Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

tiểu luận cao học tư tưởng giáo dục của khổng tử và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp đào tạo con người ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.39 KB, 45 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt mà thế hệ đi trước truyền lại
cho thế hệ đi sau những kinh nghiệm tham gia vào đời sống sản xuất và hoạt
động. Giáo dục xuất hiện cùng với sự xuất hiện của loài người và chỉ có trong
đời sống con người. Trải qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của xã hội, giáo dục đã khẳng định vai trò ưu việt của
mình với việc hoàn thiện nhân cách con người.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển mạnh mẽ thì giáo dục càng cần thiết hơn bao giờ hết. Đó là phương tiện
hữu hiệu nhất tạo nên nguồn lực con người, vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội. Đảng và nhà nước ta đã xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [13].
Giáo dục là yếu tố truyền thống mà điểm khởi đầu và kết thúc đều là
con người. Thực tế cho thấy, không có con người trừu tượng, phi lịch sử mà
chỉ có con người hiện thực, chịu sự tác động của nhiều yếu tố: gia đình và xã
hội, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Trong đó, yếu tố truyền
thống đóng vai trò cơ sở, nền tảng hình thành những yếu tố hiện đại.
Quá trình hình thành phát triển giáo dục nhân loại, có rất nhiều nhà
giáo dục tài ba lỗi lạc với những quan điểm đã trở thành chân lý thời đại.
Khổng Tử là một trong những nhà giáo dục vĩ đại ấy. Thời Xuân thu - Chiến
quốc (770-221 trước công nguyên) là thời kỳ “bách gia tranh minh”. Nhiều
vấn đề cơ bản về tự nhiên, xã hội, nhân sinh được “bách gia chư tử” bàn luận
và đấu tranh kịch liệt để tranh giành ảnh hưởng với nhau nhưng không một
học phái nào đề cao đúng mức và đạt được thành tựu vầ mặt giáo dục bằng
Khổng Tử. Một đời Khổng Tử đề cao việc học và chính ông cũng là tấm
gương học tập không mệt mỏi. Ồng cho rằng phàm là con người ai ai cũng
phải học, vua phải học để làm vua, quan phải học để làm quan, dân phải học
để làm dân. Quan điểm giáo dục của Khổng Tử hướng người ta vươn tới cái
1



“nhân, lễ, trí, dũng”. Để đạt được lý tưởng cao đẹp này, mỗi chúng ta phải
được giáo dục, có giáo dục và tự giáo dục. Nghĩa là “dạy và học là việc suốt
đời”(Lễ Kí – Học kí biên) [10]. Đây là đóng góp hết sức căn bản của Khổng
Tử , ngay cả trong thời đại ngày nay, khi mà cánh cửa của nền kinh tế tri thức
đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên tin học, kỷ nguyên khoa học kỹ
thuật, khi mà việc học tập thường xuyên, suốt đời đã trở thành hiện thực.
Tư tưởng đạo Khổng, một bộ phận của Nho giáo truyền thống, có sức
sống dai dẳng và ảnh hưởng không nhỏ đến con người, xã hội Việt Nam.
Khổng học là một học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công
cụ quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù
hợp với xã hội Việt Nam, Khổng học từng bước được giai cấp thống trị Việt
Nam tiếp nhận và đề cao, đặc biệt trong quản lý đất nước, đào tạo con người .
Thời gian vừa qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người, bên cạnh đó còn bộc lộ nhiều hạn
chế đáng lo ngại. Chẳng hạn, sự tụt hậu về tri thức, khoa học công nghệ; đặc
biệt là sự tha hóa đạo đức, lối sống… Nếu đặt nền giáo dục trong bối cảnh
toàn cầu hóa, nhìn tình hình một cách khách quan và có trách nhiệm thì không
thể nhắm mắt làm ngơ trước sự tụt hậu ngày càng xa của nền giáo dục Việt
Nam so với các nước xung quanh và so với yêu cầu phát triển của xã hội. Nền
giáo dục, đào tạo nước ta còn đang đứng trước nhiều khó khăn và yếu kém,
đó là: “…chất lượng giáo dục còn thấp; nội dung phương pháp dạy và học
còn lạc hậu; các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục còn nhiều; cơ cấu giáo
dục và đào tạo còn mất cân đối…” (Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hànhTrung
ương Đảng khóa IX ). Những hạn chế này có nhiều nguyên nhân, nhưng trong
đó có nguyên nhân từ việc chúng ta quá đề cao và hướng theo các giá trị hiện
đại, mà bỏ quên hay kế thừa chưa hiệu quả các giá trị truyền thống, cũng như
các tinh hóa văn hóa nhân loại, trong đó có tư tưởng giáo dục của Khổng Tử.
Mặc dù nhiều nội dung học tập và tu dưỡng của Khổng Tử không còn
phù hợp với thời đại ngày nay nhưng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử vẫn

2


còn những giá trị thiết thực, có ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo dục ở nước ta
hiện nay. Nếu chúng ta biết kế thừa có chọn lọc những nhân tố có giá trị trong
tư tưởng giáo dục của Khổng Tử thì sẽ có được nhiều bài học kinh nghiệm
quý giá, góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp đào tạo con
người hiện nay.
Vì vậy, hướng tới mục tiêu xây dựng và bảo vệ đất nước thời kỳ đổi
mới: công nghiệp hóa - hiện đại hóa, xem xét mối quan hệ giữa quan niệm
giáo dục của Khổng Tử với sự nghiệp giáo dục đào tạo con người ở Việt Nam
hiện nay là việc làm cần thiết.
Do tính cấp thiết của đề tài, do tính giới hạn của thời gian cũng như là
sự vô cùng trong nội dung nghiên cứu về giáo dục nên trong đề tài này em chỉ
tập trung vào thời kỳ phát triển của triết học cổ đại Trung Quốc mà trọng tâm
nghiên cứu là quan niệm của Khổng Tử về giáo dục, từ đó đi vào nghiên cứu
những ảnh hưởng của nó trong tình hình thực tiễn nước ta hiện nay. Vì vậy,
em quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử và ý nghĩa của
nó đối với sự nghiệp đào tạo con người ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa
luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng về giáo dục trong triết học Khổng Tử là một trong những tư
tưởng lớn của triết học nhân loại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư
tưởng triết học đó.
Đề cập đến những vấn đề này gồm các tài liệu như: cuốn sách “Khổng
Tử” của tác giả Nguyễn Hiến Lê. Đây là một trong những cuốn sách chuyên
biệt về Khổng Tử. Trong tác phẩm, tác giả đã trình bày một cách khúc triết về
thân thế, sự nghiệp giáo dục và một số quan điểm chính của Khổng Tử trên cơ
sở của bộ Luận ngữ. Ngoài ra còn có các tài liệu như “Lịch sử triết học
phương Đông” (tập1) của Nguyễn Đăng Thục và cuốn “Đại cương triết học

Trung Quốc” của Doãn Chính (chủ biên), đây cũng là tài liệu giới thiệu chung
về những tư tưởng triết học của Khổng Tử .
3


