Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

phát huy nguồn lực con người ở việt nam hiện nay là yếu tố cơ bản để đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.07 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta có thể thấy rằng, không một dân tộc nào trên thế giới tồn tại và phát triển
lại không chú ý đến vấn đề con người, đặc biệt trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học - kỹ thuật, với nền kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa. Nguồn nhân lực của
mỗi quốc gia là nguồn lực quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự phát triển. Không
như các nguồn lực khác, nguồn lực lao động có một số đặc điểm riêng biệt mà các
nguồn lực khác không có. Các đặc điểm này biến nguồn nhân lực trở thành nguồn lực
vừa khó quản lý nhất, chi phí đầu tư cao nhất và cũng mang lại lợi ích cao nhất. Nó
được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của một quốc gia,
dân tộc.
Nguồn lực con người có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi quốc
gia. Việt Nam là một nước đang phát triển, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội cần phát huy có hiệu quả nguồn lực con người của đất nước. Sau hơn một năm gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới, với những thành tựu ban đầu đạt được, Việt Nam
đã chứng tỏ được khả năng của mình trong việc tận dụng các thời cơ để phát triển một
cách năng động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Việt Nam đang phải tiếp tục
vượt qua nhiều thách thức ngày càng trở nên gay gắt mà một trong số đó là phải xây
dựng nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước đang trong quá trình
đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Do đó, vai trò của nguồn nhân lực là rất lớn
và có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, để nguồn nhân lực của Việt Nam phát huy tốt vai trò chủ đạo trong quá
trình phát triển kinh tế thì vấn đề đặt ra là nguồn nhân lực phải đạt được các tiêu chuẩn
nhất định về chất lượng và số lượng. Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, vấn đề nguồn lực con người càng trở nên quan trọng hơn.
Việt Nam đang ở một giai đoạn quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, có thể nói đây là giai đoạn đạt được sự phát triển đỉnh điểm với sự
tăng trưởng và tiến bộ không ngừng. Chúng ta là những sinh viên của thế kỉ XXI, là
chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy, việc sử dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa
học làm nền tảng để phân tích và đánh giá những vấn đề còn đang tồn tại của quá trình
xây dựng phát triển kinh tế và đưa ra những giải pháp chủ yếu cho những vấn đề còn
tồn đọng là hết sức cần thiết. Đó là lí do em lựa chọn phân tích đề tài :” Phát huy


nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay là yếu tố cơ bản để đạt được mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.”

1
NỘI DUNG
I. Cở sở lí luận
1. Khái niệm nguồn lực con người
a) Quan niệm về con người và con người xã hội chủ nghĩa.
Muốn hiểu được khái niệm về nguồn lực con người, trước tiên chúng ta phải hiểu
được quan niệm về con người và con người xã hội chủ nghĩa.
• Quan niệm về con người
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể
xã hội, đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể “song trùng”
tự nhiên và xã hội, là sự kết hợn cái tự nhiên (sinh học) và cái xã hội. Hai yếu tố này
gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng tính xã hội và
cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế
giới tự nhiên mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con
người khác với con vật :”Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ của xã hội”.
Ngược lại, con người cũng không thể tồn tại một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã
hội con người mới có thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thỏa mãn những nhu cầu
trong cuộc sống. Trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận
thức về mình một cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về
mọi mặt, từng bước hoàn thiện nhân cách.
• Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả
những con người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã hộ chủ
nghĩa mang những nét đặc trưng riêng của chủ nghĩa xã hội, song còn chịu ảnh hưởng

không tí những tư tưởng, tác phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên quá trình xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết
liệt giũa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Con người xã hội chủ nghĩa vừa
là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản phẩm của quá trình
đó.
2
b) Khái niệm nguồn lực con người
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học-
công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là yếu tố quyết
đinh nhất. Bởi lẽ, những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lưc
con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý,
nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những yếu tố
đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở thành
nhân tố ”khởi động” và phát huy tác dụng khi kết hợn với nguồn lực con người.
Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng
đa dạng, phong phú và có khả năng nội sinh không bao giờ cạn. Nguồn lực con người
càng được sử dụng lại càng nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Với các lĩnh vực khoa học khác nhau chúng ta có thể hiểu nguồn lực theo những
cách khác nhau, nhưng nếu hiểu theo nghĩa chung nhất thì nguồn lực là một hệ thống
các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng và có mỗi quan hệ với nhau tạo nên sự
phát triển của sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là
những yếu tố ở trong con người có thể huy động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã
hội.
Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về nguồn lực con người. Ngân hàng Thế
giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề
nghiệp,.v.v ) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất
kinh doanh hay trong một hoạt động nào đó.
Qua các khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: nguồn lực con người là tổng thể
những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế
xã hội,.v.v tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng,

phát huy trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và trong những hoạt
động xã hội.
Khi chúng ta nói đến nguồn lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ
thể hoạt động sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội cũng như nói tới
số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng và chất lượng nguồn lực con người
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó
khăn cho phân công lao động xã hội và khiến cho chất lượng lao động bị hạn chế gây
khó khăn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực nâng cao
sẽ góp phần làm giảm sơ lượng người trong một đơn vị sản xuất kinh doanh hay giảm
số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao
hiệu quả hoạt động của một tập thể người trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn lực con
người có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó một cách hiệu quả
chúng ta cần có sự quan tâm ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và
phân công lao động xã hội đối với các lĩnh vực và thành phần kinh tế.

