Tải bản đầy đủ (.doc) (182 trang)

Đọc hiểu ngữ văn 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 182 trang )

nguyễn trọng hoàn (Chủ biên)
Lê Hồng Mai
đọc hiểu văn bản
ngữ văn 10
nhà xuất bản giáo dục
102006/CXB/2662018/GD Mã số : TxV33M6
lời nói đầu
Theo Chơng trình giáo dục học phổ thông (Ban hành kèm theo Quyết định số
16/QĐBGD&ĐT ngày 05 5 2006 của Bộ trởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), môn Ngữ văn cấp
Trung học phổ thông đợc xây dựng và thực hiện đổi mới phơng pháp dạy học theo tinh thần
tích hợp trong đó trọng tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là học sinh phải biết cách
đọc
hiểu văn bản theo đặc trng loại thể
(bao gồm các trích đoạn hoặc tác phẩm văn học trọn vẹn).
Đây là yêu cầu lần đầu tiên đợc gọi tên một cách chính thức trong sách giáo khoa Ngữ văn, xác
định những nội hàm cụ thể để học sinh thực hiện một chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm,
hớng tới hiệu quả hành dụng và kết nối kiến thức với các phần Tiếng Việt, Tập làm văn.
Nhằm cung cấp tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trung học phổ thông về lĩnh
vực này, chúng tôi biên soạn bộ sách về đọc hiểu văn bản (gồm ba cuốn, tơng ứng với sách
giáo khoa Ngữ văn các lớp 10, 11, 12). Vì đây là một lĩnh vực lí thú và có liên quan tới nhiều
bình diện của hoạt động đọc hiểu, nên trong mỗi cuốn sách chúng tôi sẽ trình bày một số vấn
đề có tính khái quát trớc khi thực hành đọc hiểu văn bản Ngữ văn.
Theo đó, cuốn
Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10
(viết theo chơng trình chuẩn và nâng cao)
gồm :
Phần một :
Hình thành năng lực đọc cho học sinh trong dạy học Ngữ văn
, khái quát về
đọc hiểu văn bản Ngữ văn theo đặc trng loại thể.
Phần hai :


Thực hành đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10,
ứng dụng quan điểm và giải pháp
đọc hiểu văn bản trong những bài cụ thể, mỗi bài đợc cấu tạo theo ba phần :
I Gợi dẫn
II Kiến thức cơ bản
III Liên hệ
Nội dung phần
Gợi dẫn
của mỗi bài học nhằm chuẩn bị tâm thế, cung cấp một số kiến thức
công cụ, tạo thuận lợi cho việc chiếm lĩnh mục tiêu của bài đọc hiểu : đó là các yếu tố đặc trng
thể loại (sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cời, truyện thơ dân gian, ca dao, tục ngữ,
thơ trung đại Việt Nam, thơ Đờng và thơ hai-c, phú, nghị luận trung đại sử kí, truyện trung đại,
truyện thơ Nôm Việt Nam, tiểu thuyết chơng hồi Trung Quốc), các thông tin về tác giả, tác
phẩm, tóm tắt và xác định cách đọc, cách kể.
Nội dung phần
Kiến thức cơ bản
đợc hình thành trên cơ sở lí giải những vấn đề (theo thứ tự
hoặc tổng hợp) từ các câu hỏi của sách giáo khoa, thể nghiệm một số cách thức tiếp cận văn bản.
Nội dung phần
Liên hệ
có kết cấu mở, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng : có thể giới thiệu
một văn bản tơng đơng hoặc gần gũi với bài học để tạo điều kiện cho ngời đọc so sánh kiến
thức ; có thể cung cấp một số nhận định để tham khảo cho việc đánh giá về tác giả, tác phẩm ;
cũng có thể cung cấp một bài văn, bài thơ có tính chất thực hành hoặc mở rộng trờng liên tởng.
Có thể nói : mục đích tìm hiểu và tính chất của tài liệu sẽ quy định phơng thức đọc. Phơng
thức đọc hiểu văn bản Ngữ văn chắc chắn không chỉ là điều quan tâm của một cá nhân. Rất
mong các thầy, cô giáo và các bạn học sinh trong quá trình sử dụng cuốn sách này góp cho
những ý kiến quý báu để chúng tôi có dịp bổ khuyết.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, 2006

Chủ biên
ts. nguyễn trọng hoàn
2
Phần một
hình thành năng lực đọc
cho học sinh trong dạy học ngữ văn
1. Xuất phát từ những yêu cầu hoặc mục đích cụ thể mà ngời ta có thể phát biểu định nghĩa
hay quan niệm khác nhau về đọc. Chẳng hạn: đọc đó là công việc giải mã những kí hiệu đã đợc
viết ra thành văn bản (Walcutt C. C.), là dung nạp và suy nghĩ về một hay những thông tin nào đó
(Tinker M. A), là sự tái tạo những ý tởng của ngời khác (Mc.Cullough C. M.)
(1)
... Mục đích của đọc
có thể là thăm dò (để tìm t liệu), đọc

hiểu (một (quá trình hình thức hoạt động) tiếp nhận để
nắm tờng tận về nguồn gốc, cấu trúc, nội dung và ý nghĩa của văn bản), đọc có tính chất đánh giá
(để nhận xét hoặc giới thiệu tài liệu đọc), đọc để giải trí (ngẫu hứng, đôi khi không có mục đích rõ
ràng). Trên một bình diện khác, Pascal Quignard cho rằng: "Trong đọc có một sự chờ đợi không
tìm đợc kết quả. Đọc, đó chính là lang thang. Việc đọc là lang thang". Cố nhiên, đó là sự "lang
thang" của những khát vọng khôn cùng, đặng dấn thân trên con đờng mải mê đánh thức vùng tiềm
năng vô tận của nhà nghệ sĩ. Có lẽ đó cũng là điều mà nhà văn Pháp giải thởng Goncount 2002 này
gặp gỡ với ý tởng của Michael một nhà văn Đan Mạch đơng đại, rằng : Nếu bạn biết mình đang
tìm kiếm điều gì, bạn sẽ tự hạn chế mình. Nhng nếu bạn đi tìm một điều cha biết, bạn sẽ khám phá
đợc một điều gì to lớn hơn.
2. Đọc văn trong nhà trờng vừa mang những nét phổ quát của hoạt động trí tuệ nói chung, lại
có những nét đặc thù bởi tính định hớng của môn học. Đọc toàn bộ tác phẩm để hiểu một đời văn,
một nghiệp văn nh công việc của nhà nghiên cứu là điều vô cùng khó ; đọc một tác phẩm, một
trích đoạn... với hi vọng hiểu văn, hiểu ngời (tác giả) cũng chẳng mấy dễ dàng ! Tinh thần của
thời đại, sự độc đáo của cá tính sáng tạo, đặc sắc của ngôn phong và hình tợng, sự gặp gỡ giao
thoa kế thừa và phát triển, mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng văn hoá..., luôn luôn đặt ra

thử thách đối với những ai có nhu cầu đi tìm lời giải đáp trong mỗi tác phẩm của nhà văn. Bởi vì,
trớc mắt ngời đọc là văn bản (bài văn), một tồn tại cụ thể trong khi đó, tác phẩm văn học là
một quá trình. Bởi vì, mỗi tác phẩm nhất là những tác phẩm lớn thờng không chỉ gợi ra
một đề án tiếp nhận và có tính chất tờng minh. Bởi vì, đối với mỗi ngời đọc, sự đồng nhất thẩm
mĩ là nhu cầu, hớng đích ; còn khoảng cách tiếp nhận lại là giới hạn của mỗi khả năng. Về phơng
diện này, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của GS. TS Trần Đình Sử : "Mỗi lần đọc, mỗi cách đọc chỉ
là một chặng trên con đờng chạy tiếp sức của biết bao độc giả để đến với tác phẩm"
(1)
. Đó là một
cách nhìn biện chứng về bản chất sáng tạo của hoạt động tiếp nhận văn chơng.
3. Làm thế nào để đạt đợc hiệu quả của đọc ? Lí luận dạy đọc hiện đại xác nhận cấu trúc của
năng lực đọc bao gồm: năng lực cảm nhận (kí hiệu, âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu, biểu tợng) ;
năng lực cắt nghĩa, lí giải ; năng lực liên tởng và tởng tợng ; năng lực thởng thức, bình luận và
đánh giá. Khái quát lại, đọc đòi hỏi sự huy động nhạy bén và kết hợp nhuần nhuyễn giữa năng
lực trí tuệ và năng lực tâm hồn. Không có tâm hồn nhạy cảm thì khó có hi vọng sẻ chia với nỗi
niềm, tâm sự của nhà văn gửi gắm. Đọc câu ca dao:
Ra đờng gặp cánh hoa rơi
Hai tay nâng lấy, cũ ngời mới ta.
nếu không thực sự có một chút chạnh lòng, làm sao có thể hình dung và đồng cảm với một tình
huống trắc ẩn của ngời xa? Cũng nh vậy, chỉ một chi tiết thôi - nh chi tiết ngời cha thà ăn bả chó
để giữ cho đợc nguyên vẹn mảnh vờn cho đứa con trai đang phải đi làm ăn biệt xứ trong truyện
Lão Hạc của Nam Cao nếu đọc lớt, cha thể thấy nỗi niềm bời bời khắc khoải của tác giả trớc
lẽ đời nghiệt ngã; hay chi tiết về ngời đàn bà không có tên trong truyện Vợ nhặt âu cũng là
một ẩn ức về số phận con ngời của Kim Lân trong xã hội cũ. Khoảng lặng của bản nhạc, khoảng
(
1) Tinker M. A and Mc.Cullough C. M, Teaching elementary reading, Englewood Cliffs, 1975, p.9.
(
1) Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục, 2001.
3
trống của bức tranh, hay khoảng cách giữa các khổ thơ, câu thơ chẳng hạn - đó không phải là

những yếu tố ngẫu nhiên - mà dờng nh luôn luôn trong dạng thức mở, ít nhiều đều ẩn chứa những
năng lợng thẩm mĩ đang chờ đợi sự đánh thức của tâm hồn ngời đọc. Ví dụ, đang hồi ức về hình
ảnh một chú bé Lợm tại cuộc gặp nhau ở Huế khi bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở
lại xâm lợc, Tố Hữu đang triển khai mạch kể theo các khổ thơ bốn dòng, bỗng nhiên nhà thơ
chuyển giọng:
Ra thế
Lợm ơi !...
rồi đang kể trờng hợp Lợm hi sinh, tác giả dành hẳn một dòng thơ để cấu thành một khổ riêng
biệt, hàm chứa sức nặng của một tình cảm thơng xót, đau đớn, thiêng liêng:
Lợm ơi, còn không?
Khoảng trống giữa hai khổ thơ tạo ra sự im lặng bao trùm, và rồi, để khẳng định sự hi sinh
ấy là bất tử, bài thơ lại trở về nhịp tơi tắn, hồn nhiên nh một nốt nhấn tơi sáng của bức tranh, bản
nhạc. Trờng hợp khác, trong bài Thơ bình phơng - đời lập phơng, nhà thơ Chế Lan Viên viết:
Ta nhớ Tố Nh đọc chậm lại Kiều
Đọc chậm từng vầng trăng, từng nỗi buồn li biệt
Ta yêu Nguyễn có lúc nh gió lùa nhanh ào ạt qua đèo
Không hơng rừng nào ngăn lại kịp
Nhng có lúc yêu nh đêm ma rét
Nghe nớc nhỏ từng giọt con giọt một trớc hiên nhà
Nhà thơ lớn ? Là để cho nhân loại yêu mình bằng mọi cách
Khi thì nâng niu. Khi thì hạch sách
Khi giày vò mỗi chữ
Khi trân trọng ngắm từ xa
Nhà thơ vẫn vẹn nguyên qua trăm lần thử lửa
Yêu mà!
Nh thế, đọc không chỉ là đọc bằng kĩ thuật mà còn phải đọc bằng hồn, đọc bằng khế ớc văn
hoá, bằng sự trải nghiệm không ngừng. Đọc văn là chính đọc ngời, đọc nhân cách nhà văn và để
hoàn thiện nhân cách của mình. Và do đó, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết trong tác phẩm cũng là một
gợi ý cho hình dung, tởng tợng, so sánh để ngời đọc tri âm. Đọc văn để thấy ngời, thấy thời đại,
và đọc văn bao giờ cũng gắn với một ngữ cảnh nhất định. Trớc hết, đó là ngữ cảnh văn bản (cấu

trúc văn bản, mạch văn, kết cấu, môi trờng xác định nghĩa cụ thể của ngôn từ). Điều này gắn bó
với thể loại, bởi mạch tự sự khác với mạch trữ tình, biên độ cảm xúc của thơ khác với biên độ
cảm xúc trong văn xuôi. Thứ hai, đọc văn gắn với ngữ cảnh tình huống (thời gian, địa điểm, ),
đối tợng tham gia giao tiếp (đặc điểm, cá tính, ) và nội dung giao tiếp. Thứ ba, đọc văn gắn với
ngữ cảnh văn hoá (bối cảnh lịch sử, văn hoá, phong tục, truyền thống, ). Thứ t , đọc văn gắn với
ngữ cảnh cá nhân (đặc điểm tâm lí, thói quen, sở thích, ). Thứ năm là ngữ cảnh liên hệ (đọc A
gợi đến B). Nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã phải thốt lên:
"Tôi không thể không liên tởng tới một cuốn tiểu thuyết Nga, của nhà tiểu thuyết hiện thực Gô
Gôn, cũng có những đoạn nói đến những nông dân đã chết rồi mà vẫn cha yên chỗ dới mả đất..."
rồi từ đó hình thành những nét tởng tợng sáng tạo: "Trên cái tối giời đất của đồng lúa ngày xa,
thấy sừng sững cái chân dung lạc quan của chị Dậu..." - thậm chí khi đọc dòng cuối cùng của Tắt
đèn: "Trời tối nh mực và nh cái tiền đồ của chị" - nhà văn viết: "Tối thật, tối quá lắm, sự sống đến
nh đời sống chị Dậu thì tối sầm cả mặt ngời đọc truyện hai mơi năm sau này". Không chỉ nh vậy
- khi đọc, dòng liên tởng còn dẫn dắt trí tởng tợng của nhà văn đi xa rộng hơn thời gian và không
gian trang sách: "và tôi nhớ nh đã có lần nào, tôi đã gặp chị Dậu ở đám đông phá kho thóc Nhật,
ở một cuộc cớp chính quyền huyện kỳ Tổng khởi nghĩa; và nếu không thì, chí ít, tôi cũng đã gặp
4
chị vào những ngày địch hậu o ép, chị tải thơng hoặc đậy nắp hầm bem cho cán bộ cơ sở"
(1)
. Nh
thế, từ đọc cảm tính, thông qua trực giác đến suy tởng - thiên truyện Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất
Tố vừa đem đến cho nhà văn Nguyễn Tuân những khái quát nghệ thuật sâu sắc vừa mở ra những
lớp nghĩa mới mẻ, độc đáo trên cơ sở huy động trờng liên tởng có liên quan mật thiết với hình t-
ợng nghệ thuật đã đợc gợi từ tác phẩm. ở đây, sự đồng cảm là nguyên nhân tạo nên sức mạnh
cộng hởng trong tiếp nhận văn học. Nhà thơ Tố Hữu kết thúc bài Kính gửi cụ Nguyễn Du:
Hỡi ngời xa của ta nay
Khúc vui xin đợc so dây cùng ngời.
Nhu cầu giao cảm giữa Tố Hữu và tác giả Truyện Kiều về một phơng diện nào đó có thể xem
nh một dấu nối tinh thần giữa hai thời đại.
Thông thờng, khi đọc văn ngời ta hay nói tới các yêu cầu đọc kĩ, đọc sâu. Năng lực trí tuệ thể