Ở khía cạnh khác, nghiên cứu những ảnh hưởng của những tư tưởng
triết học về giáo dục của Khổng Tử phần lớn dựa vào các tài liệu chính như:
“Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục”, “Văn kiện của Đảng”, “Luật giáo dục”
đây là một tài liệu quan trọng bàn về việc xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Đó là những tài liệu chính mà các tác giả có đề cập về vấn đề giáo dục
con người.
Ngoài ra, còn nhiều tài liệu khác liên quan đễn nội dung của đề tài. Như
vậy, vấn đề đề tài đặt ra không mới nhưng em vẫn muốn khai thác dưới một
góc nhìn, quan điểm mới của riêng mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nhằm nghiên cứu quan điểm triết học về giáo
dục của Khổng Tử, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của những tư
tưởng đó. Thấy được những ảnh hưởng của nó đối với nước ta hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ những quan điểm triết học về giáo dục của Khổng Tử
- Đánh giá giá trị và hạn chế cuẩ những quan điểm đố
- Tìm hiểu những kinh nghiệm có thể kế thừa, phát huy từ tư tưởng của
Khổng Tử đối với nền giáo dục Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1.Phạm vi nghiên cứu
Trong triết học của mình, Khổng Tử cũng đã đề cập đến mọi lĩnh vực,
thể hiện quan điểm của ông về thế giới, về chính trị xã hội, về luân lý đạo đức
và cuộc sống con người. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài em chỉ

đề cập đến tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, ý nghĩa của những tư tưởng đó
đối với sự nghiệp đào tạo con người ở nước ta hiện nay.
4.2.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
4


nghĩa duy vật lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn cùng với một số phương pháp
khác như tổng hợp, phân tích, đánh giá…
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đè tài trình bày tương đối có hệ thống và đánh giá khách quan những
quan niệm về giáo dục của Khổng Tử, trên cơ sở đó góp phần làm rõ hơn ý
nghĩa của những tư tưởng này đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo con người ở
nước ta hiện nay.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Tư tưởng giáo dục trong triết học của Khổng Tử
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Chương 2: Ý nghĩa cùa tư tưởng giáo dục trong triết học của Khổng Tử đối
với sự nghiệp đào tạo con người ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
2.2. Ý nghĩa của tư tưởng giáo dục của Khổng Tử đối với nền giáo dục Việt
Nam hiện nay

PHẦN NỘI DUNG

5



CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG TRIẾT HỌC CỦA KHỔNG TỬ

1.1.Cơ sở hình thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc cổ đại với việc hình
thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Như chúng ta đã biết, sự xuất hiện của mỗi học thuyết, tư tưởng không
phải ngẫu nhiên mà luôn có cở sở khách quan của nó. Trong đó cơ bản là điều
kiện kinh tế - xã hội chi phối. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử cũng không phải là một ngoại lệ nằm ngoài quy luật trên.
Do đó, muốn nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử không thể không đi
vào nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính trị, của
thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc (770 - 475 trước Công nguyên), thời đại mà tư
tưởng Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói
riêng nảy sinh, hình thành và phát triển.
Khổng Tử sống trong thời Xuân thu - Chiến quốc, thời kỳ xã hội Trung
Quốc đang có những chuyển biến hết sức căn bản. Chế độ chiếm hữu nô lệ
theo kiểu phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu đang suy
tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Thời kỳ Xuân thu được đánh
dấu bằng sự kiện Chu Bình Vương dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (năm 771
trước Công nguyên).
Về kinh tế: Thời kỳ này chính là cái mốc lịch sử đánh dấu một sự thay
đổi quan trọng trong việc cải tiến về mặt tư liệu sản xuất. Đó là sự chuyển đổi
từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Sự ra đời của đồ sắt như một cuộc
cách mạng trong công cụ sản xuất, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền
kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng. Trong đó, nông nghiệp là một
ngành kỉnh tế có truyển thống lâu đời và giữ vai trò hết sức quan trọng ở
Trung Quốc. Chính sự cải tiến về công cụ lao động cùng với những sáng kiến
mới trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã phần nào cải thiện được sức lao

động, làm cho năng suất lao động tăng nhanh. Cùng với nông nghiệp và thủ
công nghiệp, đồ sắt ra đời và trở thành phổ biến còn tạo cơ sở cho thương
6


nghiệp phát triển hơn trước, hoạt động giao lưu buôn bán diễn ra sôi động.
Tiền tệ đã xuất hiện, xã hội hình thành lớp thương nhân ngày càng có thế lực
như Huyền Cao nước Trịnh, Tử Cống (vốn là học trò của Khổng Tử)…Tiền
tệ xuất hiện càng làm thúc đẩy sự phát triển của ngành thương nghiệp, từ đó
hình thành nên các thành thị buôn bán nhộn nhịp ở các nước Hàn, Tề,…các
thành thị này đã có cơ sở kinh tế độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành
thị thị tộc của quý tộc thị tộc để hình thành những khu vực của tầng lớp địa
chủ mới lên, dẫn đến cơ cấu giai cấp trong xã hội thời kỳ này đang dần bị
thay đổi.
Về chính trị: Những biến đổi về mặt kinh tế tất yếu dẫn đến những biến
đổi về mặt chính trị trong thời Xuân thu. Giai đoạn này chế độ “phong hầu
kiến địa” của nhà Chu bị phá vỡ, làm cho mối quan hệ về kinh tế, chính trị,
quân sự giữa thiên tử và các nước chư hầu không còn được tôn trọng như
trước đây nữa. Thời kỳ này đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ, phần lớn
là các nước mạnh muốn dựa trên sức mạnh bạo lực để “đánh nhau tranh
thành, giết người thây chất đầy thành; đánh nhau giành đất, giết người thây
chất đầy đồng” [2]. Những cuộc chiến tranh này không chỉ diệt vong hàng
loạt các nước nhỏ mà còn phá hoại lễ nghĩa nhà Chu, chế độ “tông pháp” bị
xem thường. tình trạng lễ nghĩa cương thường bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi
băng hoại. Cùng với nó là nạn đàn áp, áp bức bóc lột nhân dân lao động của
bọn quý tộc ngày càng nổi lên khắp nới làm cho đời sống nhân dân vô cùng
cực khổ. Trong xã hội cảnh tôi giết vua, con giết cha, vợ chồng chia lìa là
chuyện thường xuyên xảy ra.
Trong thời đại lịch sử đầy biến động của thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc
đã đặt ra cho các nhà tư tưởng những dấu hỏi lớn về mặt triết học, chính trị,

luân lý đạo đức, pháp luật, quân sự… đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có những
tìm hiểu, nghiên cứu để đưa ra những câu trả lời, đưa ra những giải pháp
nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội lúc bấy giờ. Thời kỳ này đã
xuất hiện hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và học thuyết lớn. Nó là thời kỳ phát
7