3
2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
a) Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta cần xem xét con người với tư cách là lực lượng
sản xuất và vai trò của nó trong quan hệ sản xuất.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lục
lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học-công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất
xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại
càng trở nên quan trọng hơn trong lực lượng sản xuất. Con người khi được làm chủ
những tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế
sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu
tố của quá trình sản xuất như huy động vốn, động viên khuyến khích người lao động
làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ nguyên liệu vật tư, do vậy, hiệu quả kinh doanh
sẽ tốt hơn. Ngày nay, vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở

nên quan trọng. Đó là lý do khiến cho các quốc gia thường rất quan tâm đến đào tạo,
bồi dưỡng độ ngũ cán bộ này.
Trong quán trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, người lao động đã trở thành những
người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ việc xây
dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong
quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy
nguồn lực con người, phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất nước
ngày càng giàu đẹp.
b) Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị
Từ khi giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo toàn xã hội thì con người đã
được giải phóng khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành người làm chủ đất
nước, nhân dân tự tổ chức thành nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị, khi người dân có tri thức, có
năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có đức có
tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh. Cán bộ nhà
nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách nhiệm của mình đối với
nhân dân sẽ hết lòng phụng sự nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, được
dân mến, dân yêu, dân tin, dân ủng hộ. Cán bộ tích cực tuyên truyền đường lối của
Đảng, phổ biến luật pháp của nhà nước đến nhân dân, làm cho dân hiểu dân tin, người
dân chủ động tích cực thực hiện đường lối đó, có ý thức tôn trọng luật pháp, thực hiện
những nghĩa vụ công dân, hiểu rõ quyền lợi của mình, kiên quyết đấu tranh với những
hiện tượng tiêu cực trong xã hội, làm tăng sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Có thể khẳng định, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân trong quá trình đấu tranh
bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù.
4
c) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa
Dưới chế độ chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong
đời sống văn hóa xã hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do nhà nước quản

lý nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho quàn chúng nhân
dân lao động. Mặt khác, quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp phần
xây dựng nên những công trình văn hóa, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ
thuật.
Một khi con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia
sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao. Những công trình văn hóa nghệ
thuật như vậy dễ đi vào lòng ngườ, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần hình thành
nhân cách cho mỗi con người trong xã hội. Con người có văn hóa cũng là những người
có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hóa tinh thần của đất nước, của nhân loại. Do
vậy, nếu mỗi con người có ý thức, năng lực thực hiện tốt công việc này thì những giá
trị văn hóa tinh thần, giá trị văn hóa vật chất của xã hội sẽ được bảo tồn lưu giữ và
nâng cao.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con người chúng ta có
điều kiện tiếp cận với nền văn hóa nhiều nước trên thế giới. Trình độ trí thức của mỗi
người về văn hóa sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tố đẹp của các dân tộc
khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc mình,
làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân.
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu sẽ tạo ra những đóng góp
xưng đáng cho sự phát triển khoa học của đất nước. Đảng và nhà nước ta luôn quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, tạo điều kiện để họ cống hiến hết khả năng trí
tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
d) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm: vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng xã
hội, thực hiện xóa đói giảm nghèo,.v.v Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi hỏi
chúng ta phải phát huy tốt vai trò nguồn lực con người.
Giải quyết việc làm là một vấn đề cấp thiết được xã hội quan tâm, vì có giải quyết
tốt vấn đề lao động và việc làm thì chúng ta mới phát huy được những thế mạnh của
đất nước, mới giải quyết tốt được những vấn đề xã hội khác. Song muốn giải quyết tốt
vấn đề lao động việc làm đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con

người từ nâng cao sức khỏe, trình độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý tới ý thức
chính trị cho người lao động.
Chính sách xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy
được trách nhiệm của mình, cố gắng nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự
đồng tình ủng hộ của toàn xã hội, sự trợ giúp của nhà nước,.v.v
5
Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất mà còn là
chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết
là lao động sản xuất, con người cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự nhiên phục vụ
cho mình và làm đẹp cho tự nhiên, đồng thời trong quá trình đó con người cải tạo
chính bản thân mình. Do vậy, phối hợp giữa các thành viên trong cộng đồng đó cũng
tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người để nhận thức cải tạo tự
nhiên và xã hội. Ngược lại, sự thiếu thống nhất, sự phối hợp không đồng bộ của các
thành viên trong xã hội cũng sẽ làm giảm đi, thậm chí triệt tiêu cả động lực phát triển
tự nhiên và xã hội.
Nguồn lực con người, xét về mỗi cá nhân còn là yếu tố tiềm năng cấu thành con
người có thể khai thác. Nhưng hiệu quả việc phát huy nguồn lực con người lại tùy
thuộc vào chế độ xã hội, tùy thuộc váo cách tổ chức xã hội, phụ thuộc vào năng lực và
nghệ thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ chế và chính sách xã hội.
Nguồn lực con người không được khai thác và phát huy là lãng phí lớn nhất. Đặc biệt
là với đội ngũ trí thức, càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng làm cho trí tuệ của họ
càng đa dạng , phong phú và sâu sắc hơn. Nước ta đang là một nước nghèo, kinh tế
kém phát triển thì việc phát huy nguồn lực con người để xây dựng đất nước càng trở
nên quan trọng và cấp thiết hơn.
II. Thực trạng nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người ở
Việt Nam trong những năm qua
1. Những thành tựu đã đạt được trong việc phát huy nguồn lực con người ở
Việt Nam trong những năm qua
Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn nhân lực trở thành vấn đề thời

sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Đất nước đang bước vào một thời kỳ
phát triển mới, những cơ hội và thách thức chưa từng có. Lúc này, nguồn lực con
người, đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Nghiên cứu về nguồn lực con người, thực chất là đề cập đến mặt số lượng và chất
lượng của nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của bất kỳ quốc gia nào cũng đều
được hình thành dựa trên quy mô dân số, mà trước hết là từ lực lượng lao động của
quốc gia đó, cụ thể là số lượng người đang trong độ tuổi lao động và có khả năng
tham gia lao động sản xuất.Chất lượng nguồn nhân lực là một sự tổng hợp, kết tinh của
rất nhiều yếu tố và giá trị cùng tham gia tạo nên. Trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản: thể lực,
trí lực và tâm lực.
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình thường,
có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực tiễn của con người,
có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động trong quá trình sản xuất
với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho con người có khả năng học tập
và lao động lâu dài.
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo thích
ứng với xã hội của con người. Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh thần, trình độ văn
hoá và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng những điều kiện vật
chất, tinh thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời là khả năng
định hướng giá trị hoạt động của bản thân để đạt được mục tiêu. Trí lực là yếu tố
chiếm vị trí trung tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi hoạt động, kể cả trong
việc lựa chọn các giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố khác trong
cấu trúc chất lượng nguồn nhân lực. Trí lực là yếu tố quyết định phần lớn khả năng
6
sáng tạo của con người, là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định
trong chất lượng nguồn nhân lực nói riêng và sự phát triển của nguồn lực con người
nói chung.
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn thiện
nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và sáng tạo
cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành động cụ thể của con