hiện qua việc kiểm soát tốc độ đọc, cùng với giải mã tín hiệu ngôn ngữ là huy động trí nhớ, hình
thành biểu tợng và phân tích, khái quát. Mỗi nhiệm vụ của đọc bao giờ cũng lựa chọn những yếu
tố kĩ thuật tơng ứng, chẳng hạn : sử dụng chú thích hoặc chỉ dẫn về tài liệu tham khảo (để tìm tài
liệu liên quan. Ví dụ: đọc bài Khái quát văn học dân gian Việt Nam có thể dùng chỉ dẫn tài liệu
tham khảo 1. Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian
Việt Nam, NXB Giáo dục, 1997 ; 2. Đỗ Bình Trị : Những đặc điểm thi phá của các thể loại văn
học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục, 2001), chú giải (để hiểu nghĩa cơ sở và xác định nghĩa
văn cảnh, nhận biết sắc thái và khuynh hớng chuyển nghĩa. Ví dụ: đọc bài Phú sông Bạch Đằng,
cần đọc các chú thích 1. Khách : ở đây là tác giả ; trong đoạn 2, tác giả xng là "ta". Sông Bạch
Đằng và những hoài niệm về chiến công trên dòng sông này chủ yếu đều xuất phát từ sự quan sát
của nhân vật "khách" - tác giả; 2. Chừ : tiếng đệm đợc dịch từ chữ hề trong nguyên tác, dùng để
ngắt nhịp, ), sử dụng lời tựa, lời bạt (để hiểu lí do ra đời hoặc quá trình hoàn thành văn bản. Ví
dụ : Lời nói đầu của cuốn sách Ngữ văn 10 tập một, NXB Giáo dục, 2006; Lời nói đầu của tập
Tình bạn - tình yêu - thơ, NXB Giáo dục, 1997, ), lời dẫn (kết nối các bình diện nghĩa của văn
bản. Ví dụ: phần Tiểu dẫn của các bài học phần văn trong sách giáo khoa Ngữ văn 10), đánh dấu
(để nhấn mạnh, ghi nhớ, kiểm tra. Ví dụ : đọc bài Tổng quan nền văn học Việt Nam qua các thời
kì lịch sử trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 nâng cao tập một cần đánh dấu nhận định tổng quát,
hai bộ phận - thành phần của nền văn học, ba thời kì phát triển, bốn ý nói về đặc sắc truyền thống
của văn học Việt Nam, ), ghi tóm tắt (để nắm mạch văn, ý đoạn, tổng quan. Ví dụ: đọc bài khái
quát văn học sử nói trên, cần ghi các ý quan trọng nh đã đánh dấu hoặc tóm tắt bằng cách vẽ sơ
đồ), làm th mục (để hệ thống, mở rộng, liên tởng, so sánh. Ví dụ: đọc văn bản Đại cáo bình Ngô,
cần lập một số th mục 1. Lê Trí Viễn, Những bài giảng văn ở đại học, NXB Giáo dục, 1982 ; Bùi
Văn Nguyên .; Trần Đình Sử - tuyển chọn, Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001, ).
Vấn đề đọc ở nớc ta đang dần đợc xây dựng thành một hệ thống lí thuyết căn bản để có thể
áp dụng liên thông. Chơng trình giáo dục phổ thông phần Tiếng Việt cấp tiểu học xác định nội
dung phát triển kĩ năng đọc qua yêu cầu : a) Đọc thông từ đơn giản là : đọc trơn, đọc rõ tiếng, từ,
câu ; đọc đúng đoạn hoặc bài văn xuôi, văn vần đến đọc đúng, liền mạch các từ, cụm từ trong
câu, đọc trơn đoạn, bài đơn giản ; biết đọc thầm ; đọc rành mạch các văn bản nghệ thuật, hành
chính, báo chí ; biết đọc phân biệt lời nhân vật trong các đoạn đối thoại và lời dẫn chuyện ; đọc

diễn cảm đoạn văn, đoạn thơ, đoạn kịch phù hợp với nội dung từng đoạn ; b) Đọc hiểu : hiểu
nghĩa các từ ngữ trong bài học ; hiểu nội dung thông báo của câu, đoạn, bài ; hiểu ý chính của
đoạn văn, biết nhận xét một số hình ảnh, nhân vật hoặc chi tiết trong bài đọc ; nhận biết dàn ý
của bài đọc, hiểu nội dung chính của từng đoạn trong bài, nội dung của cả bài ; biết phát hiện một
số từ ngữ, hình ảnh, chi tiết có ý nghĩa trong bài văn, bài thơ đợc học, biết nhận xét về nhân vật
(1)
Nguyễn Tuân. Tuyển tập, tập 2, NXB Văn học H., 1982, tr. 345.
5
trong các văn bản tự sự ; nhận biết dàn ý và đại ý của văn bản ; biết phát biểu ý kiến cá nhân về
cái đẹp của văn bản, biết tóm tắt văn bản tự sự đã học.
ở Trung học cơ sở, yêu cầu về đọc đợc thể hiện chủ yếu qua hệ thống câu hỏi đọc hiểu,
phát triển theo trục đặc trng thể loại, có tính đến đặc điểm lịch sử văn học. Trong khi đó, Chơng
trình Ngữ văn cấp Trung học phổ thông chú ý nhiều hơn tới đặc điểm lịch sử văn học, đồng thời
có tính đến đặc điểm thể loại văn học. Đến cấp học này, việc đọc một văn bản không chỉ đặt ra
yêu cầu để hiểu riêng kiến thức của riêng văn bản đó nữa hoặc chỉ trong một cụm thể loại, mà
đọc trong bối cảnh vừa nhận biết sắc thái để phân biệt, vừa có khả năng kết nối các bình diện
kiến thức rộng lớn hơn. Chẳng hạn, đọc ca dao yêu thơng, tình nghĩa đặt trong mối quan hệ với
ca dao than thân, ca dao hài hớc, châm biếm; đọc sử thi Đăm Săn của dân tộc Ê-đê (Việt Nam)
trong mối quan hệ với sử thi Ô-đi-xê của Hô-me-rơ (Hi Lạp) và sử thi Ra-ma-ya-na của Van-mi-
ki (ấn Độ); đọc sử thi trong mối quan hệ với truyện thơ, ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ
tích, chèo, ; đọc văn học trung đại Việt Nam trong mối quan hệ với thơ Đ ờng và tiểu thuyết
Minh - Thanh của Trung Quốc, thơ hai-k của Nhật Bản, Nh vậy, yêu cầu đọc không chỉ giới
hạn trong phạm vi một tác phẩm, một đoạn trích mà vợt cả thể loại, cả ngữ cảnh văn hoá, tạo nên
mối quan hệ đa chiều, đáp ứng nhu cầu so sánh, tổng hợp, khái quát của t duy nghệ thuật.
4. Thực tế cho thấy, để hiểu sâu sắc một văn bản (theo nghĩa rộng: text), trớc hết cần phải
trải qua việc đọc toàn phần, nhằm hiểu đại ý và sự thể hiện chủ đề trong từng bộ phận (chi tiết),
xác định nghĩa cơ sở của từ, xác định nghĩa văn cảnh của đoạn. Muốn thực hiện đợc điều đó,
song hành với việc tri giác và giải mã văn bản, cần phải huy động đợc một vốn hiểu biết phong
phú, khả năng liên tởng tởng tợng nhạy bén và sâu rộng, t duy lôgíc chặt chẽ,... Hoạt động đọc


hiểu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó mức độ khó của tài liệu đợc xem nh dấu hiệu "rào cản"
đầu tiên, bởi nó là thớc đo khả năng cũng nh tiêu chí xác nhận trình độ của ngời đọc. Chính mức
độ khó của tài liệu đòi hỏi ngời đọc có cần sử dụng thao tác giải nghĩa những từ, thuật ngữ khó và
trừu tợng hay không. Tuy nhiên, trong đọc

hiểu, việc đa ra những "đờng dẫn" có tính chất gợi ý
về loại thể, cung cấp thông tin về thời đại ra đời tác phẩm và những nét chính về nhà văn, cách
đọc,... giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Giáo trình dạy đọc của nhiều nớc hiện xác nhận bốn cấp độ kĩ năng hiểu. Bốn cấp độ này có
mối quan hệ qua lại với nhau, đó là: xác định nghĩa đen

đọc diễn cảm bình luận và đọc sáng
tạo. Phần xác định nghĩa đen (còn gọi là nghĩa cơ sở) tơng ứng với một khả năng hiểu về sự vật
và hiện tợng đợc nêu trực tiếp trong văn cảnh. Để lĩnh hội đợc nghĩa đen của tác phẩm, có thể căn
cứ trên các thông số về từ vựng trong mạch ngữ cảnh để xác định các ý chính. Đọc diễn cảm đòi
hỏi khả năng nhận thức đạt đến mức độ nh là cái nhìn thấu đáo của chủ thể về những sự vật
không đợc nói đến trực tiếp mà ẩn chứa đằng sau câu chữ (ý tại ngôn ngoại). Đây cũng có thể đợc
coi là khả năng "đọc giữa các dòng chữ", hình dung phía sau con chữ những số phận, tâm tình,
những phơng diện đời sống hay quan hệ nào đó trong tởng tợng của ngời đọc. Bình luận là hoạt
động đánh giá giá trị, tính vững chắc hay tính chân thực của văn bản. Kinh nghiệm đóng một vai
trò thiết yếu trong việc ngời đọc có khả năng tham gia hoạt động này tốt đến mức nào. Đọc sáng
tạo là khả năng liên hệ những gì đang đọc với những gì đã đợc đọc, lấy đó làm cơ sở để mở rộng
biên độ của sự hiểu biết (thậm chí, với văn bản nghệ thuật, đọc sáng tạo còn có thể xác định
những bình diện nghĩa mới cho hình tợng). Mức độ hiểu này tơng ứng với khả năng đọc "vợt khỏi
dòng chữ"
(1)
.
5. Có nhiều quan điểm tiếp cận đọc

hiểu khác nhau, trong đó quen thuộc nhất là : Đọc

hiểu gắn liền với việc sử dụng tranh ảnh, thiết bị nghe nhìn minh hoạ; Đọc hiểu dựa trên những
nghiên cứu phù hợp với năng lực và nhu cầu của từng cá nhân ; Đọc hiểu dựa trên khả năng huy
động vốn ngôn ngữ / kinh nghiệm...
(
1) Nguyễn Trọng Hoàn, Rèn luyện t duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chơng, NXB Giáo dục, 2003.
6
Thiết nghĩ, dù trên cơ sở tiếp cận nào, việc đọc hiểu cũng dựa vào mục tiêu giáo dục :
nhằm phát triển toàn diện ngời học, khơi gợi hứng thú và nhu cầu tìm hiểu sâu sắc các tầng ý
nghĩa giá trị của văn bản; phát huy khả năng liên hệ sinh động, tự nhiên giữa bài văn với cuộc
sống
(2)
. Đồng thời việc đọc hiểu cũng căn cứ vào nhu cầu khám phá, chiếm lĩnh và làm chủ
kiến thức của học sinh: đọc để hiểu, để bộc lộ chính mình, phát triển vốn liếng ngôn ngữ và văn
hoá, đồng thời hiểu để đọc tốt hơn. Việc đọc sẽ dần dần giúp chủ thể tích luỹ kinh nghiệm (điều
chỉnh tốc độ đọc, đọc đúng nhịp điệu, vừa đọc vừa tự giác tham gia quá trình đồng nhất giữa chủ
thể với đối tợng, hoá thân vào tình huống, nhập vai nhân vật, hiện thực hoá chức năng biểu cảm
của ngôn ngữ bên trong, tái tạo biểu tợng và kí ức định hình). PGS.TS. Đặng Anh Đào kể lại :
"Nguyễn Đình Thi với tôi, trớc hết là những mảnh vỡ lấp lánh của kí ức về tuổi thơ, về Cách
mạng tháng Tám, về nắng thu vàng và những cơn ma rào đột ngột chỉ có vào những năm 1945
1946 ở Hà Nội... Mỗi lần nhớ Hà Nội trong những ngày tản c chống Pháp, và sau này, trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ, dắt chiếc xe đạp lọc cọc đi dạy học ở nơi sơ tán, bỏ lại ngôi nhà và có khi
là cả ba đứa con trông nom nhau, trong lòng tôi lại vang lên buồn bã : Ngời ra đi đầu không
ngoảnh lại

