc văn
hóa riêng của mỗi dân tộc. Con người sống trong bầu không khí văn hóa đó
đương nhiên chịu tác động ít nhiều. Cá nhân con người sống chịu sự chi phối



Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

của văn hóa ở cách nói năng, lối ăn mặc, tham gia vào những hoạt động văn
hóa, lễ hội. Bản sắc văn hóa góp phần hình thành ở con người những nét tính
cách văn hóa riêng mang dáng dấp của nó. Hay nói cách khác, văn hóa của
dân tộc thời đại được chuyển hóa thành văn hóa riêng ít nhiều ở mỗi con
người, điều tiết và chi phối con người phát triển theo cái khung đó. Hay như
các phong tục tập quán cũng tạo ra những nét giá trị rất to lớn trong hình
thành phát triển con người. Chính từ yếu tố văn hóa chuyển tải vào con
người trong đời sống hàng ngày mà con người dần dần tiếp nhận những giá
trị đó, đưa chúng vào sự phát triển nội tại của bản thân mình.
1.2.3. Hoạt động của cá nhân
Hoạt động của cá nhân mới là con đường quyết định trực tiếp đối với
sự nghiệp xây dựng và phát triển con người. Hoạt động là điều kiện nhận
thức thế giới, cải tạo bản thân mình.
Khi thực hiện hoạt động cá nhân, một mặt con người phải tích cực chủ
động tham gia vào hoạt động để lĩnh hội những tri thức từ thế giới xung
quanh, để hiểu rõ hơn bản chất thế giới sự vật hiện tượng, hơn nữa khi tham
gia vào hoạt động nhận thức thế giới thì con người cũng tạo ra môi trường
hoạt động cho chính mình hiểu biết về thế giới và con người. Mặt khác, tham
gia vào hoạt động, con người cũng nhận thức chính bản thân mình, khám phá
về chính bản thân mình với những khả năng và hạn chế nhất định.
Yêu cầu của hoạt động với sự phát triển con người ngày càng rõ rệt:
thể chất, sức khỏe của cá nhân con người phát triển, đồng thời trí tuệ ngày
càng hoàn thiện. Yêu cầu của hoạt động càng cao, thì mức độ hoàn thiện của
con người càng lớn. Đặc biệt, động cơ càng đúng đắn, tác dụng của hoạt
động càng mạnh mẽ và sâu sắc. Xác định động cơ hoạt động thường con
người phải qua quá trình đấu tranh động cơ. Trong quá trình ấy thường diễn ra
đấu tranh giữa lý trí và tình cảm. Đây là cơ hội rèn luyện ý chí, phát huy năng

lực kiềm chế, tự giáo dục. Bởi vậy, con người không ngừng phát triển theo sự
thay đổi của hoạt động cá nhân người. Hoạt động cá nhân con người càng
phong phú, tinh vi thì con người càng hoàn thiện và càng sâu sắc bền vững.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

1.2.4. Vai trò của việc xây dựng con người mới đối với sự phát triển xã hội
Nhân tố con người và xây dựng con người không chỉ là mục tiêu mà
còn là động lực cơ bản của công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Quá
trình xây dựng con người mới cũng chính là quá trình xây dựng xã hội mới,
tạo ra động lực cho xã hội phát triển. Chính việc xây dựng xã hội mới nhằm
xây dựng con người, lấy con người làm mục đích phát triển của mình.
Lịch sử xã hội loài người diễn ra như một dòng chảy vô tận mà mỗi
hình thái xã hội sau luôn kế thừa những giá trị tích cực, tiến bộ của hình thái
trước, lọc bỏ những hạn chế, lỗi thời để phát triển lên một trình độ mới cao
hơn. Có thể thấy phát triển bền vững là một khái niệm đa phương diện, vì
vậy có nhiều hướng tiếp cận khác nhau: hướng tiếp cận kinh tế, hướng tiếp
cận sinh thái, hướng tiếp cận văn hoá- xã hội. Tuy nhiên, cần tiếp cận phát
triển bền vững trên quan điểm toàn diện. Nếu mô hình phát triển truyền
thống lấy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất; lấy hàng hoá, của cải là
trọng tâm thì mô hình phát triển bền vững lấy con người là trọng tâm với sự
kết hợp hài hòa hai mục tiêu kinh tế và xã hội.
Thứ nhất, con người với sự phát triển bền vững kinh tế
Bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn
định, đảm bảo cho sự phát triển lâu dài. Để có tăng trưởng kinh tế phải có
các nhân tố tất yếu : nhân tố tự nhiên, nhân tố con người, các yếu tố vật chất
do con người tạo ra (công nghệ, vốn). Nhân tố con người còn được gọi bằng
những khái niệm khác nhau như nguồn nhân lực, tài nguyên con người,