người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo ra động cơ bên trong của
chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người. Nói cách khác, tâm lực góp
phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí lực của con người với tư
cách nguồn nhân lực của xã hội.
Về số lượng, Việt Nam hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi dào so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới. Nguồn nhân lực của nước ta trong thời gian qua
đã tăng một cách đáng kể về mặt lượng do sự gia tăng dân số ở mức cao và liên tục
trong nhiều năm. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, dân số nước ta từ 59.872.000
người (năm 1986) lên 85.109.000 người (năm 2007); trong đó, lực lượng lao động từ
27.389.000 người (năm 1986) lên 44.194.000 người (năm 2007) , đứng thứ 2 trong
khu vực và đứng thứ 13 trên thế giới về quy mô dân số. Quy mô dân số đông và lực
lượng lao động dồi dào vốn được coi là một thế mạnh của nước ta, là yếu tố cơ bản để
mở rộng và phát triển sản xuất. Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của tiềm năng nguồn nhân
lực Việt Nam. Nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ
tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân trong độ tuổi từ 15 - 60 (độ
tuổi lao động) và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 54). Đây là yếu tố rất
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Về chất lượng, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở khu vực có tỷ lệ người
lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao. Sau hơn 20 năm đổi mới, lực
lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986)
lên gần 30% (năm 2007). Tỷ lệ lao động qua đào tạo theo các trình độ khác nhau tăng
từ 20% vào năm 2000 lên 31,5% vào năm 2007.So với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới, người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như:
thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ
năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan
trọng của nguồn nhân lực nước nhà trong quá trình hội nhập và tham gia thị trường lao
động quốc tế.
Việc chăm sóc sức khoẻ cho các tầng lớp nhân dân đã được xã hội
quan tâm. Những cơ sở khám chữa bệnh được xây dựng tới tận các xã, kể
cả miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên

nhiều so với trước đây. Thể lực của người Việt Nam đã được cải thiện hơn
trước. Trang thiết bị trong các bệnh viện, trong các cơ sở khám chữa bệnh
ngày một đầy đủ, ngày một hiện đại hơn đáp ứng nhu cầu của người dân.
Vào thập niên 80 của thế kỷ 20, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã
đưa ra cách tính toán rất chính xác từng tiêu chí, để đánh giá và xếp hạng trình độ phát
triển của các nước trong Liên hợp quốc theo hệ tiêu chí phát triển con người (viết tắt là
HDI) gồm một tiêu chí về thu nhập quốc dân đầu người (GDP/đầu người) và 2 tiêu chí
về năng lực con người (giáo dục và sức khỏe), nhấn mạnh ý tưởng coi con người là
7
nguồn lực vô tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Từ năm 1990 đến nay, UNDP hằng năm công bố báo cáo phát triển con người. Báo
cáo của Việt Nam được xuất bản năm 2001, với chủ đề Ðổi mới vì sự nghiệp phát triển
con người, đã được đánh giá cao, được Liên hợp Quốc bình chọn tặng thưởng vào năm
2006.
Từ đó HDI đã trở thành công cụ xác định chiến lược phát triển của các quốc gia, thước
đo đánh giá trình độ phát triển hằng năm trên thế giới - đây thật sự là một thành quả
cực kỳ to lớn của chủ nghĩa nhân văn trong thời đại mới.Trong Ðại hội đại biểu toàn
quốc khóa IX (năm 2001) Ðảng ta đã đưa HDI thành chỉ tiêu quốc gia.
Các chỉ số HDI cơ bản được mang giá trị từ 0 đến 1; chỉ số giáo dục được coi là có
giá trị bằng 1, khi 100% số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết; bằng 0 khi 0%
số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ được coi là có giá trị
bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85 tuổi; bằng 0 khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi.
Chỉ số kinh tế được coi là có giá trị bằng , khi GDP bình quân đầu người đạt 40.000
USD (tính theo PPP - giá trị sức mua của đồng tiền); bằng 0, khi GDP bình quân đầu
người chỉ đạt 100 USD (tính theo PPP).
Bảng 1 : HDI của Việt Nam thời kì 1990 – 2007
Năm Chỉ số HDI của Việt Nam Xếp hạng trên thế giới
1990 0,608 74/130
1995 0,539 120/174
2000 0,671 108/174

2004 0,691 112/177
2005 1,704 108/177
2007 0,733 122/177
Nguồn: Báo cáo phát triển của UNDP công bố hằng năm
.
Ðiều đáng lưu ý là nhiều nước có thu nhập quốc dân đầu người cao hơn Việt Nam,
như In-đô-nê-xi-a (năm 2007: 1.940 USD), Ai Cập (năm 2007: 2.520 USD), Goa-tê-
ma-la (năm 2007: 2.400 USD), Na-mi-bi-a (năm 2007: 5.120 USD), Ga-bông (năm
2007: 5.990 USD), thậm chí GDP trên đầu người rất cao như Nam Phi (năm 2007:
11.290 USD) song do các chỉ số về tuổi thọ và giáo dục đều thấp, nên đã bị xếp ở
thứ hạng thấp hơn Việt Nam về phát triển con người (Việt Nam, năm 2007: 723 USD).
So với nhiều nước có cùng mức GDP, Việt Nam đi đầu về các chỉ số tuổi thọ, tỉ lệ biết
chữ ở người lớn. Xếp hạng tương ứng của Việt Nam ở hai chỉ số này là 56 và 57.
Nỗ lực trong giáo dục đã mang lại cho Việt Nam những kết quả nổi bật. Từ một
nước có tới 95% dân số mù chữ (1945), đến nay, tỷ lệ biết chữ ở Việt Nam là 91%
(2002). Kết quả đạt được trong việc xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đang được
duy trì và phát huy. Hiện nay, chủ trương phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang được
triển khai tích cực, đã có 20 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Một
số tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu thực hiện phổ cập
giáo dục bậc trung học phổ thông. Công tác giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa phát triển mạnh và đạt nhiều tiến bộ. Mạng lưới trường,
8
lớp về cơ bản đã bảo đảm cho học sinh các dân tộc được học ngay tại xã, thôn, bản của
mình.
Năm 2007, Việt Nam đứng thứ 122/177 nước: GDP/đầu người đạt 723 USD, tuổi
thọ tăng từ 63 tuổi (năm 1990) lên 72,5 tuổi (năm 2007), trình độ học vấn tính theo số
lớp trên đầu người tăng từ 3 - 4 lớp (trước 1990) lên 9 -12 lớp. Trong khi đó, nhìn vào
tổng tỉ lệ đi học tiểu học, trung học và đại học, Việt Nam xếp thứ 121, với 63,9%
người trẻ được tiếp cận với giáo dục. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục
được phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội Năm học 2007-2008, cả

nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng 2,86% so với năm học 2000-2001; trong
đó số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41
lần; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng 1,75 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học
trên một vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần.
. Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản đã xóa
được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường
trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các
huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa
bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây
Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có
trường nội trú và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số. Hiện nay, cả nước có trên
9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh
và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường đại học triển khai các chương trình
đào tạo từ xa. Ngoài ra, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến. Nội dung
dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã có tiến bộ, toàn diện hơn. Trình độ
hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học sinh, sinh viên được
nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng có hoài bão lập thân, lập
nghiệp và có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã có việc làm. Chất lượng đào tạo của
một số ngành đào tạo khoa học và công nghệ đã được nâng cao một bước.
Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về xoá
mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Đến
12/2007 Đến 7/2008, đã có 42/63 tỉnh, thành phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi; 42/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình của dân
số từ 15 tuổi trở lên là 9,6. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày càng
được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ
bản.
Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến

trường, giám sát, xây dựng cơ sở vật chất trường học, đầu tư mở trường, đóng góp
kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu tư cho
giáo dục tăng liên tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007,
khoảng 25% tổng chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh
đó, cũng đã huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-
xã hội và đầu tư nước ngoài. Những thành tựu của giáo dục nước ta đã khẳng định vai
9
trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho đất nước.
Những năm qua, kinh tế –xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, năng suất lao
động ngày càng cao, đã tạo điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, giúp cho
việc chăm sóc con người ngày một tốt hơn. Việt Nam đã quan tâm tới giáo dục đào
tạo, đã đưa tỷ lệ số người biết chữ từ 5% trước đây, tới nay đã gần 90% dân số biết
chữ. Nhà nước khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, tạo ra điều kiện
thuận lợi để “cả nước trở thành một xã hội học tập”( theo văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX). Do trình độ học vấn được nâng lên, quan hệ xã hội, giao lưu
quốc tế ngày càng được mở rộng nên tính tích cực, tính tự chủ, tính kỷ luật, sự năng
động sáng tạo, phát huy khả năng trí tuệ tiềm tàng của con người Việt Nam đã được
phát triển cao hơn so với trước đây rất nhiều.
Đối với Việt Nam – một đất nước còn nghèo và lạc hậu, vấn đề nguồn nhân lực
chất lượng cao cũng đã được đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm
(2001-2010) của Đại hội IX. Chiến lược nêu rõ: “Con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Trong chiến lược phát triển đó, Đảng và Nhà nước ta coi trọng việc tăng cường nguồn
lực con người, coi đó là động lực cơ bản nhất cho sự phát triển đất nước.Chúng ta đã
đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo, hơn mười nghìn người có trình độ trên đại
học, hơn một triệu người có trình độ đại học đang công tác trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Họ đã và đang có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Tính đến năm 2003, toàn quốc có 8.767.932 lao động có

chuyên môn kỹ thuật gồm các trình độ đào tạo từ sơ cấp đến sau đại học. So với tổng
số lao động trong cả nước, lao động có chuyên môn kỹ thuật chiếm 21, 22%.

Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ nét thực trạng và cơ cấu về trình độ chuyên
môn của lao động nước ta qua bảng số liệu sau:
Bảng 2: Cơ cấu của lực lượng lao động chia theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật của cả nước năm 2003

Trình độ chuyên môn kỹ thuật Tỷ trọng cơ cấu lực lượng lao
động (%)
1. Công nhân kỹ thuật 2,7
2. Sơ cấp, có chứng chỉ nghề 6,67
3. Công nhân kỹ thuật có bằng 3,28
4. Trung học chuyên nghiệp 4,01
5. Cao đẳng, đại học và trên đại học 4,47
6. Lao động không có chuyên môn kỹ thuật 78,78
10
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam năm 2003, Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội, 2004.
11
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chúng ta đặc biệt chú trọng
phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Chính vì vậy đội ngũ cán bộ hoạt
động trong lĩnh vực này đã và đang trở thành một phần quan trọng trong nguồn lực
con người của đất nước.
Bảng 3: Khả năng phát huy tác dụng của cán bộ khoa học công nghệ (đơn vị :%)
Khả năng phát
huy
Lãnh đạo Cán bộ có học vị cao Chuyên môn
nghiên cứu
Phát huy tốt 35,20 34,90 36,02