Sau lng thềm nắng lá rơi đầy". Mấy câu trích dẫn từ hồi ức này
(1)
phản ánh kết quả
của một năng lực đọc sâu sắc và tinh tế, chuyển hoá chủ thể vào đối tợng.
Là một hoạt động đặc thù, có ảnh hởng xuyên thấm đến các phơng diện khác của quy trình
tích hợp và liên thông kiến thức, phát triển năng lực đọc cho học sinh có thể đợc xem là một

chiến lợc trong đổi mới phơng pháp dạy học Ngữ văn hiện nay.
(
2) Nguyễn Trọng Hoàn, Đọc hiểu văn bản trong dạy học Ngữ văn, Tạp chí Giáo dục, số 562003.
1
() Báo An ninh thế giới, số 94, ngày 1 5 2003.
7
Phần hai
thực hành
đọc hiểu văn bản ngữ văn 10
chiến thắng mtao mxây_______________________________
(Trích Đăm Săn sử thi Tây Nguyên)
I Gợi dẫn
1. Thể loại
Sử thi là một thể loại tự sự, thờng đợc thể hiện bằng thơ, xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn
học "nhằm ngợi ca sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc
trong buổi bình minh của lịch sử.
Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện đợc kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn... Các nhân vật
chính của sử thi là những anh hùng, tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý
chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng đợc miêu tả khá tỉ mỉ, đầy đủ từ cách ăn
mặc, trang bị, đi đứng đến những trận giao chiến với kẻ thù, những chiến công lừng lẫy và đôi khi
cả những nét trong sinh hoạt đời thờng của họ nữa, điều đáng chú ý là tất cả những cái này đều đ-
ợc miêu tả trong vẻ đẹp kì diệu khác thờng. Sở dĩ nh vậy là vì sử thi ra đời vào thời điểm nối tiếp
sau thần thoại, tức là từ thế giới của các vị thần bắt đầu chuyển sang thế giới của con ngời, do đó
cái nhìn đậm màu sắc thần kì nói trên đối với các nhân vật trong sử thi là không tránh khỏi
Trong sử thi, chủ yếu mô tả hành động của nhân vật hơn là những rung động tâm hồn. Nhng
trong những câu chuyện kể, cốt truyện thờng đợc bổ sung thêm những mô tả có tính chất tĩnh tại
và những cuộc đối thoại trang trọng có tính nghi thức" (Theo Lê Bá Hán Trần Đình Sử, , Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, 2004).
2. Tác phẩm
ở Việt Nam có hai loại sử thi dân gian là sử thi thần thoại và sử thi anh hùng. Sử thi anh

hùng miêu tả sự nghiệp và chiến công của ngời anh hùng trong khung cảnh những sự kiện lớn có
ý nghĩa quan trọng đối với toàn thể cộng đồng. Đăm Săn là sử thi anh hùng của ngời Ê-đê.
Chiến tranh là một trong những đề tài trung tâm của sử thi anh hùng. Đặc điểm này đợc thể
hiện nổi bật trong trích đoạn Chiến thắng Mtao Mxây. Chiến công và sự nghiệp anh hùng của
nhân vật trung tâm trong sử thi là niềm tự hào, là lí tởng xã hội của toàn thể cộng đồng. Hình t-
ợng ngời anh hùng sử thi có ý nghĩa biểu trng cao.
Sử thi Đăm Săn là một trong những thiên sử thi nổi tiếng đợc lu truyền rộng rãi ở Tây
Nguyên. Tác phẩm có bốn phần :
Phần 1 : Theo tục "nối dây" (chuê nuê)
(1)
, Đăm Săn lấy hai chị em Hơ Nhị và Hơ Bhị (chơng
1, 2).
Phần 2 : Các tù trởng Quạ (Mtao Gơr) và Sắt (Mtao Mxây) độc ác cớp vợ Đăm Săn và tranh
giành quyền lực, mu làm cho bộ tộc Đăm Săn suy sụp. Đăm Săn đã đánh bại hai tù trởng để bảo
vệ hạnh phúc gia đình và cuộc sống ấm no của bộ tộc (chơng 3, 4, 5).
Phần 3 : Đăm Săn có khát vọng trở thành một tù trởng hùng mạnh, vơn tới một cuộc sống
phóng khoáng, chàng chặt cây smuk, cây sinh mệnh của dòng họ vợ, chinh phục thiên nhiên, đi
bắt Nữ thần Mặt Trời nhng thất bại (chơng 6, 7).
Phần 4 : Đăm Săn chết, Đăm Săn cháu ra đời lại theo con đờng của cậu mình, dấn thân vào
cuộc chiến đấu mới (chơng 8).
3. Tóm tắt đoạn trích
8
Đăm Săn đột nhập vào nhà Mtao Mxây và gọi hắn ra thách đấu. Mtao Mxây do dự, đợc Đăm
Săn nhờng quyền đánh trớc nhng đờng khiên của hắn không đâm trúng Đăm Săn. Đến lợt Đăm
Săn rung khiên múa vun vút. Chàng đã đâm trúng đùi và ngời Mtao Mxây nhng đều không thủng.
Đăm Săn thấm mệt, vừa chạy vừa ngủ và mộng thấy ông Trời, đợc ông Trời bày cho cách dùng
cái chày mòn ném vào vành tai Mtao Mxây. Mtao Mxây ngã lăn ra đất và bị Đăm Săn cắt đầu
bêu ngoài đờng. Chàng kêu gọi tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây đi theo mình. Về làng, Đăm Săn
mở tiệc ăn mừng linh đình, kéo dài suốt cả mùa khô. Đăm Săn ngày càng hùng mạnh, giàu có,
"danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi".

4. Cách đọc và kể
Thể hiện giọng đọc và kể theo các vai : Đăm Săn, Mtao Mxây, dân làng, tôi tớ và ngời kể
chuyện.
Giọng Đăm Săn : quyết liệt, hùng tráng.
Giọng Mtao Mxây : khôn khéo, mềm mỏng.
Giọng dân làng : tha thiết.
Đặc biệt, giọng ngời kể chuyện trong thiên sử thi này rất linh hoạt : khi thủ thỉ, khoan thai :
"Nhà Mtao Mxây đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đầu cầu thang đẽo hình chim ngói. Ngôi nhà
của lão tù trởng nhà giàu này trông quả thật là đẹp. Cầu thang rộng một lá chiếu, ngời nối đuôi
nhau lên xuống mà khiêng một ché đuê vẫn không sợ chật" ; cũng có khi dồn dập đặc tả một không
khí giao tranh dữ dội : "Đăm Săn rung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vợt một đồi tranh. Một
lần xốc tới nữa, chàng vợt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây.
Còn Mtao Mxây thì bớc cao bớc thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông. Hắn vung dao chém phập một
cái, nhng chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu" ; khi lại hớng về đối thoại với ngời nghe và xen lẫn
bình luận : "Thế là Mtao Mxây phải đi ra. Bà con xem, khiên hắn tròn nh đầu cú, gơm hắn óng ánh
nh cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn nh một vị thần", "Thế là, bà con xem, nhà Đăm Săn đông nghịt
khách, tôi tớ chật ních cả nhà ngoài", "Bà con xem, chàng Đăm Săn uống không biết say, ăn không
biết no, chuyện trò không biết chán"...
II Kiến thức cơ bản
1. Các phơng thức nghệ thuật trong tác phẩm sử thi anh hùng đều tập trung tạo nên âm hởng
hùng tráng rất đặc trng của thể loại sử thi. Dựa vào những sinh hoạt đợc kể trong sử thi Đăm Săn,
có thể đoán bản trờng ca xuất hiện từ rất lâu đời. Từ thuở các tù trởng có đến hàng nghìn nô lệ,
hàng nghìn trâu bò, vải sợi phơi đầy sào, thịt trâu, thịt bò treo đầy khắp các nhà rông. ấy là thời
mà chế độ nô lệ đang rất thịnh hành ở các vùng rừng núi Tây Nguyên (ớc đoán vào khoảng giữa
thế kỉ XVII). Sử thi Đăm Săn mang đầy đủ những đặc điểm của một sử thi anh hùng. Thể hiện
bức tranh về con ngời và thiên nhiên hùng vĩ nhng ngời kể chuyện không chú trọng nhấn vào
miêu tả. Tác phẩm tập trung phản ánh những biến cố "khá dữ dội" trong cuộc sống của đồng bào
Ê-đê ; phản ánh những khát vọng lớn lao của họ trong buổi đầu lịch sử. T tởng, tình cảm của
nhân dân đợc gửi gắm trong hình tợng nhân vật Đăm Săn, ngời anh hùng có sức mạnh phi thờng,
có phẩm chất cao quý và có những chiến công lừng lẫy.

Có thể chia đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây thành 4 phần :
Phần một (từ đầu cho đến Ngơi cứ múa đi, ơ diêng

!) : Đăm Săn thách đấu Mtao Mxây.
Phần hai (Từ Mtao Mxây rung khiên múa vậy cho đến cắt đầu Mtao Mxây đem bêu
ngoài đờng) : Cuộc giao đấu giữa Đăm Săn và Mtao Mxây (gồm hai hiệp, ranh giới giữa hai hiệp
đấu là đoạn Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị).
Phần ba (từ Đăm Săn (nói với tôi tớ Mtao Mxây) cho đến Chúng ta ra về nào !) : Đăm
Săn kêu gọi dân làng và tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình.
Phần bốn (còn lại) : Đăm Săn cùng dân làng làm lễ cúng thần linh và ăn mừng chiến thắng.
2. Các nhân vật tham gia vào các sự kiện và thực hiện các hành động trong câu chuyện là
9
Đăm Săn, Mtao Mxây, Hơ Nhị vợ của Đăm Săn, ông Trời, dân làng, tôi tớ của Đăm Săn và của
Mtao Mxây. Mỗi nhân vật đều có vai trò nhất định đối với quá trình diễn biến của các sự kiện.
Chẳng hạn : Đăm Săn là nhân vật trung tâm, chi phối toàn bộ diễn biến của cốt truyện ; Mtao
Mxây nguyên nhân của cuộc xung đột (cớp vợ Đăm Săn), là đối thủ của nhân vật trung tâm ;
Hơ Nhị và ông Trời : giúp sức, trợ lực cho Đăm Săn, thúc đẩy cốt truyện diễn biến đến chiến
thắng của Đăm Săn. Bên cạnh đó có nhân vật quần chúng làm hậu thuẫn cho nhân vật trung tâm,
thể hiện thái độ và sức mạnh lí tởng của quần chúng cộng đồng hiện thân ở ngời anh hùng sử
thi.
3. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn tuy có mục đích riêng là giành lại vợ, nhng lại có ý nghĩa và
tầm quan trọng đối với lợi ích của toàn thể cộng đồng. Điều này đợc thể hiện qua lời nói và hành
động của các nhân vật. Về lời nói : Đăm Săn kêu gọi tôi tớ của Mtao Mxây đi theo mình sau khi
đã đánh thắng tù trởng của họ, nói với dân làng và tôi tớ làm lễ cúng thần linh, ăn mừng chiến
thắng. Về hành động, chi tiết miêu tả các nhân vật : Tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây tự nguyện
đi theo Đăm Săn ; cảnh dân làng ăn mừng chiến thắng,
4. Đoạn trích thể hiện khá rỡ nét những đặc sắc của nghệ thuật sử thi. Trớc hết, đó là nghệ
thuật tổ chức ngôn ngữ : Ngôn ngữ ngời kể chuyện biến hoá linh hoạt khi chậm rãi khoan thai,
khi ào ạt mạnh mẽ,... trong các đoạn miêu tả nhà Mtao Mxây, tả chân dung Mtao Mxây, tả cuộc
giao tranh giữa Đăm Săn và Mtao Mxây nhất là những đoạn miêu tả cảnh ăn mừng sau chiến

thắng của Đăm Săn. Ngôn ngữ đối thoại trong đoạn trích đợc khai thác triệt để từ nhiều góc độ,
đã góp phần khắc hoạ rõ nét hình tợng nhân vật (trong các lời đối thoại giữa Đăm Săn với Mtao
Mxây, lời của Đăm Săn nói với tôi tớ và dân làng của Mtao Mxây, đối thoại giữa Đăm Săn với
dân làng của mình sau chiến thắng). Đặc biệt, trong ngôn ngữ của nhân vật có nhiều chỗ sử dụng
các câu mệnh lệnh mang âm hởng hiệu triệu, vang vọng (ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rợu bắt
trâu ! ; Hãy đánh lên các tiếng chiêng ; Hãy đánh lên tất cả ) thấm đẫm chất sử thi anh hùng.
Mặt khác, trong ngôn ngữ của ngời kể chuyện, tác giả thờng xen lẫn những lời trực tiếp hớng đến
ngời nghe (Bà con xem ; Thế là, bà con xem ). Dạng lời này có tác dụng lôi cuốn ng ời nghe
nhập cuộc đồng thời góp phần bộc lộ trực tiếp thái độ, sự phấn khích mang sắc thái diễn xớng của
sử thi anh hùng, nó tạo ra sự giao tiếp sử thi, khơi gợi mối đồng cảm cộng đồng, giao hoà sử thi.
Việc sử dụng biện pháp tu từ so sánh và phóng đại đã tạo cho đoạn trích những hiệu quả diễn
đạt ấn tợng. Chẳng hạn, miêu tả Mtao Mxây : "khiên hắn tròn nh đầu cú, gơm hắn óng ánh nh cái
cầu vồng. Trông hắn dữ tợn nh một vị thần... giữa một đám đông mịt mù nh trong sơng sớm ;
Khiên hắn kêu lạch xạch nh quả mớp khô". Hoặc miêu tả Đăm Săn : "Một lần xốc tới, chàng vợt
một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vợt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông,
vun vút qua phía tây" ; "Chàng múa trên cao, gió nh bão. Chàng múa dới thấp, gió nh lốc" ; "Khi
chàng múa chạy nớc kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung" ; "đôi mắt long
lanh nh mắt chim ghếch ăn hoa tre" ; "Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to
bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì
gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc" Bên cạnh đó, các phép so sánh, phóng đại trong
ngôn ngữ nhân vật cũng đợc huy động tối đa : với Mtao Mxây "Ta nh gà làng mới mọc cựa kliê,
nh gà rừng mới mọc cựa êchăm", với Đăm Săn : "Cầu cho ta đ ợc bình yên vô sự, nạn khỏi tai
qua, lớn lên nh sông nớc, cao lên nh cây rừng, không còn ai bì kịp ; Hãy đánh lên tất cả cho ở dới
vỡ toác các cây đòn ngạch để nghe tiếng chiêng ăn đông uống vui nh mừng mùa khô năm mới
của ta vậy"
Biện pháp so sánh, phóng đại tạo ra sức hấp dẫn cho sử thi, đó là cách diễn đạt, mô tả bằng
hình ảnh sinh động, tạo ấn tợng về sức mạnh, vẻ đẹp thần thánh, siêu phàm đúng với tính chất
hùng tráng, mang tầm vũ trụ của nhân vật và hành động của sử thi anh hùng.
5. Chiến thắng Mtao Mxây, trích đoạn trong Đăm Săn sử thi anh hùng của ngời Ê-đê, kể về
10

chiến thắng của Đăm Săn trong cuộc chiến đấu với Mtao Mxây. Cuộc chiến đấu của Đăm Săn tuy
có mục đích riêng là giành lại vợ từ tay tù trởng khác nhng lại mang ý nghĩa và tầm quan trọng
đối với lợi ích của cả cộng đồng. Chiến công của anh hùng Đăm Săn là niềm tự hào, thể hiện lí t -
ởng, khát vọng của toàn thể cộng đồng. Từ nghệ thuật xây dựng tình tiết, sự kiện, ngôn ngữ cho
đến các biện pháp tu từ so sánh và phóng đại trong đoạn trích đều nhằm tô đậm vẻ đẹp, sức mạnh
mang tầm vóc sử thi hoành tráng của hình tợng nhân vật ngời anh hùng Đăm Săn trong chiến
công lẫy lừng. Vẻ đẹp của hình tợng ngời anh hùng Đăm Săn là biểu tợng cho sức mạnh, ý chí
của cộng đồng ngời Ê-đê xa xa.
III Liên hệ
Đọc đoạn trích Đi bắt Nữ thần Mặt Trời để hiểu thêm sức mạnh, tài năng và vẻ đẹp phi thờng
của nhân vật Đăm Săn :
... Đăm Săn nghỉ một ngày, nghỉ một đêm và một chiều. Một buổi sáng anh nói : "Ơ Hơ Nhị !
Ơ Hơ Bhị, đừng mong đợi tôi nhé".
Hơ Nhị : Thế anh đi đâu nữa ?
Đăm Săn : Tôi đi vào rừng xa. Tôi đi vào rừng không cùng tận. Tôi nghỉ ban đêm. Tôi đi ban
ngày.
Hơ Nhị : Sao lại muốn đi nữa ? Nếu anh muốn chiêng núm thì đã có ở nhà. Nếu anh muốn
chiêng bằng thì ở nhà cha đủ hay sao ?
Đăm Săn : Sao tôi lại đi kiếm chiêng núm ? Sao tôi lại đi kiếm chiêng bằng ? Tôi đi chơi
thôi, tôi đi chơi không có việc gì.
Hơ Nhị : ớ anh ! Bao nhiêu chiêng núm đều là của anh, bao nhiêu voi đều là của anh. Anh là
một tù trởng giàu mạnh, đầu đội khăn kép, vai mang túi da. Trăm chiêng núm anh đã có. Trăm
chiêng bằng anh đã có. Trăm con voi anh đã có. Rừng đầy tràn nồi đồng của anh. Đồng nớc đầy
tràn nồi đồng của anh. Lợn dê anh đầy sân. Tiếng tăm anh vang đến tận thần núi ; từ phía tây đến
phía đông, ai cũng phải khen anh là ngời gan dạ, anh dũng, đến nỗi bị thơng hay ngất đi cũng
không lùi trớc kẻ địch.
Đăm Săn : Tôi muốn đi bắt Nữ thần Mặt Trời. Nh vậy mới thành tù trởng hết sức giàu mạnh,
có nhiều chiêng núm, chiêng bằng, trên đời không ai bì kịp. Ngời vùng núi phía tây cũng không
hơn. Ngời vùng núi phía đông cũng không dám sánh. Lúc đó tôi đến đâu tre a lê phải cúi xuống.
Tôi đến đâu tre mơ ô