nguồn vốn con người
Vai trò của nhân tố con người được đánh giá khác nhau trong mỗi giai
đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội. Đặc biệt khi cuộc cách mạng khoa
học,công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi mà nền kinh tế thế giới đã và đang
chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ càng
được thừa nhận vai trò trung tâm trong quá trình phát triến.
Về mặt kinh tế, nguồn lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là
lực lượng lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai. Nó chủ


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

yếu cần được quan tâm về mặt chất lượng con người bao gồm cả thể chất và
tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất tức là toàn bộ năng lực
sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Vai trò của người lao
động được V.I.Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân
loại. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết
hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác,
con người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí
tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các
quá trình kinh tế - xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sự kết hợp thống
nhất biện chứng giữa con người với công nghệ tiên tiến sẽ là động lực cơ bản
của tăng trưởng kinh tế.
Trên đây con người được xem xét là phương tiện, là động lực cơ bản
và bền vững của sự tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng mang lại sự giàu
có về vật chất, suy cho cùng, không ngoài mục đích đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu sống của bản thân con người. Vậy con người không chỉ là động lực mà
còn là mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế.
Trên thực tế không phải bao giờ sự tăng trưởng kinh tế cũng tương

ứng với việc cải thiện điều kiện sống của toàn thể cộng đồng xã hội. Thậm
chí ở nhiều nơi, khi của cải xã hội tăng lên, người ta còn cảm thấy mình
nghèo hơn trước và bị thải loại về mặt xã hội, khi tình trạng bất công gia
tăng trong nền kinh tế thị trường. Như vậy, các chính sách tăng trưởng, thậm
chí bền vững về kinh tế, cũng có thể gây ra những hậu quả xã hội nghiêm
trọng: sự mất cân đối về mặt xã hội dẫn đến những căng thẳng, các mối quan
hệ xã hội gắn bó bị phá vỡ, bạo lực gia tăng. Hậu quả là làm giảm, thậm chí
triệt tiêu hoàn toàn mọi cố gắng của tăng trưởng, phát triển. Đó là tính không
bền vững trong sự phát triển xã hội do kinh tế đưa lại.
Thứ hai, con người với sự phát triển bền vững xã hội
Bền vững về mặt xã hội là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao nhất


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

của sự phát triển xã hội (được cụ thể hoá qua chỉ số phát triển con người
HDI, chỉ số bất bình đẳng thu nhập GINI, chỉ số phát triển giới GEM).
Ở đây, vị trí trung tâm của con người nổi lên với tư cách là mục tiêu
cao nhất của sự phát triển xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững chủ yếu
không phải là tạo ra nhiều hàng hóa, của cải mà nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống con người, không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, giới tính, vùng
miền. Tăng trưởng kinh tế làm tăng thu nhập cá nhân và tạo khả năng cải
thiện các chi tiêu xã hội công cộng như y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường.
Vậy, để phát triển xã hội bền vững, trước hết cần phát triển con người
một cách bền vững, hay làm tăng năng lực và phạm vi lựa chọn của con
người để họ có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.
Ở Việt Nam nói chung, phát triển con người được coi là vấn đề trung
tâm của chiến lược phát triển, là nhiệm vụ lâu dài của Đảng, Nhà nước và

toàn dân. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, mục tiêu cao cả
của cách mạng là mang lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Người nói: Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa gì. Mục tiêu tổng quát tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người...
Có thể thấy, quan điểm của Đảng ta hoàn toàn phù hợp với những
tuyên bố quốc tế về phát triển bền vững, trong đó nổi lên tư tưởng hàng đầu
lấy con người là trung tâm của sự phát triển, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn
nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân là nguyên tắc nhất
quán trong mọi giai đoạn phát triển