triển rực rỡ của triết học Trung Quốc, nhiều nhà nghiên cứu gọi đây là thời kỳ
“bách hoa đề phóng, bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng).
Chính trong thời kỳ lịch sử có những biến động toàn diện và sâu sắc đó
làm nảy sinh ra hàng loạt các nhà tư tưởng nổi tiếng góp phần vào sự phát
triển của nền triết học Trung Quốc, trong đó có Khổng Tử với quan niệm về
giáo dục nhằm mục đích là dạy con người cho đến bậc “Nhân”.
1.1.2. Khổng Tử và triết học Nho gia
Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nho”. Theo
Hán tự “nho” là chữ “nhân”(người) đứng cạnh chữ “nhu” (cần, chờ đợi). Nho
gia còn gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách thánh hiền được thiên hạ cần
để dạy bảo người đời ăn ở cho hợp luân thường đạo lý. Trước thời Xuân thu,
nhà nho được gọi là “sỹ”, chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị vì
đất nước. Đến đời mình, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tư tưởng và tri
thức trước đây thành học thuyết, gọi là Nho gia hay Nho học. Người ta cũng
đã gắn học thuyết này với tên tuổi người đã sáng lập ra nó, gọi là Khổng học
[2].
Khổng Tử (551- 479 trước Công nguyên) tên Khâu, tự Trọng Ni, người
làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ ( tỉnh Sơn Đông ngày nay). Sống vào thế
kỷ thứ VI trước Công nguyên, ông đã chứng kiến cảnh loạn lạc triền miên của
xã hội Trung Hoa, cảnh các chư hầu đua nhau tranh hùng tranh bá,“bá đạo”
nổi lên lấn át làm cho “vương đạo suy vi”, cuộc sống của nhân dân bị đảo lộn,
danh thực không rõ ràng, thiện ác khó phân biệt, một xã hội vua không phải

đạo vua, quan không phải đạo quan, cha không phải đạo cha, con không phải
đạo con. Trong hoàn cảnh xã hội không được ổn định về mọi mặt, Khổng Tử
đã đưa ra quan niệm về giáo dục của mình với mong muốn là làm ổn định và
khôi phục lại trật tự lễ nghĩa tông pháp của nhà Chu [5].

8


Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là “Thuật nhi bất tác”
(Thuật Nhi 1) [6], nghĩa là một người truyền đạt lại cái đã có mà không phát
minh ra thứ gì khác. Ông rất nhấn mạnh tầm quan trọng của sự học, và
chương mở đầu Luận Ngữ cũng đề cập tới việc học. Vì thế ông được người
Trung Quốc coi là vị Đại Sư. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang
tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải
suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ
yếu thông qua các cuốn kinh và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như
Kinh Xuân Thu) [5].
Suốt cuộc đời, nhà hiền triết đã dùng thực tiễn và sự tìm tòi khổ luyện
để cống hiến cho đời biết bao tư tưởng giáo dục sáng ngời. Nhan Hồi học trò
xuất sắc của Khổng Tử khẳng định: “Đạo của thầy trông lên, càng trông càng
thấy cao, đục vào, càng đục càng thấy rắn” (Luận Ngữ). Người đời sau còn
nói: “Đạo của thầy truyền đi khắp bốn phương, truyền đến muôn đời không
dứt”.
Việc giáo dục con người của Khổng Tử lấy đức dục làm gốc, lấy trí dục
làm ngọn. Cái gốc có bền chặt thì cái ngọn mới tươi tốt. Có đức dục thì nghĩa
lý ngấm vào lòng người ta, làm cho tự mình bỏ được cái bụng gian tà. Dẫu
người ta không hoàn toàn thực hành cái đạo của thánh hiền nhưng cũng gây
được những nền nếp tốt.
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử tuy có mặt còn hạn chế bởi xã hội
đương thời nhưng đã để lại cho đời sau nhiều câu nói bất hủ, với những quan

điểm mà đến nay trong vấn đề giáo dục con người, đối nhân xử thế ở gia đình
và ngoài xã hội cần phải noi theo.
Nhìn một cách tổng thể, mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là bồi dưỡng
người “nhân”, “quân tử” để ra làm quan, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, “khôi
phục lễ” phục vụ cho mục đích chính trị. Về mặt quan điểm giáo dục, phương
pháp dạy học của Khổng Tử có nhiều tư tưởng tiến bộ. Những tư tưởng đó đã
ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của học thuyết giáo dục cũng như sự
9


nghiệp giáo dục Trung Quốc và các nước khác sau này. Các nhà Nho làm
nghề dạy học đã kế thừa tư tưởng của Khổng Tử để phát triển nền giáo dục.
Vì thế, có thể khẳng định rằng Khổng Tử thật sự là một nhà giáo dục kiệt xuất
đương thời.
1.2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Khổng Tử rất coi trọng giáo dục. Ông khẳng định, ai cũng cần phải
được giáo dục: Vua cũng cần phải học để làm vua, dân cũng cần phải học để
làm dân. Nếu không được giáo dục thì dù có giỏi đến đâu dần dần cũng sẽ bị
ngu muội. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng có thể nói Khổng Tử là người đầu
tiên đã xây dựng được một hệ thống tư tưởng giáo dục khá hoàn chỉnh cả về
mục đích, đối tượng, nội dung và phương pháp. Thể hiện một tầm nhìn chiến
lược và sâu sắc, để lại cho loài người nhiều kinh nghiệm quý báu về giáo dục.
1.1. Vai trò, đối tượng, mục đích giáo dục
1.1.1.Vai trò
Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa tối quan trọng đối với mọi
người trong xã hội nói chung và từng cá nhân nói riêng. Đối với xã hội nếu
giáo dục tốt cho mọi người thì sẽ tác động trực tiếp vào việc thực hiện lẽ công
bằng trong xã hội đến tôn ti trật tự, tác động đến cuộc sống sinh hoạt của cộng
đồng. Đối với cá nhân thì giáo dục có ý nghĩa quyết định trong việc giáo hóa
và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân để giúp ích cho xã hội. Vì vậy, nếu

mọi người được giáo dục tốt về nhân, lễ, trí, dũng thì nó sẽ có tác dụng chi
phối và điều hòa tốt các mối quan hệ xã hội của mỗi con người, làm cho xã
hội ổn định về mọi mặt, thần dân trăm họ sống trong cảnh thanh bình.
Theo Khổng Tử, tính thiện tính ác của mỗi con người trong xã hội là do
con người quyết định. Nên ông có chủ trương “Tính tương cận giã, tập tương
viễn giã” (Dương Hóa 2) [6], nghĩa là con người ta sinh ra với bản tính tự
nhiên là tính thiện, là giống nhau nhưng do môi trường tập nhiễm, do quá
trình giáo dục khác nhau, do nhận thức khác nhau mà thành ra xa nhau. Vì
giáo dục là yếu tố đầu tiên để con người ta tiếp cận với mọi người trong các