(1)
phải khô. Tôi đến đâu núi sẽ vỡ, suối tan. Tại sao tôi muốn đi ? Tôi nghe
nói trong tất cả thần linh ở núi, từ tây sang đông, thì Nữ thần Mặt Trời là ngời đẹp nhất, bắp chân
nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời. Đừng có mong đợi tôi. Tôi nghỉ mời ngày, tôi ngủ năm đêm,
tôi tìm kiếm suốt một năm.
Rồi Đăm Săn cỡi ngựa ra đi. Chàng khoác áo màu đen màu trắng
(2)
. Tay cầm lao. Gơm giắt
thắt lng. Chàng đến nhà Tang Mang.
Tang Mang : Tha anh đi đâu ? có việc gì ?
Đăm Săn : Tôi đói đến kiếm cơm. Tôi khát đến kiếm rợu uống. Tôi đi tìm dây pam pil
(3)
. Tôi
thèm thịt bò, thịt trâu, đến kiếm ăn.
Tang Mang : Đây cơm, đây gà rán, đây rợu cần và bây giờ anh hãy nói chuyện anh cho tôi
nghe. Anh đi đâu mà vội vàng nh vậy ?
Đăm Săn : Tôi vội, là vì tôi muốn bắt Nữ thần Mặt Trời. Anh ở gần rừng, anh có biết con đ-
ờng đi tới chỗ nàng nuôi trâu nuôi bò không ?
Tang Mang : Anh ạ ! tôi chỉ nh một đứa trẻ không biết rõ rừng. Tôi chỉ nh ngời đàn bà
không biết đờng voi đi ở đâu, không biết đờng tê giác ở đâu. Tôi không biết trâu bò nàng ở đâu
(
1) Tre a lê,

tre mơ ô
(còn gọi là
tre la
,
tre lồ ô
)
: loại tre dùng làm sàn nhà ; nghĩa bóng chỉ những ngời dân bình thờng.

(
2)
á
o màu đen màu trắng
: áo dày nút, có đính nhiều dải khuy, có nút đồng tạo dáng khoẻ mạnh. Tù trởng có đính thêm một miếng vải trắng nhỏ ở tay phải để phân biệt với ngời khác.
(
3)
Pam pil
: một loại cây cho quả nấu nớc gội đầu.
11
cả.
Đăm Săn : Tôi hỏi xem anh biết không. Vì anh ở gần rừng, vì anh ở giữa đông và tây. Đi,
anh giúp tôi, dẫn tôi đến chỗ trâu bò của nàng đi qua. Hãy giúp tôi tới đó.
Rồi hai ngời đi. Họ ngủ mời đêm trong rừng, ngủ năm ngày, đi luôn một năm. Một ngời cỡi
ngựa đực, một ngời cỡi ngựa cái. Tiếng ngựa chạy nghe nh tiếng sông than, nh tiếng biển thở.
Tiếng vó ngựa trùm lên tất cả rừng núi. Họ đến làng Đam Pắc Quây. Trẻ con trên sàn đứng xem.
Phụ nữ đứng ngắm. Ai cũng biết danh tiếng Đăm Săn, biết anh là một tù trởng giàu mạnh đầu đội
khăn kép, vai mang túi da. Họ đến đầu làng. Họ đến tận nhà. Ngời đến buộc ngựa, kẻ đến xem và
ngắm nghía. Chỉ hai bớc họ đã đến lên nhà, giậm chân lên sàn, làm sàn lắc bảy lần qua phía
đông. Đăm Săn móc dao vào phên rồi lại ngồi giữa nhà, trông dẻo nh con rắn trong hang, con
hùm bên bờ suối. Tiếng nói tiếng cời của chàng nghe nh sấm vang sét đánh. Chẳng ở đâu có ngời
cời nói nh Đăm Săn.
Đam Pắc Quây : Hỡi các con ! Mau đa ông một cái gối ! Mau mang chiếu tới, mau mang tới
một cái chăn. Dới trải chiếu trắng, trên trải chiếu đỏ ! Mau mang thuốc lá, thuốc thái nhỏ đựng
trong một bát đồng, thuốc nguyên lá đựng trong cả thúng. Sao cho khách Đăm Săn hút mãi mãi
không hết. Nấu một con gà ấp và một con gà đẻ, giã trắng gạo, nấu cơm và đa mời khách ăn. Đi
lấy rợu về, lấy rợu đựng trong chum ché tuk
(1)
, chiếc chum miệng rộng nh miệng ngời Mnông,
chiếc chum chạm ở trên, cẩn ở dới, chiếc chum quai có vẽ và đóng giá ba voi. Ai đi lấy nớc thì đi

lấy đi. Ai đánh chiêng đánh đi. Ai cắm ống cần
(2)
thì cắm đi. Cắm cần rồi mời Đăm Săn uống tr-
ớc.
Đam Pắc Quây : Hỡi anh ! Bây giờ ta đã uống rợu, đã ăn gà, đã ăn cơm, tôi xin hỏi : có
chuyện gì mà anh tới đây ? có ai đánh cớp nhà, có ai xâm chiếm làng, có ai bắt thanh niên hoặc
phụ nữ không ?
Đăm Săn : Không phải vậy đâu. Không phải tôi đến vì chuyện nọ chuyện kia đâu. Tôi đến
nghe tự miệng anh, nhờ anh cho biết chúng tôi đi bắt Nữ thần Mặt Trời đợc không ?
Đam Pắc Quây : ấy chết ! Đờng này đầy cọp. Đờng đi đầy rắn độc. Anh không thể đi đến
Nữ thần Mặt Trời đợc đâu. Ngời ta đã cắm chông trên đờng đi hái cà. Ngời ta đã cắm bẫy trên
đờng đi hái ớt. Tù trởng vào chết tù trởng. Ngời giàu sang vào cũng chết ngời giàu sang. Ngời
gan dạ vào chết ngời gan dạ.
Đăm Săn : Chẳng lẽ không ai vào đợc sao ? Đối với ngời gan dạ, anh dũng đến mức không
bao giờ lùi bớc, dẫu sắp chết hay ngất đi cũng không lùi, thì có vào đợc không ? Trời bảo vệ thân
thể tôi, anh không cho tôi đi, cũng mặc, tôi cứ đi. Tôi đã mang theo bùa ngải trớc đây đã giúp cho
tổ tiên mà thắng, mà nay cũng sẽ giúp tôi thắng. Bùa ngải này giúp cho tôi giết chết tê giác dới
hầm sâu, giết chết hùm cọp giữa rừng rậm. Nói gì thứ bò cạp giữa đờng, rết trên ngọn cây. Nói gì
hùm và cọp có thể gặp.
Đam Pắc Quây : ấy chết ! Dới nớc thì đỉa, trên cây thì sên, nó cắn chết. Xơng ngời đầy bìa
rừng, xơng trâu xơng bò đầy núi. Chỗ ấy đã chết biết bao tù trởng khoẻ mạnh và cơng quyết. Đất
trong rừng là đất đen
(1)
nhão nh nớc. Nhiều tù trởng đã chết lún trong đất lỏng ấy. Tôi giữ anh lại
thôi. Nhất định tôi không thể để anh đi. Tôi làm lễ cho anh một con lợn, một con trâu nhng nhất
định không để anh vào rừng của Trời, rừng đầy chông gai, nhiều đến nỗi con sóc có nhảy vào thì
thân đã bị đâm thủng trớc lúc chân sờ tới đất.
Đăm Săn : Mặc kệ ! để tôi kiếm một lối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn ! Gặp hùm tôi sẽ giết
(
1)

Ché tuk
: loại chum to đựng rợu lu n
iên, ngời Ê-đê coi đó là một tài sản quý, có khi phải đổi hàng chục trâu bò mới lấy đợc
một ché tuk này.
(
2)

ng cần
: ống trúc nhỏ làm cần uống rợu theo phong tục của nhiều dân tộc thiểu số ở nớc ta.
1
(
)
Đất đen
: ngời Ê-đê quan niệm giữa trời và đất có một vùng đất đen, ban đêm cứng, ban ngày nhão ra và dính nh sáp. Vùng đất đen, rừng đen này do nữ thần Sun Y Rít cai quản. Rừng đen còn
gọi là Rừng Sáp Đen, Rừng Sun Y Rít hoặc Rừng Đất Nhão Cỏ Cằn.
12
hùm.
Đam Pắc Quây : Lúc đáng ở thì anh không ở. Lúc đáng đi thì anh không đi. Đốt một cái
đuốc rồi đi vào lúc còn tối.
Đăm Săn : Khắp nơi, từ ngời Ê-đê vùng sông lớn, đến ngời Mnông vùng hạ lu, từ tây sang
đông, đứa nào cả gan dám nói Đăm Săn này không phải là một tù trởng đầu đội khăn kép, vai
mang túi da ? Ta đây không sợ.
Đam Pắc Quây : Anh cha đi à ? ấy chết ! Tại sao cha thắp đuốc mà đi lúc còn đêm tối. Làm
sao thấy đợc để khỏi rơi vào rừng voi ! Khỏi rơi vào đất lỏng rừng bà Sun Y Rít.
Đăm Săn : Bây giờ quá nửa đêm rồi. Gà đã gáy tứ phía. Trời sắp sáng. Thần ánh Sáng sắp
lên.
Đam Pắc Quây : ơ anh ! Anh chỉ đi theo ngựa cho đến lúc nào trời còn tối và đất còn rắn.
Vì đến lúc mặt trời lên đất sẽ nhão lại, trở nên mềm lún. Ngời ta vẫn nói rừng Sun Y Rít nh vậy
đó.
Rồi Đăm Săn lên đờng, đi qua rừng âm u, trèo qua núi rậm. Cỏ tranh cắt nát tay anh. Mây cắt

nát chân anh. Anh không có một thứ gì ăn uống. Anh cứ đi mãi đi mãi, càng đi càng thấy rừng
vắng nh không có ai ở. Anh đi đến chuồng nuôi trâu, bên trên có thả diều của Trời. Chỗ đó không
có ai cả, đàn ông cũng không, đàn bà cũng không. Đi mãi gặp một cái hàng rào dới làm bằng dây
đồng, trên làm bằng dây sắt. Anh thoáng thấy làng của ngời gìn giữ mặt trời, mặt trăng. Tới một
chỗ cao, anh chặt một sờn núi, ném xuống bùn làm con đờng để vợt qua ranh giới giữa trời và
đất. Anh đến một nhà đơn độc, nhà vợ chồng Hơ Kung và Y Du ở với thần Mặt Trời và Mặt
Trăng
(1)
. Ngời ta nghe thấy tiếng sấm sét, tiếng ma rơi y nh ngựa thở, ở đây sáng luôn luôn không
có đêm tối. Anh thấy cái nhà Nữ thần Mặt Trời ở. Thang lên nhà là một cầu vồng. Cối giã gạo
bằng vàng. Chày cũng bằng vàng, lúc dùng thì ánh sáng lóng lánh ngợp mắt. Anh xuống ngựa,
mở yên, trèo lên thang nhà, tin cho trong nhà biết, rồi đứng ở sân biên nhìn qua nhà của thần Mặt
Trời. Anh ngắm nghía nhà to, ngắm voi quanh sân nhà, trong nhà đầy chiêng núm và chiêng
bằng. Tôi tớ trai và gái đông nh mây. Sờn nhà thếp vàng. Tất cả nhà các tù trởng giàu mạnh cha
có nhà nào nh vậy. Anh đi qua cửa, móc dao vào phên, ngồi giữa nhà. Ngời nhà đi lại từ nhà sau
ra nhà trớc nhìn Đăm Săn nh nhìn một thần linh mà danh tiếng đã vợt qua núi rừng tới thần ánh
Sáng.
Nữ thần Mặt Trời : ơ các con, xem ngời nào lạ vào ngoài nhà.
Tôi tớ : Tha bà, chúng tôi không biết. Ngời ấy mặc một cái áo da. Lông chân mợt nh chuôi
dao. Giọng nói nh tiếng ve sầu. So với tất cả các tù trởng không có ai giống nh thế.
Nữ thần Mặt Trời thay một cái váy mới. Thấy váy đó cha đẹp, lại thay váy khác đẹp hơn. Váy
nàng nhấp nhánh nh chớp sáng. Tóc nàng chải bóng che xuống hai vai. Nàng đi ra khỏi buồng, và
tới đâu thì chỗ ấy sáng lên. Dáng đi nh chim diều bay, nh chim phợng hoàng liệng, nh nớc chảy
êm đềm. Lúc dừng lại ngồi hay đứng, cũng đẹp không ai so tày. Tiếng nàng nghe rõ mặc dầu ng-
ời cha thấy. Cổ nàng đẹp nh cổ con công. Nàng là con của Trời và Đất.
Nữ thần Mặt Trời : Anh muốn gì hỡi ngời dới trần thế ?
Đăm Săn : Tôi đến đây vì muốn có ngời nấu cơm cho tôi ăn, dệt vải cho tôi mặc.
Nữ thần Mặt Trời : Tại sao anh lại để dao ở không, để vợ anh một mình, để tôi tớ anh ở nể.
Đăm Săn : Dao tôi cầm ở tay, rìu tôi đã có cán, và ở trên đất đàn ông, đàn bà đã vừa đôi
(1)

.
Nữ thần Mặt Trời : Sau lng thì anh yêu một ngời mà trớc mặt thì lại cời nói với ngời khác.
Đăm Săn : Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi muốn có một vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ
mang nàng xuống trần để lập một gia đình chung với Hơ Nhị, Hơ Bhị.
(
1)
Hơ Kung và Y Du
: theo thần thoại Ê-đê, Hơ Kung và Y Du là hai anh em ruột, bị mọi ngời xua đuổi vì đã mắc tội loạn luân. Họ trốn chạy, Y Du trốn vào mặt trăng và Hơ Kung trốn vào mặt
trời. Họ chỉ gặp nhau khi nhật thực, nguyệt thực, còn thì mãi mãi xa nhau.
(
1) Đoạn này theo bản dịch củ
a Nguyễn Hữu Thấu và Hà Công Tài (NXB Khoa học xã hội, 1988) rõ nghĩa hơn
: "Đăm Săn :

Tôi không có đôi có lứa").
13
Nữ thần Mặt Trời : Thôi ! Sao lại đi chỗ khác ! Tôi muốn ở lại quê hơng của ông bà tôi, ở
lại làng của tổ tiên đã sinh ra các thần Mặt Trời, Mặt Trăng. Tôi muốn ở lại xứ tôi là chỗ giáp
giới giữa trời và đất.
Đăm Săn : Sao lại không đi. Tôi đã chịu khó lấp vũng đất lỏng ngập tới đầu gối, ngập tới
nách, để đi đến đây.
Nữ thần Mặt Trời : Nhng nếu tôi đi, ở trên đất lợn gà sẽ chết hết. Tê giác, trâu, bò, lừa, ngựa
sẽ chết hết. Ngời Xiêm, ngời Miên cũng sẽ chết hết. Sẽ không có đất để làm nơng rẫy. Cả ngời Ê-
đê sẽ không còn nớc uống, cây cối sẽ không còn ra trái. Nếu tôi đi, cây cối trong rừng rậm sẽ chết,
cây cối trong rừng tha sẽ khô héo. Lau sậy, cỏ tranh sẽ không còn cây non, không mọc lại nữa.
Trên đất sẽ nắng hạn lớn, nớc suối sẽ khô. Thôi ngời đi đi, vì chốc lát ta sẽ mọc lên đây.
Đăm Săn : Không ! Tôi không đi đâu. Với dao và nỏ tôi đã đi qua rừng, tôi đã giết tê giác d-
ới vực thẳm, tôi đã giết hùm trong núi cao, đã giết quạ diều trong cây trồng, giết ma quỷ trên các
đờng đi. Tôi đã hết lòng hết dạ để đến với nàng, vì tôi muốn ở với nàng, chỉ lúc nào nàng chịu ở
với tôi thì tôi mới chịu về.