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Kết luận chương 1
Trong lịch sử tư tưởng triết học, vấn đề con người được giải quyết
dưới nhiều trường phái, nhiều góc độ khác nhau, song chỉ đến triết học Mác
– Lênin vấn đề con người mới được nhìn nhận, nghiên cứu một cách khoa
học, toàn diện nhất trên cả hai mặt tự nhiên xã hội và bản chất của con
người. Như vậy, lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở cho các khoa
học xem xét toàn diện những yếu tố tác động đến phát triển con người: điều
kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, giáo dục và hoạt động của bản thân con
người. Những yếu tố này chính là nền tảng để chúng ta nhìn nhận vị trí, vai
trò của con người trong sự phát triển bền vững kinh tế - chính trị - xã hội.
Chính vì vậy, thực tiễn công tác xây dựng và phát triển con người của chúng
ta hiện nay có nhiều bước tiến đáng kể bởi nền tảng lí luận Mác xít được

quán triệt một cách sâu rộng và có chất lượng.


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Chương 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI TRONG
THỜI KỲ QUÁ DỘ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2.1. Tính cấp thiết của vấn đề xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái lược về con người Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam là nước có dân số lớn. Theo kết quả điều tra dân
số và nhà ở năm 2009, dân số Việt Nam hiện là gần 86 triệu người, là nước
đông dân thứ 3 Asean và thứ 13 trên thế giới. Trong khi đó, theo đánh giá
của Tổng cục Thống kê, cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam thay đổi
theo hướng tích cực. Sau 10 năm, tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi giảm từ
33,1% (năm 1999) xuống còn 24,5% (năm 2009). Ngược lại, tỷ trọng dân số
nhóm tuổi 15 - 64 (là nhóm tuổi chủ lực của lực lượng lao động) tăng từ
61,1% lên 69,1%. Đây là thời kỳ dân số nước ta có ưu thế về lực lượng lao
động, còn được gọi là thời kỳ của “cơ cấu dân số vàng”. Điều này được
đánh giá là lợi thế rất lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước, nếu tận dụng được tính ưu việt về lực lượng lao động.
Thứ hai, trình độ dân trí nước ta hiện nay ở mức khá song không đồng
đều trong cả nước, các địa phương có sự chênh lệch. Tỷ lệ biết chữ của dân
số trên 15 tuổi liên tục tăng. (Năm 1999) là 90,3% đến (năm 2009) là 94,0%.
Số liệu tổng điều tra năm 2009 cho thấy, sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ giữa
thành thị và nông thôn là rất thấp: 97,3% ở thành thị và 92,5% ở nông thôn.
Tuy nhiên, có sự khác biệt. Vùng đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ biết chữ là
97,5%, thấp nhất là vùng miền núi trung du phía Bắc 88,1%. Địa phương có
tỷ lệ biết chữ cao nhất là Hà Nội, Hải Phòng 97,9%, thấp nhất là Lai Châu
59,4%. Và cho đến nay, tỷ lệ người trên 5 tuổi từng đi học là 95%. Theo kết

quả tổng điều tra năm 2009, chỉ có dưới 4 triệu người chưa bao giờ đi học,
chiếm 5% tổng dân số năm tuổi trở lên. Hơn nữa, về nguồn dân trí trình độ
cao của nước ta cũng có sự gia tăng. Theo báo cáo hội thảo quốc gia “Xây
dựng đội ngũ trí thức Việt Nam”, trong những năm qua, đội ngũ trí thức Việt
Nam có sự phát triển nhanh về số lượng và chuyển biến về chất lượng. Tính