10


mối quan hệ xã hội được hài hòa cho nên giáo dục có ý nghĩa hai mặt của nó.
Nếu người nào được giáo dục thấu đáo về cái lễ, cái nghĩa của người quân tử
hay của bậc trí nhân thì sẽ trở thành người thiện, người quân tử như các bậc
quân vương vua Nghiêu, vua Thuấn. Còn những kẻ nào không được giáo dục
nhân đức mà học theo cái đạo tặc của những kẻ quân vương vô đạo thì sống
sẽ làm hại cho dân, khi chết sẽ làm ô danh sử sách như vua Kiệt nhà Hạ, vua
Trụ nhà Thương.
Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa trọng yếu phi thường trong
việc cải tạo nhân tính con người. Theo ông, không có một nhà thiên tài lỗi lạc
nào trở thành được nhân tài mà không trải qua sự uốn nắn rèn rũa của giáo
dục. Trong cuộc đời dạy học của mình, Khổng Tử đã dùng giáo dục để giáo
hóa con người giúp họ trở thành con người hoàn thiện. Ông cho rằng một con
người hoàn thiện không chỉ là một con người phát triển về mặt thể chất mà
còn phải phát triển cả trí và đức, lấy cái đức cá nhân làm đầu cho suy nghĩ,
lấy cái trí cái dũng mà giúp cho hành động. Muốn được như vậy thì cần phải
có giáo dục, vì giáo dục có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội
nói chung và với con người nói riêng.

Chính vì sống trong một xã hội loạn lạc, nhân luân bị xáo trộn, vinh
nhục không rõ ràng, thiện ác khó phân biệt - một xã hội vua không ra vua,
quan không ra quan, cha không ra cha, con không ra con nên Khổng Tử rất
quan tâm đến vai trò của giáo dục cả về đức, trí, dũng đối với mỗi con người
trong xã hội.
1.1.2.Đối tượng giáo dục
Là một nhà giáo dục lớn, Khổng Tử chủ trương dạy cho tất cả mọi
người không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo, chủng tộc. Khổng Tử nói: “Tự
hành thúc tu dĩ thượng, ngô vị thường vô hối yên” (Thuật Nhi 7) [6], nghĩa là:
kẻ nào xin nhập môn, tự mình làm lễ mà dâng lên một thúc nem; thì chẳng
bao giờ ta chê lễ mọn mà chẳng dạy.

11


Đó chính là chủ trương “hữu giáo vô loại” (Vệ Linh Công 38) [6]
tương đối tiến bộ của nhà giáo họ Khổng.
Mặt khác Khổng Tử lại cho rằng có những hạng người khác nhau, có
những hạng người được chia theo địa vị xã hội và nhân cách con người (quân
tử, kẻ sĩ và tiểu nhân), có những hạng người lại được phân biệt bằng năng lực
nhận thức (thượng trí, trung nhân, hạ ngu). Tùy theo từng đối tượng khác
nhau mà dạy cho họ biết ở những mức độ khác nhau.
Khi đưa ra quan điểm về đối tượng giáo dục, ở điểm này, Khổng Tử đã
rơi vào mâu thuẫn với chính nhận thức của mình, khi ông vừa chủ trương
“hữu giáo vô loại” tức là không phân biệt địa vị xã hội, không phân biệt ranh
giới đẳng cấp với đối tượng giáo dục, thì mặt khác ông lại chia đối tượng giáo
dục. Trong đó có loại cần học và loại không cần học. Khổng Tử nói: “Trung
nhân dĩ thượng, khả dĩ ngữ thượng dã, trung nhân dĩ hạ, bất khả dĩ ngữ
thượng dã”(Ung Dã 19) [6], nghĩa là người có tư chất từ bậc trung trở lên có
thể dùng đạo lý cao xa để dạy họ, còn người có tư chất từ bậc trung trở xuống

thì không thể dùng đạo lý cao xa để dạy bảo cho họ được. Như vậy, vô hình
chung có lúc ông đã thừa nhận rằng: đức tính, tri thức của con người là tiên
thiên vốn có. Cho nên, bậc thượng trí và kẻ hạ ngu không thể dời đổi được
bởi vì tính của họ là do thiên ý quy định về mọi mặt, chứ không phải do giáo
dục mà nên. Vì thế, giáo dục có thể cải hóa tất cả, trừ những người được gọi
là kẻ thượng trí và hạ ngu.
Như vậy có thể nói, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt, mang
tính chất bình đẳng và hết sức tiến bộ, nhưng mặt khác, nó không vượt qua
được hạn chế bởi tầm nhìn lịch sử và bởi tính chất hết sức nghiệt ngã của chế
độ phong kiến.
1.1.3.Mục đích giáo dục
Theo Khổng Tử giáo dục có ba mục đích chính là: học để hành đạo
giúp đời; học để rèn luyện phẩm chất đạo đức, hoàn thành nhân cách; học để
tìm tòi chân lý.
12


Theo sách Luận Ngữ thì mục đích giáo dục cao nhất của Khổng Tử là
bồi dưỡng người “nhân”, “quân tử” để ra làm quan tham gia gánh vác các
công việc quốc gia, để giữ cho kỷ cương xã hội được ổn định, để điều hòa
mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ” thực hành chủ nghĩa cải lương, tức là thực
hành chủ trương chính trị của ông. Vì theo ông thông qua quá trình giáo dục,
con người mới có thể lĩnh hội và tiếp thu các tri thức của nhân loại và có cơ
hội tham gia vào các hoạt động thực tuyển, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Mặt khác khi ra làm quan phải đem theo cái đạo trượng phu để răn đe kẻ
dưới, lấy cái trí cái dũng của người quân tử mà giúp dân giúp nước. Muốn
được như vậy, người quân tử phải tu nhân tích đức, không ngừng học hỏi để
trau dồi tri thức, lấy cái đức của mình để làm gương cho dân, đem hiểu biết
của mình truyền cho dân biết. Có như thế, trên dưới mới được rõ ràng, muôn
dân mới được thuận lòng hưởng ứng; trên vua thuận lòng trời, dưới ắt thiên hạ

sẽ được bằng an.
Mục đích cơ bản thứ hai của việc học, theo Khổng Tử là hoàn thành
nhân cách. Ông cho rằng: “Cổ chi học giã vị kỷ, kim chi học giã vị nhân”
(xưa kia kẻ đi học chỉ lo vì mình, ngày nay kẻ đi học còn lo vì người). Cho
nên, mọi người trong xã hội phải biết chú ý học tập rèn luyện mình trong cái
đạo nhân, có như thế nhân cách của mình mới hoàn thiện được.
Khổng Tử còn đưa ra mục đích của giáo dục là đi tìm tòi chân lý trong
giáo dục chứ không phải học chỉ để cầu danh cầu lợi. Học để nhận thức đúng,
tránh sai lầm, không bị che lấp. Tức là trong quá trình lĩnh hội tri thức con
người phải tìm ra cái đạo lý, tu sửa cái đạo lý “Tu đạo chi vị giáo” (Trung
Dung) [11]. Quá trình con người học tập tìm tòi cái chân lý ở chính hoạt động
của mình cũng chính là quá trình con người đang tự cảm hóa nhân cách của
mình và điều hòa trật tự xã hội.
Đây là ba mục đích tương đối tiến bộ. Trong quá trình giáo dục, nếu ba
mục đích này được thống nhất với nhau thì có thể nói đây là một quan điểm
triết học về giáo dục có tính thực tiễn ở mọi thời đại.
13