Phát huy được 38,07 37,30 37,29
Ít phát huy 26,73 27,80 26,69
Nguồn: Đánh giá tiềm năng khoa học công nghệ, Nxb Thống kê, Hà Nội, năm 2000
Nhìn chung trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã chăm lo tới việc bồi
dưỡng nguồn nhân lực của đất nước cả sức khỏe, tri thức, năng lực, phẩm chất đạo
đức, thực hiệ cải cách bộ máy nhà nước về mọi mặt, tạo điều kiện cho mỗi người phát
huy được khả năng của mình đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng đã khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa”. Các số liệu trên đã cho thấy rõ sự cố gắng
to lớn của Nhà nước cũng như nhân dân ta trong việc chăm lo đến đời sống vật chất và
tinh thần của người dân, ngày càng quan tâm hơn tới lợi ích thiết thực của con
người. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức đặt ra
những đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó buộc chúng ta
phải áp dụng những biện pháp tích cực, đồng bộ nhằm nhanh chóng xây dựng và bồi
dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao.
2. Những hạn chế còn tồn tại trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt
Nam những năm qua
Bên cạnh những thành tựu nổi bật mà chúng ta đã đạt được trong quá trình công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, thực trạng nguồn lực con người ở Việt Nam trong
những năm qua vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục.
• Trong việc phát huy nguồn lực con người
- Một là, chúng ta quá đề cao mặt xã hội, xem nhẹ mặt tự nhiên, không quan tâm
đúng mức đến nhu cầu vật chất và lợi ích cá nhân nên không phát huy được tính tích
cực xã hội của người lao động, khiến cho vai trò của cá nhân bị lu mờ, tài năng cá
nhân không được khuyến khích, tính cách riêng của cá nhân không được thừa nhận
12
- Hai là, chúng ta đề cao quá mức tính giai cấp, coi nhẹ tính nhân loại, không chú
ý kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, chưa làm theo đúng tính quy luật mà chủ

nghĩa Mác-Lênin đã đề ra.
- Ba là, tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước, một bộ phận cán bộ tham
nhũng cửa quyền, vi phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân, gây ra những tác động
xấu làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước, làm giảm nhiệt
tình, hăng say lao động, hạn chế sức sáng tạo của người lao động, tác động không nhỏ
tới niềm tin và sự tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu trau dồi đạo đức cách mạng của các
thế hệ trẻ. Nhiều người muốn ở lại thành phố, bỏ nghề gây lãng phí cho xã hội và gia
đình. Cơ cấu đào tạo lao động giữa các ngành, các bậc học chưa hợp lý dẫn tới tình
trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ. Tình trạng thiếu việc làm trong một bộ phận thanh
niên đang tạo ra sức ép lớn cho xã hội.
- Bốn là, sự kết hợp các nguồn lực ở nước ta còn hạn chế. Tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn, một bộ phận người lao động thất nghiệp ở thành phố đang gây ra sự
lãng phí lớn về nguồn lực con người ỏ nước ta hiện nay.
- Năm là, năng lực lao động của người lao động Việt Nam còn hạn chế. Số người
lao động qua đào tạo còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Những người lao
động được đào tạo còn có sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Người lao động còn
mang nặng tư duy ý thức tác phong của người sản xuất nhỏ, thiếu ý thức tổ chức kỷ
luật. Những người đã được đào tạo lại làm không đúng ngành nghề.
• Trong xây dựng, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người
- Một là, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, năng
suất lao động còn rất thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tình trang
ngheo đói còn tồn tại trong một bộ phận dân cư, do vậy việc chăm sóc đầy đủ, đảm
bảo những điều kiện cho con người phát triển toàn diện còn hạn chế.
- Hai là, Việt Nam trải qua nhiều năm chiến tranh, hiện nay hậu quả để lại còn
rất nặng nề đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải khắc phục, không có điều kiện chăm sóc
cho con người trên nhiều phương diện.
- Ba là, những ảnh hưởng của phong tục tập quán, thói quen của con người sản
xuất nhỏ như: thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, cách nhìn thiển cận, tâm lý tự ty, tính vị kỷ,
cuc bộ địa phương, kể cả tác phong gia trưởng trong giáo dục và đánh giá mỗi
người, .v.v

- Bốn là, tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội cùng
với những hạn chế trong việc nghiên cứu lý luân Mác-Lênin đã dẫn chúng ta tới những
hạn chế trong việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người. Cơ
chế hành chính bao cấp tạo nên tư tưởng trông chờ ỷ lại, sự thiếu dân chủ trong đời
sống xã hội đã hạn chế phát triển tính năng động, sáng tạo, tính dám chịu trách nhiệm
của con người Việt Nam.
- Năm là, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu
quốc tế, một mặt tạo ra những tác động tích cực nhưng mặt khác cũng mang lại những
ảnh hưởng tiêu cực như :lối sống thực dụng, vì quyền , vì tiền mà không ít người có
thể làm mọi việc bất chấp luân thường đạo lý, gây ra những tác động xấu trong xã hội.
- Sáu là sự đầu tư cho giáo dục đào tạo còn hạn chế, công tác quản lý còn có
những mặt yếu kém bất cập. Phương pháp giáo dục chưa kích thích được tính sáng tạo
của người học, chưa thực sự gắn kết lý luận với thực tiễn cuộc sống. Tình trạng tiêu
cực trong giáo dục đang phổ biến ở nhiều nơi, chất lượng giáo viên còn hạn chế.
13
Những điều đó đang ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng đào tạo, tới việc phát huy
nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay.
- Bảy là, những yếu kém trong quản lý nhà nước, hệ thống pháp luật chưa đồng
bộ, tính gia trưởng, sự bảo thủ, ghen ghét đố kỵ trong một số cán bộ với những người
có năng lực đạng hạn chế phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.
Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ ràng những hạn chế trên trong thực trang của
nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay.
Xét về mặt chất lượng, thể lực, mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn ở mức
thấp, đặc biệt là trẻ em – nguồn cung cấp nhân lực chính cho xã hội. Sự hạn chế về thể
lực ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu tri thức và trí thông minh của trẻ. Xu
hướng này có chiều hướng ngày càng tăng lên. Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng để cải thiện và nâng cao thể chất của người
Việt Nam nói chung, của trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề này không thể khắc phục
ngay được trong “một sớm một chiều”, mà cần phải có thời gian. Bên cạnh đó, thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều nước trong khu