Nữ thần Mặt Trời : Thôi ngời đi đi ! Đi ra khỏi nhà ! Vì ta là con của Trời. Ngời chỉ biết ăn
cơm, rửa ráy với nớc lã, ta không thể nhận cùng ở chung chạ đợc đâu.
Đăm Săn : Tôi nghĩ tôi thơng nàng, nhng đằng sau lng thì nàng không thơng tôi, đằng trớc
mặt thì cời nói mà không nhận lời
(1)
. Thôi tôi trở về làng cũ vậy.
Nữ thần Mặt Trời : Hãy khoan đừng đi bây giờ, vì ta sắp lên và nh vậy, ngời sẽ chết ngay.
Đăm Săn : Tôi không cần chết hay sống. Tôi muốn đi ngay.
Nói rồi anh lên ngựa đi về. Lúc đó mặt trời ló lên trên đỉnh núi. Ngựa Đăm Săn chạy hết tốc
độ đến khoảng giữa rừng. Mặt trời toả ánh sáng ra tứ phía. Đất trở nên nhão. Ngựa ngập đến
chân. Mặt trời lên mãi đến nửa trời ngựa vẫn còn chạy, ngập đến bụng. Mặt trời lên dần mãi đến
đỉnh đầu, đất loãng ra nh nớc, ngựa ngập mình và cả Đăm Săn cũng ngập lún vào đất. Trớc lúc
lún ngập, Đăm Săn thấy con bớm bay qua.
Đăm Săn : Hỡi bớm, cứu ta với !
Bớm : Tôi không cứu đợc.
Đăm Săn thấy một con chuồn chuồn bay qua.
Đăm Săn : Hỡi chuồn chuồn, cứu ta với !
Chuồn chuồn : Tôi không cứu đợc.
Đăm Săn : Không cứu ta đợc thì hãy đến làng vợ ta nói rằng ta bị lún trong rừng ma, trong
rừng bùn, trong rừng bà Sun Y Rít, trong rừng U Minh đen nh mực.
Chuồn chuồn liền bay đi, đến nhà Hơ Nhị, Hơ Bhị...
(Đào Tử Chí dịch, Bài ca chàng Đăm Săn, NXB Văn hoá, 1959)
Đẻ đất đẻ nớc_________________________________________
(Trích sử thi Đẻ đất đẻ nớc)
I Gợi dẫn
1. Thể loại
Đẻ đất đẻ nớc là thiên sử thi thần thoại của ngời Mờng một dân tộc thiểu số hiện c trú chủ
yếu ở tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá. Tác phẩm thể hiện trí tởng tợng vô cùng phong phú và sinh
động của ngời Mờng xa. Đẻ đất đẻ nớc kể lại những sự việc ở trần gian từ khi khai thiên lập địa,
khi vũ trụ còn là một khối hỗn mang, đến khi bản mờng đợc ổn định. Ngời Mờng đã giải thích

thế giới theo t duy thần thoại, t duy hồn nhiên của con ngời ở thời bình minh của lịch sử loài ng-
ời. Đẻ đất đẻ nớc là sự hệ thống hoá các thần thoại và truyền thuyết của dân tộc Mờng, vì thế tầm
vóc của nó rất đồ sộ. Tác phẩm là niềm tự hào của ngời Mờng, và pho sử thi thần thoại này vẫn đ-
(
1) Đoạn này cũng ở sách trên, dịch rõ nghĩa hơn : "Đăm Săn :

Tôi nghĩ tôi thơng nàng, hỡi ngời con gái của thần Trời ! Nhng cho đến đây, đằng lng
nàng đã không a, đằng bụng nàng đã không ng, cả tiếng nói, tiếng cời cùng tôi nàng cũng tiếc".
14
ợc các thầy cúng đọc trong các nghi lễ cúng ngời chết.
2. Tác phẩm
Theo các nhà nghiên cứu, hiện có hơn 10 dị bản của thiên sử thi này. Bản do Vơng Anh và
Hoàng Anh Nhân su tầm biên dịch ở Thanh Hoá (NXB Khoa học xã hội, 1986) dài hơn 8000
câu, gồm 28 khúc : Mở đầu ; Đẻ đất ; Đẻ nớc ; Cây si ; Đẻ Mờng ; Đẻ ngời ; Chia năm chia
tháng ; Dịt Dàng ; Lang Tá Cài ; Lang Cun Cần ; Làm nhà Lang Cun Cần ; Tìm lửa tìm nớc ;
Tìm cơm tìm lúa ; Tìm rợu ; Tìm lợn tìm gà ; Tìm trâu ; Lang Cun Cần lấy vợ ; Lấy vợ khác cho
Lang Cun Cần ; Lang Cun Cần chia đất ; Tìm chu ; Chặt chu ; Làm nhà chu ; Đốt nhà chu ; Săn
moong lồ ; Săn cá điên, săn quạ điên ; Giặc ma ruộng ; Giặc ma may, giặc ma lang ; Đa vua.
Đoạn trích thuộc chơng Mở đầu của tác phẩm. Tác giả dân gian đã tởng tợng về sự bắt đầu
của trời đất cũng giống nh các dân tộc khác, đó là cho thế giới lúc đầu là một khối hỗn mang cha
có sự sống. Cách hiểu này cũng rất gần với những phát hiện của khoa học ngày nay, nh ng tác giả
dân gian lại kể về sự bắt đầu ấy một cách đầy huyền bí và thiêng liêng, thể hiện kết quả của lối t
duy ngây thơ nhng lôgic của ngời xa.
3. Tóm tắt
Đoạn trích kể lại thời hỗn mang "cha có ngôi sao đỏ đỏ, ch a có ngọn cỏ xanh xanh, ch a
có nớc sông Quanh, mó Vận, ch a có sông Sàng, mó Lí". Trên trời, dới đất đều trống không, xơ
xác. Cỏ cây, hoa lá, các hiện tợng thiên nhiên, các loài muông thú đều muốn dậy, muốn sinh nh-
ng cha đợc Con ng ời cũng cha có. Thứ gì cũng "cha có", "cha nên".
4. Cách đọc và kể
Đọc bằng giọng kể, tha thiết. Chú ý hình thức diễn đạt và kết cấu đặc biệt lặp đi lặp lại của

một số cụm từ : cha có, còn nên, muốn dậy nhng cha có,...
II Kiến thức cơ bản
Đẻ đất đẻ nớc là bộ sử thi thần thoại lớn, nơi hội tụ hệ thống những câu chuyện thần thoại về
sự hình thành trời đất của ngời Mờng. Tác phẩm kết tụ đặc điểm của hai thể loại văn học dân gian
: thần thoại và sử thi dân gian. Thần thoại là thể loại tự sự bằng văn xuôi, kể lại sự tích các vị thần
sáng tạo thế giới tự nhiên và văn hoá, phản ánh nhận thức và cách hình dung của ngời thời cổ về
thế giới và đời sống con ngời. Còn sử thi dân gian là thể loại tự sự bằng văn vần, kể lại những sự
kiện có ý nghĩa quan trọng đối với toàn thể cộng đồng. Sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nớc là tác
phẩm tự sự bằng văn vần kể về sự hình thành của thế giới, từ khi trái đất cha có sự sống đến lúc
bản mờng ổn định, tác phẩm đã phản ánh nhận thức và cách hình dung của ngời Mờng thời cổ về
nguồn gốc của thế giới và quá trình hình thành, phát triển và mở rộng bản mờng.
Về thời điểm bắt đầu của trời đất, ngời Mờng kể :
Ngày xa sinh đời trớc
Dới đất cha có đất
Trên trời cha có trời
Trên trời cha có ngôi sao đỏ đỏ
Dới đất cha có ngọn cỏ xanh xanh

Tất cả đều "cha có", những từ cha có và cha nên đợc lặp lại nhiều lần trong đoạn trích là một
thủ pháp nghệ thuật. Vũ trụ là một khối hỗn mang, trời đất cha tách riêng ra. Ngời kể đứng ở thời
điểm mọi thứ đã có đầy đủ rồi tởng tợng để nói về thời cha có gì. Cách kể về những cái cha có
không phải sắp xếp ngẫu nhiên mà theo một hệ thống rất lôgíc, chứng tỏ trình độ t duy của ngời
kể.
Cha có trời

cha có ngôi sao đỏ đỏ
Cha có đất

cha có ngọn cỏ xanh xanh.
Cha có sông núi, đất nớc

15
Cha có đờng đi và những ngọn đồi.
Vũ trụ là một khối mịt mùng, cha có gì định hình rõ rệt, điều đó còn đợc thể hiện ở những từ
ngữ nh pạc lạc, pời lời, puổng luổng, tịn vịn. Cha có không gian sinh tồn và phát triển của sự
sống, vì thế sự sống hoàn toàn thiếu vắng.
Những thứ "cha có" không hoàn toàn có nghĩa là cha xuất hiện mà còn có nghĩa là cha
hoàn chỉnh, cha đầy đủ.
Cha có đủ thành phần để hình thành, cha đầy đủ thành phần nên cha xuất hiện, đó là :
Móc muốn dậy nhng cha có lóng
.
Dây sắn muốn dậy néo vò
Nhng cha nên néo vò

Ba ba muốn dậy cha có ngực có hông
Moong tờng, moong ống muốn dậy cha có sừng có ngà
Trống gà, trống công, trống khôn muốn dậy nhng cha có mào
Cá chuối, cá gáy muốn dậy nhng cha có mang có vây
Con nhà, con ngời muốn dậy cha có mặt mũi
Những thứ "cha nên" ấy là những bộ phận còn thiếu của sự vật và đều là những bộ phận quan
trọng.
Có trờng hợp "muốn dậy" nhng lại cha đủ điều kiện :
Dây sọ muốn dậy leo đất leo nớc
Nhng cha nên leo đất leo nớc
Kim muốn dậy nhng cha có thép

Hàng cày muốn dậy nhng cha có tay

Khỉ muốn dậy nhng cha có đồi út đồi U
Và còn có rất nhiều thứ cha thể xuất hiện cha có bởi cha đủ hệ thống. Mọi vật sinh ra trên
thế giới này đều có đôi lứa, đều thuộc một hệ thống nào đó, có trâu phải có bò, có chim nhò phải

có chim nhiện, có ngời tài phải có ngời vụng. Thế giới tồn tại và phát triển nhờ có sự cân bằng âm
dơng, vì thế khi cha có đủ hệ thống thì sự vật cha thể xuất hiện :
Cờ hẹp muốn dậy nhng cha có cờ tớng

Mọi thứ đều "muốn dậy" nhng cha đủ thành phần, cha đủ điều kiện, hệ thống để nó ra đời. D-
ờng nh sự sống đã ẩn chứa những tiềm năng rất lớn khi vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vì thế
mà khi có không gian sinh tồn (trời, đất, sông, núi) và những điều kiện tồn tại là mọi vật xuất
hiện và phát triển nhanh chóng. Quan niệm nói trên chứng tỏ tác giả sử thi hình dung sự hình
thành thế giới không đơn giản bởi t duy thần thoại, mà đã giải thích nó một cách có cơ sở khoa
học : mọi thứ sinh ra trên thế giới đều có nguyên do và lợi ích của nó.
Đây là một lối diễn đạt thể hiện rõ nét ngây thơ trong t duy giải thích của ngời xa, đồng thời
thể hiện quan điểm của ngời Mờng về sự hình thành, tồn tại và phát triển của tự nhiên và xã hội :
mọi thứ đều phải nằm trong một hệ thống nào đó, bất kì một sự vật hiện tợng nào sinh ra trên trái
đất này đều có lí do, đều cần những điều kiện nhất định. Quan niệm này có cơ sở triết học duy
vật, tuy nhiên nó lại đợc thể hiện dới hình thức của t duy thần thoại. Điều này đã thể hiện đợc cả
hai vẻ đẹp, vẻ đẹp trí tuệ và vẻ đẹp tâm hồn của ngời xa.
III liên hệ
1. Đọc đoạn mở đầu, trớc đoạn trích trong sách giáo khoa :
16
Nói một chuyện đời xa
Trên đồi, ta truyền lại cho con bớm bạc
Dới nớc, ta truyền lại cho con chạng kha
(1)
Trên trời ta truyền lại cho sông Ngân hà
Trong cửa, trong nhà
Ngời già truyền cho con cháu
Muốn có lụa để may quần may áo
Muốn có vải trắng bông gạo để nhuộm phẩm tím phẩm xanh
Muốn dệt gấm ở sân rộng
Muốn trải vải trắng áng cao