1.2.2. Nội dung giáo dục của Khổng Tử
Khổng Tử là một nhà giáo dục tài ba lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại, ông
được nhân dân Trung Quốc tôn là “Vạn thế sư biểu” (Người thầy của muôn
đời). Chính vì thế trong tư tưởng triết học của ông thì tư tưởng giáo dục được
nổi lên với rất nhiều nét tiến bộ. Nó ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội đương
thời. Khổng Tử xem giáo dục là vấn đề quan trọng nhất của xã hội vì nó có
mục đích lấp bằng sự phân chia giai cấp, là yếu tố quyết định trong sự thi
hành chủ trương đức trị, đức hóa nhân trị. Ông chủ trương lấy giáo dục để
phát triển nhân cách của mọi người và lấy nhân cách làm gương mẫu để trị
dân.
Khổng Tử chủ trương lấy đức dục làm gốc, trí dục làm ngọn, cái gốc có

bền chặt thì cái ngọn mới tươi tốt. Người quân tử trước hết phải là người có
phẩm giá cao, có học vấn rộng.
Nho gia thực hiện phương châm: tiên học lễ, hậu học văn. Trước hết là
học làm người. Nhà Nho không trọng trí hơn đức, vì theo họ, người có trí
khôn ngoan đủ điều nhưng không có đức dục để rằng buộc thì không khác
nào đàn thú với nhau.
Xuất phát từ quan niệm bản tính con người là ngay thẳng, là thiện; cũng
như quan niệm cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên”
là ở con người. Do con người không có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà
Khổng Tử nói đến ở đây thực chất là đạo đức của con người hay “đạo làm
người”. Con người không có “đạo” mới dẫn đến chuyện tranh giành quyền
lực, địa vị, đất đai, chém giết lẫn nhau làm cho kỷ cương phép tắc đảo lộn,
làm cho xã hội rối loạn. Để cho xã hội trở lại thanh bình, theo Khổng Tử phải
làm cho con người có “đạo”, làm theo “đạo”. Trong đó, nội dung giáo dục cốt
lõi nhất, quan trọng nhất là Nhân, Lễ và Chính danh định phận.
Nhân vốn là một phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân,
Thương, bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu con người,
làm lợi cho đất nước, che chở cho dân,…nhưng những nội dung đó chưa trở
14


thành một hệ thống chặt chẽ mà là những nội dung riêng rẽ. Khổng Tử đã kế
thừa tư tưởng Nhân của người trước, đồng thời bổ sung cho Nhân những nội
dung mới, biến nó trở thành một hệ thống chặt chẽ, rộng lớn bao trùm tất thảy
các phạm trù khác như Trung thứ, Trí, Dũng, Nghĩa, Hiếu đễ, Khoan thứ,…
và chứa đựng toàn bộ tư tưởng của ông về đạo trị nước an dân, đạo làm
người.
Nhân trong tư tưởng Khổng Tử đó là yêu người. Nhân còn có nghĩa là
Trung thứ. Tức là cái gì mà mình muốn làm thì cũng phải giúp người khác
được như vậy. Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn trong gia

đình. Hiếu là tiêu chí của con cái đối với cha mẹ. Đễ là tiêu chí của người em
đối với anh chị và người lớn tuổi. Khổng Tử xem Hiếu đễ là cái gốc của
Nhân. Đức Nhân là bậc thang giá trị cao nhất trong thang bậc đạo đức của con
người. Theo Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an
vui lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có
thể yên ổn, thanh thản.
Đối với lễ tế, Khổng Tử khẳng định lễ tế rất quan trọng đối với người
quân tử, nếu biết lễ tế thì việc cai trị thiên hạ hết sức dễ dàng, giống như bỏ
một vật lên tay mình: “Người nào biết ý nghĩa của cuộc tế lễ thì trị thiên hạ
cũng như coi bàn tay mình” (Bất tri giã tri kỳ thuyết giả chi ư thiên hạ giã, kỳ
như thị chư tư hồ. Chỉ kỳ chưởng) (Bát Dật 11) [6]. Do vậy, Khổng Tử dạy
học trò phải có sự kính cẩn, nghiêm túc, cẩn thận trong khi hành lễ. Nội dung
quan trọng nhất của Lễ mà Khổng Tử giáo dục học trò là pháp điển của chế
độ phong kiến. Khổng giáo dùng lễ cốt để tạo ra một thứ không khí lễ nghĩa,
khiến người ta có cái đạo đức, tập quán làm điều lành, điều phải một cách tự
nhiên. Giáo dục lễ còn giữ cho tình cảm hợp đạo trung, làm tiêu chuẩn cho
hành vi. Khổng Tử nói: “Cung nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tỉ, dũng nhi
vô lễ tắc loạn, trức nhi vô lễ tắc giảo” (Thái Bá 2) [6], nghĩa là: cung kính mà
không có lễ thì phiền, cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ hãi, dũng mà
không có lễ thì loạn lạc, trực mà không có lễ thành ra vội vã. Lễ còn để phân
15


định trật tự khiến vạn vật không hỗn độn. Người giàu sang biết lễ thì không
dâm tà, không kiêu căng; người bần tiện biết lễ thì không nản chí, không làm
bậy. Làm vua biết lễ thì mới biết trị nước yên dân.
Ngay từ đầu, mục đích của Khổng Tử là biến xã hội từ “loạn thành trị”
cho nên việc giảng dạy Lễ của Khổng Tử cũng không nằm ngoài mục đích
chính trị mà ông theo đuổi. Khổng Tử giáo dục học trò cách thức và biện pháp
để có thể khôi phục và củng cố lễ chế nhà Chu. Khổng Tử là người đã đem lễ