vực và trên thế giới và điều này ảnh hưởng đáng kể đến khả năng tái sản xuất của
người lao động.
Tất nhiên, thể lực không phải là yếu tố chính quyết định chất lượng nguồn nhân
lực song chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế là, nếu con người không được
nâng cao thể lực thì cũng khó có thể phát triển được trí tuệ, khả năng sáng tạo trong
học tập và lao động.
Mặt trí lực của người lao động được biểu hiện ở nhiều phương diện khác nhau.
Tiêu chí đầu tiên để đánh giá trí lực là trình độ học vấn, kiến thức khoa học, khả năng
vận dụng kiến thức khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm trong sản xuất mà họ tích
luỹ, học tập được. Trí lực của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều điểm hạn chế. Biểu
hiện ở những khía cạnh, như phần lớn lực lượng lao động là lao động phổ thông, số lao
động được đào tạo chuyên môn còn thấp, thợ lành nghề ít… Do vậy, năng lực thực
hành và làm việc độc lập của người lao động chưa cao. Trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta đã có những chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
và đào tạo, như tích cực xoá bỏ tình trạng mù chữ và tái mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu
học, trung học, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục… Tuy nhiên, chất lượng
giáo dục và đào tạo hiện vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tập trung đào tạo chuyên sâu và
năng lực thực hành.
Xét về tổng thể, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Bảng số liệu sau đánh giá chất lượng và so sánh các
tiêu chí cơ bản tính theo thang điểm 10 của Việt Nam và một số nước châu Á :
Bảng 4: Chất lượng nguồn lực con người ở Việt Nam và một số nước châu Á

Nước
Tiêu chí
Hàn
Quốc
Trung
Quốc
Indonesia Philippin Malaisia

Thái
Lan
Việt
Nam
Hệ thống GD 8.0 5.12 0.5 3.8 4.5 2.64 3.25
Lao động chất
lượng cao
7.0 7.12 2.0 5.8 4.5 4.0 3.25
Tiếng Anh 4.0 3.62 3.0 5.4 4.0 2.82 2.62
Sự thành thạo công
nghệ cao
7.0 4.37 2.5 5.0 5.5 3.27 2.5
14
Nguồn : Số liệu thống kê năm 2005 của UNDP
Bên cạnh những ưu thế như, lực lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao động).
Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả năng vận dụng
và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao động, sự bất hợp lý
về phân công lao động được đào tạo trong các lĩnh vực sản xuất và những khó khăn
trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Sau 30 năm công nghiệp hóa, Việt Nam
vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đại bộ
phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm
10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ
kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có trình độ cao
đẳng trở lên 30% tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ
sở. Điều đáng lo ngại nhất của nước ta hiện nay đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta còn
có 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập được giáo dục tiểu học. Mặt người lao động nước
ta nói chung trình độ văn hóa còn thấp, lao động công nghiệp quen theo kiểu sản xuất
nhỏ và lao động giản đơn.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri
thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra một vấn đề được giải quyết, sự già

hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân của thạc sĩ
là 35,6; tiến sỹ là 42,8; giáo sư 59,5. Như vậy đến năm 2015, hơn 80% số người có
học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên sự hẫng hụt cán bộ khoa
học kế cận cho các ngành khoa học trọng yếu.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao
đẳng không tìm được việc làm lại tăng lên. Sự chậm cải tiến giáo dục và nội dung đào
tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu
tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng, nhất
là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động
công nghiệp. Thêm vào đó việc sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có
trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo năm
2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường không có việc làm, 37% số
còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề
mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và
nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng
2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công
tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái
Lan và bằng 0,00043% của thế giới.
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình),
đông (nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số
người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước trong nhóm
ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với dân
số cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam
về chất lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát, song mất cân đối
nghiêm trọng. Ở Việt Nam, cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp
trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1, 4 và 10.
15
So sánh những yêu cầu mà quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đặt ra đối với
chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, chúng ta nhận thấy, nguồn nhân

lực Việt Nam còn ở trình độ thấp và có khoảng cách khá xa so với trình độ của nguồn
nhân lực theo yêu cầu của kinh tế tri thức. Điều này được thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động
qua đào tạo của Việt Nam còn ít. So với tổng số lao động trong cả nước, lao động có
chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 21, 22%.Vì vậy, trong quá trình tham gia vào các
hoạt động sản xuất mang tính chuyên nghiệp, lao động Việt Nam đã thể hiện rất rõ
những yếu kém của họ. Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn nhiều vấn
đề, tỷ lệ cán bộ khoa học phát huy tốt khả năng của mình chỉ chiếm khoảng 35-36%,
tỷ lệ phát huy yếu chiếm tới 26-27%.
Tác động sâu xa và lâu dài của những tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục về mặt văn
hóa là nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa: suy nghĩ lệch lạc
về cái học trở thành hiện tượng xã hội phổ biến, tư tưởng bằng cấp, tình trạng “chạy”
trường “chạy” điểm, bằng thật học giả, gian lận, bệnh hình thức và thành tích chủ
nghĩa, phương pháp dạy và học kìm hãm tự do tư duy sáng tạo…Tất cả những hiện
tượng này lan tỏa thành nhiều nếp sống tiêu cực, vùi dập và bỏ phí người tài, đang
ngày càng bắt rễ sâu vào đời sống mọi mặt của đất nước. Đi vào thời kỳ phát triển hiện
đại và hội nhập, nhưng nhìn chung trong cả nước ý thức luật pháp đối với nhà nước
pháp quyền, cũng như ý thức tự chủ đối với xã hội dân sự của dân và của những người
trong hệ thống bộ máy nhà nước nhiều mặt còn thấp.
III. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở
Việt Nam hiện nay
1. Những phương hướng phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay
Để phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần thực hiện một sớ phương hướng sau:
Thứ nhất: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa, phát triển nền kinh
tế đất nước.
Công nghiệp hóa-hiện đại hóa với nội dung chuyển lao động thủ công sang lao
động cơ khí máy móc, vừa tạo ra những điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân, tạo
diều kiện cho xã hội và gia đình quan tâm tới giáo dục nhiều hơn. Đồng thời, công
nghiệp hóa-hiện đại hóa cũng đặt ra những yêu cầu, những thách thức buộc người lao
động phải phấn đấu vươn lên, nếu họ không muốn bị thải loại khỏi dây chuyền sản