(1)
Con nhà con ngời
Ngày mai phải lên đồi trồng bông cho sớm
Muốn ăn thịt nai nớng, thịt nai khô
Muốn ăn cá kho, cá gắp
Con ngời con nhà
Ngày mai phải đi sông thả lới
Đi suối đơm đó, đơm rắc, làm chặng, làm uông
(2)
Con trai đi rừng có bạn súng
Con gái giã gạo có bạn thúng, bạn nong
Muốn biết chuyện ngời Mờng ngày xửa ngày xa
Thì trông ra mà nghe kể lại
Ngời già con nít nghe chuyện quên đói
Con trai con gái nghe chuyện bỏ cả áng xim
(3)
ở mờng xa chìm xa nổi
Nghe một chuyện nên rõ rõ
Tỏ một chuyện nên lớn lớn
Nghe hết ngọn hết ngành
No buổi, no ngày cho lòng đỡ nhớ.
(Phan Ngọc, Tuyển tập truyện thơ Mờng, NXB Khoa học xã hội, 1986)
2. Đẻ đất đẻ nớc có đủ bốn yếu tố bắt buộc của một sử thi :
Thứ nhất, đó là một tác phẩm tự sự. Nó kể lại sự ra đời của trời, đất, nớc, mờng, dân tộc M-
ờng.
Thứ hai, đó là một tác phẩm mang tính lịch sử, bởi vì đây là một thí nghiệm giải thích bằng
lịch sử không những sự hình thành của tộc ngời Mờng, mà cả những thành tựu của văn hoá : làm
nhà, kiếm lửa, trồng lúa, sự phân chia trong nội bộ tộc ngời Mờng, quá trình lao động sản xuất.
Thứ ba, đó là một tác phẩm mang tính nhân dân sâu đậm, bởi vì nó phổ biến khắp mọi nơi
ngời Mờng sinh sống. Nó trở thành một yếu tố thuần khiết của đời sống, đến mức độ nó trở thành

những khúc hát đa linh hồn ngời Mờng trở về cội nguồn, với tổ tiên.
Thứ t, đó là một tác phẩm kì vĩ, vì từ đầu đến cuối nó nói lên mối quan hệ qua lại giữa thế
giới trần gian với thế giới thần linh.
Tuỳ theo cách quan niệm mối liên hệ giữa con ngời với thần linh ngời ta chia ra hai loại sử
thi, là loại sử thi dân gian và loại sử thi bác học. Sự phân biệt này là rất quan trọng để đánh giá
cho đúng ý nghĩa lịch sử của Đẻ đất đẻ nớc.
(
1)
Chạng kha
: con gọng vó.
1
(
)
á
ng cao
: sân trên sàn rộng, nơi ngồi vui chơi.
2
(
)
Làm chặng
,
làm uông
: làm nh đăng cá ở miền xuôi, cái đăng này chặn một đoạn khe.
3
(
)
á
ng xim
: nơi tìm hiểu tình tự.
Xim

cũng có nghĩa
là tình yêu.
17
(Phan Ngọc, Tuyển tập truyện thơ Mờng, Sđd)
uy-lít-xơ trở về________________________________hô-me-rơ
(Trích Ô-đi-xê sử thi Hi Lạp)
I Gợi dẫn
1. Tác giả
Hô-me-rơ là nhà thơ lớn mở đầu cho lịch sử văn học cổ đại Hi Lạp, "cha đẻ của thơ ca Hi
Lạp". Về tiểu sử của Hô-me-rơ, theo nhiều nhà Hi Lạp học thì ông là một nghệ sĩ dân gian, đã có
công su tầm, chỉnh đốn những bài ca dân gian ngắn về "truyền thuyết cuộc chiến tranh Tơ-roa"
để xây dựng thành hai tác phẩm hoàn chỉnh, hai bản anh hùng ca đồ sộ là I-li-át và Ô-đi-xê. Theo
ớc đoán, Hô-me-rơ sống vào thế kỉ IX hoặc VIII trớc Công nguyên.
2. Tác phẩm
Bản anh hùng ca Ô-đi-xê (Bài ca về chàng Uy-lít-xơ) gồm 12.110 câu thơ, chia làm 24 khúc
ca, lấy đề tài từ thần thoại Hi Lạp. Tác phẩm kể về một trong những cuộc hành trình trở về của
các chiến binh Hi Lạp sau chiến thắng thành Tơ-roa, đó là hành trình đầy gian lao để trở về quê
hơng I-tắc của chàng Uy-lít-xơ, ngời anh hùng của ngời Hi Lạp.
Sau mời năm tham gia chiến trận, quân Hi Lạp đã chiến thắng và giành đợc thành Tơ-roa
nhờ mu kế "con ngựa gỗ" mà Uy-lít-xơ là tác giả. Uy-lít-xơ xuống thuyền trở về xứ sở, nơi vợ và
con trai đang ngóng trông chàng. Nhng khi tất cả những ngời anh hùng Hi Lạp nếu còn sống đều
đã trở về quê hơng thì Uy-lít-xơ vẫn bặt vô âm tín. Còn vợ chàng, nàng Pê-nê-lốp, thì bị bọn cầu
hôn đến quấy nhiễu, buộc nàng phải chọn lấy một trong số họ để có ngời thay Uy-lít-xơ trị vì v-
ơng quốc. Pê-nê-lốp phải dùng mu dệt thảm cới để trì hoãn. Còn Uy-lít-xơ và các bạn trên hành
trình trở về đã gặp phải rất nhiều tai nạn. Họ ăn phải hoa lú ở xứ Lô-tô-pha-giơ nên quên đờng về.
Sau đó rơi vào tay những gã khổng lồ ăn thịt ngời Pô-li-phem. Nhờ trí thông minh của Uy-lít-xơ,
họ thoát khỏi nơi đó thì lại rơi vào tay gã khổng lồ Le-tri-ông, rồi tới xứ sở của mụ phù thuỷ
Xiếc-xê. Thần linh báo cho Uy-lít-xơ biết chàng còn gặp phải nhiều tai nạn khác nữa. Chàng
cùng đoàn thuỷ thủ lại lọt vào vùng biển của những nàng tiên cá Xi-ren có tiếng hát mê hồn, ai
nghe thấy tiếng hát ấy thì sẽ tự nhảy xuống biển mà chết. Nhờ thông minh, Uy-lít-xơ vẫn nghe đ-

ợc tiếng hát mà không bị chết. Sau đó họ lại lọt vào eo biển có hai con quỷ Ca-líp và quỷ Xi-la
canh giữ rồi đến xứ sở của thần mặt trời Hê-li-đôx. Chạy khỏi nơi này họ lại bị thần biển nổi giận
nổi sóng đánh chìm thuyền để trả thù cho con trai của thần là tên khổng lồ Pô-li-phem đã bị Uy-
lít-xơ chọc mù mắt. Và thuyền của chàng bị đẩy đến đảo của tiên nữ Ca-líp-xô xinh đẹp có mái
tóc vàng óng. Tiên nữ đã yêu chàng say đắm và giữ chàng ở lại tới bảy năm. Mặc dù đợc tiên nữ
yêu thơng hết mực nhng Uy-lít-xơ vẫn không nguôi thơng nhớ vợ con và xứ sở. Bảy năm trên đảo
chiều nào chàng cũng ra ngồi ở bờ biển mắt hớng về quê hơng nớc mắt giàn giụa. Thần linh trên
đỉnh Ô-lanh-pơ xúc động nên yêu cầu tiên nữ không đợc giữ Uy-lít-xơ nữa. Nhng chàng còn lạc
vào xứ Phê-a-xi hiếu khách, sau đó mới trở về đợc quê hơng. Về đến nhà, Uy-lít-xơ cùng con trai
giết hết bọn cầu hôn, sau đó còn phải trải qua những thử thách của nàng Pê-nê-lốp thuỷ chung thì
gia đình chàng mới đợc đoàn tụ trong niềm hạnh phúc vô bờ.
Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về thuộc khúc ca thứ XXIII, phần cuối tác phẩm, kể về cuộc hội ngộ
giữa Uy-lít-xơ và vợ chàng nàng Pê-nê-lốp thuỷ chung và xinh đẹp sau hai mơi năm xa cách.
Cuộc đấu trí giữa hai ngời đã thể hiện trí thông minh và sự sáng suốt của những ngời đại diện cho
cộng đồng c dân I-tắc. ở đoạn trích này vẻ đẹp của hai nhân vật Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp đã toả
sáng. Pê-nê-lốp khôn ngoan và thuỷ chung, Uy-lít-xơ vừa muôn vàn trí xảo, vừa oai phong nh
một vị thần. Đoạn trích còn tiêu biểu cho nghệ thuật kể chuyện của sử thi, vừa giàu chất thơ, vừa
giàu nhạc tính, có sự tham gia của nhiều định ngữ nghệ thuật và lối kể chuyện theo kiểu trì hoãn
sử thi rất hấp dẫn. Qua việc ngợi ca trí tuệ của ngời anh hùng Uy-lít-xơ, nhân dân Hi Lạp đã thể
hiện trí tuệ sáng suốt và sự phát triển rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp.
18
3. Tóm tắt
Nhũ mẫu thông báo Uy-lít-xơ trở về nhng Pê-nê-lốp không tin. Nàng bớc xuống lầu trong
tâm trạng hồi hộp phân vân. Thấy Uy-lít-xơ trong bộ quần áo rách rới, nàng vẫn ngồi lặng thinh
trên ghế dù lòng sửng sốt, kinh ngạc quá chừng. Trớc sự thận trọng của vợ, Uy-lít-xơ nhẫn nại
chờ đợi. Sau khi tắm rửa, Uy-lít-xơ đẹp nh một vị thần, nhng Pê-nê-lốp vẫn không nhận. Uy-lít-
xơ trách vợ có "trái tim sắt đá" và bảo nhũ mẫu kê cho mình chiếc giờng để ngủ riêng. Pê-nê-lốp
sai nhũ mẫu khiêng chiếc giờng do chính tay Uy-lít-xơ ngày xa làm ra để thử chồng. Nghe thế,
Uy-lít-xơ giật mình. Chàng bèn miêu tả lại chiếc giờng và cả bí mật quá trình làm ra nó nữa. Pê-
nê-lốp bủn rủn chân tay, nớc mắt chan hoà, mừng rỡ và giải thích cho chồng hiểu. Uy-lít-xơ

nghẹn ngào trong hạnh phúc.
4. Cách đọc và kể
Đọc và kể theo giọng nhân vật và giọng ngời dẫn chuyện. Riêng giọng nhân vật, căn cứ lời
dẫn để chọn giọng đọc. Ví dụ : sau "Pê-nê-lốp thận trọng nói" cần đọc chậm và rõ ; sau "Nhũ
mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo đáp" cần đọc nhỏ nhẹ, ngọt ngào ; sau "Tê-lê-mác chậm rãi đáp" cần đọc
chậm và nhấn giọng,...
II kiến thức cơ bản
Ô-đi-xê đợc Hô-me-rơ viết vào giai đoạn ngời Hi Lạp sắp bớc vào chế độ chiếm hữu nô lệ,
khi mà ý thức về gia đình, hôn nhân, quan hệ tình cảm trong gia đình xuất hiện và trở thành tiến
bộ xã hội. Qua đoạn trích, tác giả khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của Uy-lít-xơ và Pê-
nê-lốp.
Trớc hết, nhân vật Pê-nê-lốp đợc thể hiện là một phụ nữ có tính cách đặc biệt. Khi nhũ mẫu
Ơ-ri-clê báo tin Uy-lít-xơ đã trở về và đã trừng trị bọn cầu hôn, mặc dù khát khao cháy bỏng về
điều đó, Pê-nê-lốp vẫn nói : "Già ơi, già hãy khoan hí hửng, reo cời. Già cũng biết, nếu chàng trở
về thì mọi ngời trong nhà, nhất là tôi và con trai chúng tôi sinh ra kia sẽ sung sớng biết bao ! Nh-
ng câu chuyện già kể không hoàn toàn đúng sự thật". Có thể nói : lí trí đã đặt nàng trớc hai điều
nghi hoặc lớn : một là, Uy-lít-xơ chỉ có một mình làm sao giết nổi bọn cầu hôn đông đến 108
tên ; hai là, Uy-lít-xơ đi đã hai mơi năm đằng đẵng, quá mòn mỏi chờ đợi, nàng nghĩ rằng chàng
đã chết, không hi vọng gì việc chàng trở về. Vậy, Uy-lít-xơ là giả mạo ? Nỗi nghi hoặc trào dâng
đến nhức nhối nhng Pê-nê-lốp không tự mình giải đáp đợc. Chính bởi lẽ đó mà Pê-nê-lốp không
tin lời nhũ mẫu nói và khi trực tiếp gặp Uy-lít-xơ, Pê-nê-lốp vẫn cha nhận chàng là chồng mặc dù
tâm trạng nàng rất đỗi phân vân. Ngay cả khi Tê-lê-mác trách cứ nàng gay gắt, Pê-nê-lốp xúc
động dữ dội nhng vẫn cha vợt khỏi nỗi nghi hoặc bao vây. Chỉ khi Uy-lít-xơ giải thích cặn kẽ
điều bí mật về chiếc giờng, nàng mới chắc chắn là chồng mình đã trở về và chạy ngay lại, nớc
mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng .
Không phải ngẫu nhiên mà bốn lần tên nhân vật Pê-nê-lốp đợc kèm theo định ngữ thận trọng
("Pê-nê-lốp thận trọng nói", "Pê-nê-lốp thận trọng đáp", "Pê-nê-lốp thận trọng đáp", "Pê-nê-lốp
thận trọng đáp"). Đây là sự lặp lại có dụng ý nghệ thuật, nhằm khắc hoạ đậm nét hình ảnh một
Pê-nê-lốp rất mực thuỷ chung và đồng thời cũng là một Pê-nê-lốp rất mực khôn ngoan, nhẫn nại
và chín chắn.