tiết nhà Chu cải biến thành một phạm trù đạo đức được coi là mực thước cho
các hành vi của con người trong xã hội.
Một nội dung quan trọng nữa trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử là
tư tưởng “Chính danh định phận”. Người Trung Quốc quan niệm nước là cái
nhà lớn, nhà là nước thu nhỏ (quốc gia). Vậy nên muốn làm cái lớn thì phải từ
cái nhỏ. Hiếu đễ là gốc của đạo nhân, gốc ở gia đình. Nội dung giáo dục gia
đình có nhiều, nhưng chủ yếu là giáo dục chính danh. Con em làm đúng phận
vị trong gia đình thì mới làm tốt phận vị trong xã hội. Trong gia đình phận vị
ông cha, con cháu, anh em, vợ chồng phải rõ ràng. Mỗi người phải tu thân, tề
gia rồi mới trị quốc bình thiên hạ. Thực hiện chính danh từ gia đình làm cơ sở
cho chính danh toàn xã hội.
Bên cạnh việc giảng dạy đạo lý, đạo làm người, Khổng Tử còn dạy học
trò văn chương và lục nghệ. “Văn” là gồm thi, thư, lễ, nhạc, xuân thu; còn
“Lục nghệ” là nội dung chương trình các trường công lúc bấy giờ gồm sáu
môn: lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán pháp).
“Văn” không chỉ là văn chương mà bao gồm cả nghệ thuật và tri thức lịch sử
văn hiến nói chung. Học văn là để hoàn thiện đạo người, suy nghĩ, hành động
hợp đạo trời.
Tóm lại, nét nổi bật trong nội dung giáo dục của Khổng Tử là chú trọng
những vấn đề thiết thực của đời sống. Hướng con người vào hiện thực là quan
điểm rất tích cực “Vi năng sự nhân, yên năng sự quỷ”, nghĩa là đạo thờ người
còn chưa biết sao nói đến đạo thờ quỷ thần (Tiên Tiến 11) [6]. Tuy nhiên,
16


giáo dục của Khổng Tử quá thiên về tinh thần, đạo đức, văn chương, chính trị
mà bỏ qua lĩnh vực sản xuất vật chất, rơi vào duy tâm phiến diện.
1.2.3. Phương pháp giáo dục con người
Khổng Tử coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn mạnh vai trò của việc
suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của bản thân người học, kết hợp học và hành, thấy

được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học: “Kẻ nào không cố
công tìm hiểu ta chẳng dạy cho, kẻ nào không bộc lộ được tư tưởng của mình,
ta chẳng khai sáng cho, kẻ nào ta bày một mà không biết hai, ta chẳng dạy
nữa” (Thuật Nhi 8) [6]. Ông luôn khuyên mọi người học phải nghe nhiều rồi
chọn điều hay mà theo, thấy nhiều để xét rõ cái hay cái dở mà nhớ lấy, đó là
điều quan trọng để trở thành trí giả.
Cách học của ông là: "Mặc nhi thức tri, học nhi bất yếm", nghĩa là lặng
lẽ mà ghi nhớ lấy, học mà không chán (Thuật Nhi 2) [6]. Người học phải tạo
được hứng thú trong việc học thì sự học mới không chán. Khổng Tử cho rằng
“Biết mà học không bằng thích mà học; thích mà học không bằng vui say mà
học” (Ung Dã 18) [6].
Đối với người học phải học tất cả các tầng lớp người trong xã hội, ai
cũng có điều hay điều dở, vậy ta hãy học điều hay của họ thậm chí phải học
kể cả kẻ dưới mình: "Học bất xỉ hạ vấn" (Không thẹn học người dưới).
Thầy - trò phối hợp đồng bộ: Việc học không chỉ là học cho trò mà còn
là cơ hội để thầy cũng học nên ông đưa ra học thuyết: "Giáo học bán" (Việc
dạy và việc học, mỗi người một nửa). Người thầy đưa ra một vấn đề, học trò
phải lật ngược vấn đề trở lại thành 3 vấn đề (Cử nhất phản tam). Người thầy
đưa ra 1 mệnh đề người học phải ít nhất suy ra 3 vấn đề để nhận thức. Học
như vậy mới sâu sắc.
Theo quan niệm của Khổng Tử, người dạy học phải thật tâm huyết với
sự nghiệp giáo dục nên mới: "Hối nhân bất quyện" (dạy người không chán).
Khổng Tử được tôn xưng là: "Vạn thế sư biểu" nên những học thuyết về giáo

17


dục, học vấn trên đây cho đến ngày nay vẫn còn có nhiều điều rất phù hợp để
chúng ta áp dụng học theo.
Trong quá trình dạy học rất nhiều năm của mình, Khổng Tử đã sử dụng

rất nhiều phương pháp, nhưng có một số phương pháp cơ bản như sau:
Phương pháp dạy tùy đối tượng: Đây chính là phương pháp sau này
được Nho giáo khái quát thành tư tưởng “Nhân tài thì giáo”, tức là căn cứ vào
tài năng, phẩm chất từng người để giáo dục. Đối tượng giáo dục của Khổng
Tử rất khác nhau: có người nhiều tuổi, người ít tuổi, có người giàu, có người
nghèo, có nhiều người có tính cách và xu hướng chính trị khác nhau.
Phương pháp kết hợp học với suy nghĩ: Trong quá trình dạy học,
Khổng Tử luôn khích lệ học trò tự suy nghĩ, người thầy chỉ giữ vai trò hướng
dẫn. Có như vậy học trò mới phát triển được: “Học nhi bất tư, tắc võng; tư nhi
bất học, tắc đãi”, nghĩa là học mà chẳng suy nghĩ thì chẳng được thông minh.
Suy nghĩ mà chẳng chịu học thì lòng dạ không được yên ổn (Vi Chính 15) [6].
Học phải suy nghĩ, không học vẹt. Suy nghĩ phải tránh 4 điều: không tư ý,
không chắc trước, không cố chấp, không vì riêng mình. Khổng Tử đòi hỏi học
trò phải suy nghĩ, phải phán đoán học một biết mười "Nhất dĩ quán tri". Học
mà không suy nghĩ thì mờ mịt không hiểu, nhưng có suy nghĩ mà suy nghĩ
viển vông không có mục đích nhất định, không đi đôi với sự học thì nguy
khốn. Vì thế, Khổng Tử đã tìm cách xóa bỏ sự thụ động của ngưởi tiếp thu tri
thức, ông nói:“Kẻ nào không cố công tìm hiểu ta chẳng chỉ vẽ. Kẻ nào không
bộc lộ được tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy một mà
không biết hai, ta chẳng dạy nữa” (Thuật Nhi 8) [6]. Khổng Tử còn cho rằng
trong quá trình học ai không biết tự hỏi: “Ta phải làm sao? Ta phải làm bằng
cách nào? Thời chẳng thể dạy cho thành đạt” (Vệ Linh Công 15) [6]. Ông bắt
học trò phải suy nghĩ, nghiền ngẫm, học mà không suy nghĩ thì vô ích. Suy tư
mà không học thì kết quả bằng không. Ông thường tâm sự: “Trước đây ta
trầm mặc tư tưởng đến trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ mà cái lợi quả
chẳng đáng là bao” (Vệ Linh Công 30) [6].
18