xuất.
Như vậy, công nghiệp hóa-hiện đại hóa vừa là điều kiện để xây dựng, bồi dưỡng
phát huy nguồn lực con người, đồng thời phát huy nguồn lực con người lại là yếu tố
quyết định sự thắng lợi sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước.
Thứ hai: Xây dựng và từng bước hoàn chỉnh một hệ thống chính sách xã hội phù
hợp.
Chính sách xã hội là một bộ phận hợp thành chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, là sự thể hiện lý tưởng chính trị, cương lĩnh, đường lối cánh
mạng của Đảng Cộng sản trong hệ thống pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa và
thể hiện bằng quá trình tổ chức thực tiễn trong cuộc sống của toàn xã hội.
Chính sách xã hội thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế tới văn hóa, giáo dục,
chính sách lao động việc làm.v.v là những chính sách đảm bảo những nhu cầu vật
chất và tinh thần của con người biểu hiện rõ nhất bản chất của một chế độ xã hội, đó là
16
những chính sách điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và là một trong những động lực
trực tiếp để con người hoạt động trên lĩnh vực xã hội. Phát triển kinh tế, nâng cao năng
suất lao động là tiền đề, là điều kiện cho việc thực hiện chính sách xã hội. Thực hiện
tốt chính sách xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, chăm lo tới người lao
động, tạo điều kiện cho người lao động học tập phấn đấu vươn lên, cống hiến hết sức
mình cho xã hội sẽ góp phần to lớn phát triển kinh tế của đất nước.
Chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội phải hướng tới con người và vì con người.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng xã hội, giải phóng con người,
đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Để thực hiện
điều đó, cần phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển gắn đời sống vật chất.
Thứ ba: Từng bước xây dựng và không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý của chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế quản lý cuả chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng…Do vậy, xã hội phải tạo ra những điều

kiện cho người lao động tham gia tích cực vào công việc quản lý xã hội, quản lý kinh
tế, quản lý nhà nước, thông qua đó mà họ tích cực đóng góp tài năng, trí tuệ cho xã
hội.
Thứ tư: Thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa.
Nguồn lực con người là sự kết hợp các yếu tố trong con người mà chúng ta có thể
phát huy, từ sức khỏe tới trí tuệ, tri thức, tình yêu quê hương đất nước,.v.v Như vậy,
nguồn lực con người bao gồm cả những yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong mỗi
người.
Để bồi dưỡng, phát triển và phát huy tốt hơn nữa nguồn lực con người trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Cuộc cách mạng này có
nhiệm vụ trang bị lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho quần
chúng lao động, phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý
thức độc lập tự chủ tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Những phương hướng trên nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực nước ta ngày càng có
tri thức, có trình độ tay nghề, có sức khỏe, có năng lực quản lý, có ý thức, năng lực
làm chủ đất nước, đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn nguồn lực con người trong sự
nghiệp xây dựng một xã hội “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” tiến tới chủ nghĩa xã hội.
2. Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
Để phát huy nguồn lực con người, chúng ta cần thực hiện đồng bộ những giải pháp
sau:
Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh tế.
Phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh chóng
khắc phục tình trạng tách người lao độn ra khỏi tư liệu sản xuất. Thực hiện giao đất
giao rừng cho nông dân, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu
sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế.
Huy động rộng rãi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước, của địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị. Phát huy sáng kiến của người lao động,

chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai,
dân chủ.
17
Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh của
địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý kinh doanh của
mỗi thành viên trong xã hội để cùng với Nhà nước giải quyết những khó khăn của đất
nước.
Tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách
nhiệm của mỗi người trong hoạt động kinh doanh dịch vụ. Càn làm cho mọi người
thấy được trách nhiệm của mình phải lao động nghiêm túc, có chất lượng, có hiệu quả,
tạo ra hàng hóa tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều đó vừa tạo diều kiện cho cho xã
hội phát triển, vừa là điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phê
phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu, ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo
lý.
Thứ hai: Trong lĩnh vực chính trị.
Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị, về luật
pháp, về Nhà nước, từ đó nâng cao trách nhiệm và năng lực của họ tích cực tham gia
vào công việc của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của quần chúng nhân dân trong mọi hoạt động
của bộ máy nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống, huy động đông đảo quần chúng
nhân dân tham gia vào cuộc đáu tranh chống tham nhũng.
Xây dựng cơ chế quản lý xã hội, quản lý Nhà nước để người dân có điều kiện tham
gia công việc Nhà nước, công việc xã hội, thực sự là người làm chủ đất nước; khắc
phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong một số cơ quan Nhà nước.
Phân rõ trách nhiệm của từng cấp từng ngành, từng tập thể, từng cá nhân trong từng
công việc, khắc phục tình trạng chồng chéo, hay buông lỏng quản lý Nhà nước trong
một số ngành, một số điạ phương.
Giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm công
dân, bản lĩnh chính trị của mỗi người dân.Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng

tiêu cực, tình trạng vi phạm kỷ cương, phép nước và những âm mưu chống phá của kẻ
thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng.
Trên cơ sở thành quả cách mạng đạt được, người dân lao động mới có điều kiện học
tập, rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt và cống hiến ngày càng nhiều cho xã hội.
Thứ ba: Trên lĩnh vực xã hội.
Từng bước khắc phục đi tới loại bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, những quan
hệ không bình đẳng, xây dựng quan hệ mới giữa người với người trên tinh thần tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, trong đời sống xã hội. Xây dựng quan
hệ bình đẳng hữu nghị giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, giữa các quốc gia.
Cần thực hiện những biện pháp làm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các tầng
lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những hộ nghèo, những gia đình khó
khăn , những hộ chính sách xã hội, những vùng sâu vùng xa tạo ra cơ hội phát triển
cho mọi người, làm cho mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo
dục văn hóa,
Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo; tập trung giả quyết những vấn đề cấp
bách về lao động việc làm; trên cơ sở đó, người lao động mới có điều kiện nâng cao
trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến
hết sức mình cho đất nước, xã hội.
Thứ tư: Trên lĩnh vực giáo dục đào tạo.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện
18
nay. Càn phải tuyên truyền cho mọi người dân thấy được trách nhiệm cảu mình đối với
sự nghiệp chung của đất nước mà quan tâm tới lĩnh vực này.
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị xã
hội và từng gia đình đều phải quan tâm tới giáo dục đào tạo. Tăng cường hơn nữa sự
phối hợp của gia đình, nhà trường, xã hội trong đào tạo thế hệ trẻ.
Để tạo ra những cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” có ý thức và năng lực làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội, cần phải có sự đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục.
Nội dung giáo dục phải phản ánh được những tri thức quan trọng nhất của thời đại,