Về nhân vật Uy-lít-xơ, trong đoạn trích, cả ba nhân vật Ơ-ri-clê, Tê-lê-mác và Pê-nê-lốp đều
có những lời ca ngợi phẩm chất trí tuệ của chàng. (Nhũ mẫu Ơ-ri-clê khi chợt nhận ra cái sẹo khi
rửa chân cho Uy-lít-xơ, toan mách Pê-nê-lốp thì bị chàng đa tay bịt miệng, đã cho rằng "vì ngời
đang có trong đầu một ý nghĩ rất khôn ; Tê-lê-mác thì đinh ninh : xa nay cha vẫn là ngời nổi
tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp ; còn Pê-nê-lốp : x a nay chàng vẫn
là ngời nổi tiếng khôn ngoan. Sở dĩ có sự đề cao phẩm chất ấy bởi tác phẩm Ô-đi-xê đợc sáng
tác vào thời kì chiến tranh kết thúc, ngời Hi Lạp hớng hoạt động của mình vào công cuộc xây
dựng hoà bình. Họ khát khao mở rộng địa bàn sang phía tây Địa Trung Hải. Trong sự nghiệp
19
khám phá, chinh phục thế giới biển cả bao la đầy những bất trắc và bí hiểm đó, ngoài lòng quả
cảm, con ngời phải có những phẩm chất trí tuệ : thông minh, tỉnh táo, mu chớc, khôn ngoan,
Hình tợng nhân vật Uy-lít-xơ chính là sự lí tởng hoá sức mạnh bên trong, sự kì diệu của trí tuệ
con ngời. Điều đó không chỉ cần cho thời đại của Hô-me-rơ mà còn cần cho mọi thời, nhất là khi
con ngời không ngừng vơn tới khám phá, chinh phục những đỉnh cao khoa học công nghệ, sáng
tạo những sản phẩm tiên tiến phục vụ cho chính cuộc sống nhân loại.
Để khắc hoạ nổi bật hình tợng nhân vật, Hô-me-rơ đã sử dụng một nghệ thuật miêu tả tâm lí
đặc sắc. Trong đoạn trích, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sử thi đợc thể hiện rất rõ trong đoạn,
từ Nói xong, nàng bớc xuống lầu cho đến dới bộ quần áo rách mớp. Nếu nh trong tiểu thuyết
hiện đại, tâm lí nhân vật thờng đợc diễn tả trực tiếp, với cái nhìn từ bên trong thì ở đây, bút pháp
sử thi lại diễn tả tâm lí nhân vật thông qua những biểu hiện bên ngoài, với cái nhìn từ bên ngoài.
Tâm trạng phân vân, đầy nghi hoặc của Pê-nê-lốp đợc diễn tả bằng những chi tiết tiêu biểu : "
nàng không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện ngời chồng yêu quý của mình hay nên lại gần, ôm lấy
đầu, cầm lấy tay ngời mà hôn ?", "khi vào đến nhà, bớc qua ngỡng cửa bằng đá, nàng đến ngồi tr-
ớc mặt Uy-lít-xơ, dới ánh lửa hồng, dựa vào bức tờng đối diện", " nàng vẫn ngồi lặng thinh trên
ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dới
bộ quần áo rách mớp". Đó là một trạng thái tâm lí hết sức phức tạp, nửa tin nửa ngờ không thể
phân định rõ ràng.
Mặt khác, để thể hiện sâu sắc phẩm chất trí tuệ sáng suốt, khôn ngoan của nhân vật sử thi,
Hô-me-rơ đã tạo ra những tình huống tinh tế để nhân vật tự bộc lộ. Ngồi trớc mặt Uy-lít-xơ,
"nàng vẫn lặng thinh" và đáp lại lời trách mắng gay gắt của Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp nói : Nếu quả

thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ
cũng sẽ nhận đợc ra nhau một cách dễ dàng, vì cha và mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai ngời
biết với nhau, còn ngời ngoài không ai biết hết. Đây không chỉ là nói với Tê-lê-mác mà chính là
thông qua lời nói với con để nói với Uy-lít-xơ. Lúc này, Uy-lít-xơ với Pê-nê-lốp vẫn còn là ngời
xa lạ, nàng phải giữ khoảng cách lịch sự, thái độ nhã nhặn nên không thể nói trực tiếp với Uy-lít-
xơ. Chắc chắn, khi nói những lời này, Pê-nê-lốp đã nghĩ đến việc dùng bí mật về cái giờng để thử
thách Uy-lít-xơ. Sau khi nghe Pê-nê-lốp nói với Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ vẫn nhẫn nại mỉm cời nói
với con trai : Tê-lê-mác, con ! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế
nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn nh vậy , thì còn là nói với chính Pê-nê-lốp. Nh vậy,
khi nói những lời này, Uy-lít-xơ đã nhận ra ý định thử thách của Pê-nê-lốp và mặc dù cha biết sự
thử thách đó là gì nhng chàng vẫn sẵn sàng chấp nhận. Có thể nói, Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ đã
ngầm đối thoại với nhau. Cái mỉm cời của Uy-lít-xơ cho thấy chàng là ngời hết sức bản lĩnh,
biết kìm chế tình cảm để có đợc sự sáng suốt. Đó là cái mỉm cời của ngời hiểu rõ khả năng bản
thân, tin vào bản thân, cũng là cái cời thấu hiểu và độ lợng đối với vợ và con trai mình.
Ngoài ra, một trong những biện pháp nghệ thuật đợc Hô-me-rơ sử dụng rất có hiệu quả là
biện pháp so sánh. Có thể thấy giá trị của biện pháp này trong đoạn văn Dịu hiền thay mặt đất
[ ] không nỡ buông rời. . Uy-lít-xơ giống nh mặt đất ; Pê-nê-lốp giống nh ngời đi biển bị
đắm thuyền trong sóng cả gió to, thoát khỏi biển khơi trắng xoá mà vào đến bờ, mừng rỡ bớc lên
đất liền mong đợi. Hình ảnh so sánh này diễn tả sâu sắc tâm trạng mong mỏi, khao khát và niềm
hạnh phúc vô bờ của Pê-nê-lốp khi thực sự đợc đoàn tụ cùng chồng sau hai mơi năm đằng đẵng li
biệt.
Tóm lại, qua hai nhân vật trung tâm, Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp, trong đoạn trích Uy-lít-xơ trở về,
Hô-me-rơ đã thể hiện đợc một cách sâu sắc hai phẩm chất cao đẹp mà con ngời luôn khao khát v-
ơn tới : trí tuệ sự khôn ngoan, mu trí, tỉnh táo, sáng suốt và tình yêu tình yêu quê hơng, xứ
sở, tình cảm gia đình, tình vợ chồng son sắt, thuỷ chung.
III Liên hệ
20
Sử thi, về bản chất là những bài ca anh hùng, nó luôn thể hiện cái không khí hào hùng, sôi
nổi, mãnh liệt, căng thẳng. Nhng ngời đọc (và nghe) tất nhiên sẽ không thể chịu đựng nổi một sự
căng thẳng thờng xuyên nh vậy, cho nên cần thiết phải chen vào tác phẩm một số cảnh mang màu

sắc trữ tình để tạo sự chùng lại và kích thích khao khát chờ đợi bớc diễn tiến của sự kiện, phù hợp
với thủ pháp "trì hoãn sử thi". Đồng thời tính trữ tình cũng làm cho sử thi càng thêm thi vị, đa
dạng và bộc lộ đợc chiều sâu tâm lí của nhân vật. Những cảnh Ca-líp-xô và Uy-lít-xơ, cảnh giấc
mộng Nô-di-ca, cảnh Uy-lít-xơ gặp Nô-di-ca trên bãi biển, cảnh Uy-lít-xơ trở về gặp Pê-nê-lốp
v.v... trong Ô-đi-xê là những đoạn thơ trữ tình kiệt tác trong văn học thế giới.
(Nguyễn Hoàng Tuyên, T liệu văn học 10, NXB Giáo dục, 2001)
Ra-ma buộc tội_________________________________van-mi-ki
(Trích Ra-ma-ya-na sử thi ấn Độ)
I Gợi dẫn
1. Thể loại
Sử thi là giai đoạn thứ hai trong lịch sử phát triển của văn học cổ đại ấn Độ, một nền văn học
ra đời trên cơ sở nền văn minh lớn và phát triển sớm của nhân loại văn minh sông ấn. Sử thi là
một thể loại lớn của văn học dân gian, nó là niềm tự hào của các dân tộc trên thế giới vào buổi
bình minh của loài ngời. Sử thi ra đời trên cở sở phát triển từ thần thoại. Cảm hứng chủ đạo là
ngợi ca và khẳng định sức mạnh cộng đồng qua một nhân vật anh hùng nào đó. Sử thi là một di
sản vô cùng quý giá của văn hoá nhân loại, bởi nó không chỉ có giá trị văn hoá, giá trị lịch sử mà
còn là thành tựu của những nền văn minh từng phát triển rực rỡ của nhân loại thời cổ đại.
2. Tác phẩm
Ra-ma-ya-na là niềm tự hào của nhân dân ấn Độ. Bộ sử thi kể về những chiến công của
hoàng tử Ra-ma và cuộc tình duyên của chàng với nàng Xi-ta xinh đẹp và đức hạnh. Theo truyền
thuyết, câu chuyện về hoàng tử Ra-ma đợc lu truyền trong dân gian từ xa, về sau đợc một tu sĩ
Bà-la-môn tên là Van-mi-ki, ngời có nguồn cảm hứng đặc biệt và có trí nhớ kì lạ, ghi lại thành
văn vần bằng tiếng Xăng-cơ-rít vào khoảng thế kỉ III trớc Công nguyên. Ra-ma-ya-na là một bài
ca thời đại và trở nên bất hủ nhờ tài nghệ của ngời kể chuyện. Nhà thơ đã biết sử dụng nhiều thủ
pháp nghệ thuật đặc sắc để miêu tả, đặc biệt đã khai thác sâu vào thế giới nội tâm của các nhân
vật và diễn tả đợc tình cảm đắm say mãnh liệt ở họ những con ngời đại diện cho cả cộng đồng
mình.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội thuộc khúc ca thứ sáu, chơng 79, thể hiện đợc một số nét tiêu biểu
trong nghệ thuật kể chuyện và nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác phẩm. Ra-ma là một vị
hoàng tử, chàng thuộc đẳng cấp Kơ-xa-tri-a, nên hành động và lời nói của chàng phải tuân theo

những quy định của đẳng cấp. Theo đạo lí Đác-ma, chàng phải bảo vệ danh dự của mình và dòng
tộc. Vì nhớ thơng Xi-ta, vì bảo vệ danh dự mà chàng đã cứu Xi-ta khỏi tay quỷ vơng, nhng cũng
chính vì danh dự mà chàng đã phải đau đớn buộc tội Xi-ta. Đoạn trích thể hiện rất thành công nỗi
đau của Ra-ma và Xi-ta, hai con ngời u tú của nhân dân ấn Độ. Nỗi đau ấy làm toả sáng vẻ đẹp
của họ, một con ngời thuỷ chung trong sáng, một ngời anh hùng dân tộc.
3. Tóm tắt
Sau chiến thắng, Ra-ma nghi ngờ tiết hạnh của Xi-ta. Chàng nổi cơn ghen dữ dội. Dù thấy
đôi mắt đẫm lệ của Xi-ta, lòng Ra-ma nh dao cắt nhng sợ tai tiếng nên chàng vẫn buông những
lời xúc phạm nàng. Xi-ta đau đớn nh cây dây leo bị vòi voi quật nát. Nàng lấy t cách của mình ra
thề, rồi giải thích, thanh minh trong tiếng nức nở nghẹn ngào nhng không lay chuyển đợc Ra-ma.
Cuối cùng, nàng đành chứng minh phẩm hạnh, lòng thuỷ chung của mình trớc mọi ngời bằng
cách dũng cảm bớc lên giàn lửa. Tất thảy mọi ngời, kể cả loài Rắc-sa-xa và Va-na-ra cùng bật lên
tiếng khóc vang trời trớc cảnh tợng đau đớn đó.
4. Cách đọc và kể
21
Giọng đọc và kể khẳng khái thể hiện ý thức về sức mạnh và danh dự của Ra-ma ; giọng trầm
thể hiện diễn biến tâm trạng của Xi-ta từ tin yêu đến bối rối, đau khổ và tuyệt vọng.
II Kiến thức cơ bản
1. Về hình tợng Ra-ma
Ra-ma ra sức cứu Xi-ta rồi lại kết tội nàng (Nay ta phải nghi ngờ t cách của nàng, vì nàng đã
lu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ, Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi
mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp ngời nàng , và quyết định rời bỏ nàng (trông thấy
nàng, ta không chịu nổi, nàng muốn đi đâu tuỳ nàng, ta không ng có nàng nữa, Nay mục
đích cứu nàng đã đạt đợc rồi, ta không cần đến nàng nữa. Nàng muốn đi đâu tuỳ ý). Bởi vì, Ra-
ma cứu Xi-ta vì danh dự (Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để
trả thù là kẻ tầm thờng, chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn
bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xoá bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của
dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia
đình bình thờng) và buộc tội, từ bỏ nàng cũng vì danh dự (Ngời đã sinh trởng trong một gia
đình cao quý có thể nào lại lấy về một ngời vợ từng sống trong nhà kẻ khác ). Sống vì danh dự,

vinh quang, bổn phận, lòng kiêu hãnh, tự hào trớc cộng đồng, dù không đủ chứng cứ để khẳng
định tội lỗi của Xi-ta thì Ra-ma cũng không thể để cho bất kì điều mờ ám nào ảnh hởng tới lí t-
ởng ấy của chàng. Ra-ma muốn buộc tội và ruồng bỏ Xi-ta trớc mặt ngời khác cũng vì chàng
muốn công khai, khẳng định ý thức về danh dự của mình trớc cộng đồng. Nh vậy, từ hành động
đến lời nói của Ra-ma hoàn toàn nhất quán với mẫu hình lí tởng về ngời anh hùng sử thi xa. Hiểu
nh vậy, ta mới có thể lí giải đợc tại sao Ra-ma không hề ngăn cản việc Xi-ta bớc vào giàn lửa tự
thiêu.
2. Về hình tợng Xi-ta
Trớc những lời lẽ buộc tội, sỉ nhục thậm tệ của Ra-ma, Xi-ta đau đớn, tủi hổ tột độ. Trong n-
ớc mắt nghẹn ngào, nức nở, Xi-ta đã tự bênh vực mình bằng những lời lẽ hết sức xúc động. Nàng
phủ nhận lời buộc tội của Ra-ma : Thiếp đâu phải là ngời nh chàng tởng ! Nếu chàng có hiểu
biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi. Trớc hết, nàng phủ nhận
lời buộc tội của Ra-ma và tự biện hộ cho mình bằng lí lẽ thấu đáo : Chàng xem, Ra-va-na đã
đụng tới thiếp khi mà thiếp đang chết ngất đi, làm thế nào tránh đợc ? Về điều đó, chỉ có số mệnh
của thiếp là đáng bị chê trách, nhng những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp, tức trái tim
thiếp đây, là thuộc về chàng . Và qua lời biện hộ của mình, Xi-ta đã cho thấy quan niệm về
danh dự của nàng rất khác với quan niệm về danh dự của Ra-ma. Nếu nh đối với Ra-ma, danh dự
là ý thức trách nhiệm, niềm vinh quang trớc dòng tộc, cộng đồng thì với Xi-ta, danh dự là tình
yêu, lòng chung thuỷ, là sự trong trắng của trái tim : Thiếp còn gì là thanh danh, nếu nh chàng
vẫn cha hiểu đợc thiếp qua tình yêu của thiếp và qua tiếp xúc với tâm hồn của thiếp, chàng đã
không hiểu đợc bản chất của thiếp, Tiếp đến, thái độ phủ nhận, ý thức về phẩm tiết, đức hạnh,
lòng trung trinh của Xi-ta còn đợc thể hiện qua hành động quyết liệt, đầy tinh thần dũng cảm :
nhảy vào lửa. Với một quan niệm về phẩm hạnh, lẽ sống, tình yêu, đức chung thuỷ nh thế, hành
động tự thiêu của Xi-ta là hoàn toàn thuần nhất và là biểu hiện đỉnh điểm cho tính cách, ý thức
bênh vực cho chính mình của nàng.
3. Về nghệ thuật
Thứ nhất, đoạn trích Ra-ma buộc tội có hình thức một văn bản tự sự, đợc cấu tạo bằng lời kể,
lời thoại và lời miêu tả. Lời kể : Gia-na-ki khiêm nhờng đứng trớc Ra-ma. Ra-ma nói" ; Nghe
những lời đó, Gia-na-ki mở tròn đôi mắt đẫm lệ tr ớc mặt những ngời khác ; Nghe những lời
giận dữ đó của Ra-ma, Gia-na-ki đau đớn đến nghẹt thở, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở,