Khổng Tử nói rằng: “Ôn cố tri tân, khả dĩ vi sư hĩ” (Vi Chính 11) [6],

nghĩa là người nào ôn lại những điều đã học từ đó mà biết thêm những điều
mới, người ấy có thể làm thầy thiên hạ. Đây là phương pháp học tập của
Khổng Tử mà ông nói với các học trò. Ôn lại những điều đã học một mặt có
thể là không quên những kỹ năng đã có, mặt khác lại là trong quá trình ôn tập
cũng có thể đạt được những ý niệm mới và những phát hiện mới. Con người
cần phải không ngừng tiếp thu tri thức mới thì mới không bị lạc hậu. Tri thức
mới cần phải lấy việc ôn cái cũ mà giữ lại. Có như thế người học mới có thể
mở mang thêm được kiến thức, mới có thể trở thành tài giỏi được và mới có
thể giúp dân được. Theo ông người học phải học nữa, học mãi, học không
ngừng. Học điều xưa để áp dụng cho thời nay, đó là người khéo vận dụng tri
thức. Đạo lý của việc học là: không phải chỉ đọc sách chết mà phải chú trọng
trong hiện thực xử thế con người.
Phương pháp kết hợp học với tập: là phương pháp kết hợp học với việc
tập luyện, thực hành những điều đã học và đem tri thức đã học vận dụng vào
cuộc sống. Ông dạy học trò phải luôn luôn luyện tập và không được quên
những điều đã học được. “Học nhi thời tập chi” (học phải thực tập luôn luôn)
(Học Nhi 1) [6].
Phương pháp học kết hợp với hành: Khổng Tử yêu cầu học trò học phải
gắn với hành, tức là phải vận dụng những kiến thức đã học vào trong cuộc
sống. Tri thức lý luận chỉ mới nêu ra những nguyên tắc định hướng còn thực
hành mới giúp cho người học đạt đạo. Những điều gì học được phải đem thực
hành để giúp ích cho đời. Biết mà để đó cũng giống như không biết và cái biết
đó là một điều vô ích. Biết điều phải mà không làm thì cái biết đó chẳng có
ích gì cho xã hội. Hơn nữa, khi ta học được điều hay mà không đem ra phổ
biến và thực hành thì cái học của ta cũng mai một đi. Chính vì thế mà việc
học ở các nước tân tiến đều đi từ kiến thức tới thí nghiệm, trắc nghiệm, áp
dụng, rồi thi hành, và cuối cùng đánh giá và rút ra ưu khuyết điểm để cải tiến
nhằm giúp ích cho đời sống con người tốt đẹp hơn.
19



Phương pháp nêu gương: Theo Khổng Tử, nhân cách của người thầy có
sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người học, người học nhìn vào tấm gương
người thầy mà tin rằng những điều thầy dạy là chân lý, là những điều tốt đẹp.
Cho nên, để trở thành tấm gương cho học trò thì người thầy phải là người phải
đi trước. Chính Khổng Tử là tấm gương suốt đời học tập. Ông tự nói học
không biết chán, dạy người không biết mỏi. Cuộc đời của Khổng Tử là một
đời ham học cầu tiến, thể hiện rõ rệt một phẩm cách tinh thần cứng cỏi, truy
cầu không mệt mỏi. Đi đâu Khổng Tử cũng học, học thầy học bạn học mọi
người. Ông nói: “Trong ba người cùng đi tất có người là thầy ta”(Thuật Nhi
21) [6], “Sáng sớm tiếp cận được chân lý, cho dù buổi tối có chết, trong lòng
đã được thỏa mãn” (Lý Nhân 8) [6].
1.4. Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
Mặc dù tư tưởng giáo dục của Khổng Tử có ảnh hưởng lớn đối với sự
phát triển của Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác, những ảnh hưởng đó
không đơn thuần mang tính tích cực mà bên cạnh đó có những hạn chế.
Về mục đích giáo dục: như đã trình bày ở trên, mục đích giáo dục bao
trùm của Khổng Tử là nhằm đào tạo những con người phù hợp với địa vị xã
hội mà mình có, nghĩa là sống đúng với danh của mình. Nếu tầng lớp thường
dân được giáo dục để biết phục tùng người trên, thì người quân tử được giáo
dục để làm người cai trị. Trong đó, Khổng Tử ưu tiên cho mục đích đào tạo
lớp người cai trị.
Về đối tượng giáo dục: với tư tưởng “hữu giáo vô loại”, có thể nói,
Khổng Tử là người đầu tiên chủ trương “bình dân” trong giáo dục. Ông đã
vượt qua đẳng cấp, danh phận trong xã hội góp phần đưa sự nghiệp giáo dục
con người đến với mọi lớp người ở mọi phạm vi và trình độ. Ông đã phá vỡ
đặc quyền của tầng lớp quan lại, quý tộc làm cho giáo dục mang tính chất phổ
cập bình dân.
Tuy nhiên, cũng còn nhiều điểm mâu thuẫn và hạn chế là: dù coi giáo
dục là bình đẳng giữa mọi người nhưng trong giáo dục Khổng Tử lại phân

20


biệt từng loại người khác nhau, từng trình độ khác nhau, đó là tư tưởng phân
chia đẳng cấp. Theo Khổng Tử, vị trí của phụ nữ là ở trong nhà và bếp núc, lo
nuôi sống và phục vụ gia đình. Đây cũng là hạn chế mang tính lịch sử trong tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử.
Với tư tưởng “hữu giáo vô loại”, Khổng Tử đã để lại trong lịch sử nhân
loại một quan niệm to lớn: mọi người đều có quyền được giáo dục và xã hội
cần giáo dục cho tất cả mọi người.
Về nội dung giáo dục: nội dung chủ yếu mà Khổng Tử muốn truyền
dạy cho mọi người là giáo dục “đạo làm người”. Trong bối cảnh hỗn loạn của
thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc khi trật tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị suy
đồi, nhân luân xáo trộn…thì việc Khổng Tử đưa ra nội dung giáo dục đạo đức
cho con người là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn nhằm thiết lập sự ổn
định của xã hội. Khổng Tử coi trọng dạy luân lý, đạo đức cho con người,
khiến con người sống hoà thuận. Nội dung cơ bản trong giáo dục Khổng Tử
còn chú trọng giáo dục trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình và
xã hội, chú trọng đến các giá trị tinh thần, danh dự, đạo đức và khí tiết.
Vì tư tưởng giáo dục của Khổng Tử được xây dựng trên cơ sở tư tưởng
triết học và học thuyết chính trị của ông, nó phục vụ đắc lực cho quan điểm
chính trị của Khổng Tử nên nó không thoát khỏi được màu sắc bảo thủ. Có
lúc ông khẳng định tri thức bẩm sinh là cao hơn tất cả, song có lúc ông lại
khẳng định tri thức bắt nguồn từ học tập, quan sát và suy nghĩ. Rõ ràng
Khổng Tử rơi vào tư tưởng nhị nguyên khi ông cùng lúc vừa thể hiện quan
điểm duy tâm, vừa thể hiện quan điểm duy vật tầm thường. Ông vừa cho rằng
tất cả mọi người có thể giáo dục được, có lúc ông lại cho rằng thượng trí và
hạ ngu là không thể giáo dục được. Ồng chưa tìm thấy động lực chủ yếu để
thúc đẩy xã hội phát triển, ông chủ trương phát triển xã hội nhưng lại không
dạy cho dân biết cách tham gia sản xuất mà chỉ dạy các tư tưởng đức nhân.