những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, phải góp phần giáo dục lòng yêu
nước, ý thức tự cường dân tộc, hình thành nhân cách mới của người lao động.
Phải tích cực đổi mới phương pháp dạy và học. Phương pháp dạy phải kích thích
được tính sáng tạo, sự hăng say tìm tòi nghiên cứu của người học. Phương pháp học
phải độc lập tự chủ, biết vận dụng kiến thức đã học vào giải thích và giải quyết những
vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra.
Việt Nam là một nước còn kém phát triển về mặt kinh tế, tuy rằng đã đạt được một
số thành tựu trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhưng so với các nước trong khu vực
và quốc tế vần còn hạn chế. Số năm học bình quân của người dân còn thấp, tỉ lệ chưa
biết chữ còn cao, do vậy đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa.
Thứ năm: Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật.
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành TW khóa VIII, Đảng ta đã khẳng
định, văn hóa vừa là mực tiêu vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Văn hóa nghệ thuật nước ta trước đây đã phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Những năm đổi mới vừa qua, văn học nghệ thuật nước ta đã có những đổi mới
về nội dung, hình thức, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước. Song bên cạnh đó văn học nghệ thuật vẫn còn một bộ phận đi
chệch hướng, chạy theo thị hiếu thấp hèn, dễ dãi của một bộ phận thanh niên thiếu
giáo dục.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, phê phán những tư tưởng phản
động dang tìm cách phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức, lối
sống.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi các nhà văn,
nhà thơ, các nhạc sĩ, nghệ sĩ phải nâng cao trách nhiệm của mình trong sáng tác biểu
diễn, không vì đồng tiền mà bán rẻ lương tâm, vô trách nhiệm với đất nước.
Dư luận xã hội phải lên tiếng ủng hộ những tác phẩm có hình thức nội dung hay,
phê phán những tác phẩm có nội dung, hình thức dở. Cần tăng cường hơn nữa công tác

quản lý của Nhà nước trong hoạt động sáng tác biểu diễn, sao cho văn học nghệ thuật
phải cổ vũ cái hay cái đẹp, góp phần xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao những giá
trị nhân văn, phát huy những giá trị tốt đẹp trong con người Việt Nam.
Đảng và nhà nước ta phải chăm lo tới việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát
huy hiệu quả nguồn lực con người Việt Nam, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững
đất nước, nhanh chóng thực hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ văn minh”.
19
KẾT LUẬN

Là thành viên của nền kinh tế thế giới, vấn đề xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực có chất lượng ngày càng cao để có thể đáp ứng quá trình hội nhập quốc tế vẫn
đang là yêu cầu bức thiết đối với nước ta hiện nay. Việc đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc
đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của
mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu
sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc bồi dưỡng phát
huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tÍnh
tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được
nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Phát triển nguồn nhân lực về thực chất là ngày càng phải làm tốt hơn việc giải
phóng con người. Đòi hỏi này đặt ra hai yêu cầu cùng một lúc: Phải tập trung trí tuệ và
nguồn lực cho phát triển nguồn nhân lực, mặt khác phải đồng thời thường xuyên cải
thiện và đổi mới môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, gìn giữ môi trường tự
nhiên của quốc gia.
Vấn đề lớn nhất đặt ra cho nước ta không phải là cái nghèo, mà là ý chí phấn đấu
với tất cả trí tuệ và nguồn lực có trong tay – điều này bao gồm cả ý chí xây dựng một
thế chế chính trị và đời sống kinh tế - xã hội – văn hóa hướng vào phát huy những giá
trị chân chính của con người, trước hết là tự do và nghị lực sáng tạo của nó; kế thừa

những thành tựu của văn minh nhân loại.
Đảng đã khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa”.Vì vậy,chăm lo hạnh phúc con người là mục
tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc
công nghiệp hóa hiện đại hóa; khẳng định con người Việt Nam phát triển toàn diện cả
về thể lực, trí lực, cả về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tính tích cực chính trị
- xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn và tình cảm chính là mục tiêu, là động lực của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
20
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Phát triển nguồn nhân lực: Phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nguyễn Thanh. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002.
2. Thực trạng đội ngũ cán bộ có trình độ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học ở Việt
Nam qua số liệu thống kê. Nhà xuất bản Thống kê, 2002.
3. Một góc nhìn kinh tế toàn cầu : Bài toán hội nhập khi thị trường mở cửa
dòng chảy nhân lực dư chấn toàn cầu hoá . Phạm Vũ Lửa Hạ. Nhà xuất bản Trẻ,
2005.
4. Phát triển nhân lực công nghệ ưu tiên ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Đặng Bá Lãm, Trần Khánh Đức. Nhà xuất bản Giáo dục, 2002.
5. Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân
lực. Tác giả : Ngô Trần Ái. Nhà xuất bản Giáo Dục, 2002.
6. Những luận cứ khoa học của việc phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trương Thị Minh Sâm. Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, 2003.
7. Mối quan hệ giữa chất lượng nguồn nhân lực với phát triển kinh tế ở nước
ta hiện nay. Nguyễn Đăng Thảo. Nhà xuất bản Hà Nội, 2001.
8. Website Tạp chí Đảng cộng sản điện tử: www.tapchicongsan.org.vn

9. Website Thư viện quốc gia Hà Nội:
10.Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: . www.mpi.gov.vn
21
Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
I. Cơ sở lí luận
1. Khái niệm nguồn lực con người
a) Quan niệm về con người và con người xã hội chủ nghĩa.
b) Khái niệm nguồn lực con người
2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
a) Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
b) Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị
c) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa
d) Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội
II. Thực trạng nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người ở Việt
Nam trong những năm qua
1.Những thành tựu đã đạt được trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt
Nam trong những năm qua
2. Những hạn chế còn tồn tại trong việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam
những năm qua
III. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở Việt
Nam hiện nay
1. Những phương hướng phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện
nay
2. Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
Kết luận .
Danh mục tài liệu tham khảo.
22

×