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

đến năm 2007, Việt Nam có 2,6 người có trình độ đại học, chiếm 4,5% lực
lượng lao động. Tỷ lệ trí thức trong khu vực sự nghiệp đạt 71%, khu vực
hành chính 22% và khối kinh doanh 7%. Đây chính là những con số tích cực
của trình độ dân trí
Thứ ba, về sức khỏe thể lực của con người Việt Nam hiện nay nhìn
chung tăng lên rõ rệt và cao hơn nhiều so với những nước có cùng trình độ
phát triển và mức thu nhập bình quân đầu người như Việt Nam. Tuổi thọ
trung bình của nước ta đã đạt 72,8 tuổi. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Viện
dinh dưỡng quốc gia và Ủy ban dân số gia đình và trẻ em, chiều cao trung
bình của người Việt Nam hiện nay là thấp so với khu vực. Chiều cao trung
bình của nam là 1m63 (thấp hơn 13cm so với chuẩn) và nữ là 1m53 (thấp
hơn 11cm so với chuẩn). So với khu vực Chấu Á, chiều cao của nam thanh
niên Việt Nam thấp hơn Nhật 8cm, Thailand 6cm, chiều cao của nữ thấp hơn
Nhật 4cm và Thailand 2cm. Chưa hết, tỉ lệ còi cương cũng khá báo động.
Theo Viện dinh dưỡng quốc gia hiện nay, tình trạng thấp còi ở lứa tuổi thiếu
nhi rất cao, trung bình cứ 3 em thì có 1 em thấp còi.
Thứ tư, con người Việt Nam mang trong nó những phẩm chất truyền
thống quý báu của dân tộc: yêu nước, đoàn kết, anh dũng, bất khuất, có kinh
nghiệm trong lao động sản xuất, có khả năng sáng tạo và thích ứng nhanh…
Đó là những phẩm chất cần thiết cho quá trình phát triển công nghiệp hiện

đại. Nhưng chưa đủ, bên cạnh đó con đòi hỏi thể lực trí lực, ý chí chiến
thắng hoàn cảnh, tinh thần hợp tác, bản lình lãnh đạo, nghệ thuật kinh
doanh… con người Việt Nam với tư cách là động lực cho sự phát triển xã
hội còn thể hiện nhiều mặt bất cập
Thứ năm, về hệ tư tưởng. Con người Việt Nam chịu sự chi phối của
nhiều luồng tư tưởng khác nhau dù đậm hay nhạt, ít hay nhiều. Tư tưởng
phong kiến bén rễ ăn sâu hàng nghìn năm tạo nên lối suy nghĩ trong hầu hết
mỗi con người với đặc tính nặng tình nghĩa, coi trọng truyền thống, tâm lý
quen với cái cũ, bảo thủ… Song, trải qua hai cuộc kháng chiến giữ nước, tư
tưởng phong kiến có chút nhạt nhòa hơn, thay vào đó là sự phát triển của chủ


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện hoàn cảnh nước ta và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hệ tư tưởng tiến bộ soi chiếu dẫn dắt chúng ta không chỉ trong quá
trình bảo vệ tổ quốc và trong cả quá trình xây dựng đất nước hiện nay. Tư
tưởng khoa học nay ăn sâu vào con người Việt Nam hiển hiện trong chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, trong tình yêu nước và quyết tâm dựng xây đất
nước, trong tình hữu ái vô sản thế giới…
Thứ sáu, sự phát triển của con người không chỉ thể hiện ở số lượng,
chất lượng, mà còn liên quan chặt chẽ đến vấn đề sử dụng, đào tạo, và quản
lý con người. Hiện nay, tỷ lệ lao động thất nghiệp, thiếu việc làm cao, chỉ có
50% toàn bộ tiềm năng lao động được sử dụng, tình trạng bố trí việc làm
không đúng chuyên môn hoặc không phù hợp với người lao động vẫn diễn ra
(khoảng 70% người học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp làm
đúng ngành nghề đào tạo nhưng phát huy tác dụng hạn chế). Vì thế, trong
điều kiện nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không chỉ là bồi dưỡng, phát huy
tính tích cực, tiềm năng sáng tạo mà ở chỗ làm thế nào sử dụng hiệu quả nó,