Cho nên, những học trò của ông phần lớn chỉ là những nhà cải lương chủ
nghĩa và những tư tưởng giáo dục đó không thể trở thành học thuyết được.
21


Về phương pháp giáo dục: Nhìn chung, trong phương pháp giáo dục
của Khổng Tử chứa đựng rất nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Chú trọng khơi
dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học thông qua phương pháp
thảo luận, tranh luận giữa thầy và trò là ưu điểm nổi bật trong phương pháp
dạy và học của Khổng Tử. Điểm tiến bộ tiếp theo trong phương pháp giáo dục
của Khổng Tử là phương pháp phân lớp các đối tượng trong quá trình dạy học
nhằm trang bị kiến thức phù hợp với khả năng của từng cá nhân để đạt được
hiệu quả cao nhất.
Tóm lại: Qua việc nhận thức những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình
thành tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, đặc biệt với việc đưa ra học thuyết
tính người - một trong những điểm xuất phát quan trọng để từ đó Khổng Tử
đưa ra các nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục từ mục đích, đối tượng
cho đến nội dung, phương pháp. Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng về
giáo dục Khổng Tử đã vượt ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc cùng với học thuyết
đức trị của ông đã có ảnh hưởng sâu đậm đến Việt Nam trong suốt thời kì
phong kiến cũng như trong giai đoạn hiện nay. Tư tưởng về giáo dục - đào tạo
của Khổng Tử, do hạn chế của thời đại lịch sử không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhưng xứng đáng là những đóng góp lớn lao cho nền văn hiến Trung
Quốc cổ - trung đại và cho các nước nằm trong phạm vi ảnh hưởng của văn
hóa Trung Quốc như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Khổng Tử được các
triều đại Trung quốc tôn là “Vạn thế sư biểu”, là “Đại thành Chí thánh Văn
Tuyên Vương” (thụy hiệu của Khổng Tử được phong thời Nguyên). Ở Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên đều có nơi tưởng niệm Khổng Tử.

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG TRIẾT HỌC

KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP ĐÀO TẠO CON NGƯỜI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

22


2.1.Thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
2.1.1. Thực trạng
2.1.1.1. Thành tựu
Song hành cùng những bước tiến của cả dân tộc, ngành giáo dục đã đạt
được những thành tựu hết sức lớn lao. Quy mô và mạng lưới của các cơ sở
giáo dục được phát triển, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập của toàn
xã hội. Chất lượng đào tạo đã có những chuyển biến ở tất cả các cấp học, các
trình độ đào tạo, công tác xã hội hoá giáo dục phát triển thu hút sự quan tâm
của tất cả mọi người dân.
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học
ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến
trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2004 - 2005, đã có hơn 22 triệu học
sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.
Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô
đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần
dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu
hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng
giáo dục tinh hoa.
Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất
lượng dạy và học, Nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng
của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu
tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005 với
cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm của ngành như đổi mới
chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi.

Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo
dục cơ bản và đang được triển khai với tổng vốn vay hàng trăm triệu USD.
Việt Nam cũng đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học
cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội,
điều kiện cho những trẻ có hoàn cảnh khó khăn được đi học. Dự án đã được
triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40 tỉnh trong cả nước với gần 15.000
điểm trường.
23


Bên cạnh đó, Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách công bằng trong
tiếp cận giáo dục thông qua các chương trình hỗ trợ, cho vay vốn đối với học
sinh nghèo, học sinh ở vùng sâu, vùng xa, trẻ em bị khuyết tật., đặc biệt đối
với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn. Trước hết là ưu tiên đầu tư theo
mục tiêu cho các địa bàn có nhiều khó khăn, phát hành công trái giáo dục để
hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây dựng trường học kiên cố, đạt
chuẩn chất lượng và thực hiện xoá đói giảm nghèo, thông qua đó tạo nhiều cơ
hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với dịch vụ giáo dục. Hệ thống các trường phổ
thông nội trú và bán trú được củng cố và mở rộng với 13 trường trung ương,
50 trường tỉnh, 266 trường huyện và 519 trường bán trú xã, cụm xã.
Công tác phổ cập giáo dục ở tiểu học và trung học cơ sở đã có những
bước tiến dài góp phần giảm tỷ lệ mù chữ trong độ tuổi trên cả nước. Năm
2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ
năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã đạt
gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy
chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc
thiểu số mù chữ giảm mạnh.
Phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các
vùng miền trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so
với phần lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc

phục những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi.
Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong
thập niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 (mục tiêu quốc gia đề
ra là đạt 97% vào năm 2005). Nếu như năm học 1997-1998, tỷ lệ học sinh
hoàn thành bậc tiểu học đạt 68% thì đến năm học 2004-2005, tỷ lệ này đã đạt
từ 99%-100% ở các vùng miền và tăng nhanh ở khu vực Tây Nguyên.
Có gần 120.000 trẻ khuyết tật học hòa nhập trong các trường phổ thông
và mầm non. Trong năm học 2003-2004, hầu hết các địa phương trong cả
nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật độ tuổi lớp 1 đi học hòa nhập
theo chương trình và sách giáo khoa mới.

24


Tất cả những con số nói trên cho thấy Việt Nam bước đầu đã tạo được
sự công bằng trong tiếp cận học tập cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc,
ở các vùng, miền và đặc biệt quan tâm tới những trẻ có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn.
Không chỉ quan tâm tới việc phổ cập tiểu học mà Nhà nước còn có sự
quan tâm đặc biệt tới giáo dục mầm non, bậc học tiền đề cho giáo dục tiểu
học. Bậc học này hiện đã được khôi phục sau một thời gian dài gặp khó khăn
ở nhiều địa phương. Những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối với giáo
viên đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của bậc học này trong mấy năm gần
đây.
Các trường lớp của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia,
tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương
đương với các nước khác trong khu vực. Hiện tại, cả nước đã có gần 500
trường mầm non, gần 3.200 trường tiểu học, trên 400 trường trung học cơ sở
và phổ thông trung học đạt trường chuẩn quốc gia.
Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên nói chung được chú trọng đặc biệt.

Mạng lưới trường sư phạm rộng khắp cả nước với 10 trường đại học sư phạm,
11 trường đại học đa ngành được nâng cấp từ cao đẳng sư phạm (trong đó chủ
yếu là đào tạo sư phạm), trên 80 trường cao đẳng tham gia đào tạo giáo viên.
Đặc biệt, những cuộc vận động như "hai không", "Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và "Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực" đã thực sự thổi một luồng gió mới vào đời sống giáo
dục ở nước ta, tạo đà cho sự thay đổi về chất của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Theo lời Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện
Nhân thì các cuộc vận động này nhằm "thiết lập lại môi trường sư phạm với 6
đặc trưng: trật tự kỷ cương, trung thực, khách quan, công bằng, tình thương
và khuyến khích sáng tạo, hiệu quả". Và thực tế, kết quả của các kỳ thi đã
chứng minh một cách sinh động rằng chúng ta đang học thật, thi thật. Những
thành tựu mà ngành giáo dục đã đạt được khẳng định vai trò quan trọng của
giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho

25


×