nàng nói ; Nói dứt lời, Gia-na-ki oà khóc và suy nghĩ ủ ê ; Cố nén cơn giận nàng th a với
thần Lửa A-nhi ; Nói dứt lời, Gia-na-ki lợn quanh giàn thiêu khóc vang trời tr ớc cảnh tợng
22
đó. Lời thoại : Hỡi phu nhân cao quý ! và n ơng tựa vào ta ; Để trả thù sự lăng nhục Ra-
va-na đâu có chịu đựng đợc lâu (lời thoại của Ra-ma). Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ
nay xem ra hoàn toàn vô ích ! ; Hỡi Lắc-ma-na, em hãy chuẩn bị từ bỏ tấm thân này cho
ngọn lửa ; Nếu con trớc sau một lòng thần A-nhi phù hộ cho con (Lời thoại của Xi-ta). Lời
miêu tả : "nh một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa, các phụ nữ bật ra tiếng
kêu khóc thảm thơng"... Trong đoạn trích này, các lời thoại có vai trò trực tiếp thể hiện tính cách
nhân vật.
Thứ hai, các chi tiết mang tính huyền thoại : Xi-ta cúi lạy ch thần, cầu thần Lửa A-nhi, lợn
quanh giàn thiêu, Trớc mặt mọi ngời, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc
thánh, các ch thần nhìn Gia-na-ki bớc vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh, và nàng đ-
ợc xem nh một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa,... Tác giả sử dụng các
chi tiết này vừa thể hiện tính chất thiêng liêng, kì bí của một lễ nghi, vừa xoá đi vẻ bi thảm của
tình huống, để hình ảnh sử thi sáng lên vẻ bi hùng bay bổng.
Thứ ba, nghệ thuật miêu tả tâm lí, qua đó khắc hoạ tính cách nhân vật của tác giả thể hiện rõ
nhất ở hai nhân vật Ra-ma và Xi-ta, đặc biệt là Ra-ma. Trạng thái tâm lí của hình t ợng nhân vật
Ra-ma đợc miêu tả nổi bật qua xung đột trong ý thức của nhân vật này. Khi đã chiến thắng, giải
quyết đợc xung đột cộng đồng, cũng là lúc Ra-ma phải đối diện với xung đột trong đời sống
riêng t. Cơn ghen tuông, mối nghi ngờ về đức hạnh, phẩm tiết của Xi-ta là đỉnh điểm của mối
xung đột giữa danh dự, vinh quang, bổn phận anh hùng với tình yêu. Sự lựa chọn của Ra-ma là sự
lựa chọn sử thi, diễn biến trong tâm lí của chàng phù hợp với lí tởng thẩm mĩ về ngời anh hùng.
Tâm lí của Xi-ta tuy không phức tạp và hàm chứa xung đột nh Ra-ma, song nó bộc lộ quan
niệm về ý thức phẩm hạnh, đạo đức của ngời phụ nữ ấn Độ. Những lời lẽ buộc tội và ruồng bỏ
của Ra-ma đã châm ngòi cho chuỗi diễn biến tâm lí trong nhân vật Xi-ta, từ trạng thái vui mừng,
hạnh phúc chờ đợi Ra-ma sẽ dang tay đón về đến trạng thái đau khổ, tủi hổ cực độ và dẫn tới tâm
trạng uất ức, thất vọng tràn trề. Quyết định tự thiêu cho thấy sự mạnh mẽ, quyết liệt, can đảm của
Xi-ta, cũng là biểu hiện của diễn biến tất yếu trong tâm lí nhân vật này. Tất cả đã đợc diễn tả sâu
sắc trong lời thoại, thái độ và hành động đậm chất sử thi.

Đoạn trích ca ngợi phẩm chất cao đẹp của nàng Xi-ta ngời phụ nữ ấn Độ cổ đại và tính
cách Ra-ma ngời anh hùng của sử thi ấn Độ.
III Liên hệ
Ra-ma buộc tội là chơng đặc sắc trong sử thi Ra-ma-ya-na. Chơng này có liên quan chặt chẽ
với ba chơng trớc (76, 77, 78) và hai chơng sau đó (80, 81) trong khúc ca thứ sáu của sử thi. Nếu
xét về sự hoàn chỉnh của cốt truyện thì tác giả có thể kết thúc ở chơng 78 (Gặp gỡ), vì mục đích
tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đảo Lan-ka cứu nàng Xi-ta của Ra-ma đã đạt đợc. Nhng nếu nh vậy
thì Ra-ma-ya-na chỉ là bản anh hùng ca bình thờng, không có gì nổi bật. Cái hay của nó là tác giả
đã tạo ra bớc ngoặt lớn trong quá trình diễn biến của cốt truyện ở chơng Ra-ma buộc tội này. Sự
thay đổi tính cách của Ra-ma đã đem đến một bất ngờ cho độc giả. ở chơng 75, Ra-ma đang bình
thản "cất cây cung, chiếc áo giáp do In-đra ban và cùng những thứ đó trút bỏ cơn thịnh nộ, vẻ mặt
chàng trở nên hoà nhã"
(1)
. Nhng khi sắp gặp gỡ Xi-ta bỗng nhiên lòng chàng nổi lên cơn ghen
tuông, ngờ vực cực độ nh dòng sông đang phẳng lặng bỗng cuộn lên cơn phong ba bão táp.
... Tác giả đã miêu tả xung đột tâm lí của Ra-ma và Xi-ta trong cuộc gặp lại đầy thử thách và
éo le. Tâm trạng hai ngời cứ biến đổi theo nhịp điệu đối thoại. Điểm đỉnh của xung đột là cảnh
Xi-ta nhảy vào lửa, mâu thuẫn đợc cởi nút. Tính cách của Ra-ma và Xi-ta ở đây cũng đợc khẳng
định nhất quán.
Có thể lấy nhận định của Ro-met Đơt (Romesh Dalt) nhà ấn Độ học để khẳng định nghệ
thuật thể hiện tâm lí nhân vật trong chơng Ra-ma buộc tội : "Ngay cả đến Sếch-xpia cũng không
1
() Những câu trong ngoặc kép từ đây đều trích trong sử thi Ra-ma-ya-na, NXB Văn học, 1988.
23
thể diễn tả đợc sự thôi thúc của những tâm tình cuồng nhiệt trong lòng ngời một cách sống động,
chân thực và mạnh mẽ ghê gớm nh đã thấy trong Ra-ma-ya-na".
(Lu Đức Trung, T liệu văn học 10, NXB Giáo dục, 2001)
Truyện An Dơng Vơng và Mị Châu Trọng Thuỷ
(Truyền thuyết)
I Gợi dẫn

1. Thể loại
Đây là một truyền thuyết rất quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, thuộc
chủ đề giữ nớc chủ đề lớn của thể loại truyền thuyết. Lấy đề tài từ lịch sử nhng truyền thuyết
không phải là lịch sử. Truyền thuyết là "nghệ thuật lựa chọn các sự kiện và nhân vật để xây dựng
các hình tợng nghệ thuật, phản ánh tập trung nhất lịch sử của địa phơng, quốc gia, dân tộc... Nếu
lịch sử cố gắng phản ánh chính xác các sự kiện và nhân vật, thì truyền thuyết lại quan tâm hơn
đến sự lay động tình cảm và niềm tin của ngời nghe sau những sự kiện và nhân vật đó." Truyện
An Dơng Vơng và Mị Châu Trọng Thuỷ thể hiện rất rõ đặc điểm này của truyền thuyết.
2. Tác phẩm
Tác giả dân gian kể chuyện An Dơng Vơng xây thành, chế nỏ giữ nớc và bi kịch tình yêu Mị
Châu Trọng Thuỷ. Câu chuyện là một bài học về tinh thần cảnh giác đối với giặc ngoại xâm.
Vì chủ quan, tin tởng vào nỏ thần và tin vào cha con Triệu Đà mà cha con An Dơng Vơng đã để
đất nớc rơi vào tay giặc.
3. Tóm tắt
An Dơng Vơng xây mãi không xong thành, cứ xây đến đâu lại đổ đến đấy. Nhng sau nhờ
Rùa thần giúp đỡ, thành xây nửa tháng đã xong. Thần lại cho thêm móng rùa làm nỏ liên châu.
Triệu Đà sang xâm lợc nhng thua lớn, bèn xin cầu hoà. Đà cầu hôn Mị Châu cho con trai là
Trọng Thuỷ. Trọng Thuỷ dụ dỗ Mị Châu đánh tráo nỏ thần mang về nớc rồi đem đại binh sang
đánh. Vua chủ quan điềm nhiên ngồi đánh cờ. Khi quân Đà tiến sát, Vua mang nỏ ra bắn nhng vô
hiệu, bèn đem theo Mị Châu chạy về phơng Nam. Chạy tới biển, đờng cùng, vua cầu cứu Rùa
vàng. Nghe Rùa vàng kết tội, vua liền rút gơm chém Mị Châu, rồi cầm sừng tê giác bảy tấc theo
Rùa vàng xuống biển. Trọng Thuỷ đuổi theo đến biển, thấy xác vợ, đem về táng ở Loa Thành rồi
lao đầu xuống giếng mà chết. Ngời đời sau mò đợc ngọc ở biển Đông đem rửa nớc giếng này
thấy ngọc càng thêm sáng.
4. Cách đọc và kể
Đọc theo giọng kể. Chú ý đổi giọng khi đọc (hoặc kể) các câu thoại trong các đoạn văn.
Riêng giọng vua khi chạy đến bờ biển thể hiện giọng cầu khẩn, giọng Mị Châu khi đó khẩn thiết,
buồn rầu.
II Kiến thức cơ bản
Truyện An Dơng Vơng và Mị Châu


Trọng Thuỷ thể hiện một cách đặc sắc ý thức lịch sử
của nhân dân thể hiện tập trung ở vai trò của An Dơng Vơng trong sự nghiệp giữ nớc. Vai trò
ấy thể hiện trớc hết bằng những chi tiết cụ thể : đó là việc nhà vua dời đô về Cổ Loa, và cho xây
thành. Nhng thành đắp đến đâu lại đổ tới đó, bèn lập đàn cầu đảo bách thần. Đợc thần Kim Quy
giúp đỡ, xây thành xong, vua còn hỏi thần Kim Quy : Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống
? và chế "Linh quan Kim Quy thần cơ". Trớc cảnh nớc mất nhà tan, đợc Rùa Vàng cho biết
nguyên nhân bởi chính sự nhẹ dạ cả tin của con gái, vua tuốt kiếm chém Mị Châu.
Vì quá thơng tiếc Mị Châu nên Trọng Thuỷ đã tự vẫn sau khi giúp Triệu Đà chiếm đợc Âu
Lạc. Có thể nói : Mị Châu là con ngời thuần nhất của tình yêu, sự chung thuỷ. Trọng Thuỷ cũng
vậy, nhng Trọng Thuỷ còn một t cách khác, đó là t cách của một nam nhi với trách nhiệm cao đối
với vua cha, đất nớc. Cho nên, sau khi hoàn thành trách nhiệm đối với vua cha, Trọng Thuỷ lại
sống trọn với tình yêu. Cái chết của chàng là minh chứng cho điều đó. Và không phải ngẫu nhiên
24
mà tác giả dân gian để cho nớc giếng nơi Trọng Thuỷ tự vẫn có tác dụng làm sáng trong thêm
ngọc trai mà Mị Châu đã hoá thân.
Truyện phản ánh bi kịch mất nớc và bi kịch tình yêu. Bi kịch mất nớc thể hiện qua tình tiết
An Dơng Vơng vô tình gả con gái cho con trai của kẻ thù, thiếu cảnh giác, cậy có nỏ thần nên
phải bỏ chạy khi bị giặc tấn công. Mị Châu nhẹ dạ cả tin, cho Trọng Thuỷ xem trộm nỏ thần, dẫn
đến tai hoạ nớc mất, nhà tan. Bi kịch tình yêu thể hiện qua chi tiết cái chết oan nghiệt của Mị
Châu, Trọng Thuỷ cũng lao đầu xuống giếng, đôi lứa vĩnh viễn chia lìa.
Xung quanh hành động của Mị Châu, có ý kiến cho rằng nàng là một ngời vợ hiền, việc làm
theo lời chồng là không có tội ; cũng có ý kiến cho rằng Mị Châu là kẻ đáng lên án. Vấn đề này
cần đợc nhìn nhận một cách toàn diện và khách quan để hiểu đợc dụng ý của tác giả dân gian.
Thái độ của nhân dân không hề đơn giản, một chiều. Cho nên, cần tránh tuyệt đối hoá, chỉ khen
hoặc chê, minh oan hoặc buộc tội ; bởi với t cách là một ngời vợ, Mị Châu là ngời đáng đợc đồng
cảm, đáng thơng ; với t cách là một công dân, lại là công chúa, phải có trách nhiệm với quốc gia,
Mị Châu là ngời đáng trách và là bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác. Hai t cách ấy cùng tồn
tại trong một thực thể Mị Châu.
Trong truyện, những chi tiết kì ảo có vai trò hết sức quan trọng nhằm dẫn dắt diễn biến của

câu chuyện và là yếu tố thể hiện thái độ, tình cảm của nhân dân đối với các nhân vật, đối với lịch sử
: thần Rùa Vàng giúp An Dơng Vơng xây thành ; thần cho vua vuốt để làm lẫy nỏ thần bắn một
phát chết hàng vạn tên giặc ; thần Rùa Vàng hiện ra kết tội Mị Châu ; máu Mị Châu chảy xuống
biển thành ngọc ; vua An Dơng Vơng cầm sừng tê bảy tấc theo Rùa Vàng rẽ nớc xuống biển ;
Trọng Thuỷ đem xác Mị Châu về chôn, xác biến thành ngọc thạch ; ngọc trai rửa nớc giếng
Trọng Thuỷ tự vẫn thì trong sáng thêm.
Hình ảnh ngọc trai giếng n ớc đợc xem là một biểu tợng về tình yêu chung thuỷ giữa Mị
Châu và Trọng Thuỷ ; song cũng có thể xem đây là sự lí giải của tác giả dân gian về một nỗi oan
tình. Qua các sự kiện, nhân vật, chi tiết, hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trng đó, truyện thể hiện bi
kịch nớc mất nhà tan và ý thức lịch sử sâu sắc của nhân dân.
III Liên hệ
1. Đọc bài thơ :
Mị Châu
Lông ngỗng rơi trắng đờng chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình.
Nớc mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đờng cùng cái chết
Nhng ngời đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.
Giá nh trên đời còn có một Mị Châu
Vừa say đắm yêu thơng vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mị Châu nh ta vẫn hằng mơ.
Thì hẳn Mị Châu không sống đến bây giờ
Để chung thuỷ với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Nh anh với em dẫu yêu nhau chung thuỷ
Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.
Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mị Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay ngời nuôi tiếp

Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×