thúc đấy phát triển con người và xã hội.
2.1.2. Yêu cầu phát triển của việc xây dựng con người mới Việt Nam
hiện nay
Con người mới xã hội chủ nghĩa chỉ là một giai đoạn ngắn trong lịch
sử phát triển của con người nói chung, nhưng nó lại là giai đoạn phát triển
cao nhất cho đến nay, khi mà tất cả những ước mơ tốt đẹp nhất về con người
và của con người bắt đầu có được những tiền đề khách quan cần thiết để
từng bước biến thành hiện thực.
Xây dựng con người mới là mục tiêu cơ bản có tính chất cương lĩnh
của Đảng, đồng thời là nhân tố để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Con người
mới vừa là sản phẩm của xã hội mới, vừa là chủ thể để xây dựng một xã hội
mới: xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính C. Mác quan niệm rằng bản thân xã hội
sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản
xuất ra xã hội như thế. Vì vậy, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là tạo
hoàn cảnh để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, ngược lại không
xây dựng được con người mới thì cũng không thể có được chủ nghĩa xã hội


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

Tuy nhiên thực tiễn chỉ ra rằng, việc xây dựng con người mới là một
quá trình đấu tranh gian khổ, gay go phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến
bộ với cái lạc hậu, cái tích cực với cái tiêu cực trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Chúng ta đang phải xây dựng xã hội mới và con người mới từ
một nước nông nghiệp lạc hậu. các tàn dư của nếp sống, quan niệm và tư
tưởng cũ còn đang tồn tại, chi phối khá mạnh đời sống hàng ngày của mỗi
người, mỗi gia đình, mỗi tập thể và toàn xã hội. Và bằng hàng ngàn sợi dây,
cái cũ, cái lạc hậu, cái đã chết bám lấy cái mới, cái sinh khí, cái tươi mới.
Hàng loạt vấn đề mới mẻ, khó khăn đang đặt ra trong công cuộc xây dựng

chủ nghĩa xã hội nói chung, xây dựng con người mới nói riêng. Chúng ta đã
có không ít những vấp váp sai lầm thiếu sót do năng lực chủ quan chưa đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Cho nên, vấn đề nhìn nhận nghiêm túc
về nhận thức và hành động trong xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện
nay là vấn đề cấp bách, không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực
tiễn cần thiết
Xung quanh vấn đề này có hai ý kiến khác nhau, nhưng nổi lên hai ý
kiến: Một loại cho rằng, hiện nay ở nước ta điều kiện kinh tế quá thấp, chưa
cho phép xây dựng con người mới, bàn đến xây dựng con người mới, đạo
đức mới là không tưởng. Biểu hiện của quan niệm này trong thực tiễn là thái
độ thụ động trước hoàn cảnh, từ đó lơi lỏng coi nhẹ giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục đọa đức lối sống mới
Ngược lại ý kiến khác muốn xây dựng nhanh chóng con người mới bất
chấp những khó khăn hiện có. Biểu hiện của quan điểm này là nhấn mạnh
quá đáng công tác tư tưởng, tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần tư tưởng, yếu tố
chủ quan, coi thường điều kiện khách quan. Nói xây dựng con người mới
nhưng lại không chú ý đến lợi ích thiết thân của người lao động, không chú ý
đến phát triển về mặt vật chất của họ. Đây là biểu hiện của chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí trong việc xây dựng con người mới.
Cả hai ý kiến trên đều là sai lầm, dẫu rằng những ý kiến đó có dựa trên
những căn cứ nhất định trong thực tế. Song chân lý không thuộc về những


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay

quan niệm có tính cực đoan như vậy. Chỉ khi nhận thức đúng những điều
kiện khách quan và biết nhận thức, vận dụng đúng điều kiện khách quan vào
hoàn cảnh thực tế thì mới giúp chúng ta khắc phục những sai lầm, xây dựng
thành công con người mới ở Việt Nam hiện nay

2.2. Ảnh hưởng của những điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội với việc
xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay
Con người không thể chọn cho mình một xã hội để sinh ta. Song xã
hội lại phải đào luyện những con người phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát
triển của nó. Hoàn cảnh ảnh hưởng đến con người trong chừng mực con
người cải tạo hoàn cảnh, nhưng con người không thoát ly hoàn cảnh. Xét
theo ý nghĩa xã hội thì con người trước sau vẫn là một sản phẩm của hoàn
cảnh, con người muốn làm ra lịch sử của mình nhưng không phải làm theo ý
muốn của mình mà phải làm theo điều kiện khách quan, đó là những yếu tố
thuộc về môi trường tự nhiên và môi trường xã hội mà con người đang sống
và hoạt động, trong đó môi trường xã hội là yếu tố quyết định
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Nhìn chung đặc điểm tự nhiên Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận
lợi, nhưng cũng không ít khó khăn.
Thứ nhất, Việt Nam là nước có điều kiện tự nhiên tương đối thuận lợi,
nằm ở Đông Nam châu Á, khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, nền nhiệt cao,
nắng lắm mưa nhiều, thích hợp cho phát triển nền nông nghiệp năng suất
cao, đặc biệt có đường bờ biển dài thuận lợi cho việc phát triển kinh tế biển
tổng hợp. Thêm nữa, nước ta là nước giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai
màu mỡ, khoáng sản dồi dào…là những tiền đề lớn cho phát triển công
nghiệp. Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi với điều kiện tự nhiên đa phần
thuận lợi, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển, chính vì vậy mà tính
cách con người Việt Nam cũng nhanh nhạy, hào phóng và năng động, sáng
tạo – đó là hệ quả của sự ưu đãi từ thiên nhiên
Thứ hai, sự khác biệt khí hậu từng vùng khá rõ rệt và ảnh hưởng nhất
định đến tình cảm cũng như tính cách con người. Điển hình, vùng Đồng


Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người mới ở
Việt Nam hiện nay


bằng song Cửu Long đất đai màu mỡ, phì nhiêu, kênh rạch chằng chịt, thiên
nhiên ưu đãi hình thành hai mùa rõ rệt… người dân làm ra lúa gạo tương đối
dễ dàng, ít phải lo lắng tính toán cuộc sống, bởi vậy, con người ít năng động
sáng tạo trong lao động sản xuất, trong cải tạo tự nhiên “Một thiên nhiên quá
ưu đãi và hào phóng đã dắt tay người ta đi như dắt tay cho trẻ con tập đi, nó
ngăn cản con người phát triển bằng cách không làm cho sự phát triển của con
người trở thành một tất yếu tự nhiên”. Trái lại, vùng Đồng bằng sông Hồng
bốn mùa xanh tươi, sản vật phong phú, song người dân thường xuyên phải
chống chọi với sự hà khắc của thiên nhiên, hàng năm hơn chục cơn bão lớn
nhỏ, dịch bệnh… Hoàn cảnh khó khăn đó đã rèn luyện cho con người. Đồng
thời, chính nỗ lực chủ quan của con người để khắc phục khó khăn thông qua
hoạt động thực tiễn mới rèn luyện cho con người nơi đây những đức tính ,
những phẩm chất để tồn tại và chiến thắng
Nhìn chung, môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng như vậy với sự
phát triển con người, nhưng khả năng và hiệu quả sử dụng của cải và tiềm
lực thiên nhiên phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tính chất của chế độ xã hội
nhất định. Ảnh hưởng của thiên nhiên với con người như thế nào, mức độ
nào, phụ thuộc vào chế độ xã hội, mà chế độ xã hội do phương thức sản xuất
quyết định. Hay nói cách khác, chính lao động sản xuất, chính bản thân
phương thức sản xuất quy định phương thức sống của con người. Nhân cách,
phẩm chất con người hình thành trước hết trong hoàn cảnh sản xuất và biểu
hiện thông qua hoạt động sản xuất của họ
2.2.2. Đặc điểm kinh tế
2.2.2.1. Nền sản xuất nhỏ và tác động của nó
Chúng ta xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm này nói lên thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta và quy định nội dung chủ yếu của quá trình phát triển đó. Nền sản
xuất nhỏ với những trình độ phát triển khác nhau tồn tại trong nhiều thời kỳ

lịch sử. Có thể nói rằng “Bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta cũng là bốn ngàn năm ngự trị của sản xuất nhỏ”


×